-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- ÐỨC PHẬT ÐÃ DẠY NHỮNG GÌ
- Hòa Thượng
Walpola Rahula
- Thích Nữ Trí
Hải dịch (1998)
- Nguyên tác:
"What The Buddha Taught"
(Tựa đề lần xuất bản thứ nhất, 1966: "Con đường thoát khổ")
- --- o0o ---
-
- Chương Một
-
- THÁI ÐỘ TINH
THẦN PHẬT GIÁO
-
Trong số những nhà sáng lập
các tôn giáo, đức Phật (nếu ta có thể gọi Ngài là nhà sáng lập một
tôn giáo theo nghĩa thông thường của danh từ) là vị Thầy độc nhất
đã không tự xưng là gì khác hơn là một con người, hoàn toàn chỉ là
một con người. Những vị Giáo chủ khác thì hoặc là Thượng đế, hay
Thượng đế nhập thể trong những hình thức khác nhau, hay được
Thượng đế mặc khải. Ðức Phật không những chỉ là một con người,
Ngài lại còn là một con người tự nhận không được một thiên khải
nào từ bất cứ một vị thần linh hay một quyền năng nào khác. Ngài
tuyên bố tất cả những gì Ngài thực hiện được, đạt đến được và hoàn
thành được, đều hoàn toàn do nỗ lực và trí tuệ con người. Chỉ có
con người mới có thể thành Phật. Mọi người đều mang trong mình khả
năng thành Phật nếu họ muốn và nỗ lực. Ta có thể gọi đức Phật là
một Con Người tuyệt luân. Ngài quá toàn thiện trong "nhân tính"
của Ngài đến nỗi về sau, trong tôn giáo của đại chúng, Ngài được
xem như một "Siêu nhân".
- Theo Phật giáo,
hoàn cảnh con người thật tuyệt. Con người tự mình làm chủ mình,
không có một thực thể hay quyền năng nào cao hơn có thể định đoạt
số phận nó. Ðức Phật dạy:
- "Tự ta là chỗ
nương tựa cho ta, còn ai khác có thể làm nơi nương tựa?"
[1]
- Ngài khuyên các
môn đệ hãy "nương tựa nơi chính mình," không bao giờ nên tìm nơi
nương tựa hay sự giúp đở của bất cứ người nào khác[2].
Ngài giảng dạy, khuyến khích và cổ võ mỗi người tự mở mang và tìm
sự giải thoát cho chính mình, vì con người vốn có năng lực tự giải
thoát khỏi mọi ràng buộc bằng trí tuệ và nỗ lực của chính mình.
Ðức Phật dạy: "Các đức Như Lai[3]
giảng dạy Chánh đạo, nhưng chính các ngươi phải làm việc của
mình."[4]
Nếu người ta gọi đức Phật là một "đấng Cứu thế " thì cũng chỉ vì
Ngài đã tìm ra và chỉ con đường đi đến giải thoát, Niết-bàn. Nhưng
tự chúng ta, ta phải bước trên đường ấy.
- Chính vì nguyên
tắc trách nhiệm cá nhân này mà đức Phật cho các môn đệ hoàn toàn
tự do. Trong kinh Mahàparinibhàna (Ðại Bát Niết-bàn), đức Phật dạy
Ngài không bao giờ nghĩ mình điều khiển Tăng già (Sangha)[5]
và Ngài cũng không muốn đoàn thể này tùy thuộc vào Ngài. Ngài dạy
rằng trong giáo lý của Ngài, không có lý thuyết huyền bí, không có
gì giấu giếm trong "nắm tay của đức Ðạo Sư" (àcariyamutthi), hay
nói cách khác, Ngài không giấu gì trong tay áo cả .[6]
- Trong lịch sử
các tôn giáo, người ta không thấy một tôn giáo nào khác có tự do
tư tưởng như Phật giáo. Sự tự do này thật cần thiết, vì theo đức
Phật, sự giải thoát của con người tùy thuộc vào chính sự trực nhận
chân lý, chứ không phải vào ân huệ của một thần linh hay một quyền
năng bên ngoài nào ban thưởng cho sự quy phục.
- Một lần, đức
Phật viếng thăm dân Kàlàmas ở Kesaputta một thành phố nhỏ trong
vương quốc Kosala. Khi nghe đức Phật đến, những người Kàlàmas đến
thăm và bạch Ngài:
- "Bạch đức Thế
Tôn, có nhiều ẩn sĩ và Bà la môn đến viếng Kesaputta. Họ giảng
giải và làm sáng tỏ những lý thuyết của mình, nhưng khinh miệt,
lên án, bài xích lý thuyết của những người khác. Rồi có những ẩn
sĩ và Bà la môn khác cũng chỉ giảng giải và làm sáng tỏ những lý
thuyết của riêng họ, khinh miệt, lên án và phỉ báng những lý
thuyết của những người khác. Nhưng bạch Thế Tôn, về phần chúng
con, chúng con luôn luôn hoài nghi và hoang mang, không biết ai
trong số những ẩn sĩ và Bà la môn khả kính ấy đã nói sự thật, ai
nói quấy."
- Khi ấy đức Phật
đã ban cho họ lời khuyên độc đáo như sau:
- "Hỏi dân
Kàlamas, các ngươi hoài nghi, hoang mang là phải, vì vấn đề ấy rất
khả nghi. Hỏi dân Kàlamas, đừng để bị lôi cuốn bởi những lời thuật
lại, hay bởi truyền thuyết, hay bởi những lời đồn. Ðừng để bị dắt
dẫn bởi thẩm quyền kinh điển, hay bởi lý luận suy diễn, hay bởi
những bề ngoài đáng tin, hoặc bởi lạc thú tư duy về các quan điểm,
hay bởi những gì có vẻ hữu lý, hay bởi ý nghĩ: "Ðây là thầy ta."
Nhưng hỏi Kàlamas, khi nào các ngươi tự mình biết một việc gì là
bất thiện, sai, xấu, thì hãy dứt bỏ... và khi các ngươi tự mình
biết một điều gì là thiện, tốt, thì hãy chấp nhận, đi theo."[7]
- Ðức Phật còn đi
xa hơn nữa. Ngài bảo các Tỳ kheo rằng một môn đệ cần phải xét đoán
ngay cả đức Như Lai (đức Phật), để có thể hoàn toàn tin chắc giá
trị của vị thầy mà mình đang theo.[8]
- Theo giáo lý
của đức Phật, nghi (vicikichà) là một trong năm chướng ngại (ngũ
cái, nivarana)[9],
năm trở ngại cho sự hiểu biết chân lý và cho sự tiến bộ tâm linh
(hay cho bất cứ sự tiến bộ nào). Tuy nhiên, nghi không phải là một
"tội lỗi", bởi vì trong Phật giáo không có những "tín điều". Quả
thế, trong đạo Phật không có "tội lỗi" hiểu theo nghĩa "tội lỗi"
trong vài tôn giáo khác. Cội rễ của mọi sự xấu xa là vô minh
(Avijjà) và tà kiến (micchà ditthi). Một điều không thể chối cãi
là bao lâu còn có hoài nghi, hoang mang, do dự, thì không thể nào
có tiến bộ. Cũng không thể chối cãi được rằng hoài nghi không
tránh được khi mà con người không hiểu rõ, thấy rõ. Nhưng để tiến
xa hơn, thì tuyệt đối cần phải xa lìa hoài nghi. Muốn khỏi hoài
nghi, ta cần phải thấy rõ.
- Vấn đề không
phải là ta không nên hoài nghi hay nên tin tưởng. Chỉ nói rằng
"tôi tin", không có nghĩa là bạn đã hiểu và thấy rõ. Khi học sinh
giải một bài toán đến giai đoạn không biết làm sao để tiếp tục,
thì sẽ rơi vào hoài nghi bối rối. Nếu còn hoài nghi, y không thể
tiến lên, nên cần phải dứt nghi. Có nhiều cách giải quyết; nhưng
không phải chỉ nói "tôi tin" hay "tôi không nghi" mà giải được bài
toán. Tự buộc mình phải tin tưởng và chấp nhận một điều mình không
hiểu gì hết, là một thái độ chính trị, không phải thái độ tâm linh
hay trí thức.
- Ðức Phật luôn
luôn bài xích hoài nghi. Cả đến khi Ngài sắp mất, vài phút trước
khi lìa trần, Ngài còn nhiều lần bảo các môn đệ phải hỏi kỹ nếu
còn có hoài nghi nào về Giáo lý của Ngài, để sau đừng hối tiếc vì
không thể giải hết những thắc mắc. Nhưng các môn đệ đều im lặng.
- Khi ấy đức Phật
dạy một lời rất cảm động: "Nếu vì kính nể Như Lai mà các con không
dám hỏi điều gì, thì mỗi người hãy nói cho bạn biết" (có nghĩa là
mỗi người hãy nhờ bạn hỏi giùm cho mình điều thắc mắc).[10]
- Không những sự
tự do tư tưởng, mà còn sự khoan hồng của đức Phật, đã làm cho
người nghiên cứu tôn giáo sử phải ngạc nhiên. Một thuở nọ ở
Nàlandà, một người giàu có và lỗi lạc tên Ưu-bà-li (Upàli), một đồ
đệ tại gia hữu danh của phái Ni-Kiền-tử (Nigantha - Nàtaputta)
thuộc Kỳ na giáo của Jaina Mahàvìra, được chính Mahàvìra cử đến
gặp đức Phật để tranh luận và bài bác vài điểm trong thuyết Nghiệp
báo, bởi vì quan điểm của đức Phật về vấn đề này khác với quan
điểm của Mahàvìra[11].
Trái ngược với mong đợi, Upàli sau khi tranh luận phải chấp nhận
rằng những quan điểm của đức Phật là đúng và quan điểm của thầy
mình sai. Bởi thế ông ta cầu xin đức Phật nhận mình làm một đệ tử
tại gia (Upàsaka, Ưu-bà-tắc). Nhưng đức Phật bảo ông ta hãy suy
nghĩ lại, và đừng vội vã, vì "sự xét đoán cẩn thận rất tốt cho
những người lỗi lạc như ông." Khi Upàli lập lại những lời cầu xin,
đức Phật khuyên ông hãy tiếp tục kính trọng và ủng hộ những vị
thầy cũ của ông ta như trước[12].
- Vào thế kỷ thứ
3 trước Tây lịch, vị hoàng đế Phật tử A Dục vương của xứ Ấn Ðộ,
theo gương đức tính khoan hồng và thông cảm cao quý ấy, đã kính
trọng và nâng đở tất cả mọi tôn giáo khác trong đế quốc lớn rộng
của ông ta. Trong một lời tuyên bố của Hoàng đế khắc trên trụ đá
đến nay ta còn đọc được:
- "Người ta không
nên chỉ kính trọng tôn giáo của riêng mình và bài bác những tôn
giáo của kẻ khác, mà phải kính trọng tôn giáo kẻ khác vì lý do này
hay lý do khác. Như thế ta có thể làm cho tôn giáo mình phát triển
và giúp đở các tôn giáo khác nữa. Nếu không, tức là ta đã đào
huyệt chôn chính tôn giáo của mình, và còn làm hại các tôn giáo
khác. Kẻ nào chỉ kính trọng tín ngưỏng của mình và bài xích những
tín ngưỏng khác, thực ra họ đã làm thế vì sùng kính tín ngưỏng của
riêng mình, nghĩ rằng: "Tôi sẽ làm rạng danh tôn giáo của tôi".
Nhưng trái lại, khi làm thế họ đã làm tổn thương tôn giáo mình một
cách trầm trọng hơn nữa. Bởi thế sự hòa hảo là tốt đẹp: mọi người
nên lắng nghe, và có thiện chí lắng nghe những lý thuyết mà người
khác đề xướng."[13]
- Ở đây, ta cũng
nên thêm rằng tinh thần hiểu biết cảm thông ấy ngày nay cần được
áp dụng, không những chỉ trong vấn đề lý thuyết tôn giáo, mà còn ở
trong những địa hạt khác nữa.
- Tinh thần khoan
dung thông cảm ấy từ khởi thủy đã là một trong những lý tưởng được
yêu chuộng nhất trong văn hóa và văn minh Phật giáo. Chính vì thế
mà suốt trong lịch sử 2500 năm truyền giáo, Phật giáo đã Á châu,
và hiện nay có trên 500 triệu tín đồ. Bạo động, dưới bất cứ hình
thức nào, lý lẽ nào, cũng đều tuyệt đối trái ngược với giáo lý đức
Phật.
- Người ta thường
hỏi: Phật giáo là một tôn giáo hay một triết học? Gọi nó là gì,
điều ấy không quan trọng, Phật giáo vẫn là Phật giáo, dù bạn dán
lên đấy nhãn hiệu gì đi nữa. Nhãn hiệu là điều phụ thuộc. Ngay cả
nhãn hiệu Phật giáo mà ta đặt cho Giáo lý đức Phật cũng không mấy
quan hệ. Cái tên mà ta đặt cho Phật giáo là điều không thiết yếu.
- Có gì trong một danh từ?
Hoa hồng hương ấy cho dù tên chi.
- Cũng thế, chân
lý không cần nhãn hiệu, nó không là Phật giáo, Gia tô giáo, Ấn
giáo, hay Hồi giáo. Chân lý không là độc quyền của ai. Những nhãn
hiệu tông phái là một trở ngại cho sự hiểu biết chân lý một cách
tự tại, và chúng làm phát sinh những thành kiến tai hại trong tư
tưởng con người.
- Ðiều này đúng
không những trong các vấn đề trí thức và tâm linh, mà còn cả trong
những giao tiếp giữa người với người. Chẳng hạn, khi ta gặp một
người, ta không nhìn họ như một con người, mà ta đặt cho họ một
nhãn hiệu như Anh, Pháp, Ðức, Mỹ hay Do Thái, và xét người ấy với
tất cả những thành kiến đi kèm với nhãn hiệu ấy trong trí ta.
Nhưng người ấy có thể hoàn toàn vượt khỏi những thuộc tính mà ta
gán cho họ.
- Con người vốn
ưa thích những nhãn hiệu phân biệt, đến nỗi họ đặt cả những nhãn
hiệu ấy lên trên những đức tính và cảm xúc mà mọi người đều có. Họ
nói đến những "loại" bác ái khác nhau, chẳng hạn: Bác ái Phật giáo
và Bác ái Gia tô giáo, và khinh bỉ những nhãn hiệu bác ái khác.
Nhưng lòng bác ái không thể là bè phái, nó không là Chúa, Phật, Ấn
hay Hồi. Tình thương của một bà mẹ đối với con không là Phật hay
Chúa: đấy là tình mẹ. Những đức tính và cảm xúc của con người như
tình yêu, bác ái, từ bi, khoan hồng, kiên nhẫn, tình bạn, ham
muốn, thù hận, biếng trễ, ngu si, tự phụ v.v.. không cần đến những
nhãn hiệu bè phái, chúng không thuộc về một tôn giáo nào cả.
- Ðối với người
đi tìm chân lý, một tư tưởng do từ đâu đến là điều không quan hệ.
Nguồn gốc và sự phát triển của một tư tưởng là vấn đề của học giả.
Quả vậy, để hiểu sự thật, chúng ta không cần biết đến ngay cả lời
dạy đến từ đức Phật hay từ một người nào khác. Ðiều thiết yếu là
thấy rõ vấn đề, hiểu nó. Có một câu chuyện quan trọng trong Trung
bộ kinh (Majjhima-nikàya) (kinh số 140) làm sáng tỏ điều này.
- Một hôm, đức
Phật ở lại đêm trong xưởng một người thợ làm đồ gốm. Cũng trong
xưởng ấy có một ẩn sĩ trẻ đến đấy trước Ngài[14].
Họ không biết nhau. Ðức Phật quan sát người ẩn sĩ và tự nhủ:
"Thanh niên này có những cử chỉ đáng mến. Ta nên hỏi xem về người
này." Bởi thế đức Phật hỏi người ấy: "Hỏi khất sĩ[15],
nhân danh ai mà bạn đã từ bỏ gia đình? Ai là thầy của bạn? Bạn
thích lý thuyết của ai?"
- Chàng thanh
niên đáp: " bạn ơi, có ẩn sĩ Cồ đàm dòng họ Thích ca, đã từ bỏ
gia đình để trở thành một ẩn sĩ. Người ta đồn rằng đấy là một vị
Arahant (A-la-hán), một bậc toàn giác. Chính nhân danh con người
thánh thiện ấy mà tôi đã trở thành một ẩn sĩ. Người là Thầy tôi,
và tôi thích lý thuyết của người."
- - Vậy chớ con
người Thánh thiện ấy, vị A-la-hán, đấng toàn giác ấy bây giờ ở
đâu?
- - Ở các xứ về
phương Bắc, hỏi bạn, có một đô thị gọi là Sàvatthi (Xá vệ). Chính
đấy là nơi đấng Thế Tôn, vị A-la-hán, đấng Toàn giác đang ở.
- - Bạn đã có khi
nào thấy vị ấy chưa, đấng Thế Tôn ấy? Nếu gặp Người, bạn có sẽ
nhận ra Người hay không?
- - Tôi chưa bao
giờ thấy đức Thế Tôn ấy. Nếu gặp Người, tôi cũng sẽ không làm sao
nhận ra được.
- Ðức Phật nhận
ra rằng chính nhân danh Ngài mà người thanh niên xa lạ này đã từ
bỏ gia đình và trở thành một khất sĩ. Nhưng vẫn không để lộ tông
tích. Ngài bảo:
- - Hỏi khất sĩ,
tôi sẽ dạy cho bạn lý thuyết. Hãy chú ý lắng nghe. Tôi sẽ nói.
- - Ðược, bạn nói
đi. Người trẻ tuổi chấp thuận.
- Khi ấy đức Phật
giảng dạy cho thanh niên một bài thuyết pháp đặc sắc nhất về chân
lý (mà ta sẽ trình bày những điểm tinh yếu về sau)[16].
- Chỉ sau khi
nghe Ngài thuyết pháp xong, ẩn sĩ tên Pukkusàti mới nhận ra rằng
người nói với mình chính là đức Phật. Anh cúi thấp mình dưới chân
đức Ðạo sư, và xin lỗi Ngài vì đã không biết mà gọi Ngài là "bạn"[17].
Rồi người ấy cầu xin đức Phật truyền giới pháp và nhận mình vào
đoàn thể Tăng già.
- Ðức Phật hỏi
anh ta đã có y, bát sẵn sàng chưa (một bhikkhu - tỳ kheo - phải có
3 y và 1 bình bát để khất thực). Khi Pukkusàti trả lời không có,
đức Phật dạy rằng những đức Như Lai (Tathàgatas) sẽ không thọ ký
cho một người nào nếu họ không có sẵn y, bát. Bởi thế Pukkusàti ra
đi tìm y và bát, nhưng rủi thay dọc đường anh ta bị bò húc chết[18].
- Về sau khi tin
buồn ấy đến tai đức Phật, Ngài bảo môn đệ rằng Pukkusàti là một
người thánh thiện đã thấy được chân lý và đã đạt đến giai đoạn gần
cuối trên đường thực hiện Niết-bàn, và được tái sinh vào một cõi,
ở đấy người ấy sẽ trở thành một vị A-la-hán[19]
và cuối cùng chết để không bao giờ phải trở lại thế gian này.[20]
- Qua câu chuyện
trên ta thấy rõ là khi Pukkusàti lắng nghe đức Phật và lãnh hội
được lời dạy của Ngài, anh ta không biết người đang nói với mình
là ai, hay đấy là giáo lý của ai. Anh ta tìm thấy chân lý. Nếu vị
thuốc hay thì bệnh sẽ lành. Không cần thiết phải biết ai làm nên
vị thuốc ấy, hay nó từ đâu lại.
- Hầu hết mọi tôn
giáo đều được thiết lập trên đức tin - đúng hơn, lòng tin mù quáng
- nhưng đạo Phật nhấn mạnh trên sự "thấy biết", hiểu rõ, lãnh hội,
chứ không phải trên lòng tin. Trong các bản kinh văn Phật giáo có
danh từ Saddhà (Skt. Sraddhà) thường được dịch là đức tin, lòng
tin tưởng. Nhưng saddhà không phải là "đức tin" theo nghĩa thông
thường, mà đúng hơn đấy là "tín", phát sinh do sự quyết đoán.
Trong đạo Phật bình dân và cả trong cách dùng thông dụng nơi các
bản kinh, ta phải công nhận danh từ "saddhà" có một phần ý nghĩa
"đức tin" khi nó được giảng là sự nương theo Phật, Pháp (Dhamma)
và Tăng (Sangha, đoàn thể Tăng già).
- Theo Vô Trước,
triết gia vĩ đại về Phật học vào thế kỷ thứ tư, "tín" có ba phương
diện:
- 1) Sự tin tưởng chắc chắn và toàn
vẹn về một điều gì.
2) Niềm vui thanh thoát về những đức tính.
3) Sự ước vọng hay mong muốn hoàn thành một mục đích theo đuổi.[21]
- Dù hiểu thế
nào, đức tin theo nghĩa phần lớn các tôn giáo có rất ít liên quan
với đạo Phật.[22]
- Vấn đề đức tin
phát sinh khi không có sự thấy rõ - thấy với mọi ý nghĩa.
Khi ta thấy rõ, vấn đề đức tin biến mất. Nếu tôi bảo bạn rằng
trong nắm tay tôi có một hòn ngọc, thì vấn đề tin tưởng đặt ra vì
chính bạn không thấy được viên ngọc. Nhưng nếu tôi mở nắm tay và
chỉ cho bạn viên ngọc, thì chính bạn đã thấy, vấn đề tin tưởng
không còn đặt ra nữa. Bởi thế trong các bản kinh xưa có câu: "Nhận
biết như người ta thấy một viên ngọc trong lòng tay."
- Một môn đệ của
Phật tên Musìla bảo một thầy tu khác: "Này bạn Savittha, không cần
đức tin[23],
lòng tin tưởng sùng bái, không cần ưa thích hay thiên vị, không
cần nghe lời đồn đãi hay truyền thuyết, không cần xét đoán những
lý lẽ bề ngoài, không cần lạc thú trong sự tư duy về các quan
niệm, tôi biết và thấy rằng sự chấm dứt của sinh tử là Niết-bàn."[24]
- Và đức Phật đã
dạy: "Hỏi các Thầy Tỳ kheo, ta nói rằng sự diệt trừ những điều xấu
xa, bất tịnh là cốt để cho một người đã thấy và biết, chứ không
phải để cho một người không thấy và không biết."[25]
- Vấn đề luôn
luôn là biết và thấy chứ không phải là tin. Giáo lý của đức Phật
được gọi là ehi-passika, mời bạn "đến để thấy", chứ không phải đến
để tin.
- Trong các bản
kinh văn, những từ ngữ luôn luôn được dùng để chỉ những người đã
chứng ngộ chân lý là "Pháp nhãn (con mắt pháp: dhamma-cakkhu),
không bụi bặm và không cáu bẩn, đã phát sinh: "Người nào đã thấy
chân lý, đã nhập vào chân lý, đã vượt qua hoài nghi, người ấy
không còn do dự. Với trí tuệ chân chính, người ấy thấy đúng như
thật (yathà bhùtam)"[26].
Nói đến sự giác ngộ của chính Ngài, đức Phật dạy: "Con mắt đã phát
sinh, trí đã phát sinh, kiến giải đã phát sinh, ánh sáng đã phát
sinh"[27].
Luôn luôn đấy là sự thấy biết qua trí hay tuệ (nàna-dassana), chứ
không phải là tin tưởng qua đức tin.
- Ðiểm này càng
ngày càng được tán dương vào thời mà giáo lý chính thống Bà la môn
bắt buộc phải tin tưởng và đương nhiên chấp nhận truyền thống và
thẩm quyền của họ như chân lý độc nhất. Một ngày kia, một nhóm Bà
la môn học thức lỗi lạc đến viếng đức Phật và tranh luận rất lâu
với Ngài. Một người trong bọn, một thiếu niên Bà la môn mười sáu
tuổi tên Kàpathika, được cả bọn xem là thông minh xuất chúng, đã
hỏi đức Phật[28]:
- - Thưa đức Cồ
đàm, có những bài thánh kinh xưa cũ của những người Bà la môn được
truyền tụng liên tục qua những bản kinh khẩu truyền. Về những bài
kinh ấy, những người Bà la môn đã có kết luận tuyệt đối này: "Chỉ
có đây mới là Chân lý, và mọi điều khác đều là sai lầm." Vậy đức
Cồ đàm sẽ nói gì về điều ấy?
- Ðức Phật hỏi:
- - Trong những
người Bà la môn, có một người Bà la môn nào tuyên bố tự mình biết
và thấy rằng "chỉ có đây mới là chân lý, mọi điều khác đều là sai
lầm chăng?"
- Người thiếu
niên thật thà đáp:
- - Không.
- - Thế thì, có
một vị thầy nào, hay một vị thầy của những vị thầy nào trong những
người Bà la môn lùi về thời đại thứ bảy, hay cả đến bất cứ một
người nào trong số những tác giả đầu tiên của những kinh điển ấy,
đã tuyên bố rằng ông ta biết và thấy: "Chỉ có đây mới là chân lý,
mọi sự khác đều sai lầm?"
- - Không.
- - Vậy thì họ
giống như một chuỗi những người mù nối đuôi nhau, người đầu tiên
không thấy, người giữa cũng không thấy và người cuối cùng cũng
không thấy. Như thế thì dường như trạng huống của những người Bà
la môn giống như trạng huống của một chuỗi người mù.
- Rồi đức Phật
cho nhóm người Bà la môn một lời khuyên vô cùng quan trọng: "Một
người trí giữ gìn chân lý không nên đi đến kết luận: "Chỉ có đây
mới là sự thật, và mọi điều khác đều sai lầm."
- Khi thiếu niên
Bà la môn yêu cầu Ngài giải thích ý nghĩa thế nào là "giữ gìn chân
lý", đức Phật dạy:
- "Một người tin
tưởng một điều gì. Nếu y nói: "Ðây là lòng tin của tôi" như thế là
y đã giữ gìn chừng ấy sự thật. Nhưng y không thể đi đến kết luận
tuyệt đối: "Chỉ có đây mới là chân lý, và mọi sự khác đều sai
lầm." Nói cách khác một người có thể tin điều gì tùy ý, và có thể
nói "tôi tin điều này". Như thế là y tôn trọng sự thật. Nhưng y
không nên vì lòng tin ấy mà nói rằng chỉ có cái gì y tin mới là
chân lý, và mọi sự khác đều sai."
- Ðức Phật dạy:
"Chấp trước một điều gì (một quan điểm nào) và khinh miệt những
điều khác (quan điểm khác) xem là thua kém - bậc trí giả gọi đấy
là một xiềng xích."[29]
- Một hôm đức
Phật giảng dạy[30]
cho môn đệ lý thuyết về nhân quả, và họ thưa rằng đã thấy và hiểu
rõ điều ấy. Ðức Phật liền dạy:
- "Hỏi các Tỳ
kheo, ngay cả quan niệm ấy, minh bạch và rõ ràng như thế, nhưng
nếu các ông bám chặt vào đó, nếu các ông quý chuộng nó, nếu các
ông cất giữ nó, nếu các ông ràng buộc vào với nó, thì vậy là các
ông đã không hiểu rằng giáo lý chỉ như một chiếc bè, cốt dùng để
qua sông chứ không phải để mà ôm giữ lấy."[31]
- Ở một chỗ khác,
đức Phật giảng ẩn dụ danh tiếng này, trong ấy giáo lý được ví như
một chiếc bè dùng để qua sông, chứ không phải để nắm giữ và mang
trên lưng.
- "Hỏi các Tỳ
kheo, một người đi du lịch, đến một khoảng sông rộng. Bờ bên này
rất nguy hiểm, nhưng bờ bên kia thì an ổn và không có nguy nan.
Không có một con thuyền nào để qua bên kia bờ sông, cũng không có
một chiếc cầu nào để đi qua. Người ấy tự nhủ: "Con sông thật rộng,
bờ bên này đầy hiểm nguy, nhưng bờ bên kia thì an ổn không nguy
hiểm. Không có con thuyền nào để sang bên kia, cũng không có một
chiếc cầu nào để qua. Bởi thế, thật sẽ rất tốt nếu ta lượm cỏ, gỗ,
cành cây và lá để làm một chiếc bè, và nhờ chiếc bè đó mà qua bờ
kia cho an ổn, dùng cả tay chân ta để chống chèo." Rồi hỏi các Tỳ
kheo, người ấy lượm cỏ, gỗ, cây, lá mà làm một chiếc bè, và nhờ
chiếc bè ấy đưa sang bờ bên kia một cách an ổn, chống chèo bằng
chân tay mình. Sau khi đã vượt qua sông đến bờ kia, y nghĩ: "Chiếc
bè này thật đã giúp ích cho ta rất nhiều. Nhờ nó ta đã vượt qua an
ổn đến bờ sông bên này, chống chèo bằng tay chân ta. Thật đáng nên
mang chiếc bè này trên đầu hay trên lưng bất kỳ ta đi đâu."
- - Các ông nghĩ
thế nào hỏi các thầy Tỳ kheo? Nếu người ấy làm như thế thì hành
động của y có phải là một hành động thích đáng đối với chiếc bè
hay không?
- - Bạch Thế Tôn,
không.
- "Vậy thì y nên
làm thế nào với chiếc bè? Sau khi đã vượt qua sông và đến bờ bên
kia, giả sử người ấy suy nghĩ: "Chiếc bè này thật đã có công dụng
rất lớn với ta. Nhờ nó ta đã sang đến bờ sông bên này một cách an
ổn, chống chèo bằng tay chân ta. Ta nên để chiếc bè này trên nước,
rồi tiếp tục đi bất cứ đâu." Ấy là hành động một cách thích đáng
đối với chiếc bè. Cũng thế, hỏi các Tỳ kheo, ta đã truyền dạy một
giáo lý tương tự như một chiếc bè, nó cốt dùng để vượt qua, chứ
không phải để mang theo, ôm giữ. Hỏi các Tỳ kheo, đã hiểu rằng
giáo lý chỉ như một chiếc bè, thì pháp (dhamma) các ông còn phải
lìa bỏ, huống nữa phi pháp (adhamma)[32]
thì lại càng nên xả bỏ biết chừng nào."
- Từ ẩn dụ này ta
thấy rõ rằng giáo lý của đức Phật là cốt để đưa con người đến an
ổn, thanh tịnh, hạnh phúc, đạt đến Niết-bàn (Nirvàna). Toàn bộ lý
thuyết đức Phật dạy đều dẫn đến cứu cánh ấy. Ngài không nói ra
những điều chỉ để mà thỏa mãn tò mò tri thức. Ngài là một vị Thầy
thực tiễn chỉ dạy những điều sẽ đem lại hạnh phúc an vui cho con
người.
- Một lần đức
Phật ở lại trong một rừng Simsapa ở thành Kosambi (gần
Allanhabad). Ngài cầm một nắm lá, và hỏi các môn đệ:
- - Hỏi các thầy
Tỳ kheo, các thầy nghĩ thế nào? Lá trong tay ta nhiều hơn hay lá
trong rừng nhiều hơn?
- - Bạch đức Thế
Tôn, lá trong tay của đấng Giác ngộ rất ít, nhưng lá trong rừng
Simsapa đây quả thật nhiều hơn muôn vàn.
- - Cũng thế, hỏi
các Tỳ kheo, ta chỉ dạy các ông rất ít từ những gì ta đã kiến giải
được. Những gì ta không nói với các ông thì thật nhiều hơn muôn
vàn. Và tại sao Như Lai đã không giảng dạy những điều ấy? Bởi vì
nó không ích lợi... không đưa đến Niết-bàn. Chính vì thế mà ta đã
không nói những điều ấy.[33]
- Thật là vô ích
cho ta khi cố suy tưởng - như vài học giả đã cố làm một cách vô
vọng - về những gì đức Phật biết nhưng không nói cho môn đệ.
- Ðức Phật không
muốn bàn đến những vấn đề siêu hình không cần thiết, hoàn toàn
thuộc địa hạt tư duy, phát sinh những tưởng tượng. Ngài xem chúng
như một "rừng quan niệm". Dường như chính trong số những môn đệ
của Phật cũng có những người không thích thái độ này của Ngài.
Trường hợp một người trong số ấy là Man đồng tử (Màlunkyaputta) đã
thưa hỏi 10 câu hỏi cổ điển danh tiếng về những vấn đề siêu hình
và xin đức Phật trả lời.[34]
- Một ngày kia
Màlunkyaputta, sau khi xuất thiền vào buổi xế, đi đến đức Phật
đảnh lễ, ngồi xuống một bên và hỏi:
- - Bạch đức Thế
Tôn, khi con đang ngồi thiền định một mình, ý tưởng này đã đến với
con: "Có những vấn đề mà đức Thế Tôn đã không giải thích, để sang
bên và loại bỏ. Ðấy là:
- 1. Vũ trụ trường tồn, hay 2. không
trường tồn;
3. Vũ trụ hữu hạn, hay 4. vô hạn;
5. Linh hồn là một với thể xác, hay 6. linh hồn khác thể xác khác.
7. Ðức Như Lai có còn tồn tại sau khi chết, hay 8. Ngài không tồn
tại sau khi chết.
9. Ngài vừa tồn tại vừa không tồn tại sau khi chết, hay 10. Ngài
vừa không tồn tại và cũng vừa không không tồn tại.
- Những vấn đề
này đức Thế Tôn đã không giải thích cho ta, thái độ này không làm
ta thỏa mãn. Ta không ưa thích thái độ ấy. Ta sẽ đi đến đức Thế
Tôn và thưa hỏi Ngài về việc này. Nếu đức Thế Tôn không giải thích
cho chúng ta, ta sẽ từ bỏ đoàn thể tăng chúng và ra đi. Nếu đức
Thế Tôn biết được vũ trụ trường cửu, Ngài hãy nói thế. Nếu đức Thế
Tôn không biết vũ trụ là trường cửu hay không v.v.. thì một người
không biết hãy nên nói thẳng ra là: "Ta không biết, ta không thấy
rõ".
- Sự trả lời của
đức Phật cho Màlun-kyaputta quả có lợi ích cho hàng triệu người
trên thế giới hiện nay đang phung phí thời giờ quý báu vào những
vấn đề siêu hình và làm bận trí mình một cách không cần thiết:
- - Này
Màlunkyaputta, ta có bao giờ nói với ông: "Hãy lại đây,
Màlunkyaputta, sống đời thánh thiện dưới bóng ta, ta sẽ giải thích
những vấn đề ấy cho ông hay không?"
- - Bạch Thế Tôn,
không.
- - Còn ông, này
Màlunkyaputta, ông có nói với ta: "Bạch Thế Tôn, con sẽ sống đời
thánh thiện dưới bóng Ngài và Ngài sẽ giảng giải những vấn đề ấy
cho con không?"
- - Bạch Thế Tôn,
không.
- - Ngay bây giờ,
Màlunkyaputta, ta không nói với ông: "Hãy đến sống đời thánh thiện
dưới bóng ta, ta sẽ giải thích những vấn đề ấy cho ông". Và ông
cũng không nói với ta: "Bạch Thế Tôn, con sẽ sống đời thánh thiện
dưới bóng đức Thế Tôn và Ngài sẽ giải những vấn đề ấy cho con."
Trong những trường hợp ấy, hỏi người điên rồ kia, ai chối từ ai?"
[35]
- Hỏi
Màlunkyaputta, nếu một người nào nói: "Tôi sẽ không sống đời thánh
thiện dưới bóng đức Thế Tôn nếu Ngài không giải thích cho tôi
những vấn đề ấy" thì y có thể chết trước khi những câu hỏi được
Như Lai giải đáp. Giả sử, hỏi Màlunkyaputta, một người bị trúng
mũi tên độc và bạn bè bà con đưa y đến một y sĩ. Giả sử khi ấy
người kia nói: "Ta sẽ không để rút mũi tên này ra nếu ta không
biết được ai bắn, người ấy là một người Sát đế lị (Ksatriya) hay
một người Bà la môn (thuộc giai cấp tu sĩ) hay một người Phệ xá
(Vaisya, giai cấp thương nông) hay một người Thủ đà la (Sùdra -
thuộc giai cấp hạ tiện), tên người ấy là gì, gia đình ra sao,
người ấy cao, thấp hay tầm vóc trung bình, da người ấy đen, nâu
hay vàng, người ấy đến từ làng tỉnh hay đô thị nào. Ta sẽ không để
rút mũi tên này ra nếu ta không biết được loại cung nào đã bắn ta,
dây cung ra sao, loại mũi tên gì, làm bằng lông gì và đầu tên làm
bằng chất gì." Hỏi Màlunkyaputta, người ấy sẽ chết trước khi biết
được điều nào trong số những câu hỏi ấy. Cũng thế, hỏi
Màlunkyaputta, nếu một người nói: "Ta sẽ không theo đời sống thánh
thiện dưới bóng đức Như Lai cho đến khi Ngài giải đáp những câu
hỏi như: thế giới trường tồn hay không, v.v..", người ấy sẽ chết
trước khi được Như Lai giải đáp.
- Khi ấy đức Phật
giải thích cho Màlun-kyaputta rằng đời sống thánh thiện không phụ
thuộc vào những quan niệm ấy. Dù người ta có quan niệm thế nào về
những vấn đề ấy đi nữa, thì vẫn có sinh, lão, bệnh, tử, ưu, bi,
khổ não... mà sự chấm dứt những điều ấy (nghĩa là Niết-bàn) ta nói
là có thể thực hiện ngay trong cuộc sống này.
- Bởi thế, này
Màlunkyaputta, hãy ghi nhớ trong tâm trí: những gì ta đã giải
thích, thì coi là được giải thích và những gì ta đã không giảng
giải thì xem là đã không được giảng giải. Những gì là điều ta đã
không giảng giải? Thế giới trường cửu hay không v.v.. (10 quan
niệm trên) ta đã không giải thích. Vì sao, hỏi Màlunkyaputta, mà
ta đã không giải thích chúng? Bởi vì nó không ích lợi, không quan
hệ căn bản đến đời sống thánh thiện tâm linh, không đưa đến sự
chán bỏ, sự giải thoát, sự chấm dứt khổ đau, sự an tĩnh, sự thâm
nhập, sự liễu ngộ Niết-bàn. Chính vì thế mà ta đã không nói cho
ông về những vấn đề ấy.
- Còn những gì,
hỏi Màlunkyaputta, ta đã giải thích? Ta đã giải thích khổ
(dukkha), nguyên nhân của khổ, sự diệt khổ, và con đường đưa đến
sự diệt khổ[36].
Hỏi Màlunkyaputta, vì sao mà ta đã giải thích chúng? Bởi vì nó ích
lợi, nó quan hệ căn bản đến đời sống thánh thiện tâm linh, nó đưa
đến sự chán bỏ, sự giải thoát, sự chấm dứt khổ đau, sự an tĩnh, sự
thâm nhập, sự liễu ngộ, Niết-bàn. Bởi thế ta đã giải thích chúng."[37]
- Bây giờ ta hãy
xét đến Tứ diệu đế mà đức Phật bảo Màlunkyaputta rằng Ngài đã giải
thích.
-
Ghi chú:
-
[1] Dhp. XII
4
-
[2] D II
(Colombo, 1929), p.62 (Mahàparinibbàna-sutta)
-
[3]
Tathàgata (Như lai) "người đã đạt đến Chân lý", "người tìm
ra Chân lý". Danh từ này đức Phật thường dùng để tự xưng và chỉ
chung các đức Phật khác.
-
[4] Dhp. XX 4
-
[5] Sangha
có nghĩa "đoàn thể", nhưng trong Phật giáo danh từ này chỉ
"đoàn thể tăng lữ Phật giáo", nghĩa là tập đoàn tu sĩ. Phật,
Pháp (Dhamma hay Giáo lý) và Tăng (đoàn thể Tăng già) được xem
là Tam quy (Tisarana) hay Tam bảo (Tiratana).
-
[6] D II
(Colombo, 1929), p.62
-
[7] A
(Colombo, 1929), p.115
-
[8]
Vimamsaka-sutta, no 47 of M.
-
[9] D II (Colombo, 1929) P.
95; A (Colombo, 1929), P. 239.
-
[10] D II
(Colombo, 1929) p.95; A (Colombo, 1929), p.239
-
[11]
Mahàvira, người sáng lập Kỳ na giáo (Jainism), là một người đồng
thời với đức Phật, và có lẽ hơn Ngài vài tuổi.
-
[12] Kinh
Upàli, số 56 Trung bộ.
-
[13] Trụ đá,
XII
-
[14] Ở
Ấn Ðộ, những xưởng đồ gốm thường rộng
rãi yên tĩnh. Trong các kinh bản Pali ta thấy những sa môn khổ
hạnh cũng như Phật, trong cuộc sống lang thang thường nghỉ đêm
tại một xưởng đồ gốm.
-
[15] Ðiều
đáng chú ý là Phật gọi người này bằng danh từ bhikkhu, một danh
từ dùng cho tu sĩ Phật giáo. Về sau ta sẽ thấy vị này không phải
một phần tử của Tăng già, vì sau khi nghe Pháp anh ta mới xin
xuất gia thọ giới với Phật. Có lẽ vào thời Phật, danh từ Tỳ kheo
đôi khi được xử dụng không phân biệt đối với tất cả nhà tu, hoặc
vì Phật xử dụng danh từ ấy một cách không chặt chẽ lắm. Bhikkhu
nghĩa là khất sĩ, kẻ xin ăn. Ngày nay danh từ ấy chỉ dùng cho tu
sĩ Phật giáo.
-
[16] Xem
chương nói về Diệu đế thứ ba.
-
[17] Danh từ
pali là avuso, tiếng xưng hô giữa những người ngang hàng.
-
[18] Bò ở
Ấn độ thường chạy rong ngoài đường.
Theo chi tiết này, thì dường như truyền thống thả bò như vậy có
từ rất xưa. Nhưng thường những bò này hiền chứ không nguy hiểm.
-
[19] A-la-hán
là một người đã thoát khỏi những xấu xa bất tịnh như dục vọng,
thù hằn, ác độc, ngu si, kiêu ngạo, ngã mạn v.v.. Người đã đạt
đến tầng thứ tư và tầng cuối cùng trong sự thực chứng Niết-bàn,
đầy trí Tuệ từ bi và những đức tính trong sạch cao quý. Lúc này
Pukkusàti chỉ mới đạt đến tầng thứ ba mà thuật ngữ gọi là Bất
hoàn (không trở lại - Anàgàmi). Tầng thứ hai gọi là Nhất lai
(còn một phen trở lại cõi Ta bà - Sakadàgàmi) và tầng thứ nhất
gọi là Dự lưu (nhập vào dòng Thánh - Sotàpanna).
-
[20] Chuyện
"The Pilgrim Kamanita" của Karl Gjellerup dường như rút cảm hứng
từ chuyện này.
-
[21]
Abhisamuc, p.6
-
[22] Luận án
Ph.D của Edith Ludowyk-Gyomroi nhan đề The Role of the Miracle
in Early Pali Literature bàn đến đề tài này (chưa xuất bản).
Cũng cùng tác giả ấy có viết cho một mục về cùng một đề tài
trong UNIVERSITY OF CEYLON REVIEW, Vol.1, No 1 (April, 1943)
p.74 và kế tiếp.
-
[23] Ở đây
chữ "tin" được dùng trong nghĩa thông thường "mộ đạo, sùng đạo,
ngoan đạo".
-
[24] S II
(PTS), p.117
-
[25] S III
PTS), p.152
-
[26] S V,
(PTS), p.432; III, p.103; M III (PTS), p.19
-
[27] S V
(PTS), p.422
-
[28]
Cankì-sutta, No 95 of M
-
[29] Sn
(PTS), p.151 (v.798).
-
[30] Trong
Mahàtanhàsankhaya-sutta, M 38.
-
[31] M I
(PTS), p.260
-
[32] M I
(PTS), p.p. 134-135. Dhamma (Pháp) ở đây, theo Luận có nghĩa
những sự chứng đạt tâm linh cao cả, những ý tưởng và quan niệm
thanh khiết. Sự chấp vào những điều cao quý này mà còn phải xả
bỏ, thế thì những điều xấu xa lại càng nên xả bỏ hơn nữa. MA II
(PTS), p. 109
-
[33] SV
(PTS), p. 437
-
[34]
Cùla-Màlunkya-sutta, Tiểu kinh Man đồng tử, Trungbộ 63.
-
[35] Có nghĩa
không có gì ràng buộc giữa hai bên.
-
[36] Tứ diệu
đế (4 chân lý cao cả) này được giải thích trong bốn chương sau.
-
[37] Dường
như lời khuyên này của Phật đã có hiệu quả mong muốn đối với
Màlunkyaputta, vì ở một chỗ khác ta thấy ông ta lại đến viếng
đức Phật để xin chỉ giáo, và nhờ làm theo lời dạy, ông đã chứng
quả A la hán. A (Colombo, 1929), pp. 345-346.
--o0o--
|
|