-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Con Đường Hạnh Phúc
- Viên Minh &
Trần Minh Tài
- --- o0o ---
-
- Thất Giác Chi
-
- Thất Giác Chi
(Satta Sambojjhanga) hay Thất Bồ-Đề Phần là một trong những thắng
pháp (Paramattha Dhamma) của Đức Phật, đã được đề cập đến nhiều
lần trong Tam Tạng. Có người tin rằng khi nghe bài kinh nầy bệnh
nhân có thể chóng khỏi những cơn đau đớn và sớm bình phục, vì thế
họ thường trì tụng như một phương pháp ngừa bịnh hay trị bịnh.
- Chúng ta có thể
đọc được đoạn kinh sau đây trong kinh nguyên thủy:
- "Ta nghe
như vầy, một thuở nọ Đức Thế Tôn ngự trong vườn sóc, tại Trúc Lâm,
Vương Xá. Lúc bấy giờ Đại Đức Ma Ha Ca Diếp, ở tại động Pipphali
đang lâm trọng bịnh.
- Vì thế, vào
một buổi chiều, Đức Thế Tôn đi đến chỗ Đại Đức Ma Ha Ca Diếp đang
tĩnh dưỡng. Sau khi an tọa, Ngài dạy Đại Đức Ma Ha Ca Diếp như vầy
:
- -- Nầy Ca
Diếp, sức khỏe ông như thế nào? Cơn đau có trầm trọng lắm không?
Bịnh tình của ông đang phát tác hay đã thuyên giảm? Biến chứng
thuận lợi hay bất lợi?
- -- Bạch Đức
Thế Tôn, cơn đau rất trầm trọng, biến chứng càng ngày càng nguy
hiểm, không thuận lợi.
- -- Nầy Ca
Diếp, điều mà Như Lai đã giác ngộ, đã tu chứng và đã phát triển
tròn đủ là Thất Giác Chi, con đường dẫn đến thượng trí, viên minh
và Niết Bàn.
- Bảy Giác
Chi ấy là gì?
- Niệm Giác
Chi (Sati sambojjhanga), điều mà Như Lai giác ngộ, tu chứng và
phát triển tròn đủ, con đường dẫn đến thượng trí, viên minh và
Niết Bàn.
- Trạch Pháp
Giác Chi (Dhammavicaya Sambojjahanga), điều mà Như Lai đã giác
ngộ, tu chứng và phát triển tròn đủ, con đường dẫn đến thượng trí,
viên minh và Niết Bàn.
- Tinh Tấn
Giác Chi (Viriya Sambojjahanga), điều mà Như Lai đã giác ngộ, tu
chứng và phát triển tròn đủ, con đường dẫn đến thượng trí, viên
minh và Niết Bàn.
- Hỷ Giác Chi
(Piti Sambojjahanga), điều mà Như Lai đã giác ngộ, tu chứng và
phát triển tròn đủ, con đường dẫn đến thượng trí, viên minh và
Niết Bàn.
- Thư Thái
Giác Chi (Passaddhi Sambojjahanga), điều mà Như Lai đã giác ngộ,
tu chứng và phát triển tròn đủ, con đường dẫn đến thượng trí, viên
minh và Niết Bàn.
- Định Giác
Chi (Samadhi Sambojjahanga), điều mà Như Lai đã giác ngộ, tu chứng
và phát triển tròn đủ, con đường dẫn đến thượng trí, viên minh và
Niết Bàn.
- Xả Giác Chi
(Upekkha Sambojjahanga), điều mà Như Lai đã giác ngộ, tu chứng và
phát triển tròn đủ, con đường dẫn đến thượng trí, viên minh và
Niết Bàn.
- Thật vậy,
nầy Ca Diếp, đó là bảy nhân sinh trí tuệ mà Như Lai đã giác ngộ,
tu chứng và phát triển tròn đủ, con đường dẫn đến thượng trí, viên
minh và Niết Bàn."
- Khi nghe
xong , Đại Đức Ca Diếp hết sức hoan hỷ, và nhờ vậy cơn bệnh trầm
trọng bỗng nhiên tan biến".
- Hẳn là chúng ta
lấy làm lạ khi thấy Đại Đức Ca Diếp có thể bình phục chỉ vì nghe
được đoạn kinh trêrn. Nhưng y học ngày nay cũng phải nhìn nhận
rằng yếu tố tinh thần rất quan trọng trong việc trị liệu. Trong
trường hợp vị lương y là Đức Phật, với tâm đại hùng, đại lực, đại
từ bi đã dùng một chân lý siêu việt để an định tinh thần Đại Đức
Ca Diếp. Mặt khác bệnh nhân là Đại Đức Ca Diếp, với tâm tôn kính,
trong sạch và sáng suốt đã chú ý theo dõi chân lý mà Đức Phật đã
cố ý lập đi lập lại chín lần. Hai yếu tố tinh thần đó hẳn phải
được một kết quả mầu nhiệm không lường được.
- Có nhiều trường
hơp người mẹ mang một chứng bệnh trầm trọng vì một đứa con bị thất
lạc, thuốc thang không làm cho người mẹ bình phục, thế mà khi
người con trở về, người mẹ khỏi bệnh một cách kỳ diệu chỉ nhờ một
mối cảm xúc mãnh liệt.
- Nếu một cảm xúc
có một công hiệu lớn lao như thế, thì tinh thần khi được chuyên
chú và an định đem lại những kết quả mầu nhiệm cũng không phải là
một điều lạ.
- Đến đây chúng
ta gạt sang một bên vấn đề huyền nhiệm của Thất giác chi để tìm
hiểu bảy pháp đó là gì.
-
1- Niệm Giác Chi: Có công năng
tiêu diệt tà niệm và vọng tâm. Tà niệm làm cho con người kinh nghi
và thoái hóa, nó là một trở ngại lớn lao đối với sáng kiến cải tạo
của chúng ta. Vọng tâm làm phân tán sức mạnh tinh thần bởi những
cố gắng tìm tòi vô hiệu quả, những vấn đề triết lý viển vông,
những mối quan hoài phức tạp.
- Chánh niệm còn
cho chúng ta thấy sự phù phiếm của dục lạc cũng như tính cách vô
dụng của đời sống khổ hạnh quá mức, và giúp cho tâm ghi nhận, xét
đoán những sự kiện xẩy đến với chúng ta hằng ngày một cách đứng
đắn, nhờ đó chúng ta có thể thấy rõ chân tướng vô thường, khổ não
và vô ngã của vạn hữu.
-
2- Trạch Pháp Giác Chi: Một
người muốn đạt đến chánh tư duy phải rèn luyện tu tập pháp này.
Trạch Pháp là phân tích, suy luận các pháp để biết đâu là chân,
đâu là giả... Ngay cả những lời dạy của Đức Phật, Ngài cũng không
bắt buộc hàng Tứ chúng phải mù quáng tin theo mà phải tìm hiểu xem
giáo lý ấy có đem lại hạnh phúc và giải thoát cho con người đúng
theo tiêu chuẩn và cứu cánh của đạo Phật hay không rồi mới chấp
nhận. Thái độ phân tích khách quan và sáng suốt như thế rất hữu
ích trong việc tìm chân lý. Tôn giáo có trách nhiệm hướng dẫn tinh
thần con người, nhưng nếu chúng ta tin tưởng tôn giáo một cách mù
quáng, thì chỉ làm cho đời sống tinh thần càng ngày càng mê muội,
thoái hóa.
-
3- Tin Tấn Giác Chi: Dù một lý
tưởng đã được đặt ra nhưng nếu thiếu nỗ lực, thiếu bền chí thì khó
mà hoàn thành được. Vì thế Tinh tấn là điều kiện tối cần để thực
hiện lý tưởng giải thoát giác ngộ.
- Đạo Phật là
giáo lý đòi hỏi nhiều cố gắng, hy sinh và kiên nhẫn để chống lại
phiền não. Hai giác chi đầu tiên, là niệm và trạch pháp, giúp ta
nhận chân được thực lực của giặc phiền não. Còn thực lực của ta
chính là sức mạnh của tinh tấn. Thiếu nó ta không thể dẹp tan được
giặc phiền não.
- Hành giả có thể
đạt được lý tưởng khi cương quyết tự nguyện rằng: "Dù máu đổ
thịt rơi hay thân ta thành cát bụi, ta vẫn không thối bước, không
do dự trong chí hướng đã định. Không gì có thể cản trở bươc tiến
của ta. Không khổ đau nào, không đe dọa nào dù nguy hại đến tánh
mạng có thể làm ta ngã lòng. Ta sẽ kiên trì tiến tới cho đến khi
nào hoàn thành sứ mạng."
-
4- Hỷ Giác Chi: Không một cố
gắng nào có thể lâu bền nếu không tìm thấy hứng thú trong hành
động của mình, vì vậy hoan hỷ là một yếu tố giúp cho hành giả phấn
khởi trên đường đi đầy gian lao hiểm trở dẫn đến cứu cánh cuối
cùng.
- Hỷ là một trong
những tâm sở khi hiện hành trong thiện tâm thì trở thành thiện tâm
sở, nhưng đồng hành với bất thiện tâm nó cũng là bất thiện tâm sở.
Hỷ giác chi ở đây được tìm thấy trong một số thiện tâm và thiền
tâm. Trong năm chi thiền, hỷ là chi thiền thứ ba, có công năng đối
trị sân triền cái, khiến cho tâm được mát mẻ và vui thích trong
đối tượng thiền định.
-
5- Thư Thái Giác Chi: Tức là
nhẹ nhàng và an tịnh, một trong 25 tịnh quang sở, có nhiệm vụ hóa
giải lửa phiền não và đối trị trạo cử, một bất thiện tâm sở làm
cho tâm giao động, bất an. Người phát triển được tâm sở thư thái
sẽ cảm thấy thân tâm nhẹ nhàng thư thái như khách viễn hành trút
bỏ được gánh nặng, nhờ thế họ có thể thong thả đi tới đích.
-
6- Định Giác Chi: Trong Phật
Giáo, Định được ứng dụng với mục đích khác hẳn ngoại đạo. Nếu một
vài tôn giáo dùng định để phát triển thần thông, nhà thôi miên
dùng định lực để chữa bịnh hay sai khiến người khác làm theo ý họ,
nhà bác học chú tâm để giải quyết một vấn đề khoa học... thì Phật
Giáo dùng Định để phát triển trí tuệ (Định năng sinh Huệ). Người
Phật tử khi đạt đến đệ tứ thiền vẫn có thể có thần thông nhưng
không dừng lại ở đó để dùng những sức mạnh tinh thần này trong
những ước vọng tầm thường, họ chỉ dùng nó như một phương tiện để
tiến xa hơn trong việc phát triển trí tuệ, vì trí tuệ là điều kiện
tối hậu để hoàn tất lý tưởng giác ngộ.
-
7- Xả Giác Chi: Xả là tâm
không bị chi phối bởi ngoại cảnh. Không một đối tượng nào có thể
lay chuyển được người có tâm xả. Họ không bất bình trước nghịch
cảnh, cũng không tham ái đối với thuận cảnh. Họ thản nhiên khi
được tán dương hay bị phỉ báng, được lợi lộc hay bị mất mát, dù có
địa vị hay không có danh vọng, và dù vui hay khổ cũng thế.
- Giữ được tâm tự
tại vô ngại như thế không phải là dễ, chỉ những bậc đã rèn luyện
tâm mình đến mức độ siêu việt mới mong thực hiện được. Và một khi
đã giữ được tâm xả thì phán đoán sẽ vô cùng sáng suốt, không chủ
quan thiên lệch nữa.
- Tóm lại, một
hành giả muốn đạt đến lý tưởng tự giác tha phải tu chứng, phát
triển đầy đủ Thất giác chi vì đó là con đường dẫn đến thượng trí,
viên minh và Niết Bàn như lời Đức Phật đã dạy.
--o0o--
|
|