-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Con Đường Hạnh Phúc
- Viên Minh &
Trần Minh Tài
- --- o0o ---
-
- Thoát Vòng Nô
Lệ
-
- Như những tên
tội nhân bị trói tay, bịt mắt để cho người dẫn đi hành hình hay
đưa đến bất cứ một lao xá nào mà mình không biết. Họ phải chịu khổ
đau bởi tội lỗi của mình. Cũng vậy chúng ta hiện hữu trên cõi đời
bị tham dục, hữu ái, kiến chấp, vô minh che lấp và dẫn dắt chúng
ta trôi dạt, đắm chìm trong vòng sinh tử luân hồi. Hãy cố tìm cách
cắt đứt mọi dây ràng buộc mà mình đã tự trói lấy mình. Hãy thắp
sáng ngọn đèn trí tuệ để thấy đâu là chánh đạo, đâu là mê đồ hầu
sớm chọn đường giải thoát.
- Buồn thay,
không mấy ai trong chúng ta nhận chân được thân phận đọa đày của
mình trong kiếp sống trầm luân, không mấy ai dám nhìn thẳng vào
thực trạng nô lệ của mình trong gông cùm bản ngã. Chúng ta cứ mãi
chìm sâu trong bể khổ vì tưởng bã mồi danh lợi là chân hạnh phúc,
và không biết rồi đây sẽ ngã gục ở một phương trời nào mà cứ tưởng
mình đang hướng về một tiền đồ sáng lạn. Vì thế Đức Phật phải ân
cần nhắc nhở:
- "Cười sao
được, vui sao được khi thế gian đang bị thiêu đốt và màn đen bao
phủ, sao không tìm ánh sáng thoát ly?".
- Thật vậy, con
người bị dục vọng thiêu đốt, và màn đen vô minh che lấp, chỉ có
ánh sáng trí tuệ mới có thể dập tắt ngọn lửa ái dục, xé toang màn
vô minh ấy để đưa ta đến nơi giải thoát.
- Đức Phật không
những đã đánh thức chúng ta, mà còn chỉ cho chúng ta thấy rõ đâu
là ách nô lệ, đâu là phương cách thoát ly nô lệ.
- Trong kinh
Sabbàsava, Majjhima-nikàya (Trung Bộ), Đức Phật đề cập đến các
Hoặc Lậu (àsava) như những gánh nặng (yoga) nhận chìm chúng sanh
trong trầm luân khổ hải và Ngài đưa ra bảy phương pháp thoát ly
những cùm xích nô lệ này. Trước khi nói đến các phương pháp đối
trị hoặc lậu, ta phải tìm hiểu Hoặc Lậu là gì ?
-
I.- Hoặc Lậu là gì ?
- Theo Phạn Ngữ
danh từ àsava có cùng ngữ căn với động từ àsavati hay assavati
nghĩa là chảy rỉ ra. Một con thuyền bị rạn nứt, nước thấm vào càng
lâu càng đầy thì sẽ có lúc chìm đắm. Cũng vậy, những phiền não nội
tại rỉ ra làm ô nhiễm thân tâm, khiến cho lục căn bất tịnh và từ
đó lục căn trở thành những cám dỗ vô cùng nguy hiểm.
- Tùy theo tác
dụng của những phiền não này mà đôi lúc hoặc lậu được gọi dưới
những tên khác như ách nô lệ (Yoga), trầm luân (Osidàpana), trầm
mịch, hay dòng nước lũ (Ogha). Bởi vì chúng trói buộc, nhận chìm
và lôi cuốn chúng sanh trôi nổi trong sông mê bể khổ.
- Theo kinh
Sabbàsava có ba thứ Hoặc Lậu: Dục Lậu, Hữu Lậu và Vô Minh Lậu. Tuy
nhiên để tiện việc giải thích, trong bộ Chú giải (Atthakathà),
Kiến Lậu được tách rời khỏi Hữu Lậu. Như vậy có tất cả bốn thứ
Hoặc Lậu.
- 1. Dục Lậu
(Kàmàsava): Danh từ Phạn ngữ Kàma thường được dịch là Lạc Dục.
Xét cho kỹ, lạc dục có hai khía cạnh, đứng về phương diện chủ thể
lạc dục là ưa thích thụ hưởng những khoái cảm của giác quan, về
phương diện khách thể là buôn trôi theo sức lôi cuớn đối tượng
ngoại giới (trần cảnh). Ngọn lửa tham dục nầy có khả năng làm
nhiễu loạn thân tâm, vì vậy được gọi là dục lậu.
- Dục lậu thường
biểu lộ dưới nhiều hình thức như Hỷ Ái, Tham Ái, Tham Dục, Ái
Dục... Nhưng dù ở trạng thái nào, về phương diện bất thiện, dục
lậu vẫn là một ách nô lệ cần phải tháo gỡ mới được tự do.
- Đức Phật dạy
rằng chính Hỷ Ái, Tham Ái, Tham Dục, Ái Dục sinh ra phiền muộn và
lo âu, chừng nào không còn những tâm niệm sai lầm ấy con người mới
thoát khỏi ách nô lệ (Yopakkema).
- Nguyên nhân
khiến chúng ta tự trói mình trong ách nô lệ của Dục Lậu là vì phán
đoán sai lầm về bản chất của thọ cảm và nhận định quá chủ quan về
giá trị của đối tượng ngoại giới.
- 2. Hữu Lậu
(Bhavàsava): Hầu như tất cả mọi người, ai ai cũng muốn được
tồn tại mãi mãi. Dù sống trong đau khổ họ vẫn ước ao được sinh tồn
với hy vọng một ngày nào đó hạnh phúc sẽ đến. Khát vọng được tồn
tại vĩnh viễn, đặc biệt là tồn tại trong Sắc và Vô sắc giới gọi là
Hữu Lậu. Nhiều tôn giáo hay Triết phái đã cố gắng đưa ra những
hình ảnh trường cửu như Thượng Đế, Đại Ngã, Phạm Thiên cùng với
những tín điều khác hấp dẫn nhằm thỏa mãn những thị hiếu này của
con người.
- Có thật con
người sẽ được đời đời sống an lành dưới sự che chở của đấng Toàn
Năng hay Đức Phạm Thiên nào đó như những lời hứa hẹn của các Tôn
Giáo ấy không ?
- Đức Phật khẳng
định: Không! Ngài nói những hứa hẹn trên chỉ làm cho con người đắm
chìm sâu hơn trong bể trầm luân và đó chính là hữu lậu.
- Nếu hành thiền
định, người Phật tử cũng có thể đến được những cõi trời hữu hay vô
sắc và sẽ hưởng hạnh phúc ở đó một thời gian khá lâu. Nhưng theo
Đức Phật, dù là cõi trời cao nhất như Phi Tưởng Phi Phi Tưởng xứ
thiên vẫn còn nằm trong vòng Tam Giới, nghĩa là vẫn bị các Hoặc
Lậu chi phối. Và bao lâu còn hoặc lậu thì chưa thể giải thoát. Vì
thế thiền định đối với Đạo Phật chỉ là phương tiện để làm cho tâm
thanh tịnh chứ chưa phải là cứu cánh giải thoát. Muốn giải thoát
giác ngộ phải hành thiền để đạt Minh Sát Tuệ.
- 3. Kiến Lậu
(Ditthisava): Quan niệm của mỗi người về vũ trụ và nhân sinh
có ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống của họ. Hễ quan niệm còn sai
lầm (tà kiến) thì con người còn phải nô lệ phiền não vì thế tà
kiến được xem là một trong những ách nô lệ hay hoặc lậu cần phải
tiêu trừ.
- Vào thời Đức
Phật, nước Ấn Độ có rất nhiều tôn giáo, mỗi tôn giáo có những quan
niệm sai khác về Vũ Trụ và nhân sinh. Tuy nhiên không phải tất cả
các quan niệm ấy đều hợp với chân lý. Sáu mươi hai trong số các
quan niệm ấy bị Đức Phật chứng minh là tà thuyết gồm có Thường Trú
Luận, Vô Thường Trú Luận, Phi Phi Tưởng Luận, Đoạn Diệt Luận, Hiện
tại Niết Bàn Luận và các luận thuyết chắp nối các quan niệm trên.
- Chúng ta có thể phân loại các tà
kiến trên thành hai nhóm:
- a- Thường Kiến
(Sàssata ditthi): là quan niệm cho rằng bản ngã và thế giới trường
tồn vĩnh cửu.
- b- Đoạn Kiến
(Uccheda ditthi): là quan niệm chủ trương bản ngã hoàn toàn hủy
diệt sau khi thân hoại mạng chung. Đoạn kiến đưa con người đến chỗ
bất chấp thiện ác và nhân quả.
- Cả hai kiến
chấp trên đều là những trở ngại lớn lao trong việc giải phóng con
người ra khỏi thành trì bản ngã.
- 4. Vô Minh
Lậu (Avijjàsava): Thế gian là cõi u tối vì vô minh chi phối
tất cả chúng sanh sống ở trong đó. Vì bản tính của vô minh là
không sáng suốt, không thấy được đâu là chân, đâu là giả hay nói
một cách khác là không thấy được thực tướng của bản ngã và thế
giới.
- Qua lớp màn đen
u minh ấy, chúng sanh thấy vô thường là thường còn, khổ não là
hạnh phúc và vô ngã là hữu ngã.
- Đứng về một
phương diện khác, vô minh ám chỉ những chúng sanh chưa thực chứng
được lý Tứ Diệu Đế và Thập Nhị Nhân Duyên. Mãi đến lúc Đức Phật
thành đạo dưới cội cây Bồ Đề Ngài mới thật sự thấy rõ đâu là khổ,
đâu là nguyên nhân của sự khổ, đâu là nơi diệt khổ và đâu là con
đường đưa đến nơi diệt khổ. Và Ngài nắm được giềng mối hình thành
của vòng luân hồi qua Thập Nhị Duyên Khởi. Nhờ đó Ngài mới hoàn
toàn trút bỏ được ách nô lệ của phiền não và thật sự sống một cuộc
sống tự tại giải thoát.
-
II.- Con Đường Thoát Ly:
- Chúng ta đã nói
đến các hoặc lậu như những ách nô lệ ràng buộc chúng sanh trong
vòng sanh tử luân hồi, nguyên nhân và sức tàn phá của chúng, bây
giờ chúng ta hãy tìm hiểu bảy phương pháp thoát ly ra khỏi các ách
nô lệ mà Đức Phật đã giới thiệu trong Kinh Sabbàsava, Majjima
Nikàya (Trung Bộ).
- Bảy phương pháp
sau đây không những có tính cách đạo đức mà còn phù hợp với khoa
Tâm Lý Liệu Pháp (Psychotherapy) ngày nay, đó là: Kiến Pháp
(Dassanà), Nhiếp phục (Samvara), Tỉnh Dụng (Patisevanà), Nhẫn
Thống (Adhivàsanà), Viễn Ly (Parivagganà), Trừ Đoạn (Vinodanà) và
Luyện Tâm (Bhàvanà).
- Chúng tôi xin
lần lượt trình bày lời chỉ dẫn của Đức Phật trong nửa đoạn sau của
Kinh Sabbàsava; tức là phần nói về phương pháp diệt trừ Hoặc Lậu.
- 1. Kiến Pháp
(Dassanà): nghĩa là chú tâm quan sát bằng trí tuệ để thắng các
nội pháp (chủ thể) và ngoại pháp (đối tượng ngoại giới, khách thể)
đúng với chân tướng của chúng.
- Đức Phật dạy:
về phương diện chủ thể, có hai cách chú tâm là chú tâm hợp lý
(Yoniso manasikàra) và chú tâm phi lý (Ayoniso manasikàra); về
phương diện đối tượng, có hai pháp là pháp đáng chú tâm
(manasikàraniyà dhammà) và pháp không đáng chú tâm (Amana
sikàraniyà dhammà).
- Như vậy, nếu
chú tâm vào các pháp không đáng chú tâm thì các hoặc lậu chưa có
sẽ phát sanh và các hoặc lậu đã có sẽ tăng trưởng. Trái lại nếu
chú tâm hợp lý vào các pháp đáng chú tâm thì các hoặc lậu chưa có
sẽ không phát sinh và các hoặc lậu đã có sẽ hủy diệt.
- Như vậy có
người chú tâm hợp lý vào các pháp đáng chú tâm, suy nghĩ rằng: "Đây
là khổ, đây là nguyên nhân của sự khổ, đây là nơi diệt khổ và đây
là con đường đưa đến nơi diệt khổ". Nhờ chú tâm chân chính như
thế mà ba thứ thằng thúc Thân Kiến, Hoài Nghi và Giới Cấm Thủ bị
tiêu diệt.
- Đó là con đường
hủy diệt các Hoặc Lậu bằng Kiến Pháp.
- 2. Nhiếp
Phục (Samavara): tức là chế ngự hay thu hút lục căn cho thanh
tịnh. Như chúng ta đã đề cập trong phần trên, sự tiếp xúc giữa lục
căn và lục trần gây nên những kết quả nguy hiểm không lường được
nếu lục căn không được Nhiếp Phục đứng đắn.
- Với tâm niệm
sai lầm, lục căn bị lôi cuốn và đắm chìm trong sức hấp dẫn của lục
trần, nghĩa là khi mắt thấy sắc, tai nghe thanh, mũi ngửi hương,
lưỡi nếm vị, thân tiếp xúc... các tình cảm chủ quan như yêu, ghét
sẽ phát sinh. Vậy muốn lục căn tiếp nhận lục trần mà không bị tình
cảm chi phối, một mặt ta phải dùng đến Kiến Pháp để thấy rõ chân
tướng của hiện tượng nội giới và ngoại giới như đã đề cập ở trên.
Mặt khác, ta phải nhiếp phục lục căn, tức là tập cho mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân và ý tiếp nhận sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp
với một tâm bình thản không thiên chấp.
- Đức Phật dạy: "Nếu
sống không nhiếp phục lục căn, các hoặc lậu có tính cách tàn phá
và hủy hoại rất có thể sinh khởi. Nhưng nếu sống chế ngự lục căn
thì những hoặc lậu mang tính cách tàn phá và hủy hoại ấy không thể
phát sanh được. Đó là con đường diệt trừ Hoặc Lậu bằng Nhiếp Phục".
- 3. Tỉnh Dụng
(Patisevanà): bậc tu hành khi dùng một nhu cầu cần yếu nào
phải sáng suốt nhận định những lợi ích thiết thực của nó, đừng để
tâm ưa thích vật dụng này, chê bai vật dụng kia, và nhất là tri
túc không tham đắm trong các xa xỉ phẩm.
- Các nhu cầu cần
thiết cho đời sống tu hành gọi là Tứ Y Pháp: áo mặc, cơm ăn, chỗ ở
và thuốc uống. Những vật dụng tối yếu này càng giản dị thanh bần
chừng nào tốt chừng đó. Hơn thế nữa, khi dùng y phục vị ấy phải
niệm tưởng rằng: "Ta mặc đây chỉ tránh sự nóng lạnh, muỗi mòng,
gió nắng, rắn rết, và che thân thể vậy thôi".
- Khi dùng vật
thực, vị ấy quán tưởng rằng: "Ta dùng của cúng dường không phải
để vui chơi, không phải vì dục lạc, không phải để bồi dưỡng xác
thân cho duyên dáng, cũng không phải để điểm tô nhan sắc cho xinh
đẹp, mà chỉ để giữ gìn và duy trì thân thể được quân bình hầu dũng
tiến trong đời sống phạm hạnh".
- Khi cư ngụ
trong tịnh thất phải biết rằng đó chỉ là phương tiện để tránh nguy
hiểm về thời tiết, thú dữ, nhất là để có nơi thanh vắng phù hợp
với việc hành đạo như tham thiền, suy tư, quán tưởng.... Và khi
uống thuốc ngừa bệnh hay trị bệnh phải biết rằng chỉ dùng để làm
dịu những cơn đau, trừ khử hoặc ngăn ngừa những bịnh hoạn nguy
hiểm có thể gây trở ngại cho việc tu hành. Nhờ tỉnh dụng như thế
mà các Hoặc Lậu không thể phát sanh được.
- 4. Nhẫn
Thống (Adhivàsanà): bậc tu hành không nên than van, phàn nàn,
dù gặp bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào; phải kiên nhẫn chịu đựng
mọi gian khổ, thiếu thốn hay nghịch cảnh xảy đến với mình, có như
thế mới phá bỏ được sự ràng buộc của ái dục.
- Đức Phật dạy
rằng: "Này các hiền giả, thế nào là diệt trừ Hoặc Lậu bằng Nhẫn
Thống ? Trong giáo pháp của Như Lai, này các hiền giả, một vị tỳ
khưu suy nghĩ đúng đắn là người biết chịu đựng lạnh nóng, đói
khát, muỗi mòng, gió sương, rắn rết, chịu đựng những lời nói bực
mình, không niềm nở; là người can đảm đương đầu với những cảm giác
đau đớn mãnh liệt, nhức nhối, khó chịu khốn khổ và nguy kịch. Vì
thiếu nhẫn thống các hoặc lậu có tính cách tàn phá, hủy hoại sẽ
phát sanh, nhưng nhờ kham nhẫn mà những hoặc lậu mang tính cách
tàn phá, hủy hoại không thể phát sinh được. Nầy các hiền giả, như
thế gọi là diệt trừ các hoặc lậu bằng nhẫn thống vậy".
- 5. Viễn Ly
(Parivagganà): Khi gặp những hoàn cảnh khó khăn không thể
tránh được thì ta sẵn sàng đương đầu như trường hợp vừa nói ở
trên. Nhưng tốt hơn ta nên tránh xa những nơi nguy hiểm xấu xa để
khỏi bị quấy rầy khi đang hành đạo; không nên vào cư ngụ những nơi
có nhiều thú dữ hoặc cây cối gẫy đổ, rừng bụi chông gai, vực thẳm,
dốc núi và nhất là tránh xa tà hữu, ác đảng. Bởi vì không tránh xa
những nơi nguy hiểm và những kẻ xấu xa ấy sự sợ hãi, kinh hoàng,
tính hung dữ, lười biếng... sẽ phát sanh và do đó các hoặc lậu
không thể trừ được. Đó là phương pháp trừ diệt hoặc lậu bằng viễn
ly.
- 6. Trừ Đoạn
(Vinodana): tức là dứt bỏ những vọng niệm. Có ba thứ vọng niệm
hay tà tư duy là: suy nghĩ về dục lạc, suy nghĩ về ác tâm và suy
nghĩ phương kế hãm hại kẻ khác - nói chung là tất cả các bất thiện
tâm sở.
- Tư tưởng của
chúng ta thường hướng đến các bất thiện pháp tức là chú tâm đến
các pháp không đáng chú tâm, vì thế mà các hoặc lậu chưa có phát
sinh lên và các hoặc lậu đã có càng tăng trưởng.
- Vậy muốn thoát
khỏi những ràng buộc của Hoặc Lậu ta phải chấm dứt, trừ đoạn, hủy
diệt các tư tưởng bất thiện nói trên.
- 7. Luyện Tâm
(Bhàvanà): tức là phát huy năng lực tinh thần. Ở đây Kinh
Sabbàsava đặc biệt nhấn mạnh đến Thất Giác Chi.
- a) Niệm giác
chi: giúp ta luôn luôn giác tỉnh để ghi nhận và biết rõ tất cả
những hành động, lời nói, ý nghĩ của mình một cách chân thực.
- b) Trạch pháp
giác chi: để thấy đâu là khổ, đâu là nguyên nhân của sự khổ, đâu
là nơi diệt khổ và đâu là con đường dẫn đến nơi diệt khổ.
- c) Tinh tấn
giác chi: để dõng mãnh tiến lên trên đường đạo.
- d) Hỷ giác chi:
giúp ta phấn khởi dễ dàng vượt qua mọi trở ngại.
- e) Thư thái
giác chi: giúp cho thân tâm lắng dịu, không bị lửa ái dục thiêu
đốt.
- g) Định giác
chi: có mục đích giữ tâm thanh tịnh, khi tâm được an trú thì các
ác pháp sẽ bị tiêu diệt; nhờ đó tâm trở nên sáng suốt, trí tuệ
phát sanh.
- h) Xả giác chi:
là tâm quân bình không bị ảnh hưởng của ngoại vật; đó là tâm không
thiên vị, không bị tình cảm chi phối.
- Khi tâm được
rèn luyện, các giác chi được phát huy thì những hoặc lậu sẽ bị hủy
diệt, vì vậy luyện lâm là một trong những phương pháp hữu hiệu để
diệt trừ phiền não.
- Bảy phương pháp
diệt trừ hoặc lậu vừa nêu trên đã được nhiều nhà phân tâm học hoan
nghinh như những tâm lý liệu pháp thực dụng.
- Một vị Giáo sư
Đại Học đường Cambridge, Tiến sĩ Robert Thouless nói: "Trong
kinh Sabbàvana Đức Phật giảng thuyết y như một vị Bác sĩ ngành tâm
lý liệu pháp tân thời... (những phương pháp của Ngài) là một hệ
thống tâm lý liệu pháp vượt bực nhờ nguyên tắc nhân quả". Giáo
sư nói tiếp: "Khoa học tâm lý liệu pháp tân thời cho bệnh nhân
trong đời sống hiện tại. Đức Phật cũng xem đó là một khía cạnh của
vấn đề, nhưng vì đời sống hiện tại chỉ là một trong chuỗi sanh tư
luân hồi... nên Ngài không những đã tìm cách giúp cho môn đệ thoát
khỏi các tâm bệnh trong đời sống này mà còn trong cả kiếp sống vị
lai".
- Thật vậy, Đạo
Phật không phải chỉ nhằm mục đích giải quyết những phiền não và
khổ đau của con người bằng những phương pháp tạm bợ có hiệu năng
trong một thời gian nào đó; mà mục đích của Đạo Phật là giúp con
người giải thoát hoàn toàn ra khỏi mọi nô lệ của phiền não và khổ
đau.
--o0o--
|
|