-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- ÐỨC PHẬT ÐÃ DẠY NHỮNG GÌ
- Hòa Thượng
Walpola Rahula
- Thích Nữ Trí
Hải dịch (1998)
- Nguyên tác:
"What The Buddha Taught"
(Tựa đề lần xuất bản thứ nhất, 1966: "Con đường thoát khổ")
- --- o0o ---
-
- Chương Sáu
-
- VÔ NGÃ
(ANATTA)
-
Cái mà người ta thường gọi
là linh hồn, ngã hay cái tôi, là để ám chỉ một thực thể tuyệt đối,
trường cửu trong con người, bản thể bất biến đằng sau thế giới
hiện tượng hằng biến. Theo một vài tôn giáo, mỗi người có một linh
hồn tách biệt như thế do Chúa tạo dựng, và linh hồn ấy sau khi
chết sẽ vĩnh viễn sống trong địa ngục hay thiên đường. Số phận nó
tùy thuộc vào sự phán xét của đấng sáng tạo ra nó. Theo một vài
tôn giáo khác, linh hồn ấy trải qua nhiều đời sống, cho đến khi nó
hoàn toàn trong sạch và cuối cùng trở thành đồng nhất với Thượng
đế hay Phạm thiên Brahman, Linh hồn phổ quát hay Àtman
từ đấy nó phát xuất. Linh hồn hay ngã trong con người là cái suy
nghĩ, cảm giác, và nhận thưởng phạt về tất cả mọi hành vi thiện ác
của nó. Một quan niệm như thế gọi là Ngã kiến.
- Phật giáo
là tôn giáo độc nhất trong lịch sử tôn giáo nhân loại phủ nhận
hiện hữu của một linh hồn, Ngã hay Àtman như thế. Theo giáo lý
Phật, ngã kiến là một niềm tin sai lạc, không tương ứng với thực
tại, và nó phát sinh những tư tưởng tai hại về "tôi" và "của tôi",
dục vọng ích kỷ không biết chán, sự chấp thủ, sân hận, ác độc,
kiêu căng ngã mạn, và những cấu uế ô nhiễm khác cùng nhiều rắc
rối. Nó là nguồn gốc của mọi rối ren trên đời, từ những tranh chấp
cá nhân cho đến chiến tranh giữa các dân tộc. Tóm lại, tất cả mọi
sự tác quái trên thế gian đều bắt nguồn từ quan niệm sai lạc này.
- Có hai ý tưởng
thâm căn cố đế trong tâm lý con người: tự vệ và tự tồn. Vì muốn tự
vệ con người đã dựng nên Thượng đế để nương tựa, để được che chở,
được an ninh bảo đảm, như một đứa trẻ nương tựa vào cha mẹ. Vì
muốn tự tồn người ta đã sáng tạo ra ý tưởng về một linh hồn bất tử
hay Àtman sẽ sống mãi đến bất tận. Trong ngu si, yếu đuối, sợ hãi,
khát khao, người ta cần hai điều ấy để tự trấn an, tự vỗ về; vì lý
do đó họ bám vào đấy một cách cuồng tín và hăng say.
- Giáo lý Phật
không dung dưỡng sự ngu si, yếu đuối, sợ hãi, khát khao ấy, mà cốt
làm con người sáng mắt ra bằng cách trừ khử, tiêu diệt, nhổ tận
gốc những thói này. Theo Phật giáo, những ý tưởng của chúng ta về
thượng đế và linh hồn là sai lạc, trống rỗng. Mặc dù những ý tưởng
ấy được phát triển sâu đậm, dệt thành những chủ thuyết, tất cả đều
là những dự phóng tinh vi của óc tưởng tượng được gói ghém trong
một mớ danh từ triết lý và siêu hình phức tạp. Những ý tưởng này
đã ăn sâu gốc rễ trong tâm lý con người, gần gũi thân thiết với họ
đến nỗi họ không mong nghe, cũng không muốn hiểu một đạo lý nào
ngược lại.
- Đức Phật biết
rõ điều ấy, ngài dạy rằng giáo lý của ngài "đi ngược dòng" (patisotagàmi),
trái ngược với những dục vọng ích kỷ của con người. Bốn tuần lễ
sau khi giác ngộ, ngồi dưới một gốc cổ thụ, ngài tự nhủ: "Ta đã
thực chứng một sự thực sâu xa, khó thấy, khó hiểu... chỉ những bậc
trí mới hiểu thấu. Những người bị đam mê chế ngự, bị vô minh vây
phủ không thể nào thấy chân lý này, vì nó ngược dòng, nó cao siêu,
sâu kín, tế nhị vàkhó nghĩ bàn."
- Nghĩ thế, đức
Phật đã do dự một lúc: "Có phải vô ích không nếu ta cố giảng giải
cho thế gian Chân lý mà ta đã chứng nhập?" Rồi ngài so sánh thế
gian như một ao sen: trong ấy có nhiều hoa còn ở dưới mặt nước, có
những hoa khác chỉ vừa ló lên trên mặt nước, nhưng cũng có những
bông hoa đã vươn lên khỏi mặt hồ và không còn động chạm với nước.
Cũng thế trong thế gian này, trình độ phát triển của con người
khác nhau. Có một số người sẽ hiểu được Chân lý. Vì thế đức Phật
quyết định giảng dạy chân lý ấy[1].
- Lý Vô ngã là
kết quả tự nhiên, là hệ luận của phân tích Ngũ uẩn và Duyên khởi (hay
duyên sinh, paticca-samuppàda)[2].
- Trong phần thảo
luận về Diệu đế thứ nhất (Khổ đế, dukkha), chúng ta đã thấy cái mà
ta gọi linh hồn hay cá thể được cấu tạo bởi năm uẩn, và khi phân
tích kỹ năm uẩn ta không thấy có gì đằng sau chúng có thể gọi được
là Tôi, Àtman hay Ngã, hay bất cứ bản thể trường tồn bất biến nào.
Ðấy là phương pháp phân tích. Ta cũng có kết quả tương tự khi xét
kỹ luật duyên khởi, phương pháp tổng hợp, và theo luật này thì
không có gì trên thế gian là tuyệt đối. Mọi sự vật (pháp) đều giới
hạn, tương đối, và phụ thuộc lẫn nhau. Ðây là thuyết tương đối của
Phật giáo.
- Trước khi thực
sự đi vào vấn đề Vô ngã, ta nên có một ý niệm sơ qua về luật duyên
khởi. Nguyên tắc của lý thuyết này được tóm tắt trong một công
thức gồm 4 dòng:
- Cái này có, thì cái kia có
(imasmim sati idamhoti).
Cái này sinh, thì cái kia sinh (imassuppàda idam
uppajjati).
Cái này không, thì cái kia không (imasmim asati idam na
hoti).
Cái này diệt, thì cái kia diệt (imassa nirodhà idam
airujjhata)[3].
- Theo nguyên tắc
điều kiện tính, tương đối tính và tính hỗ tương tùy thuộc ấy, sự
tiếp tục của đời sống và sự chấm dứt của nó được giải thích trong
một công thức chi tiết gọi là duyên khởi, (nghĩa là sự sinh khởi
có điều kiện hay duyên) gồm 12 yếu tố:
- 1- Vô minh (làm) duyên (cho) hành
(những hoạt động cố ý hay nghiệp) (avijjàpaccayà
samkhàvà).
- 2- Hành (làm) duyên (cho) thức
(samkhàrapaccayà vinnànam).
- 3- Thức (làm) duyên (cho) danh sắc
(những hiện tượng tâm lý và vật lý) (Vinnànapaccayà nàmarùpam).
- 4- Danh sắc
(làm) duyên (cho) lục nhập (5 giác quan và ý thức)
(Nàmarùpapaccayà salàyatanam).
- 5- Lục
nhập (làm) duyên (cho) xúc (động chạm, tiếp xúc)
(salàyatanapaccayà phasso).
- 6- Xúc (làm)
duyên (cho) thọ (cảm giác) (phassapaccayà vedanà).
- 7- Thọ (làm)
duyên (cho) ái (khao khát ham muốn) (vedanàpaccayàtanhà).
- 8- Ái (làm)
duyên (cho) thủ (bám víu, giữ lấy) (Tanhapaccayà upàdànam).
- 9- Thủ (làm)
duyên (cho) hũu (quá trình sinh ra và trở thành)
(upàdànapaccayà bhavo).
- 10- Hữu (làm)
duyên (cho) sinh (sự sống, sinh ra) (Bhavapaccayà jàti).
- 11- Sinh (làm)
duyên (cho)
- 12- Lão (già)
tử (chết) ưu bi khổ não (buồn lo đau đớn) (Jàtipaccayà jaràm
maranam).
- Ðây là quá
trình theo đó sự sống đã phát sinh, tồn tại và tiếp diễn. Nếu ta
đảo ngược công thức lại, ta sẽ đi đến sự chấm dứt của quá trình:
- Vô minh diệt
thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc
diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt v.v.. cho đến khi sinh lão,
tử, ưu bi khổ não... diệt.
- Cần nhớ rõ một
điều rằng mỗi yếu tố trên đây đều vừa là nhân vừa là quả, nó vừa
bị định đoạt bởi (paticcasamuppanna), và vừa làm điều kiện
cho (paticcasamuppàda)[4].
Bởi thế chúng đều là tương đối, phụ thuộc lẫn nhau và liên quan
với nhau, không có cái gì là tuyệt đối hay biệt lập, do đó mà Phật
giáo không công nhận có "nguyên nhân đầu tiên" như ta đã
thấy trước kia[5].
Duyên khởi nên xem như một vòng tròn, chứ không nên xem là
một sợi xích[6].
- Vấn đề ý chí tự
do chiếm một địa vị quan trọng trong tư tưởng và triết học Tây
phương. Nhưng theo luật duyên khởi, vấn đề này không phát sinh và
không thể phát sinh trong triết học Phật giáo. Nếu toàn thể hiện
hữu đều là tương đối, giới hạn và phụ thuộc nhau, làm sao một mình
ý chí có thể được tự do? ý muốn cũng bị giới hạn như bất cứ tư
tưởng nào khác. Cái ta gọi là "tự do"chính nó cũng giới hạn và
tương đối. Không thể có cái gì vật lý hay tâm lý có thể tuyệt đối
tự do, vì mọi sự đều tương quan và tương đối. "ý chí tự do" bao
hàm ý nghĩa một ý muốn không phụ thuộc vào những điều kiện, biệt
lập với nhân quả. Làm sao một ý muốn hay bất cứ cái gì thuộc về ý
chí, có thể phát sinh mà không có những điều kiện, tách rời nhân
và quả - khi toàn thể hiện hữu đều giới hạn và tương đối, nằm
trong luật nhân quả? Lại nữa ở đây, ý niệm về ý chí tự do cũng
liên quan mật thiết đến những ý tưởng về Thượng đế, linh hồn, công
bằng, thưởng phạt. Không những cái gọi là tự do đã không tự do, mà
ngay cả chính ý niệm về ý chí tự do cũng không thoát khỏi những
điều kiện.
- Theo luật duyên
khởi, cũng như theo sự phân tích con người thành năm uẩn, ý tưởng
về một bản thể trường cửu bất diệt ở trong hay ngoài con người, dù
gọi là Àtman, Tôi, Linh hồn, Ngã, hay cái Ta, chỉ được coi như một
niềm tin sai lạc (tà tín), một bóng dáng của tâm thức. Ðây là lý
thuyết Phật giáo về Vô ngã (anatta).
- Ðể tránh một sự
lầm lẫn, ở đây ta nên nhắc rằng có hai loại sự thật: sự thật ước
lệ, Tục đế (sammutisacca), và sự thật tuyệt đối hay Thắng
nghĩa đế (paramatthasaca)[7].
- Khi ta dùng
thường ngày những từ ngữ như "tôi", "anh", "linh hồn", "cá nhân"
v.v.. không phải chúng ta nói dối, mà nói một sự thật thuận theo
quy ước của thế gian. Nhưng sự thật tối hậu là không có "tôi" hay
"linh hồn". Như kinh Mahàyànasùtràlankàra (Ðại thừa nhập
Lăng già) dạy: "Một con người (pudagala) nên được xem
là chỉ có trong sự giả lập (prajnapati) (nghĩa là theo quy
ước thì có một cá thể hay con người), chứ không phải trong thực
tại (dravya)
[8].
- "Sự phủ nhận
một linh hồn bất tử là đặc tính chung cho mọi hệ thống giáo lý
Tiểu thừa cũng như Ðại thừa, và như vậy không có lý do gì để quả
quyết rằng truyền thống Ðại thừa, một truyền thống hoàn toàn đồng
quan điểm với Tiểu thừa trên vấn đề này, đã đi xa với giáo lý
nguyên thủy của đức Phật."
[9]
- Bởi thế, thật
lạ lùng khi gần đây vài học giả (như bà Rhys Davids và những người
khác)[10]
đã cố - một cách vô vọng - xen ý tưởng về ngã vào trong giáo lý
Phật, một điều hoàn toàn trái ngược với Phật giáo. Những vị học
giả này kính trọng, ngưỡng mộ và sùng thượng đức Phật và giáo lý
Ngài. Họ ngưỡng mộ Phật giáo. Nhưng họ không thể tưởng tượng được
rằng đức Phật, người họ xem là tư tưởng gia sâu sắc và minh bạch
nhất, lại có thể phủ nhận hiện hữu của Àtman, linh hồn hay ngã mà
họ rất cần đến. Họ không biết rằng họ đang tìm sự ủng hộ của Phật
cho nhu cầu này, nhu cầu một hiện hữu bất diệt - dĩ nhiên không
phải trong một cái ngã nhỏ nhen cá biệt với một chữ n thường, mà
trong cái Ngã với một chữ N hoa.
- Tốt hơn, người
ta nên nói thật rằng họ tin vào Àtman hay Ngã, hoặc người ta có
thể nói ngay rằng Phật hoàn toàn sai lầm khi phủ nhận hiện hữu của
một cái Ngã. Nhưng chắc chắn không ai nên đưa vào trong đạo Phật
một ý tưởng mà Phật không bao giờ chấp nhận, như chúng ta có thể
thấy từ những nguyên bản Pàli còn lại.
- Những tôn giáo
tin có Thượng đế và linh hồn không giấu diếm hai khái niệm ấy,
trái lại còn tuyên bố chúng ra, lặp đi lặp lại nhiều lần bằng
những từ ngữ hùng hồn nhất. Nếu quả tình Phật cũng chấp nhận hai ý
tưởng ấy, hai ý tưởng tối quan trọng trong mọi tôn giáo, thì chắc
chắn Ngài đã công khai tuyên bố chúng như Ngài đã tuyên bố những
điều khác, chứ không để cho chúng bị ẩn khuất để chỉ được khám phá
ra 25 thế kỷ sau khi Ngài mất.
- Người ta đâm ra
nóng nảy khi nghĩ rằng qua giáo lý Vô ngã của Phật, cái Tôi mà họ
tưởng tượng mình có, sẽ bị phá hủy. Ðức Phật không phải là không
biết đến điều này.
- Một hôm, một vị Tỳ kheo hỏi Ngài:
"Bạch đức Thế Tôn, có khi nào người ta bị dày vò bối rối vì không
tìm thấy được trong mình một cái gì trường cửu?"
- Ðức Phật trả
lời:
- - Quả có như
vậy, này Tỳ kheo. Khi một người có ý nghĩ "Vũ trụ là Àtman, sau
khi chết ta sẽ là cái ấy, trường cửu, còn mãi, kéo dài, bất biến,
ta sẽ tồn tại như thế cho đến vô cùng", mà được nghe Như Lai hay
một đệ tử của Như Lai giảng lý thuyết đưa đến sự phá hủy hoàn toàn
mọi quan điểm tư duy... đưa đến sự dập tắt khát ái, đưa đến giải
thoát, chấm dứt, Niết-bàn; người ấy sẽ nghĩ: "Thế là ta sẽ trở
thành hư vô, ta sẽ bị hủy diệt, ta sẽ không còn nữa." Do vậy nó
rên rỉ, lo lắng, đấm ngực than khóc, và đâm ra hoảng hốt. Như thế,
này Tỳ kheo, quả có trường hợp người ta bị dày vò khi không tìm
thấy được trong nó một cái gì trường cửu
[11].
- Ở một đoạn
khác, đức Phật dạy: Hỏi các Tỳ kheo, ý nghĩ "ta sẽ không còn tồn
tại, không có gì nữa" làm cho những người ngu sợ hãi."[12]
- Những người
muốn tìm một cái "Ngã" trong Phật giáo lý luận như sau: Quả
thật đức Phật đã phân tích con người ra sắc, thọ, tưởng, hành,
thức (Ngũ uẩn), và bảo rằng không có gì trong những thứ ấy là Ngã.
Nhưng Ngài không bảo tuyệt đối không có Ngã, nơi con người hay nơi
nào khác ngoài năm uẩn.
- Lập trường này
không đứng vững được vì hai lẽ:
- Lẽ thứ nhất là
theo giáo lý Phật, con người chỉ là năm uẩn kết hợp không là gì
khác. Không có chỗ nào Phật bảo còn có cái gì khác ở trong con
người, ngoài năm uẩn.
- Lẽ thứ hai là nhiều lần Phật đã
bác bỏ, bằng những lời lẽ minh bạch, hiện hữu của Àtman, linh hồn
hay Ngã trong hay ngoài con người, hay bất cứ ở đâu trong vũ trụ.
Ðây là vài ví dụ:
- Trong kinh Pháp
cú (Dhammapada) có ba bài kệ vô cùng quan trọng và cốt yếu trong
giáo lý Phật : bài 5, 6, 7 chương 20 (hay những câu thơ số 277,
278, 279).
- Hai câu thơ đầu
nói:
- "Tất cả hành là vô thường" (sabbe
samkhàrà aniccà) và
"Tất cả hành là khổ" (sabbe samkhàrà
dukkhà).
[hành hay hữu vi, là những gì có sinh, trú và diệt;
được kết hợp do các điều kiện - Dịch giả]
- Câu thứ ba là:
- "Tất cả pháp vô ngã" (sabbe
dhammà anattà)
[13].
- Cần chú ý đặc
biệt ở đây rằng trong hai câu đầu, chữ samkhàrà - "những sự
vật có điều kiện" - đã được dùng. Nhưng trong câu thứ ba thay vì
chữ samkhàra, chữ dhammà đã được dùng. Vì sao câu
thơ thứ ba đã không dùng chữ hành, samkhàrà, "sự vật có
điều kiện", như hai câu trước, mà lại dùng danh từ pháp,
dhammà thay vào? Chính đấy là điểm quan trọng nhất của vấn đề.
- Danh từ hành,
samkhàra[14]
ám chỉ Ngũ uẩn, mọi sự vật và trạng thái bị giới hạn, phụ thuộc
lẫn nhau, tương đối, mọi "pháp" vật lý cũng như tâm lý (sắc pháp
và tâm pháp). Nếu câu thơ thứ ba nói: "Mọi hành (sự vật bị giới
hạn) là vô ngã" thì người ta có thể nghĩ sự vật bị giới hạn là vô
ngã, tuy nhiên có thể có một cái Ngã ở ngoài những sự vật bị giới
hạn đó, ở ngoài Ngũ uẩn. Chính để tránh sự hiểu lầm mà danh từ
pháp (dhammà) đã được dùng trong câu thơ thứ ba.
- Danh từ pháp
có phạm vi rộng lớn hơn hành rất nhiều. Không có danh từ
nào trong thuật ngữ Phật học lại có phạm vi rộng hơn chữ pháp.
Nó bao gồm không những những sự vật và trạng thái có điều kiện, mà
còn cả cái vô điều kiện, cái tuyệt đối, Niết-bàn; không có gì ở
trong hay ở ngoài vũ trụ, tốt hay xấu, hữu vi (có điều kiện) hay
vô vi (không điều kiện), tương đối hay tuyệt đối..., mà không được
bao gồm trong danh từ này. Bởi vậy, thật quá rõ ràng, theo câu
"tất cả pháp vô ngã" thì không có Ngã, không có linh hồn,
không những chỉ ở trong Ngũ uẩn, mà còn bất cứ ở đâu ngoài ngũ uẩn
hay tách biệt với ngũ uẩn[15].
- Theo giáo lý
nguyên thủy, điều này có nghĩa rằng không có ngã ở trong con người
(puggala) hay trong các pháp. Triết lý đại thừa cũng có một
lập trường y hệt, không có một dị biệt nào về điểm đó, nhấn mạnh
trên sự vô ngã của các pháp cũng như vô ngã của con người (pháp vô
ngã, dhammanairàtmya và nhân vô ngã, pudgalanairàtmya).
- Trong kinh Xà
dụ Alagadddùpamasutta (Trung bộ I), Phật dạy môn đệ: "Hỏi
các Tỳ kheo, các ông có thể bám lấy một ngã luận (thuyết về ngã)
nếu điều ấy không phát sinh sầu, bi khổ, ưu, não. Nhưng này các Tỳ
kheo, các ông có thấy một ngã luận nào như thế hay không, một ngã
luận mà khi chấp nhận nó, sẽ không phát sinh sầu, bi, khổ, ưu,
não?
- - Bạch đức Thế
Tôn, nhất định là không.
- - Chính thế,
hỏi các Tỳ kheo, Như Lai cũng vậy. Này các Tỳ kheo, Như Lai không
thấy một ngã luận nào mà nếu chấp nhận, sẽ không phát sinh sầu,
bi, khổ, ưu, não."[16]
- Nếu Phật đã
chấp nhận một ngã luận nào, thì chắc chắn ngài đã giảng ra đây, vì
ngài bảo các Tỳ kheo hãy chấp nhận một ngã luận nếu luận thuyết đó
không phát sinh đau khổ. Nhưng theo ngài, không có một thuyết nào
như thế, và bất cứ một ngã luận nào, dù tinh tế và cao siêu đến
đâu cũng chỉ là giả danh và tưởng tượng, sinh ra mọi vấn đề rắc
rối, kéo theo những sầu, bi, khổ, ưu não.
- Tiếp theo, cũng
trong kinh ấy Phật dạy:
- "Hỏi các Tỳ
kheo, khi mà Ngã hay bất cứ cái gì thuộc về Ngã không thực có, thì
quan điểm tư duy này: "Vũ trụ là Ngã, ta sẽ là Ngã sau khi chết,
sẽ trường cửu, tồn tại, vĩnh viễn, bất biến, và ta sẽ hiện hữu như
thế cho đến vô tận thời gian", quan điểm ấy có phải là hoàn toàn
điên rồ chăng?"[17]
- Ở đây Phật nói
rõ rằng một Àtman, hay linh hồn, hay Ngã, thì không thể tìm thấy
đâu trong thực tại, và thật điên rồ để tin tưởng rằng có một
chuyện như thế.
- Những người tìm
kiếm một cái Ngã trong giáo lý Phật trích ra một ít ví dụ mà trước
hết họ dịch sai, rồi giải thích một cách lầm lẫn. Một trong những
ví dụ ấy là câu danh tiếng attà hi attano nàtho trong kinh
Pháp cú (XII, 4 hay câu thơ 160), đã được dịch là "Ta là chúa tể
của ta", và được giải thích rằng nó có nghĩa cái Ngã lớn là chúa
tể của cái ngã nhỏ.
- Trước hết, lối
dịch ấy không đúng. Attà đây không có nghĩa là ngã trong
nghĩa linh hồn. Trong tiếng Pàli, danh từ attà thường được
dùng như một đại danh từ, trừ số ít trường hợp được dùng theo
nghĩa đặc biệt triết học để chỉ thuyết linh hồn như đã thấy ở
trên.
- Theo cách dùng
thông thường, như trong chương XII của Pháp cú, từ đấy câu trên
được trích, và trong nhiều nơi khác, attà được dùng như một
đại danh từ hay đại danh từ bất định có nghĩa "chính tôi", "chính
anh", "chính nó", "chính ta", "chính người ta" v.v..[18]
- Kế đến, chữ
nàtho không có nghĩa là "chúa tể", mà là "nơi nương tựa", "trú ẩn,
giúp đỡû, che chở"
[19].
Bởi thế Attà hi attano thật sự có nghĩa "Ta là chỗ nương
của chính ta". Nó không dính dáng gì đến một cái ngã hay linh hồn
siêu hình nào cả. Nó chỉ có nghĩa bạn phải nương cậy vào chính bạn
chứ đừng ỷ lại vào kẻ khác.
- Một ví dụ khác
về sự cố đưa ý tưởng về ngã vào giáo lý Phật là câu danh tiếng
Attadìpà viharatha, attasarana anannasaranà được tách khỏi
mạch văn kinh Ðại Bát Niết Bàn[20].
Câu này dịch sát ý có nghĩa: "Hãy là hòn đảo cho chính
ngươi, là nơi trú ẩn cho chính ngươi, và đừng xem ai khác là nơi
nương cậy"[21].
Những người muốn tìm ngã trong Phật giáo đã giải
thích từ ngữ attadìpà và attasaranà là "lấy ngã làm
ngọn đèn", "lấy ngã làm nơi nương tựa"[22].
- Ta không hiểu
trọn ý nghĩa lời Phật khuyên A-nan (Ànanda) nếu không xét
đến bối cảnh và mạch văn trong đó những lời này được thốt ra.
- Lúc ấy đức Phật đang nghỉ tại một
khu làng gọi là Behuva, ba tháng trước khi Ngài mất, Bát Niết-bàn
(parinirvàna). Bấy giờ Ngài đã 80 tuổi, đang lâm bệnh nặng.
Nhưng Ngài nghĩ không nên chết mà không từ giã những môn đệ vốn
gần gũi yêu mến Ngài. Bởi thế, một cách can đảm, cả quyết, Ngài
chịu đựng tất cả đau đớn, thắng lướt cơn bệnh, và bình phục. Nhưng
sức khỏe Ngài còn kém. Sau khi bình phục, một ngày kia Ngài ngồi
trong bóng mát ở bên ngoài chỗ Ngài lưu trú. A-nan, vị thị giả tận
tụy nhất của Phật, tiến đến đức Ðạo sư quý mến của mình, ngồi bên
cạnh đức Thế Tôn và bạch:
- "Bạch đức Thế
Tôn, con đã săn sóc sức khỏe đức Thế Tôn, con đã hầu hạ Ngài trong
khi Ngài lâm bệnh. Nhưng khi thấy bệnh tình của Ngài, bầu trời đối
với con trở nên mờ mịt, và các giác quan của con không còn sáng
suốt nữa. Tuy nhiên con còn một điều an ủi nhỏ này: con nghĩ đức
Thế Tôn sẽ không nhập Niết-bàn mà không để lại những lời di giáo
đề cập đến đoàn thể Tăng già."
- Khi ấy đức Phật
đầy từ bi và nhân ái, đã khoan hòa nói với người thị giả tận tụy
thân yêu: "A Nan, đoàn thể Tăng già còn chờ đợi gì nơi ta nữa? Ta
đã nói pháp (chân lý) không phân biệt cao thấp. Về phương diện
chân lý, Như Lai không có gì như nắm tay khép chặt của một ông
thầy (àcariyamutthi). Này A-nan, nếu người nào có ý nghĩ
muốn lãnh đạo Tăng già, Tăng già phải tùy thuộc vào họ, thì dĩ
nhiên họ sẽ đặt ra những chỉ dẫn. Nhưng Như Lai không có ý nghĩ
ấy. Vậy thì sao Như Lai phải lưu lại những lời chỉ dẫn liên hệ đến
tổ chức Tăng già? Nay ta đã già, A-nan, đã 80 tuổi. Như một chiếc
xe cũ cần phải sửa chữa mới chạy được, cũng thế, thân xác của Như
Lai bây giờ cũng chỉ tiếp tục điều hành nhờ sửa chữa. Bởi thế, này
A-nan, hãy tự làm hòn đảo cho chính ngươi, hãy lấy chính ngươi làm
nơi nương tựa, không nương tựa vào ai khác; hãy lấy Pháp làm hòn
đảo, lấy Pháp làm nơi nương tựa, không ai khác có thể làm nơi
nương tựa cho ngươi[23].
- Những gì đức
Phật muốn truyền dạy A-nan thật quá rõ ràng. A-nan đang buồn sầu
đau đớn. Ông nghĩ rằng mình sẽ hoàn toàn cô độc, không người giúp
đỡ, không nơi nương tựa, không người hướng dẫn, sau khi đức Ðạo sư
vĩ đại qua đời. Bởi thế đức Phật ban cho ông những lời an ủi,
khuyên ông can đảm, tin tưởng, dạy rằng nên nương vào chính đạo và
nương vào "Pháp" Ngài đã truyền, chứ đừng nương vào ai khác, vào
cái gì khác. Ở đây vấn đề về một Àtman siêu hình, hay ngã, là hoàn
toàn không nhằm chỗ.
- Sau đó, đức
Phật giảng giải cho A-nan làm thế nào để có thể là hòn đảo hay chỗ
trú ẩn cho chính mình: ấy là nhờ sự đào luyện tâm chú ý quán sát
thân, cảm thọ, tâm và các pháp (4 pháp quán, xem chương kế tiếp về
Quán tưởng)[24].
Ở đây cũng thế, không có một chữ nào liên hệ đến ngã hay linh hồn.
- Một tài liệu
khác cũng rất thường được trích dẫn bởi những người muốn tìm Ngã
trong giáo lý Phật. Một hôm đức Phật ngồi dưới bóng cây trong một
khu rừng trên đường đi từ Benarès (Ba la nại) đến Uruvelà. Vào
ngày ấy có 30 hoàng tử trẻ tuổi đang đi cắm trại cùng với những
người vợ trẻ của họ trong cùng khu rừng ấy. Một ông hoàng chưa vợ
mang theo một gái giang hồ. Trong khi những người khác đang vui
đùa, thì cô ta trộm một vài đồ vật quý giá và trốn mất. Trong khi
đi tìm cô ấy trong cánh rừng, trông thấy Phật đang ngồi dưới gốc
cây họ hỏi Ngài có thấy một người đàn bà đi qua không. Ngài hỏi có
chuyện gì, và sau khi nghe giải thích đức Phật hỏi họ: "Các ngươi
nghĩ sao, hỏi những người trẻ tuổi? Ðiều gì tốt hơn cho các ngươi:
đi tìm một người đàn bà, hay đi tìm chính mình?"[25]
- Ðây cũng lại là
một câu hỏi rất giản dị và tự nhiên, không có lý do gì để đưa vào
đấy những ý tưởng xa xôi về Ngã hay Linh hồn. Họ trả lời tốt hơn
nên tìm kiếm chính mình. Phật liền bảo họ ngồi xuống và giảng pháp
cho họ nghe. Theo bài pháp mà Phật đã giảng cho họ còn ghi lại
trong kinh điển nguyên thủy, không có một chữ nào nói về ngã.
- Người ta đã
viết nhiều về đề tài "sự im lặng của Phật", khi một du sĩ tên
Vacchagotta hỏi Ngài có ngã hay không. Câu chuyện như sau:
- Vacchagotta đi
đến đức Phật và thưa hỏi:
- - Thưa Ngài
Cồ-đàm, có ngã hay không?
- Ðức Phật lặng
im.
- - Thế thì thưa
Ngài, không có ngã sao?
- Ðức Phật lại im
lặng.
- Vacchagotta
đứng dậy bỏ đi.
- Sau khi du sĩ (parivràjaka)
rời khỏi, A-nan hỏi Phật vì sao Ngài đã không trả lời câu hỏi của
Vacchagotta. Phật giải thích thái độ của Ngài như sau:
- - Này A-nan,
khi du sĩ ấy hỏi: "Có ngã hay không?" , nếu trả lời: "Có" là ta đã
đứng về phe các sa môn, Bà la môn chủ trương thuyết trường tồn (sassatavàda).
Và này A-nan, khi du sĩ ấy hỏi: "Không có ngã hay sao?" nếu trả
lời "Không" là ta đã đứng về phe các sa môn Bà la môn chủ trương
thuyết đoạn diệt (uccheda vàda)[26].
- Lại nữa, này
A-nan, khi du sĩ ấy hỏi: "Có ngã không?", mà ta trả lời: "Có" thì
như thế có phù hợp với sự thấy biết của ta rằng vạn pháp là vô ngã
hay không?"[27]
- - Bạch Thế Tôn,
hẳn là không.
- - Lại nữa, này
A-nan, khi du sĩ ấy hỏi: "Không có ngã hay sao?" mà ta trả lời:
"Không", thì sẽ làm cho Vacchagotta đã hoang mang lại càng hoang
mang thêm nữa
[28].
Vì y sẽ nghĩ: "Trước kia quả thật ta có ngã, nhưng bây giờ
ta không có nữa."
[29]
- Bây giờ hẳn là
ta phải hiểu rõ vì sao Phật im lặng. Nhưng ta sẽ còn hiểu rõ hơn
nếu xét toàn thể bối cảnh và cách Phật xử trí về những câu hỏi và
người hỏi - điều mà những người bàn đến vấn đề ấy hoàn toàn bỏ
qua.
- Phật không phải
như một máy tính tuôn ra đáp số cho bất kỳ câu hỏi nào, do bất cứ
ai đặt ra, không cần suy xét. Ngài là một bậc Ðạo sư thực tiễn,
đầy từ bi và trí tuệ. Ngài không trả lời câu hỏi để phô bày kiến
thức và thông minh của mình, mà để giúp người hỏi trên đường đạt
đến thực chứng. Khi nói với người nào Ngài luôn luôn quan tâm đến
trình độ phát triển của họ, khuynh hướng của họ, cấu tạo tâm thức
của họ, tính tình họ và khả năng họ để lĩnh hội vấn đề
[30].
- Theo Phật, có bốn cách đáp câu hỏi:
- 1. Có khi nên trả lời thẳng câu hỏi.
2. Có câu hỏi cần trả lời bằng cách phân tích.
3. Có khi nên trả lời bằng cách hỏi ngược lại.
4. Và cuối cùng, có những câu hỏi nên dẹp, không đáp[31].
- Có thể có nhiều
cách dẹp một vấn đề. Một cách là bảo vấn đề ấy không có giải đáp,
đó là cách Phật đã có lần xử dụng với du sĩ Vacchagotta ấy, khi
ông đặt những câu hỏi nổi tiếng về vũ trụ trường tồn hay không
v.v..[32].
Cũng với cách ấy, Ngài đã trả lời cho Màlunkyaputta và những người
khác. Nhưng Ngài không thể làm vậy về vấn đề có ngã hay không, vì
Ngài đã luôn luôn thảo luận và giảng giải nó. Ngài không thể nói:
"Có ngã" vì nó trái ngược với kiến giải của Ngài rằng tất cả các
pháp vô ngã. Và Ngài cũng không muốn nói không có linh hồn, vì như
thế là vô cớ làm cho anh chàng tội nghiệp Vacchagotta đã hoang
mang càng hoang mang thêm, như chính anh ta đã công nhận[33].
Anh ta chưa đủ căn cơ để hiểu về vô ngã. Vì vậy trong trường hợp
này, dẹp câu hỏi sang một bên bằng cách im lặng, là thái độ khôn
ngoan nhất.
- Ta cũng đừng
quên rằng Phật đã biết rõ Vacchagotta từ lâu. Ðây không phải dịp
đầu tiên mà người du sĩ thắc mắc ấy đến thăm Phật. Ðấng Ðạo sư đầy
trí tuệ và từ bi đã lưu tâm chú ý nhiều đến con người tìm kiếm
hoang mang này. Có nhiều đoạn nói đến du sĩ Vacchagotta trong các
bản kinh Pàli, ông đã từng tìm đến Phật và các môn đệ Ngài khá
nhiều lần, lặp đi lặp lại nhiều lần cùng những câu hỏi ấy, rõ ràng
ông rất băn khoăn, hầu như bị vấn đề kia ám ảnh[34].
Sự im lặng của Phật có lẽ đã có hiệu quả đối với
Vacchagotta hơn bất cứ một sự trả lời hay thảo luận hùng hồn nào[35].
- Một vài người
xem ngã có nghĩa là cái gì thường được gọi là "tâm" hay "thức".
Nhưng Phật dạy rằng chẳng thà người ta nên xem thân xác vật lý của
mình là "ngã" còn hơn xem tâm, ý hay thức (citta, mano,vinnàna)
là ngã vì tâm, ý hay thức thì biến đổi không ngừng ngày cũng như
đêm, thay đổi còn mau chóng hơn cả thể xác (kàya)[36].
- Chính cảm giác
mơ hồ "có tôi" đã phát sinh ý tưởng về ngã, vốn không có cái gì
tương đương trong thực tại: và thấy được chân lý ấy tức là thực
chứng Niết-bàn, một điều không phải dễ dàng cho lắm. Trong kinh
Tương ưng bộ Samyuttanikàya[37],
có một cuộc đàm thoại khá làm sáng tỏ vấn đề về điểm này giữa thầy
Tỳ kheo tên Khemaka và một nhóm Tỳ kheo. Những vị này hỏi Khemaka
có thấy trong Ngũ uẩn một cái "ngã" nào hay bất cứ gì thuộc về
"ngã" không. Khemaka trả lời "không". Ðoạn những Tỳ kheo bảo nếu
thế thì ông ta phải là một vị La hán đã thoát khỏi mọi ô nhiễm.
Nhưng Khemaka thú thật rằng mặc dù ông không tìm thấy trong Ngũ
uẩn một cái ngã nào hay bất cứ gì thuộc về ngã, "tôi vẫn không
phải là một La hán (Arahant) đã thoát khỏi mọi ô nhiễm bất tịnh.
Này chư hiền, đối với Ngũ thủ uẩn, tôi có cảm giác rằng "có tôi",
nhưng không thấy rõ "cái này là cái tôi". Rồi Khemaka giải thích
rằng cái ông ta gọi là "tôi" không phải sắc, không phải thọ, không
phải tưởng, không phải hành, cũng không phải thức, cũng không phải
bất cứ gì ngoài chúng. Nhưng ông vẫn có một cảm giác "có tôi" đối
với 5 thủ uẩn, mặc dù ông không thể thấy rõ "Ðây là cái tôi."[38]
- Khemaka nói
cũng giống như mùi thơm của một bông hoa: nó không phải là mùi
thơm của các cánh hoa, không phải của màu hoa, không phải của đài
hoa, nhưng là mùi thơm của hoa. Ông còn giải thích thêm rằng ngay
cả một người đã đạt đến những giai đoạn đầu tiên của sự thực chứng
vẫn còn có cảm giác "có tôi" ấy. Nhưng về sau, khi tiến xa hơn,
cảm giác ấy hoàn toàn biến mất, hệt như mùi hóa học của một chiếc
áo mới giặt sẽ bay mất một thời gian sau khi ra khỏi chiếc hộp
đựng nó.
- Cuộc thảo luận
này ích lợi và làm sáng tỏ vấn đề đối với họ đến nỗi sau đó, như
bản kinh ghi lại, tất cả mọi người, kể cả Khemaka, đều chứng quả
A-la-hán, giải thoát mọi ô nhiễm, và thế là cuối cùng họ đã đánh
tan được cảm giác "có tôi ".
- Theo giáo lý
Phật, chấp rằng "tôi không có ngã" (tức là thuyết đoạn diệt) cũng
sai lầm như chấp rằng "tôi có ngã" (thuyết trường tồn), bởi vì cả
hai quan niệm đều trói buộc, đều phát sinh từ ý tưởng sai lầm "có
tôi". Thái độ đúng đối với vấn đề vô ngã là không nắm giữ một quan
điểm hay "kiến" nào, mà cố nhìn sự vật một cách khách quan, nhìn
chúng như sự thật, không có những dự phóng của tâm thức. Phải thấy
rằng cái mà ta gọi là "tôi" hay "ngã" chỉ là một kết hợp của các
uẩn vật lý và tâm linh, hoạt động tương quan mật thiết lẫn nhau
trong một dòng biến chuyển từng sát na, chịu chi phối của luật
nhân quả, và trong toàn thể hiện hữu, không có gì là trường cửu,
vĩnh viễn bất biến.
- Ở đây một câu
hỏi tự nhiên đặt ra: "Nếu không có ngã, thì ai chịu những hậu quả
của nghiệp (hành động)?" Không ai có thể giải đáp câu hỏi này hơn
Phật. Khi một Tỳ kheo hỏi Ngài câu đó, Phật dạy: "Hỏi các Tỳ kheo,
Ta đã dạy các ông thấy rõ tính duyên khởi trong mọi sự vật."[39]
- Giáo lý Phật về
Vô ngã không nên được xem như tiêu cực hay hủy diệt. Cũng như
Niết-bàn, đấy là Chân lý, Thực tại, và Thực tại thì không bao giờ
là tiêu cực. Chính niềm tin sai lầm vào một cái ngã tưởng tượng
không có thực mới là tiêu cực. Giáo lý Vô ngã xua tan bóng tối của
tà tín và phát sinh ánh sáng trí tuệ. Nó không tiêu cực, như Vô
Trước (Asanga) đã nói rất đúng: "Có một thực tại là Vô
ngã" (nairàtmyàstità)
[40].
-
Ghi chú:
-
[1]
Mhvg. (Alutgama, 1922), p.4 ff.; MI (PTS), p.167 ff.
-
[2]
Sẽ được giải thích sau này.
-
[3]
M III (PTS), p.63, S II (PTS), pp. 28, 95 etc. Theo hình thức
ngày nay: khi A có, thì B có; khi A sinh, thì B sinh; khi A
không có, thì B không có; khi A diệt, thì B diệt.
-
[4]
Vism (PTS), p.517
-
[5]
Xem Chương Ba.
-
[6]
Vì giới hạn sách không cho phép bàn đến lý thuyết quan trọng
nhất này trong Phật giáo. Một khảo luận phê phán và tỷ giáo chi
tiết đề tài ấy sẽ được tìm thấy trong một tác phẩm sắp xuất bản
về Triết học Phật giáo do cùng một
biên giả.
-
[7]
Sàratha II (PTS), p.77
-
[8]
Mh. Sùtràlankàra, XVIII 92
-
[9]
H. Von Glasenapp, "Vedanta và Buddhism" vấn đề vô ngã trong The
Middle Way", Feb. 1957, p.154
-
[10]
Xem các sách của bà Rhys Davids: Gotama the Man, Sàkya on
Buddhist Origins, A Manual of Buddhism, What was the Original
Buddhism, v.v..
-
[11]
M I (PTS), pp.136-137
-
[12]
Ðược trích trong MA II (PTS), p.112
-
[13]
Chữ Dhammà, pháp, ở đây được F.L. Woodward trong tác phẩm
The Buddha Path of Virtue dịch là "all states compounded" - tất
cả những gì được kết hợp- là hoàn toàn sai, từ ngữ này ám chỉ
hành.
-
[14]
Samkhàra trong năm uẩn có nghĩa "hành" hay "những hoạt
động tâm lý" phát sinh nghiệp quả. Nhưng ở đây có nó nghĩa mọi
sự vật bị giới hạn hay bị kết hợp, gồm cả năm uẩn. Danh từ
Samkhàra có nghĩa khác nhau tùy trường hợp.
-
[15]
Cf. Sabbe Samkhàra aniccà "mọi sự vật giới hạn là vô
thường" Sabbe dhammà anattà "mọi pháp đều là vô ngã" M I (PTS),
p.228; S II, pp., 132-133.
-
[16]
MI (PTS), p.137
-
[17]
Ibid, p.138. Nói đến đoạn này, S. Radhakrishnan (Indian
Philosophy, Vol. I, London, 1940, p.485) viết "chính quan niệm
sai lầm về sự tương tục vĩnh viễn của tiểu ngã mới bị đức Phật
bác bỏ". Ta không thể đồng ý với nhận xét này. Trái lại ở đây
đức Phật bài bác cả Ðại ngã hay linh hồn. Như ta đã thấy vừa
rồi, trong một đoạn trước, đức Phật không chấp nhận một cái ngã
nào, dù lớn hay nhỏ. Theo quan niệm của
Ngài, mọi lý thuyết về Atman đều là sai lầm, là bóng dáng của
tâm thức.
-
[18]
Trong bài "Vedanta and Buddhism" (The Middle Way, February,
1957), H. Von Glasenapp nói điểm này rất rõ.
-
[19]
Và Anàtha là không nơi nương tựa, Lokanàtha là chỗ nương của thế
gian, chứ không phải là chúa tể thế gian.
-
[20]
D II (Colombo, 1929), p.62
-
[21]
Rhys Davids (Dìgha-nikàya bản dịch II, p.108) dịch: "Be ye lamps
unto yourselves. Be ye a refuge to yourselves. Betake yourselves
to no external refuge!" -- Hãy là ngọn đèn cho chính ngươi, chỗ
nương cho chính ngươi, chớ nương tựa vào ai khác.
-
[22]
Dìpa đây không có nghĩa là đèn, mà nhất định có nghĩa "đảo".
Dìgha-nikàyà (Trường Bộ kinh sớ giải) (DA Colombo ed., p380) bàn
về chữ Dìpa ở đây nói:
-
"Mahàsamuddagatam dìpam viya attànam dìpam patittam katvà
viharatha". "Hãy làm một hòn đảo cho chính người, một nơi
nương cậy (nghỉ ngơi) như một hòn đảo giữa bể khơi". Samsàra,
sinh tử, thường được ví như một đại dương, Samsàrasàgara, và cái
gì cần thiết để đựơc an ổn giữa đại dương là một hòn đảo, đất
liền chứ không phải một ngọn đèn.
-
[23]
D II (Colombo, 1929), pp. 61-62 chỉ có câu cuối được dịch nguyên
văn. Phần còn lại của câu chuyện được kể vắn tắt theo kinh Ðại
Bát Niết Bàn.
-
[24]
Ibid p.62. Về Satipatthàna xem chương VIII về Thiền định.
-
[25]
Mhvg (Alutgama, 1929), pp. 21-22
-
[26]
Vào một dịp khác, đức Phật đã bảo chính Vacchagotta này rằng đức
Như Lai không có lý thuyết nào hết, bởi vì Ngài đã thấy rõ bản
chất của sự vật [M I (PTS), p. 486]. Ở đây cũng thế, Ngài không
muốn liên kết với bất cứ lý thuyết gia nào.
-
[27]
Sabbe dhammà anattà. Chư pháp vô ngã. Ðúng y dòng đầu
kinh Pháp cú, XX, 7, đã dẫn ở trên. Woodward đã hoàn toàn sai
khi dịch những chữ này là "mọi sự đều vô thường" (Kindred Saying
V, p.282) có lẽ vì sơ ý. Những lỗi này rất hệ trọng. Có lẽ đây
là một trong những lý do vì sao người ta đã có quá nhiều cuộc
luận đàm vô ích về cái im lặng của đức Phật. Chữ quan trọng nhất
trong câu này, chữ anatta "vô ngã", đã được dịch là "vô
thường". Những bản dịch kinh Pàli ra Anh ngữ thường có những lỗi
lầm lớn nhỏ thuộc loại này khi thì vì sơ ý và bất cẩn, khi thì
vì thiếu chuyên môn trong ngôn ngữ của nguyên bản. Dù sao, thiết
tưởng cũng không vô ích khi nhắc lại ở đây- mà vẫn không quên ơn
những bậc tiền phong trong địa hạt này- rằng, chính những lỗi
lầm ấy đã gây ra nhiều tư tưởng sai lầm về Phật giáo trong những
người không đọc được nguyên bản. Bởi thế ta cũng lấy làm mừng
khi biết rằng cô I. B. Horner, thư ký của hội Pàli Text, đã dự
định xuất bản lại những bản dịch mới có sửa chữa.
-
[28]
Xem Ghi chú số 33 bên dưới.
-
[29]
S IV (PTS), pp. 400- 401
-
[30]
Trí này của Phật được gọi là Indriyaparopariyattanàna,
biết căn tánh chúng sinh. M I (PTS), p.70, Vibh (PTS), p.340.
-
[31]
A (Colombo, 1929) p.216
-
[32]
Ví dụ: S IV (PTS), pp. 393-395, M I (PTS), p.484
-
[33]
Quả vậy, vào một dịp khác trước đấy, khi Phật giải thích vấn đề
sâu xa vi tế - Vấn đề vị La-hán chết rồi sẽ ra sao - Vacchagotta
nói: "Thưa Ngài Cồ-đàm, ở đây tôi bị rơi vào ngu tối, tôi hoang
mang. Những gì mà tôi ít tin tưởng lúc bắt đầu câu chuyện với
Ngài, những gì đó bây giờ cũng đã tan biến mất." (M I (PTS)
p.489). Vì vậy mà đức Phật không muốn làm cho anh ta hoang mang
thêm.
-
[34]
Ví dụ: xem S III (PTS), pp. 257-263, IV, pp.391 f., 395 f.,
398f., 400; MI, pp. 481 f., 483 f., 489 f., A V p. 193.
-
[35]
Bởi vì ta thấy rằng sau đó, Vacchagotta lại đến thăm đức Phật,
nhưng lần này anh chàng không hỏi gì như thường lệ, mà lại nói:
"Ðã lâu nay tôi mới lại đến thăm Ngài. Tôi mong Ngài Cồ Ðàm sẽ
giảng cho tôi vắn tắt về Thiện và Ác". Phật dạy rằng Ngài sẽ
giảng cho ông về Thiện và Ác, vắn tắt cũng như chi tiết, và Ngài
đã làm thế. Cuối cùng Vacchagotta trở thành một đệ tử của đức
Phật, và theo giáo lý Ngài, ông đắc quả A-la-hán, thực chứng
Chân lý, Niết-bàn, và khi ấy những vấn đề ngã và các vấn đề khác
không còn ám ảnh ông. M I (PTS), pp. 489-ff.
-
[36]
S II (PTS), p.94. Vài người cho rằng "Như Lai Tạng" hay "Tạng
thức" trong Ðại thừa giáo là một cái gì tương tự "Ngã". Nhưng
kinh Lăng già nói hẳn rằng đấy không phải là Ngã (Lanka,
p.78-79).
-
[37]
S III (PTS) pp. 126 ff.
-
[38]
Ðiều này cũng chính là điều mà ngày nay phần nhiều người ta
thường nghĩ về Ngã.
-
[39]
M III (PTS) p. 19; S III, p. 103.
-
[40]
Abhisamuc, p.31.
--o0o--
|
|