-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- ÐỨC PHẬT ÐÃ DẠY NHỮNG GÌ
- Hòa Thượng
Walpola Rahula
- Thích Nữ Trí
Hải dịch (1998)
- Nguyên tác:
"What The Buddha Taught"
(Tựa đề lần xuất bản thứ nhất, 1966: "Con đường thoát khổ")
- --- o0o ---
-
- Chương Năm
- DIỆU ÐẾ THỨ
TƯ: ÐẠO
(Magga): Con Ðường
-
Chân lý cao cả thứ tư là
Con Ðường dẫn đến sự chấm dứt khổ. Con đường này được gọi là Trung
đạo (Majjhimà Patipadà) vì nó tránh hai cực đoan: cực đoan
tìm hạnh phúc bằng cách theo đuổi khoái lạc giác quan, một điều
"thấp kém, tầm thường, không lợi ích, đường lối của những kẻ hạ
liệt", và cực đoan tìm hạnh phúc bằng cách tự ép xác dưới nhiều
hình thức khổ hạnh, điều này cũng "đau khổ, không xứng đáng, không
lợi ích." Vì đã đích thân thử hai cực đoan ấy và thấy chúng vô
dụng, Phật đã tìm ra Trung đạo bằng kinh nghiệm của chính ngài và
thấy nó "đem lại tri kiến, đưa đến an tịnh, trí tuệ, giác ngộ,
Niết-bàn." Trung đạo này thường được gọi là Bát chánh đạo (ariya
attangika magga): con đường thánh tám ngành, vì nó gồm có tám
phần:
- Chánh kiến (sammàditthi):
thấy đúng.
Chánh tư duy (sammàsankappa): nghĩ đúng.
Chánh ngữ (sammàvàca): nói đúng.
Chánh nghiệp (samm kammata): làm đúng.
Chánh mạng (sammààjiva): sống đúng.
Chánh tinh tiến (sammààyàma): siêng năng đúng.
Chánh niệm (sammà satti): nhớ đúng.
Chánh định (sammà samàdhi): tập trung đúng.
- Hầu hết giáo lý
Phật giảng dạy suốt 45 năm đều đề cập con đường ấy cách này hay
cách khác. Ngài giảng giải nó theo nhiều hình thức khác nhau, dùng
những danh từ khác nhau tùy người nghe, tùy trình độ phát triển và
khả năng lãnh hội của họ. Nhưng tinh túy của hàng ngàn bài thuyết
pháp rải rác trong các kinh điển Phật giáo đều nằm trong Bát chánh
đạo.
- Ðừng tưởng ta
phải lần lượt tu tập tám loại hay tám ngành của con đường ấy theo
thứ tự kể trên, mà nên cố tu tập đồng thời cả tám, tùy theo khả
năng mỗi người. Vì tất cả tám ngành đều quan hệ lẫn nhau, mỗi
ngành đều giúp cho sự tu luyện những ngành khác.
- Tám yếu tố ấy
nhằm mục đích giúp phát triển và kiện toàn ba khía cạnh cốt yếu
trong sự tu tập và giới luật Phật giáo là Giới (sìla), Ðịnh
(samàdhi) và Tuệ (pannà)[1].
Bởi thế ta sẽ hiểu rõ hơn về Bát chính đạo nếu phân nhóm và giải
thích theo ba đề mục ấy.
- Giới được xây
dựng trên căn bản của đạo Phật là từ (tình yêu phổ quát) và
bi (thương xót) đối với tất cả mọi sinh vật. Tiếc thay
nhiều học giả đã quên đi lý tưởng vĩ đại này của Phật giáo, mà chỉ
chuyên chú vào những phiêu lưu triết lý, siêu hình khi họ nói hay
viết về đạo Phật. Ðức Phật ban bố giáo lý của Ngài, "vì lợi ích
cho nhiều người, vì an lạc cho nhiều người, vì thương tưởng thế
gian" (bahujanahitàya bahujanasukhàya lokànukampàya).
- Theo Phật giáo,
con người toàn thiện phải có hai đức tính cần phát triển song
hành: bi (karunà) và trí (pannà). Ở đây,
bi bao gồm lòng thương, bác ái, sự tử tế, bao dung và tất cả
những đức tính của một tâm hồn cao thượng, đây là phương diện cảm
xúc của trái tim; còn trí có nghĩa là phương diện tri thức
hay những đức tính của khối óc. Nếu chỉ phát triển phần cảm xúc mà
quên phần tri thức, người ta dễ trở thành một người ngu tốt bụng;
nhưng nếu chỉ phát triển khía cạnh tri thức mà bỏ quên cảm xúc,
người ta dễ trở thành một người trí có trái tim khô héo không chút
cảm thương nào đối với tha nhân. Bởi thế muốn toàn thiện, người ta
phải phát triển đồng đều cả hai khía cạnh. Ðấy là mục đích của lối
sống theo đạo Phật, trong đó trí tuệ và từ bi liên quan mật thiết
với nhau như ta sẽ thấy.
- Giới căn bản
trên từ và bi bao gồm 3 yếu tố của Bát chánh đạo: Chánh ngữ, chánh
nghiệp và chánh mạng (số 3, 4, 5 trong bảng kê trên).
- Chánh ngữ có
nghĩa là:
- - Không nói
dối.
- - Không nói
xấu, vu khống, hay nói những lời có thể gây thù ghét, bất hòa, tan
rã giữa những cá nhân hay những nhóm người.
- - Không nói
cứng cỏi, thô lỗ, vô lễ, ác độc, thóa mạ người.
- - Không nói lời
mách lẻo, vô ích, xuẩn ngốc.
- Khi tránh được
những hình thức ngôn ngữ sai quấy và có hại ấy, tất nhiên người ta
phải nói sự thật, phải dùng những từ ngữ thân thiện, khoan hòa, êm
ái, và nhã nhặn, có ý nghĩa và lợi ích. Người ta không nên nói
năng bừa bãi, mà phải nói đúng lúc và đúng chỗ. Nếu không thể nói
điều gì lợi ích, tốt hơn nên giữ sự "im lặng cao quý".
- Chánh nghiệp
nhằm phát sinh lối hành xử hợp đạo đức, khả kính và hòa bình.
Chính nghiệp là nên từ bỏ giết hại sinh mạng, từ bỏ trộm cắp, bỏ
việc buôn bán giao dịch bất lương, bỏ tà dâm và giúp kẻ khác sống
một đời hòa bình đáng kính theo chính đạo.
- Chánh mạng có
nghĩa người ta nên từ bỏ sinh nhai bằng một nghề nghiệp có hại cho
kẻ khác, như buôn bán khí giới, chất uống say sưa, độc dược, giết
hại súc vật, lừa dối v.v.. và nên sống bằng nghề nghiệp đáng kính,
vô tội, không có hại cho người, vật. Ở đây ta có thể thấy rõ đạo
Phật cực lực chống đối bất cứ loại chiến tranh nào, khi lập nguyên
tắc rằng buôn bán khí giới là một phương tiện sinh sống xấu xa bất
chánh.
- Ba yếu tố này
(chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng) của Bát chính đạo lập thành
Giới. Cần nhận chân rằng giới luật Phật giáo cốt nhằm mục đích đem
lại hạnh phúc, an lạc cho đời sống cá nhân và xã hội. Không thể có
sự phát triển tâm linh nào nếu không có căn bản đạo đức ấy.
- Kế đến là kỷ
luật tâm linh bao gồm 3 yếu tố khác của Bát chánh đạo là chánh
tinh tiến, chánh niệm và chánh định (số 6, 7, 8).
- Chánh tinh tiến
là ý chí mạnh mẽ để ngăn ngừa những điều xấu chưa sinh; để từ bỏ
những điều xấu đã sinh; để làm phát sinh những điều thiện chưa
sinh; và tăng trưởng những điều thiện đã sinh.
- Chánh niệm (sự
để ý, chú ý chân chính), là luôn luôn rõ biết, đầy đủ ý thức và
chú ý về:
- 1. Những hoạt động của thân xác (kàya);
2. Những cảm giác hay cảm xúc (thọ,vedanà);
3. Những hoạt động của tâm (citta);
4. Ý tưởng, tư tưởng, quan niệm và sự vật (pháp, dhamma).
- Sự thực hành
pháp quán hơi thở ra vào (ànàpànasati) là một trong những pháp tập
luyện nổi tiếng liên quan đến thân xác để phát triển tâm linh. Có
nhiều cách khác để phát triển sự chú tâm liên quan đến thân xác,
như các phương pháp thiền quán.
- Về các cảm giác
và cảm xúc, người ta phải ý thức rõ ràng tất cả mọi hình thái của
chúng như vui, khổ, hoặc không vui, không khổ, cách chúng xuất
hiện và tan biến trong ta.
- Về những hoạt
động của tâm, người ta phải ý thức xem tâm mình có tham hay không,
có sân hay không, có ảo tưởng hay không, phân tán hay tập trung
v.v..Với phương thức ấy, ta phải luôn luôn chú ý mọi động tác của
tâm, xem chúng sinh và diệt ra sao.
- Cuối cùng, về ý
nghĩ hay tư tưởng, quan niệm và các pháp, ta phải biết tính chất
của chúng, chúng sinh diệt ra sao, phát triển ra sao, bị áp đảo và
tiêu diệt ra sao v.v..
- Bốn hình thức
tu tập hay thiền quán này được bàn chi tiết trong kinh Niệm xứ
Satipatthàna-sutra
[2].
- Phần thứ ba
cuối cùng của kỷ luật tâm linh là Chánh định, đưa đến bốn thiền
(dhyàna). Ở sơ thiền đẩy lùi được tham dục, (tư tưởng không
lành như nhục dục), sân, hôn trầm (ngủ gà ngủ gật), trạo cử (lo
âu, bất an) và hoài nghi; nhưng duy trì những cảm giác hỉ và lạc,
cùng với một vài hoạt động tâm linh (tầm, tứ). Ở thiền thứ
hai, tất cả mọi hoạt động của tâm (tầm, tứ) biến mất, sự an
tĩnh và nhất tâm được phát triển, cảm giác hỉ và lạc vẫn còn được
giữ lại. Ở thiền thứ ba, hỉ cũng biến mất nhưng lạc
vẫn còn, cùng với tâm xả. Ở thiền thứ tư, mọi cảm giác
(thân) lạc khổ, (tâm) hỉ ưu đều tan biến, chỉ còn lại xả
và sự nhất tâm thuần tịnh (xả niệm thanh tịnh).
- Như thế tâm
được huấn luyện, khép vào kỷ luật và phát triển nhờ chánh tinh
tiến, chánh niệm và chánh định.
- Chúng ta đã bàn
qua sáu yếu tố của Bát chánh đạo (3,4,5,6,7,8) làm đối tượng cho
Giới và Ðịnh. Hai yếu tố còn lại, Chánh tư duy và Chánh kiến, làm
nên trí tuệ.
- Chánh tư duy
liên hệ đến những tư tưởng về từ bỏ, giải thoát, tình yêu vô ngã,
bất bạo động trải đến muôn loài. Một điều thú vị và quan trọng cần
chú ý ở đây là những ý tưởng về giải thoát, tình yêu vô ngã và bất
bạo động được nhóm họp về phía trí tuệ. Ðiều này tỏ rõ rằng trí
tuệ chân thật vốn có những đức tính cao quý ấy, rằng mọi tư tưởng
về dục vọng vị kỷ, sân hận hay bạo động đều là hậu quả của sự
thiếu trí tuệ trong mọi lãnh vực đời sống cá nhân, xã hội, chính
trị.
- Chánh kiến là
sự thấy biết mọi sự đúng như thật, và chính Tứ diệu đế mới giải
thích sự vật đúng như thật. Bởi vậy chánh kiến rốt cuộc là thấy,
hiểu Tứ diệu đế. Sự hiểu biết này là trí tuệ cao cả nhất, thấy
được thực tại tối hậu. Theo Phật giáo có hai loại hiểu
biết: hiểu biết thông thường của chúng ta là kiến thức, trí nhớ
tích lũy, sự lãnh hội dựa trên một số dữ kiện. Phật giáo gọi đấy
là "hiểu biết tùy thuộc" (anubodha). Nó không sâu sắc lắm.
Sự hiểu biết sâu sắc thật sự gọi là thâm nhập (pativedha),
thấy biết sự vật trong bản chất của nó mà không cần tên và nhãn
hiệu. Sự thâm nhập này chỉ có thể có khi tâm đã sạch mọi ô nhiễm
và đã hoàn toàn phát triển nhờ thiền định[3].
- Từ sự miêu tả
sơ lược này về Bát chánh đạo, ta có thể thấy rằng đấy là một lối
sống phải được mỗi người tuân theo, thực hành và phát triển. Nó là
tự kỷ luật trong thân xác, lời nói và ý nghĩ, tự phát triển và tự
thanh lọc. Nó không dính líu gì đến đức tin, cầu nguyện, thờ phụng
hay nghi lễ. Trong nghĩa đó, nó không có gì có thể gọi là có tính
cách "tôn giáo" thông thường. Nó là một con đường dẫn đến sự thực
chứng chân lý tối hậu, dẫn đến tự do hoàn toàn, hạnh phúc và bình
an nhờ sự hoàn thiện về đạo đức, tâm linh và trí thức.
- Trong những xứ
theo Phật giáo, có những thói tục và nghi lễ đơn giản và đẹp, vào
những dịp lễ tôn giáo. Chúng không liên quan gì lắm đến Con Ðường
thực sự. Nhưng chúng có giá trị ở chỗ làm thỏa mãn vài cảm xúc tôn
giáo và nhu cầu của những người còn thấp kém, và giúp họ dần dần
đi đến Con Ðường.
- Về Tứ diệu đế
ta có bốn nhiệm vụ thi hành:
- 1) Diệu đế thứ
nhất là dukkha, bản chất sự sống, nỗi khổ đau của nó, những buồn
vui của nó, sự bất toàn, không toại ý, sự vô thường và huyễn hóa.
Về chân lý này, việc làm của ta là phải hiểu nó như một sự kiện,
hiểu rõ và đầy đủ (parrinneyya) - [Khổ nên biết].
- 2) Diệu đế thứ
hai là nguồn gốc của khổ tức dục vọng, khát ái và cùng với nó, tất
cả những đam mê ô nhiễm bất tịnh khác. Về chân lý này thì hiểu
chưa đủ, ở đây việc làm của ta là phải loại bỏ nó, diệt trừ và nhổ
nó tận gốc rễ (pahàtabba) - [Tập nên đoạn].
- 3) Diệu đế thứ
ba là sự chấm dứt khổ, hay Niết-bàn, Chân lý tuyệt đối, thực tại
tối hậu. Ở đây việc của ta là phải thực chứng nó (sacchikatabba)
- [Diệt nên chứng].
- 4) Diệu đế thứ
tư là Con Ðường đưa đến thực chứng Niết-bàn. Chỉ hiểu biết về Con
Ðường, dù có thấu triệt bao nhiêu cũng không ích. Trong trường hợp
này, việc của ta là phải đi theo con đường ấy và tuân giữ nó (bhàvetabba)[4]
-[Ðạo nên tu].
-
Ghi chú:
-
[1]
M I (PTS), p.301
-
[2]
Xem Chương Bảy, Thiền định hay Quán tưởng.
-
[3]
Vism (PTS), p.510
-
[4]
Mhvg. (Alutgama), 1922, p.10
--o0o--
|
|