-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- ÐỨC PHẬT ÐÃ DẠY NHỮNG GÌ
- Hòa Thượng
Walpola Rahula
- Thích Nữ Trí
Hải dịch (1998)
- Nguyên tác:
"What The Buddha Taught"
(Tựa đề lần xuất bản thứ nhất, 1966: "Con đường thoát khổ")
- --- o0o ---
-
- Chương Bốn
- DIỆU ÐẾ THỨ
BA: DIỆT (Nirodha)
Sự chấm dứt khổ
-
Chân lý cao cả thứ ba là có
một lối thoát cho khổ đau, ra khỏi sự tiếp nối của dukkha. Ðây là
chân lý cao cả về sự chấm dứt khổ, gọi là Niết-bàn (Pàli
Nibbàna, hay thông dụng hơn, Sanskrit Nirvàna.)
- Muốn tận diệt
dukkha người ta phải diệt cội gốc chính của dukkha là khát ái
tanhà, như đã nói trên. Bởi thế Niết-bàn còn gọi là ái diệt
(tanhakkhaya) sự dứt tiệt dục vọng.
- Bây giờ bạn sẽ
hỏi: "Nhưng Niết-bàn là gì?" Ðể trả lời câu hỏi khá tự nhiên và
đơn giản ấy, nhiều sách vở đã được viết ra nhưng chỉ làm vấn đề
thêm rắc rối hơn là sáng tỏ. Giải đáp hợp lý duy nhất cho câu hỏi
ấy là, ta không thể nào dùng ngôn từ để giải đáp đầy đủ và thỏa
đáng, vì ngôn ngữ con người quá nghèo nàn để diễn đạt thực chất
của Niết-bàn, Chân lý tuyệt đối hay Thực tại tối hậu. Ngôn ngữ
được con người đặt ra và sử dụng để mô tả những sự vật và ý tưởng
thuộc kinh nghiệm giác quan và ý thức. Nhưng một kinh nghiệm siêu
việt con người như kinh nghiệm về thực tại tuyệt đối, thì không
thuộc vào phạm vi giác quan, ý thức. Bởi thế không có từ ngữ nào
để diễn đạt kinh nghiệm ấy, cũng như trong ngữ vựng của con cá
không có danh từ để diễn tả tính chất của đất cứng. Khi rùa trở
lại trong nước kể cho cá nghe nó vừa đi dạo trên đất liền, cá bèn
hỏi: "Dĩ nhiên là anh muốn nói anh bơi lội trên đó chứ?" Rùa cố
giải thích rằng người ta không thể bơi lội trên đất cứng, mà đi
trên ấy; nhưng cá vẫn khăng khăng một mực rằng không thể có
chuyện như thế, đấy phải là chất lỏng như hồ ao của nó, có sóng
nước, và ta phải có thể nhào lộn bơi lội trong đó.
- Danh từ chỉ là
những ký hiệu để diễn đạt những sự vật và tư tưởng mà ta biết,
nhưng những ký hiệu ấy cũng không thể chuyên chở bản chất đích
thực của cả đến những sự vật thông thường. Ngôn ngữ được xem là
lừa dối và sai lạc trong vấn đề thấu hiểu chân lý. Bởi thế kinh
Lăng già (Lankàvatàra-sutra) dạy, kẻ ngu bị mắc bẫy danh từ như
con voi sa lầy[1].
- Tuy nhiên chúng
ta cũng không thể không cần đến ngôn ngữ. Nhưng nếu Niết-bàn được
diễn đạt và giải thích bằng những từ ngữ khẳng định, thì ta dễ
chụp ngay lấy một ý tưởng dính liền với những từ ngữ ấy, một ý
tưởng có thể hoàn toàn ngược lại. Bởi thế Niết-bàn thường được
diễn tả bằng những từ ngữ phủ định[2],
có lẽ đấy là cách ít nguy hiểm hơn. Cho nên Niết-bàn thường được
nói đến bằng những danh từ phủ định như tanhakkaya ái diệt,
sự tiêu diệt của dục vọng; asamkhata vô vi, không bị
kết hợp, không bị giới hạn; viràga vô tham, không tham;
nirodha diệt, sự chấm dứt; nibbàna tịch diệt, sự
dập tắt, tắt ngấm.
- Ta hãy xem một
vài định nghĩa và mô tả về Niết-bàn như được tìm thấy trong các
nguyên bản Pàli:
- "Ðấy là sự chấm
dứt rốt ráo của dục vọng; vứt bỏ nó, chối từ nó, thoát khỏi nó,
rứt ra khỏi nó."[3]
- "Sự im bặt của
mọi sự vật bị giới hạn, sự dứt bỏ mọi xấu xa, sự diệt dục, sự giải
thoát, chấm dứt, Niết-bàn."[4]
- "Hỏi các Tỳ
kheo, thế nào là cái tuyệt đối vô vi (asamkhata)? Này các
Tỳ kheo, đấy là sự diệt tham (ràgakkhayo), diệt sân (dosakkhayo),
diệt si (mohakkhayo). Này các Tỳ kheo, đây gọi là vô vi
tuyệt đối."[5]
- "Này Ràdha, sự
tiêu tan của dục vọng là Niết-bàn."
[6]
- "Này các Tỳ
kheo, trong tất cả pháp, dù là pháp hữu vi hay vô vi, pháp giải
thoát ly tham (viràga,) là cao cả nhất. Ấy nghĩa là giải
thoát khỏi kiêu mạn, diệt trừ tham[7],
nhổ tận gốc sự chấp thủ, cắt đứt sự tiếp tục, dập tắt khát ái,
giải thoát, chấm dứt, Niết-bàn."[8]
- Khi được một du
sĩ ngoại đạo (Pariv-ràjaka) hỏi Niết-bàn là gì, Xá lợi phất
(Sàriputta), vị đệ tử lỗi lạc của Phật cũng đã trả lời giống như
định nghĩa trên của Phật về Vô vi: "Sự diệt tham, diệt sân, diệt
si"[9]
- "Sự từ bỏ, phá
hủy dục vọng khát ái đối với năm uẩn chính là chấm dứt dukkha."[10]
- "Hữu diệt (bhavanirodha)
là Niết-bàn."[11]
- Về sau, nói đến Niết-bàn, Phật
dạy:
- "Hỏi các Tỳ
kheo, có cái không sinh, không trở thành, không bị giới hạn, không
được kết hợp. Nếu không có cái không sinh, không trở thành, không
bị giới hạn, không được kết hợp, thì sẽ không có lối thoát cho cái
đã sinh ra, trở thành, bị giới hạn, được kết hợp. Bởi vì có cái
không sinh, không trở thành, không bị giới hạn, không được kết
hợp, cho nên có lối thoát cho cái đã sinh ra, trở thành, bị giới
hạn, được kết hợp."[12]
- "Ở đây không có
chỗ cho bốn đại đất, nước, lửa, gió; những khái niệm dài, rộng,
thô, tế, xấu, tốt, danh và sắc đều hoàn toàn bị phá hủy, không có
đời này đời sau, không có đến đi hay đứng, không có chết hay sống,
không thể tìm thấy đối tượng giác quan."[13]
- Vì Niết-bàn
được diễn đạt bằng những từ ngữ phủ định như thế, nên có nhiều
người đã có một quan niệm sai lầm rằng nó tiêu cực, và diễn tả sự
tiêu diệt bản ngã. Niết-bàn nhất định không phải là sự hủy diệt
của bản ngã, bởi vì không có bản ngã nào để hủy diệt. Nếu có hủy
diệt thì đấy là sự hủy diệt của ảo tưởng mà ý niệm sai lầm về ngã
gây nên.
- Nói Niết-bàn là
tiêu cực hay tích cực đều không đúng. Những khái niệm tiêu cực và
tích cực đều tương đối, thuộc phạm vi đối đãi. Bởi thế những từ
ngữ ấy không thể áp dụng cho Niết-bàn là chân lý tuyệt đối vượt
ngoài nhị nguyên, tương đối.
- Một danh từ phủ
định không nhất thiết ám chỉ một trạng thái tiêu cực. Danh từ Pàli
hay Sanskrit để chỉ sức khỏe là àrogya, một từ phủ định, có
nghĩa là "không có bệnh hoạn". Nhưng sức khỏe thì không ám chỉ một
tình trạng tiêu cực. Danh từ "Bất tử" (Sk. Amrta, Pàli
Amata) một đồng nghĩa của Niết-bàn, là phủ định, nhưng nó
không ám chỉ một tình trạng tiêu cực. Sự từ chối những chuyện tiêu
cực thì không tiêu cực. Một trong những tiếng đồng nghĩa của
Niết-bàn mà ai cũng biết, là giải thoát (Pali: Mutti,
Skr: Mukti). Không ai nói giải thoát là tiêu cực. Nhưng
ngay cả giải thoát cũng có một khía cạnh phủ định. Giải thoát luôn
luôn là giải thoát khỏi cái gì chướng ngại, xấu xa, tiêu
cực. Nhưng giải thoát thì không tiêu cực. Bởi thế Niết-bàn, giải
thoát (Mutti hay Vimutti), tự do tuyệt đối, là sự giải thoát khỏi
mọi tệ tập, giải thoát khỏi tham ái, sân hận và ngu si, giải thoát
khỏi mọi danh từ đối đãi, khỏi sự tương đối, khỏi thời gian và
không gian.
- Trong kinh Phân
biệt giới Dhàtuvibhanga (Trung Bộ kinh 140) ta có thể có một khái
niệm về Niết-bàn, chân lý tuyệt đối. Bài pháp vô cùng quan trọng
này đã được Phật thuyết cho Pukkusàti (đã nói trên) người ngài gặp
trong xưởng thợ gốm vào một đêm yên tĩnh, và nhận thấy là có trí
và tu hành nghiêm túc. Cốt tủy những gì ta cần biết như sau.
- Một con người
được cấu tạo do sáu giới: địa, thủy, hỏa, phong, không và thức.
Khi phân tích sáu giới họ thấy không có gì là "của tôi" hay "tôi"
hay "tự ngã của tôi". Họ hiểu ý thức xuất hiện và tan biến như thế
nào, những cảm giác vui, khổ, không vui, không khổ xuất hiện và
biến mất ra sao. Do cái biết ấy, tâm họ hết bị ràng buộc. Khi ấy
họ khám phá trong mình một trạng thái bình an thuần tịnh gọi là
tâm xả (upekhà) mà họ có thể vận dụng để tiến đạt đến bất
kỳ cảnh giới tâm linh cao siêu nào, và họ biết trạng thái xả thuần
tịnh ấy có thể kéo dài rất lâu. Nhưng họ nghĩ: "Nếu ta vận dụng xả
thuần tịnh này hướng đến hư không vô biên và phát triển một tâm
tương ứng với không vô biên ấy, thì đấy cũng chỉ là một tạo tác
hữu vi của tâm thức (samkhatam)[14].
Nếu ta vận dụng xả thuần tịnh này vào cõi thức vô biên... vào cõi
vô sở hữu (không có gì cả)... hay vào cõi phi phi tưởng (không có
tri giác cũng không tri giác) và phát triển một tâm tương ứng, thì
đấy cũng chỉ là một tạo tác của tâm thức." Khi ấy họ không tạo tác
gì bằng tâm thức, vì không muốn trở thành (bhava, hữu) hay
hủy diệt (vibhava, phi hữu)[15].
Vì tâm không tạo tác, không muốn hữu hoặc phi hữu, nên họ không
bám víu gì ở thế gian, do không bám víu nên không lo ngại, do
không lo ngại nên hoàn toàn lắng dịu, [ngọn lửa trong họ] hoàn
toàn bị thổi tắt (paccattam yeva parinibbàyati). Và họ
biết: "Sự sinh đã chấm dứt, đời sống trong sạch đã được sống, cái
gì phải làm đã được làm, không còn có gì nữa phải làm."[16]
- Bấy giờ, mỗi
khi cảm thọ một cảm giác vui, khổ hoặc không vui không khổ, vị ấy
biết cảm giác ấy vô thường, biết nó không trói buộc được mình,
biết nó không phải được cảm thọ với dục vọng. Dù bất cứ cảm giác
gì, vị ấy cảm thọ mà không bị trói buộc vào nó (visamyutto).
Vị ấy biết rằng mọi cảm giác sẽ an tịnh khi thể xác tan rã, cũng
như ngọn đèn tắt khi dầu và bấc đã cháy hết.
- "Bởi thế, này
các Tỳ kheo, một người được như vậy là có được trí tuệ thù thắng,
vì trí biết về diệt khổ là minh triết thù thắng.
- "Giải thoát của
vị ấy có căn bản trên chân lý, không ai lay chuyển nổi. Này các Tỳ
kheo, cái gì phi thực (mosadhamma) là tà vạy; cái thực tại
(amosadhamma), Niết-bàn, là chân lý(sacca). Bởi thế,
hỏi các Tỳ kheo, một người được như vậy là có được chân lý tuyệt
đối. Vì Thánh đế tối thượng (paramam ariyasaccam) là Niết-bàn, và
Niết-bàn là thực tại."
- Ở chỗ khác Phật
dùng hẳn danh từ Chân lý thay cho Niết-bàn: "Ta sẽ dạy các người
chân lý và con đường đưa đến chân lý"[17].
Ở đây nhất định chân lý có nghĩa là Niết-bàn.
- Bây giờ, gì là
Chân lý tuyệt đối? Theo Phật giáo, Chân lý tuyệt đối là: trên đời
không có gì tuyệt đối, mọi sự đều tương quan, có điều kiện, và vô
thường. Không có một thực chất tuyệt đối không thay đổi, bất diệt
được gọi là ngã, linh hồn hay atman ở trong ta hay ngoài
ta. Ðây là Chân lý tuyệt đối. Chân lý không bao giờ tiêu cực, mặc
dù cũng có từ ngữ phổ thông là chân lý tiêu cực. Sự thấu hiểu chân
lý ấy, nghĩa là thấy mọi sự như thật (yathàbhùtam), không
có ảo tưởng hay ngu si (vô minh, avijjà)[18],
chính là sự diệt tắt dục vọng, là đoạn tận ái (tanhakkhaya),
là diệt khổ, là Niết-bàn. Một điều thú vị và bổ ích nếu ta nhớ
quan điểm của Ðại thừa là Niết-bàn không khác với sinh tử
[19].
Cũng một sự việc ấy, nhìn theo lối chủ quan là sinh tử, khách
quan là Niết-bàn. Quan điểm này của Ðại thừa có lẽ đã được triển
khai từ những khái niệm ta gặp trong các kinh bản Pàli của nguyên
thủy hay Thượng tọa bộ (Theravàda), mà ta vừa đề cập một
cách vắn tắt.
- Thật không đúng
nếu nghĩ Niết-bàn là kết quả tự nhiên của sự dập tắt dục vọng.
Niết-bàn không là kết quả của cái gì hết. Nếu niết-bàn là kết quả,
thì niết-bàn thành ra sản phẩm của một cái nhân; thành ra hữu vi,
có điều kiện. Nhưng niết-bàn không là nhân hay quả, mà vượt ngoài
nhân và quả. Chân lý không phải là một hậu quả hay kết quả. Nó
không được sản xuất như một trạng thái thần bí, thuộc về tâm linh
như thiền (dhyàna) hay định (samàdhi). Có
CHÂN LÝ có
NIẾT BÀN. Ðiều duy nhất ta
có thể làm là thấy chân lý, hiểu chân lý. Có một con đường đưa đến
sự thấy hiểu ấy. Nhưng Niết-bàn không phải là kết quả của con
đường
[20].
Bạn có thể leo núi dọc theo một con đường, nhưng ngọn núi không
phải là kết quả, hậu quả của con đường. Bạn có thể thấy ánh sáng,
nhưng ánh sáng không phải là kết quả của sự thấy.
- Người ta thường
hỏi: "Có gì ở sau Niết-bàn?" Câu hỏi này không vững, vì Niết-bàn
là chân lý tối hậu. Vì nó đã là tối hậu, nên không thể có gì ở
đằng sau nó. Nếu có một cái gì ở sau Niết-bàn thì cái đó - chứ
không phải Niết-bàn- thành chân lý tối hậu. Một thầy tu tên Ràdha
đặt câu hỏi ấy với Phật dưới một hình thức khác: "Niết-bàn là để
dùng vào mục đích gì?" Câu hỏi ấy giả thiết có một mục đích hay
cứu cánh nào cho Niết-bàn. Phật trả lời: "Này Ràdha, câu hỏi ấy
không nhằm chỗ. Người ta sống đời thánh thiện nhắm đến Niết-bàn
như là chân lý tuyệt đối, mục đích của đời sống phạm hạnh, cứu
cánh tối hậu của đời sống ấy."[21]
- Vài từ ngữ
thông dụng sai lạc như "Phật nhập Niết-bàn hay vào Bát Niết-bàn
(Parinirvàna) sau khi Ngài chết" đã làm phát sinh nhiều tư duy
tưởng tượng về Niết-bàn[22].
Khi nghe nói Phật nhập Niết-bàn hay Bát Niết-bàn ta tưởng Niết-bàn
là một cõi, một lãnh vực, một hoàn cảnh trong đó có một loại hiện
hữu nào đó, ta cố tưởng tượng nó qua ý nghĩa danh từ "hiện hữu" mà
ta đã biết. Từ ngữ thông dụng "nhập Niết-bàn" không có cái gì
tương đương trong nguyên bản. Không có gì gọi là "nhập Niết-bàn
sau khi chết". Có một từ ngữ Parinibbuto dùng để chỉ cái
chết của một vị Phật hay A-la-hán đã chứng Niết-bàn, nhưng nó
không có nghĩa "nhập vào Niết-bàn". Parinibutto chỉ có
nghĩa "hoàn toàn đi mất", "hoàn toàn thổi tắt", hay "hoàn toàn
diệt", vì Phật hay A-la-hán không còn sinh tử trở lại sau khi
chết.
- Bây giờ một câu
hỏi khác được đặt ra:
- "Cái gì xảy đến
cho Phật hay một vị A-la-hán sau khi chết hay bát Niết-bàn?" Câu
hỏi này thuộc vào loại những câu hỏi không giải đáp (bất
thuyết, avyàkata)
[23].
Ðức Phật khi nói về điều này cũng đã dạy rằng không từ ngữ nào
trong ngữ vựng con người có thể diễn tả cái gì xảy đến cho một vị
A-la-hán sau khi chết. Khi trả lời Vaccha, một du sĩ ngoại đạo (parivràjaka),
Phật dạy "sinh" hay "không sinh" không áp dụng cho vị A-la-hán vì
những pháp sắc thọ tưởng hành thức liên kết với "sinh" và "không
sinh", đã hoàn toàn bị hủy diệt, nhổ tận gốc, không còn tái xuất
hiện sau khi chết.[24]
- Một vị A-la-hán
sau khi chết được ví như một ngọn lửa tắt ngấm khi không đun thêm
củi, hay như đèn đã hết bấc và dầu[25].
Ở đây cần phải hiểu một cách rõ ràng minh bạch rằng, cái được ví
với ngọn đèn đã tắt không phải là Niết-bàn mà cái được ví với lửa
tắt là "con người" năm uẩn vì đã thực hiện Niết-bàn. Ðiểm này cần
được nhấn mạnh vì nhiều người, ngay cả vài học giả uyên bác, đã
hiểu lầm và giải thích sai ẩn dụ này khi nói đến Niết-bàn.
Niết-bàn không bao giờ được so sánh với một ngọn lửa tắt hay một
ngọn đèn tắt.
- Lại một câu hỏi
nữa thường được đặt ra: "Nếu không có ngã, không có atman, thì ai
thực hiện Niết-bàn?" Trước khi nói về Niết-bàn ta hãy đặt câu hỏi:
"Nếu không có ngã, thì ai đang suy nghĩ đây?" Ta đã thấy trước đây
rằng chính tâm là cái đang suy nghĩ, rằng không có người suy tư ở
đằng sau tư tưởng. Cũng thế, chính trí tuệ (panna) thực
chứng. Không có cái ngã nào đằng sau sự thực chứng. Trong lúc bàn
về nguồn gốc của dukkha chúng ta đã thấy rằng bất cứ cái gì -
người, vật hay một tập thể - nếu trong nó có bản chất của sinh thì
cũng có luôn trong nó bản chất, mầm mống của sự chấm dứt, hủy
diệt. Mà khổ, sinh tử, luân hồi có bản chất của sự sinh, nên cũng
phải có bản chất của sự hủy diệt. Dukkha phát sinh vì khát ái, và
nó chấm dứt do Tuệ (Panna, Bát nhã). "Dục" và "tuệ" cả hai
đều ở trong ngũ uẩn, như đã thấy trước đây.[26]
- Như thế mầm
mống của sự sinh ra Ngũ uẩn cũng như mầm mống của sự chấm dứt Ngũ
uẩn đều ở trong Ngũ uẩn. Ðây là ý nghĩa chân thật của lời Phật
dạy: "Chính ngay trong thân này, ta nói có sự xuất hiện thế giới,
sự chấm dứt của thế giới, và con đường đưa đến sự chấm dứt của thế
giới"[27].
Ðiều này có nghĩa rằng tất cả Tứ diệu đế đều được tìm thấy trong
Ngũ uẩn, nghĩa là ngay trong ta (ở đây danh từ "thế giới"- loka
được dùng thay cho danh từ dukkha, khổ). Ðiều này
cũng còn có nghĩa rằng không có một quyền năng nào bên ngoài phát
sinh ra nguyên nhân và sự chấm dứt của khổ.
- Khi được mở
mang, được tu tập theo diệu đế thứ tư (sẽ bàn kế tiếp), trí tuệ
thấy được bí mật của sự sống, thấy thực chất mọi sự đúng như thật.
Khi bí mật đã được khám phá, khi chân lý được tìm ra, thì tất cả
những năng lực cuồng nhiệt trong ảo tưởng đã sản sinh ra dòng
tiếp nối sinh tử, bây giờ trở nên vắng lặng, không thể tạo thêm
nghiệp mới, vì không còn ảo tưởng, không còn khát ái để duy trì
dòng tương tục tái sinh. Việc này cũng như một tâm bệnh tự nhiên
chấm dứt, khi bệnh nhân khám phá ra nguyên nhân, thấy rõ bí ẩn của
chứng bệnh.
- Trong hầu hết
mọi tôn giáo, hạnh phúc tối cao chỉ có thể đạt được sau khi chết.
Nhưng Niết-bàn thì có thể thực hiện ngay trong cõi đời này, không
cần phải đợi đến lúc chết mới đạt đến.
- Người đã thực
chứng Chân lý, Niết-bàn, là người hạnh phúc nhất trần gian. Họ
giải thoát khỏi mọi "mặc cảm", ám ảnh, phiền não, rắc rối, những
vấn đề khiến người ta điêu đứng. Họ có được sức khỏe tinh thần
toàn hảo. Họ không hối tiếc quá khứ, không bận tâm về tương lai,
mà sống trọn cái hiện tại
[28].
Bởi thế họ thưởng thức, vui hưởng mọi sự một cách thuần túy, không
một bóng dáng nào của ngã chấp. Họ vui vẻ, hoan hỉ, thưởng thức sự
sống thuần khiết, các giác quan hài hòa, bình an và trong sáng,
thoát mọi âu lo[29].
Vì đã giải thoát khỏi dục vọng ích kỷ, khỏi hận thù, vô minh, kiêu
căng, ngã mạn và tất cả mọi chướng ngại, nên họ trong sạch, đầy từ
bi, tử tế, thiện cảm, hiểu biết và bao dung. Họ phục vụ kẻ khác
một cách trong sạch nhất, vì không còn nghĩ đến mình. Họ không tìm
kiếm lợi lộc, không tích trữ bất cứ gì, kể cả tài sản tâm linh, vì
đã thoát khỏi ảo tưởng về ngã và sự khao khát trở thành.
- Niết-bàn siêu
việt mọi danh từ thuộc nhị nguyên, tương đối. Bởi thế nó vượt
ngoài những khái niệm thông thường ta có về thiện ác, phải trái,
hữu phi hữu. Ngay cả danh từ "hạnh phúc" (lạc, sukha) dùng
để tả Niết-bàn ở đây cũng có một ý nghĩa hoàn toàn khác biệt. Một
hôm Xá lợi phất bảo: "Hiền giả, Niết-bàn là hạnh phúc! Niết-bàn là
hạnh phúc!" Khi ấy Udàyi liền hỏi: "Nhưng thưa hiền giả Sàriputta,
có thể có hạnh phúc gì khi không có cảm giác?" Câu trả lời của
Ngài Xá lợi phất vô cùng thâm thúy, vượt khỏi tầm hiểu biết thông
thường: "Chính sự không có cảm giác ấy mới là hạnh phúc."
- Niết-bàn vượt
ngoài lý luận và phán đoán (atakhàvacara). Dù ta cố lao vào
những bàn cãi siêu hình - một trò tiêu khiển vô bổ của tri thức -
về Niết-bàn hay Chân lý tối hậu hay Thực tại, ta cũng sẽ không bao
giờ hiểu được Niết-bàn bằng cách ấy. Một trẻ em còn học mẫu giáo
thì không nên tranh cãi về luật tương đối, mà nên theo đuổi sự học
kiên tâm và cần mẫn, thì một ngày kia có lẽ sẽ hiểu được luật ấy.
Niết-bàn là "để cho những bậc trí giả tự mình chứng nghiệm."(Paccattam
veditabbo vinnùhi). Nếu ta theo con đường một cách kiên tâm
trì chí, nếu ta tinh tấn đào luyện và thanh lọc bản thân, nếu ta
đạt đến mức phát triển tâm linh cần thiết, một ngày kia ta có thể
thực chứng Niết-bàn ngay trong ta, không cần phải nhọc trí vì
những danh từ lớn lối bí hiểm.
- Thế nên bây giờ
ta hãy quay sang Con Ðường đưa đến sự thực chứng Niết-bàn.
-
Ghi chú:
-
[1]
Lanka, p.113.
-
[2]
Cũng có những từ ngữ khẳng định được dùng để chỉ Niết-bàn như
siva "lành", "tốt", Khema "an ổn", Suddhi "sự trong sáng", Dipa
"hòn đảo", Sarana "Nơi trú ẩn", Tana "sự che chở", Parà "bờ bên
kia", Santi "an tịnh".... Có 32 đồng nghĩa của Niết-bàn trong
Asamkhata Samyutta, phần nhiều đều có tính ẩn dụ.
-
[3]
Mhvg (Alutgama, 1922), p.10; SV p. 421. Cũng nên chú ý ở đây
rằng định nghĩa này về Diệt "chấm dứt dukkha", được tìm thấy
trong bài thuyết pháp đầu của Phật ở Sarnath, không chứa đựng
chữ Niết-bàn, mặc dù định nghĩa ấy muốn nói đến Niết-bàn.
-
[4]
S I, p.136.
-
[5]
S IV, p.359.
-
[6]
S III, p.190
-
[7]
Ở đây chữ Pipàsà có nghĩa "khát khao".
-
[8]
A (PTS) II, p.34.
-
[9]
S (PTS) IV, p.251
-
[10]
Lời đức Xá-lợi-phất. M I (PTS), p. 191.
-
[11]
Lời Musila, một đồ đệ của Phật. S II (PTS), 117.
-
[12]
Ud. (Colombo, 1929), p.129.
-
[13]
Ibid, p.128, D I (Colombo, 1929), p.172.
-
[14]
Nên để ý rằng mọi trạng thái tâm linh thần bí, dù thuần khiết và
cao cả bao nhiêu, cũng chỉ là những sáng tạo của tâm thức, có
điều kiện và do kết hợp (samkhata, hữu vi). Chúng không phải là
thực tại, không phải là chân lý (sacca).
-
[15]
Ðiều này có nghĩa vị ấy không tạo thêm nghiệp mới vì đã giải
thoát khỏi khát ái, ý dục.
-
[16]
Câu này có nghĩa vị ấy đã chứng quả A-la-hán.
-
[17]
SV (PTS), p.369
-
[18]
Cf. Lanka, p.200, "Này Mahàmati, Niết-bàn có nghĩa là thấy mọi
sự như thật".
-
[19]
Long Thụ nói rõ rằng "sinh tử không khác Niết-bàn, Niết-bàn
không khác sinh tử" (Trung quán luận Kệ XXV, 19).
-
[20]
Nên nhớ trong chín pháp siêu thế (navalokuttaradhamma), Niết-bàn
ở ngoài đạo (Magga) và quả (Phala).
-
[21]
S III (PTS): p.189
-
[22]
Có vài người viết "sau khi Phật niết-bàn" thay vì "sau khi Phật
Bát Niết-bàn". Từ ngữ đầu vô nghĩa, không có trong văn học Phật
giáo. Luôn luôn phải là "sau khi Phật Bát Niết-bàn"
(parinirvàna).
-
[23]
S IV (PTS), p.375 f.
-
[24]
M I (PTS), p.486
-
[25]
M I (PTS), p.487; III, p.245; Sn (PTS), v.232 (p.41)
-
[26]
Xem "Hành uẩn", Chương Hai và Chương Ba.
-
[27]
A (Colombo, 1929), p.218
-
[28]
S I (PTS), p.5
-
[29]
M II (PTS), p.121
--o0o--
|
|