-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
-
|
- ÐỨC
PHẬT ÐÃ DẠY NHỮNG GÌ
- Hòa thượng Walpola Rahula
- Thích Nữ Trí Hải dịch
(1998)
- Nguyên tác: "What The
Buddha Taught"
(Tựa đề lần xuất bản thứ nhất, 1966: "Con đường thoát
khổ")
|
-
|
- Mục Lục
-
-
-
Lời giới thiệu
-
Ðại đức Rahula, người
Tích lan được đào tạo trong truyền thống Thượng tọa bộ tại Phật
học viện Pirivena, sau vào Ðại học Tích Lan đậu bằng B.A
(London) rồi viết luận án Tiến sĩ về lịch sử đạo Phật ở Tích Lan
và được cấp bằng Tiến sĩ Triết học (Ph. D). Sau Ðại đức qua
Calcutta, cộng tác với các giáo sư Ðại thừa và bắt đầu học chữ
Hán và chữ Tây Tạng. Cuối cùng Ðại đức qua Ðại học đường
Sorbonne để nghiên cứu về Ngài Asanga (Vô Trước) và lâu nay vẫn
ở tại Paris vừa giảng dạy đạo Phật, vừa trước tác sách vở. Như
vậy Ðại đức có thể được xem là tinh thông cả hai giáo lý, Ðại
thừa và Tiểu thừa. Kỳ qua Paris năm 1965, tôi có viếng thăm Ðại
đức và trong câu chuyện ngót hai tiếng đồng hồ, chúng tôi bàn
luận rất nhiều về liên lạc giữa Nam tông và Bắc tông, và chúng
tôi đồng ý rằng cả hai tông đều chấp nhận và thọ trì một số giáo
lý căn bản.
- Nói một cách
khác, không có Đại thừa hay Tiểu thừa, không có Nam tông hay Bắc
tông. Sở dĩ có phân chia tông phái là vì sự diễn biến của lịch
sử và sự truyền bá của đạo Phật qua nhiều truyền thống, văn hóa,
ngôn ngữ, phong tục, quốc độ khác nhau và tông phái nào cũng
chấp thuận một số giáo lý căn bản chung cho tất cả truyền thống.
Quyển sách này là một sự cố gắng của tác giả để giới thiệu những
giáo lý căn bản ấy và những ai muốn tìm hiểu đạo Phật cũng cần
phải hiểu biết ít nhất số giáo lý căn bản ấy. Riêng đối với Phật
tử Việt Nam một số lớn được học ngay vào kinh điển Ðại thừa, lại
cần phải hiểu giáo lý căn bản này để soi sáng lại sự hiểu biết
của mình và để tìm lại sự liên tục của quá trình phát triển tư
tưởng Phật giáo. Riêng đối với sinh viên Ðại học Vạn Hạnh, tài
liệu của tập sách này cần được xem là tài liệu căn bản và tối
thiểu để xây dựng nền tảng Phật học của mình.
- Quyển sách
này viết cho giới trí thức Âu Mỹ, một giới trí thức có một bối
cảnh khoa học và văn minh Cơ đốc giáo, nên các vấn đề thảo luận,
phương pháp trình bày rất thiết thực, linh động, sát với thực tế
và liên hệ ngay đến đời sống và những thắc mắc hiện đại. Giá trị
quyển này phần lớn nhờ ở điểm này. Tác giả dẫn chứng rất nhiều
lời dạy trong kinh điển PÀli để chứng minh cho sự trình bày của
mình, một thái độ và một phương pháp khoa học đáng được hoan
nghênh và bắt chước. Thường chúng ta trình bày đạo Phật ngang
qua sự hiểu biết của chúng ta, và điều nguy hại hơn ngang qua
cảm tình và sở thích của chúng ta, và vì vậy nhiều khi tư tưởng
và thái độ của đức Phật bị bóp méo, rạn nứt rất nhiều. Ðể bớt tệ
hại này, phương pháp hữu hiệu nhất là dẫn chứng trong kinh điển
những lời dạy của chính đức Phật để xác chứng quan điểm của mình
trong khi trình bày, một thái độ mà tác giả tập sách này đã theo
rất trung thành.
- Dịch giả
quyển sách này là cô Trí Hải, một tên quá quen thuộc với giới
học giả với tài dịch thuật và sự hiểu biết giáo lý căn bản của
cô để cần phải giới thiệu dài dòng về cô. Tên của cô cũng đủ bảo
đảm cho giá trị dịch thuật của tập sách này rồi.
-
- Saigon, ngày 9-1-1966
Tỳ-kheo Thích Minh Châu
Viện trưởng Viện Ðại Học Vạn Hạnh
- --- o0o ---
-
- Lời nói đầu
-
Hiện nay trên khắp hoàn
cầu, Phật học càng ngày càng được chú ý. Nhiều hội Phật học và
những nhóm học Phật đã ra đời, và nhiều sách viết về giáo lý đức
Phật đã xuất hiện. Tuy nhiên, một điều đáng tiếc là tác giả
những sách ấy phần nhiều không thực có thẩm quyền trong địa hạt,
hoặc đưa ra những giả thuyết sai lầm rút từ những tôn giáo khác,
do đó trình bày và giải thích Phật giáo một cách sai lạc.
Một vị giáo sư về Tôn giáo tỉ giảo gần đây viết một cuốn sách về
Phật giáo, nhưng không biết cả đến điều rằng A-nan, thị giả
trung kiên của đức Phật là một Tăng sĩ, và lại tưởng ông ta là
một cư sĩ thế tục! Kiến thức Phật học do những cuốn sách như thế
truyền bá sẽ ra sao, độc giả cũng có thể tưởng tượng.
- Cuốn sách nhỏ
này trước hết dành cho độc giả trí thức chưa có hiểu biết đặc
biệt gì về Phật pháp, mà muốn biết thực sự đức Phật đã dạy những
gì. Nhắm vào hạng người này, tôi đã cố trình bày gọn và trực
tiếp, những lời của chính đức Phật đã dạy, như được thuật lại
trong Tam tạng Pàli mà các học giả đều xem là tư liệu cổ xưa
nhất còn tồn tại về giáo lý Phật. Tài liệu và những trích dẫn
trong sách này đều rút từ tạng kinh ấy. Chỉ có vài chỗ tôi sử
dụng những trước tác thuộc hậu kỳ.
- Tôi cũng nghĩ
đến những độc giả đã có một ít kiến thức về giáo lý Phật nhưng
muốn khảo cứu thêm. Bởi thế gặp những thuật ngữ nòng cốt, tôi đã
chua thêm tiếng Pàli; và cho những đoạn nguyên văn ở phần chú
thích, cùng một thư mục chọn lọc.
- Công việc của
tôi đã gặp phải nhiều khó khăn: suốt tập sách tôi đã cố gắng
trình bày cho độc giả Âu châu ngày nay một cái gì họ có thể hiểu
được, nhưng không phương hại đến nội dung hay hình thức những
lời Phật dạy. Khi viết sách này, tôi luôn luôn nhớ nằm lòng các
kinh điển, cố ý duy trì những tiếng đồng nghĩa để sát cạnh nhau,
những cách lặp đi lặp lại, một đặc điểm của lời Phật dạy như đã
được khẩu truyền đến nay, để độc giả có một ý niệm về hình thức
giảng dạy của đức Phật. Tôi đã cố hết mức theo sát nguyên văn,
và làm cho lời dịch dễ hiểu.
- Nhưng có một
giới hạn cho sự giản dị hóa mà nếu vượt qua, chúng ta sẽ dễ đánh
mất ý nghĩa đặc biệt mà đức Phật muốn truyền dạy. Vì đã chọn
nhan đề là "Phật dạy những gì" (What the Buddha taught)
tôi nghĩ cần phải ghi lại chính những lời lẽ của đấng Ðạo sư,
ngay cả những con số Ngài dùng, thay vì một lối dịch thoát ý có
thể dễ hiểu hơn, nhưng lại dễ rơi vào lỗi xuyên tạc ý nghĩa.
- Trong tập
sách nhỏ này, tôi đã bàn đến hầu hết những gì mọi người đều công
nhận là giáo lý tinh yếu và căn bản của đức Phật. Ðấy là những
thuyết Tứ diệu đế, Bát chánh đạo, Ngũ uẩn, Nghiệp báo, Luân hồi,
Duyên khởi, Vô ngã (Anatta), Niệm xứ (Satipatthàna).
Dĩ nhiên sẽ có những từ ngữ chắc phải lạ lùng đối với độc giả
phương Tây. Tôi đề nghị họ nên đọc chương đầu, kế tiếp đọc các
chương năm, bảy, tám, rồi sau mới đọc đến các chương hai, ba,
bốn, sáu, sau khi đã rõ đại ý. Không thể viết một cuốn sách về
giáo lý Phật mà không đề cập những lý thuyết được cả Nguyên thủy
(Theravàda) lẫn Ðại thừa (Mahàyana) công nhận là
căn bản trong tư tưởng hệ Phật giáo.
- Danh từ
Theravàda - Hinayàna hay "Tiểu thừa" không còn được dùng
trong lãnh vực nghiên cứu - có thể dịch là "Tông phái của những
bậc Trưởng lão" (Theras); và Mahayàna là "Ðại
thừa". Ðấy là những danh từ dùng để chỉ hai hình thức chính của
Phật giáo thịnh hành trên thế giới hiện nay. Theravàda
được xem như giáo lý chính thống uyên nguyên của Phật,
thịnh hành ở Tích Lan, Miến Ðiện, Thái Lan, Cao Miên, Lào,
Chittagong ở Ðông Hồi. Ðại thừa phát triển muộn hơn, thịnh hành
ở Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Tạng, Mông Cổ v.v.. Có vài dị biệt
giữa hai phái, về tin tưởng, cách tu hành và giới luật, nhưng cả
hai đều nhất trí về những giáo lý quan trọng nhất của đức Phật,
như những giáo lý được đề cập trong sách này.
- Tôi chân
thành cảm ơn Giáo sư E.F.C. Ludowyt người đã gợi ý cho tôi viết
sách này, về tất cả sự giúp đở của ông, về những ý kiến ông đề
nghị, về việc ông chịu khó đọc lại bản thảo. Tôi cũng cảm ơn cô
Marianne Mohn đã coi lại bản thảo và cho những ý kiến giá trị.
Cuối cùng tôi xin ghi nhận nơi đây lòng tốt của Giáo sư Paul
Demiéville, thầy học của tôi ở Ba Lê, đã đề tựa cho cuốn sách.
- Paris, tháng 7-1958
W. RAHULA
- --- o0o ---
- BẢNG VIẾT TẮT
- (các kinh Pàli được trích dẫn)
-
- A
|
- Anguttara-nikàya, bản in của
Hội Pali text.
|
- Abhisamuc
|
- Thắng pháp tập yếu của Vô
Trước.
|
- D
|
- Trường bộ kinh (Colombo,
1929)
|
- DA
|
- Sớ giải kinh Trường bộ.
|
- Dhp
|
- Kinh Pháp cú
|
- DhpA
|
- Sớ giải kinh Pháp cú
|
- Lanka
|
- Kinh Lăng già (Kyoto, 1923)
|
- M
|
- Kinh Trung bộ
|
- MA
|
- Kinh sớ Trung bộ
|
- Madhyakari
|
- Trung quán luận kệ của Long
Thọ
|
- Mh-Sutralankara
|
- Mahàyàna-sùtràlankàra của Vô
Trước (Paris, 1907)
|
- Mhvg
|
- Mahàvagga, Ðại phẩm (tạng
Luật)
|
- PTS
|
- Pali Text Society (Hội Kinh
Điển Pàli), Luân Ðôn, Anh quốc
|
- Prmj
|
- Paramatthajotikà, bản in của
PTS.
|
- S
|
- Kinh Tương ưng bộ
|
- Sarattha
|
- Sàratthappakàsinì, bản in
của PTS
|
- Sn
|
- Suttanipàta, Tiểu bộ.
|
- Ud
|
- Udàna (Colombo, 1929)
|
- Vibh
|
- Vibhanga (bản in của PTS)
|
- Vism
|
- Thanh tịnh đạo, bản in của
PTS
|
|
|
|
|
- --- o0o ---
-
ÐỨC PHẬT
Ðức Phật tên Tất-Ðạt-Ða (P.
Siddhattha, S. Siddhàrtha), họ Cồ-Ðàm (P. Gotama, S. Gautama),
sống ở Bắc Ấn vào thế kỷ thứ sáu trước Tây lịch. Phụ thân Ngài là
vua Tịnh Phạn (Suddhodana) cai trị vương quốc của bộ tộc Thích-ca
(Sàkya; trong xứ Nepal ngày nay). Mẹ ngài là hoàng hậu Ma-gia
(Màyà). Theo tục lệ tảo hôn thời ấy, năm 16 tuổi ngài cưới công
chúa xinh đẹp đức hạnh tên Da-giu-đà-la (Yasodharà). Vị thái tử
trẻ sống trong cung điện đầy xa hoa lộng lẫy. Nhưng khi va chạm
với thực tại cuộc sống và khổ đau của loài người, ngài quyết định
đi tìm một giải pháp, con đường ra khỏi nỗi khổ bao la này. Năm 29
tuổi sau khi người con duy nhất La-hầu-la (Ràhula) ra đời, Ngài từ
bỏ cung điện, trở thành một người khổ hạnh lên đường tìm đạo giải
thoát.
Trong 6 năm
Ngài lang thang khắp thung lũng sông Hằng (Ganges), gặp những vị
thầy danh tiếng, học lý thuyết và thực hành phương pháp của họ,
khép mình vào những lối tu khổ hạnh khắt khe. Không thỏa mãn với
những lý thuyết và thực hành ấy, Ngài từ bỏ mọi giáo lý và phương
pháp truyền thống để đi theo con đường riêng. Cuối cùng, một buổi
chiều ngồi dưới một cội cây (từ đấy cây này được gọi là cây Bồ đề
có nghĩa là "trí tuệ") bên bờ sông Ni-liên (Neranjarà) ở
Buddha-Gaya (Bồ-đề đạo tràng, gần Gaya trong xứ Bihar ngày nay)
ngài đã đạt giác ngộ. Từ đấy Ngài được tôn xưng là đức Phật,
"Người đã Giác ngộ". Năm ấy Ngài 35 tuổi.
Sau khi chứng
đạo, đầu tiên Phật thuyết pháp cho một nhóm 5 nhà khổ hạnh, những
người bạn cũ của Ngài, tại vườn Nai (Lộc uyển) ở chư thiên đọa xứ
(Isipatana, tức Sarnath ngày nay) gần Ba-la-nại (Benarès). Từ ấy
ngài giáo hóa suốt 45 năm cho tất cả mọi tầng lớp nam nữ, vua chúa
và thường dân, Bà la môn và cùng đinh, thương gia và hành khất, tu
sĩ và bọn cướp - hoàn toàn không phân biệt. Ngài không công nhận
những dị biệt về giai cấp hay tập đoàn xã hội, và Ðạo ngài mở rộng
cho tất cả mọi người nam cũng như nữ, bất cứ ai sẵn sàng hiểu và
tin theo.
Năm 80 tuổi,
Phật nhập diệt ở Câu-thi-na (Kusinàrà, nay là Uttar Pradesh).
Hiện nay đạo
Phật được lan truyền tại Tích Lan, Miến Ðiện, Thái Lan, Cao Miên,
Lào, Việt Nam, Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản, Mông Cổ, Triều Tiên,
Ðài Loan và một vài nơi ở Ấn độ, Hồi quốc và Nepal và cả ở Liên
Xô. Tín đồ Phật giáo trên thế giới có trên 500 triệu.
--- o0o ---
Ghi chú:
Bản Việt
dịch nầy là bản dịch mới nhất, năm 1998, được Ni sư Trí Hải sửa
lại và bổ túc dựa theo bản Pháp ngữ xuất bản năm 1978.
Bản dịch đầu
tiên năm 1965 của Ni sư, xuất bản tại Sài Gòn năm 1966, có tựa đề
là "Con đường thoát khổ", dựa theo ấn bản năm 1959 của Ngài Hòa
thượng Walpola Rahula. Vào năm 1998, chúng tôi có đăng bản điện tử
quyển "Con đường thoát khổ", do một nhóm Phật tử tại California,
Hoa Kỳ, đánh máy và ấn tống.
(Bình Anson, tháng 10-2002).
--o0o--
|
|