|
PHẬT GIÁO VIỆT NAM
NGUỒN MẠCH TÂM LINH
Nhà
Xuất Bản Tôn Giáo- HÀ NỘI–2003
Thích Nữ Trí Hải
---o0o---
Phần Một
-
01. BỐN CHẶNG ĐƯỜNG TỈNH
THỨC
-
I.
DẪN NHẬP
-
Hàng năm mỗi khi Đông tàn xuân đến, Phật tử khắp nơi lại nhớ
ngày thành đạo của đức Thích Tôn. Đối với Phật tử Việt
Nam
chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ
Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa
gần gũi. Danh từ Bụt xuất hiện rất sớm trên đất nước ta (tức
Giao Châu, khi còn Bắc thuộc). Vào đầu thế kỷ Tây lịch, những
nhà sư Ấn Độ theo tàu buôn sang Trung Quốc truyền đạo, đã ghé
lại đất Giao Châu. Trong thời gian chờ gió yên biển lặng để tiếp
tục hành trình, các nhà sư và các thương gia Ấn Độ đã truyền cho
dân chúng Việt nam nhiều khái niệm căn bản của đạo Phật như nhân
quả tội phúc, quy y, cúng dường, bố thí. Vào đầu Tây lịch, đã có
một trung tâm Phật học nổi tiếng là trung tâm Luy Lâu do những
nhân sĩ từ Trung Quốc đến lánh nạn tranh giành quyền lực ở chính
quốc. Những người thâm Nho, Lão này khi đến Giao Châu bắt đầu
nghiên cứu đạo Phật. Chính để thuyết phục những người này mà tác
phẩm Lý Hoặc Luận của Mâu Bác (Mâu Tử) đã ra đời vào khoảng cuối
thế kỷ 2. Đó là tác phẩm Hán văn đầu tiên viết về phật giáo tại
Giao Châu. Trong sách có đoạn Mâu Tử phàn nàn: “Sa môn ngày nay
có kẻ lại thích uống rượu ngon, có khi có vợ con, biết cất giữ
vàng bạc của quý, lại chuyên môn lừa dối”. Như vậy chứng tỏ vào
cuối thế kỷ thứ 2, Giao châu đã có một tăng đoàn khá đông mới
phát sinh những tệ trạng như Mâu Tử nói.
-
Trong khi đó tại Trung Quốc mãi đến năm 250, tức hậu bán thế kỷ
3, mới có Đàm Ma Ca La từ Trung Ấn qua làm lễ truyền giới xuất
gia – chứng tỏ Việt Nam đã thấm nhuần đạo Phật gần một thế kỷ
trước Trung Quốc. Vào thời đại nhà Đường có những nhà sư Việt
nam như Duy Giám đã được mời sang giảng đạo trong cung vua
Đường:
-
Giảng kinh xuân điện lý
-
Hoa nhiễu ngự sàng phi
-
Nam Hải ký hồi hóa
-
Cựu sơn lâm lão quy
-
Nguyễn Lang dịch:
-
Giảng kinh nơi cung điện
-
Giường ngự hoa xuân bay
-
Bao lần qua Nam Hải
-
Núi cũ người về đây
-
Bài thơ cho thấy vị sư này đã nhiều lần qua Trung Quốc thuyết
pháp; và lúc ngài trở về Việt Nam, nhà vua đã nhờ thi sĩ Giả Đảo
làm thơ tiễn. Đề tựa của bài thơ là “Tống tăng quy An nam”. Cũng
may Giả Đảo là một thi sĩ nổi tiếng, nên thơ ông mới còn lưu lại
trong tập Đường thi để đến nay ta được biết vào thời ấy Phật
giáo Việt Nam đã có những vị sư lỗi lạc như thế. (Theo VNPG Sử
Luận của Nguyễn Lang)
-
Một nhà thơ khác là Thẩm Thuyên Kỳ một tiến sĩ đời Đường phạm
chính trị, bị đày sang Hoan châu (nay thuộc Nghệ Tỉnh) từ năm
701 đến 704. Khi mới sang Hoan châu, ông có những bài thơ thảm
thiết, vì đối với người Trung Quốc, Hoan châu là đất biên địa,
khô cằn. Ông có bài thơ “Sơ đáo Hoan châu” trong Đường thi, kể
cảnh ngộ đi đày và sự điêu tàn ở nơi biên địa. Ông rất đau khổ
mong ngày ân xá để trở về Trung Quốc. Một hôm nhân lúc ngao du
ông đến một ngọn núi giáp giới Việt Nam, và gặp một vị sư Việt
Nam tu trong một am cốc trên triền đồi. Từ đó cuộc đời ông được
đổi mới, đến nỗi ông cho việc đày ải thế mà lại hay cho ông vì
nhờ thế mà ông ngộ đạo: “đày ải cũng duyên lành”. Ông tự thuật
mình đã biết đạo Phật 30 năm nhưng đến giờ mới ngộ, và tôn vị sư
Việt Nam là Phật Thích Ca tái thế:
-
Phật xưa sanh Thiên trúc
-
Nay hóa thân Nhật Nam
-
Vòng não phiền ra khỏi
-
Dưới núi dựng già lam
-
Chẳng những đạo Phật nước ta ngày xưa có những vị sư uyên thâm
như thế, mà tinh thần Phật giáo còn thấm nhuần đại đa số quần
chúng, qua những cổ tích, ca dao. Trong văn học bình dân nước
ta, những nguyên lý nhân quả tội phúc là nòng cốt, và Bụt luôn
luôn hiện đến với những con người bị thiệt thòi áp bức. Ví dụ
truyện Tấm cám, ăn khế trả vàng, Cây tre trăm đốt.... Với người
Việt Nam, Bụt tượng trưng cho một hình ảnh hết sức hiền hòa,
luôn xuất hiện với những người đau khổ. Mỗi người Việt
Nam
thuần túy đều là một Phật tử tiềm tàng cho dù có đi chùa, quy y
hay không. Khi một người nói “để đức cho con”, là họ đã mặc
nhiên công nhận mình là Phật tử dù có thể họ không biết gì về
đức Phật và đạo Phật.
-
-
II. THÁI TỬ TẤT ĐẠT ĐA
-
Thái tử Tất Đạt Đa đản sinh vào năm 563 trước Tây lịch, con vua
Tịnh Phạn cai trị một lãnh thổ nằm dưới chân núi Hy mã lạp sơn,
dọc biên giới Ấn và Népal ngày nay. Khi thái tử ra đời có vị ẩn
sĩ tên A Tư Đà xem tướng đoán Ngài sẽ làm hoàng đế thống lãnh
toàn cõi ấn sau này, hoặc nếu xuất gia sẽ thành Phật. Vua cha
hoảng sợ trước viễn ảnh con mình bỏ nhà đi tu, nên ra lệnh cho
cận thần phải hết sức chiều chuộng thái tử, không để cho Ngài
phải thấy hay nghe một chuyện gì đau lòng, trái ý. Thái tử hấp
thụ một nền giáo dục văn võ song toàn, nhất là về nghệ thuật bắn
cung. Không những có tài nghệ và thông minh, thái tử còn có tâm
hồn mẫn cảm bén nhạy trước mọi nỗi khổ, dù là nỗi khổ của các
chúng sinh nhỏ bé. Khi còn bé thái tử đã chứng tỏ có tài biện
bác. Một hôm em họ Ngài là Devadatta bắn rơi một con chim, thái
tử vội chạy đến nhặt lên săn sóc cho đến khi nó bình phục.
Devadatta đến đòi lại con chim, lấy cớ mình đã bắn được nó. Thái
tử hỏi lại: “Con chim thích ai hơn, thích người cứu nó hay người
giết nó?”
-
Một hôm vào dịp lễ hạ điền, toàn dân ra đồng xem vua xuống ruộng
cày những sá đầu tiên để cầu một năm được mùa. Thái tử vừa lên
ba bốn tuổi cũng được người hầu ẵm đi xem. Khi thấy những con
giun quằn quại dưới những luống cày, bầy chim sà xuống tranh
nhau mổ, lòng thái tử se thắt lại trước sự thật phũ phàng: loài
này phải làm thức ăn cho loài khác, và con người kiếm được bát
cơm hàng ngày một cách gian nan, không phải chỉ đổ mồ hôi và sức
lao động mà đôi khi phải đổ cả máu và nước mắt. Trước cảnh đau
khổ ấy, thái tử ngồi trầm tư dưới một gốc cây. Xong cuộc lễ
người ta mới thấy thái tử đang nhập định, mặt sáng ngời niềm hỉ
lạc. Đến tuổi thành niên, thái tử kết hôn với công chúa
Yasodhara, em họ của Ngài, sau khi thắng tất cả các vương tôn
công tử trong những cuộc tranh tài về văn, võ. Vua cha còn gia
tăng các thú vui để làm cho thái tứ khỏi suy nghĩ vẩn vơ. Nhưng
có cuộc vui nào không tàn, có niềm hạnh phúc nào không biến đổi?
Thái tứ thấy rõ hơn ai hết cái phù du của mọi sự hào nhoáng xinh
đẹp quanh mình. Càng đẹp càng dường như không thật có, và càng
thoáng qua mau. Quá chán chường trước những cảnh:
-
Suốt ngày tháng tiệc hoa vui mãi
-
Đêm xuân tàn, xuân lại còn đêm.
(Tản Đà)
-
và
-
Vẳng tiếng nhạc khắp nơi nghe biết
-
Làn gió đưa cao tít Ly cung (Tản
Đà)
-
Thái tử xin vua cha cho ra ngoài thành dạo chơi. Mặc dù vua đã
chỉ thị những nơi xe thái tử đi qua phải được trang hoàng đẹp
đẽ, cũng không tránh khỏi sơ suất. Một lão ông không rõ từ đâu
chống gậy bước ra, lưng còng, tay chân run rẩy. Thái tử hỏi:
-
-
Này Chana, con gì thế kia?
-
-
Bẩm thái tử, đó cũng là một con người, nhưng nay đã già nên lưng
còng, phải chống gậy.
-
-
Thế thì công chúa Yasodhara sẽ ra như vậy chăng?
-
-
Vâng thưa thái tử, ngay cả công chúa yasodhara đẹp như trăng rằm
kia cũng sẽ da nhăn, tóc bạc lưng còng như thế đấy.
-
-
Thôi Chana, đủ rồi. Hãy đánh xe cho ta về.
-
Ngày hôm sau Ngài lại ra dạo chơi, lần này thái tử trông thấy
một người bệnh, và lần thứ ba một xác chết. Bức tranh đời thái
tử đã trông rõ một cách trọn vẹn, đó không gì hơn là già, bệnh,
chết đến với tất cả mọi người, không phân giai cấp.
-
Thái tử càng u sầu áo não kể từ ba cuộc dạo chơi. Vua cha lo
ngại tuyển thêm mỹ nữ, nhạc công danh tiếng vào cung để giải
khuây thái tử. Ngày kia thái tử lại ra dạo ngoài cung thành lần
nữa, và lần này Ngài thấy một sa môn.
-
-
Kìa Channa, phải chăng đấy cũng là một người chết?
-
-
Bẩm không, đó là một người đang tu thiền định, thân xác trông
như chết, nhưng tâm ông ta vẫn tỉnh thức.
-
Trở về lần này, Ngài đã thấy được một lối thoát, dù rất mơ hồ.
Một đêm kia sau khi mãn cuộc vui trong cung điện, đi ngang qua
đám vũ nữ phục sức diêm dúa, phấn son nhầy nhụa, đang lăn ra ngủ
một cách mệt nhọc sau hậu trường, thái tử bỗng cảm thấy một ý
muốn ra đi mãnh liệt, từ bỏ tất cả những cảnh tượng này, cả cung
điện, cả người vợ xinh đẹp, nhất là cả hài nhi mới sinh. Cùng
với nỗi vui được làm cha, Ngài thoáng thấy một mối lo âu ràng
buộc: đứa con sẽ là một dây trói vững chắc vào cuộc sống thế
tục, tình yêu đối với người con ngày càng mãnh liệt sẽ làm Ngài
khó lòng dứt áo ra đi, do vậy Ngài đặt tên con là Rahula (ngăn
che), ám chỉ tình yêu vợ con là sợi dây trói chặt nhất. Bởi thế
thời gian thuận tiện nhất đã đến, đó là đêm khuya thanh vắng,
Yasodhara và hài nhi đang ngủ say. Sau khi nhìn vợ con lần cuối,
Ngài cùng Xa Nặc lẻn ra ngoài cung thành trên lưng con ngựa Kiền
Trắc yêu quý Ngài thường cưỡi. Đến sông Anoma, Ngài xuống ngựa,
cởi bỏ tất cả phục sức vương giả, cắt tóc và trao tất cả cho Xa
Nặc, kể cả ngựa. Xa Nặc khóc lóc xin đi theo, ngựa cũng ứa nước
mắt muốn theo thái tử. Nhưng không, thái tử cương quyết đi một
mình. Ngựa Kiền Trắc về buồn sầu bỏ ăn mấy ngày rồi chết vì nhớ
chủ. Bên bìa rừng, thái tử nhặt một tấm vải vàng khoác cho những
tội nhân đã bị hành quyết để thay cho y phục trên mình. Cũng như
những tội nhân kia, mọi người sinh ra phải chăng đã lãnh một bản
án tử hình, đang chờ giờ hành quyết. Khi được khoác tấm vải vàng
để dần ra pháp trường là mọi hệ lụy trên thế gian này đã chấm
dứt. Từ đấy màu vàng tượng trưng cho tu sĩ Phật giáo.
-
Ngài đi sâu vào rừng, nơi đó Ngài gặp nhiều ẩn sĩ, theo học
nhiều vị thầy về các môn yoga, khổ hạnh. Ngài nhanh chóng nắm
được các bí quyết tu hành của những vị này và vượt xa hơn họ về
các phép tu, song chúng cũng không đem lại mục đích Ngài mong
muốn. Ngài bèn giã từ tất cả thầy dạy, ra đi một mình, và trong
6 năm ròng rã, Ngài đã trải qua thời gian khổ hạnh khốc liệt,
mỗi ngày chỉ ăn một hạt ngũ cốc cho đến khi thân thể Ngài chỉ
còn là một bộ xương. Năng lực khổ hạnh của Ngài được 5 anh em
Kiều Trần Như cùng tu với Ngài rất thán phục. Nhưng thái tử thấy
rằng, càng khổ hạnh, sức Ngài càng mòn mỏi, không thể tập trung
thiền quán, và Ngài bỗng nhớ lại một kinh nghiệm hỷ lạc lúc Ngài
còn thơ ấu ngồi thiền dưới gốc cây trong ngày lễ hạ điền. Lúc đó
các giác quan Ngài hoàn toàn vắng lặng, tỉnh thức, trong sáng.
Bây giờ Ngài nhận ra rằng sự khổ hạnh không phải là con đường
dẫn đến sự vắng lặng của cảm giác và sự minh mẫn của tâm trí.
Con đường đúng là đường ngày xưa Ngài đã theo, khi ngồi thiền
định dưới gốc cây. Nhưng một người đã kiệt sức vì khổ hạnh ép
xác thì không thể làm được vậy. Trong khi Ngài đang suy nghĩ
điều này, một cô bé chăn bò tên là Sujata trông thấy Ngài vội
đem dâng một bát sữa. Ngài chậm rãi đón lấy và chấm dứt cuộc khổ
hạnh lâu dài. Sau khi dùng sữa, tinh thần lai tỉnh, Ngài đem cái
bát thả xuống dòng sông Ni Liên với lời ước nguyện, nếu tôi đắc
đạo thì cái bát này sẽ trôi ngược dòng sông. Năm anh em Kiều
Trần Như kinh ngạc trông thấy cái bát từ từ trôi ngược dòng.
Nhưng họ vẫn từ giã vì thấy Ngài không còn tu khổ hạnh nữa.
-
Còn lại một mình Thái tử nhớ lại ngày xưa lúc tâm Ngài tự nhiên
đi vào thiền định, Ngài đã kể lại về sau: “Này chư Hiền, khi nhà
thiện xạ bắn chẻ được một sợi tóc, người ấy quan sát cẩn thận
thế đứng của mình, cách cầm cây cung, vị trí những ngón tay,
cách phóng mũi tên ra... để làm lại những động tác đã đưa mình
đến thành công. Ta cũng thế, này chư Hiền, ta khởi sự một cách
có phương pháp bằng cách lập lại những gì đã đưa tới thành công
trong thiền định rất lâu về trước”.
-
Gần thành Gaya, thái tử tìm thấy một nơi thanh tịnh, Ngài trải
cỏ dưới gốc cổ thụ, rồi khoanh chân ngồi kiết già với lời thề,
ta sẽ không đứng dậy khỏi nơi này, khi chưa tìm được lối thoát
ra ngoài sống chết. Với quyết định này thái tử khởi sự đóng lại
các cửa ngõ giác quan, tập trung vào tâm ý. Khi Ngài đi sâu vào
thiền định, những tầng lớp vô thức dần dần xuất hiện dưới hình
thức những sứ giả của ác ma: ma ái luyến hiện hình ra nàng
Yasodhara xinh đẹp đang khóc lóc, ma danh vọng hiện hình ra cung
điện vàng son, ma hoài nghi, ma sợ hãi v.v.. nhưng không gì làm
cho Ngài nao núng. Cuối cùng đạo quân ác ma phải rút lui, cửa
ngõ vô thức, hầm sâu vô minh bây giờ tràn trề ánh sáng. Ngài trở
thành một Con người tỉnh thức, một đức Phật. Ngài đã đến
lĩnh vực mà già chết không thể nào chạm đến, đó là Niết bàn, Bất
tử Đức Phật Thích Ca, danh hiệu của Ngài kể từ giây phút tỉnh
thức trọn vẹn, ngồi yên dưới gốc cây mà từ đấy được vinh dự mang
tên là cây Bồ đề, hay cây Giác ngộ. Ngàỉ thưởng thức niềm hỷ lạc
của Niết bàn trong nhiều tuần, rồi bỗng tim Ngài se thắt lại khi
nghĩ đến nỗi khổ của chúng sanh đang ngụp lặn trong đau khổ vì
vô minh, Ngài muốn tìm phương cứu độ.
-
Khi ấy ác ma lại xuất hiện lần nữa: “Hỡi Gotama! Ngài đã đạt đến
Niết bàn, đã thoát khỏi tầm tay của ta, Ngài đã đi sâu vào những
tầng tâm thức vi diệu mà ngay cả những loài chư thiên cao nhất
cũng chưa từng đạt đến, nhưng Ngài đã biết rồi đấy, thật gian
khổ biết bao, Ngài với con mắt sáng mà còn phải vô cùng khốn đốn
mới đạt đến Niết bàn, thì làm sao những kẻ đầy bụi trong con mắt
có thể đạt đến, nhất là chúng lại không mong cầu Niết bàn, chúng
chỉ mong cầu những thỏa mãn riêng tư. Dù chúng phải chịu trăm
cay nghìn đắng trong đời, nhưng mấy ai muốn từ bỏ thế gian với
những thú vui giả tạm, mấy ai thực sự đi tìm chân lý? Có phải
phí công vô ích chăng, khi Ngài không nhập vô dư niết bàn mà lại
có ý định ra giáo hóa chúng sinh, chỉ bày cho chúng con đường?
Thôi đi, hởi Gotama, chẳng có mấy ai chịu nghe Ngài thuyết giảng
đâu, mà dù chúng có nghe, vị tất chúng đã làm theo. Nếu có làm
theo, vị tất chúng đã chịu khó nỗ lực đến cùng, như Ngài đã nỗ
lực. Ít có kẻ nào thực tình muốn lau hết bụi bặm trong con mắt,
Ngài hãy nhập Niết bàn đi, hỡi Gotama”.
-
Đức Phật ngồi im lặng giây lâu, những lời của ác ma quả có làm
cho Ngài dao động, vì nó chứa một phần sự thật. Trong cái thế
giới đang ngủ say với tham lam, bạo tàn và quyền lực này, có mấy
ai sẽ chịu khó lắng nghe thông điệp của “Người về từ cõi Tâm
linh” mà họ chưa từng biết đến. Thông điệp ấy dạy rằng, mọi
sự vật trên đời từ con người cho đến muông thú và cỏ cây, tất cả
trên mặt đất và trong lòng đất đều là một thân thể bao la, không
phần nào bị hại mà không tổn thương đến toàn thân thể. Hận thù
không làm tiêu tan hận thù mà chỉ có lòng bao dung thông cảm mới
thắng được hận thù, bạo động. Quả thật vô cùng khó khăn để mà
tin nổi thông điệp của Ngài, trong khi chúng sinh đang chìm ngập
trong hận thù, vô minh, ngã chấp.
-
Nhưng đức Phật chỉ dao động vì những lời của ác ma trong một
chốc, rồi niềm tin trở lại với Ngài. Ngài thấy chúng sinh có
nhiều hạng, cũng như những cọng sen trong hồ, có cọng đang còn
ngập dưới bùn sâu, có cọng đã vươn lên ngang mặt nước, có cọng
sen đã vươn rất cao, tỏa hương khắp không gian. Chúng sinh có kẻ
nhiều bụi trong mắt đang chìm trong màn đen vô minh, song cũng
có kẻ ít bụi trong con mắt, có thể lãnh hội phần nào chân lý mà
Ngài sẽ giảng nếu nó được trình bày thứ tự và có phương pháp. Có
ai lại không muốn thoát khổ, an lạc dài lâu? Niềm tin ấy đã
khiến đức Phật quyết định giảng pháp. Ngài tiếp tục ngồi tại cội
bồ đề trong nhiều tuần, thưởng thức mềm tịnh lạc đă chứng, có lẽ
trong thời gian ấy, Ngài cũng phác họa một chương trình giáo hóa
về sau. Cuối cùng khi thấy đã đến lúc, Ngài đứng lên khỏi tòa
ngồi để bắt đầu cuộc du hóa vĩ đại 45 năm không dừng nghỉ. Bấy
giờ không những Ngài là bậc thánh đã đạt đến niết bàn mà còn là
bậc thánh đã an lập trong niết bàn vô trú, một sự tỉnh
thức và an lạc không chỉ có trong lúc Ngài ngồi mà trong mọi
thời mọi chỗ, dù khi Ngài đang đứng hay nằm, dù khi Ngài nói hay
im lặng, dù khi Ngài thức hay ngủ. Ta gọi đó là Như Lai thanh
tịnh thiền. Bấy giờ Ngài có thể giúp mọi người vượt qua, như
Ngài đã vượt qua, dòng sông sanh tử. Điều cốt yếu là họ có thực
tình muốn vượt qua hay không. Do đó Ngài có biểu tượng là người
chèo con thuyền bát nhã, đưa người từ bờ sinh tử đến bến niết
bàn, luôn luôn kêu gọi, “Có ai muốn qua sông không?”
-
III. BÁNH XE PHÁP
-
Đó
là bài thuyết giáng đầu tiên của đức Phật sau khi giác ngộ. Khi
Ngài đứng lên khoan thai bước đi, trước tiên Ngài đi quanh cây
bồ đề, tỏ dấu cám ơn cái nơi Ngàỉ đã ngồi thiền và đạt giác ngộ,
rồi Ngài khởi sự ra khỏi rừng, đi về hướng có thể gặp những con
người. Sắc diện Ngài chắc phải tỏa ra một vầng hào quang của trí
tuệ và từ bi, nên một vài tiều phu thấy Ngài đã sụp lạy vì tưởng
Ngài là thần cây, những người khác tưởng Ngài là một thiên thần
xuất hiện, nhiều người cho Ngài là phi nhân, một loài biến hóa,
với tất cả những người này Ngài đều trả lời rằng họ đã lầm: “Ta
không phải là người, nhưng với loài người ta là một con người đã
tỉnh thức, ta không phải là vị trời, nhưng đối với chư thiên ta
là một vị trời đã tỉnh thức, ta không phải là rồng nhưng đối với
loài rồng thì ta là một con rồng đã giác ngộ...” Những lời
này gợi cho ta biết, đức Phật khi ấy không còn là người dù
-
Ngài có thể mang thân xác một con người, không thể là vị trời dù
có thể Ngài có hình ảnh của chư thiên, Ngài siêu việt tất cả
tướng như hình sắc, hư không. Ngài đã đạt đến tuyệt đối, đến bất
nhị, vượt lên trên có và không, còn và mất, động và tĩnh, Ngài
vừa là chân không, vừa là diệu hữu.
-
Tại Vườn Nai gần thành Ba La Nại, bên bờ sông Hằng, Ngài gặp năm
anh em Kiều Trần Như, đệ tử tu khổ hạnh của Ngài ngày xưa. Ngài
đã giảng cho họ bài pháp đầu tiên còn nổi tiếng đến ngày nay,
gọi là “Chuyển bánh xe pháp Tứ đế”, hay tứ thánh đế. Chữ
“thánh” có nghĩa do bậc thánh tìm ra, và chỉ có bậc thánh
mới thấy một cách trọn vẹn.
-
Ngài dạy: “Này chư Hiền, diệu đế thứ nhất là chân lý về khổ. Ai
cũng muốn hạnh phúc, lạc thú, sum vầy, ai cũng muốn điều tốt
lành, lẽ phải, sự trường tồn, niềm thỏa mãn, vậy mà ai cũng thấy
cuộc đời chỉ đem đến cho ta đau khổ, buồn sầu, tan tác, điều dữ,
việc gai mắt, sự bấp bênh, điều ngang trái. Cuộc đời là biến
chuyển, mà biến chuyển không bao giờ đem lại sự thỏa lòng, mọi
đổi thay đều đem đến ít nhiều đau khổ.
-
Diệu đế thứ hai là nguyên nhân của khổ. Không phải cuộc đời đem
lại đau khổ mà chính những đòi hỏi của ta từ cuộc đời đã đem lại
đau khổ cho ta, chẳng hạn như đòi hỏi sự trẻ mãi không già, sống
hoài không chết. Bởi thế nguyên nhân của đau khổ là dục vọng,
nỗi khát khao điều mình mong muốn, sống theo ý riêng của mình.
Vì tưởng cuộc đời có thể làm cho họ hạnh phúc bằng cách đem lại
cho họ những gì mong muốn, con người theo đuổi sự thỏa mãn những
ưóc mơ của mình. Nhưng này chư Hiền, không có ngọn lửa nào mạnh
bằng lửa dục, càng được thỏa mãn lòng dục càng tăng, nó như một
cái thùng lủng đáy. Lòng dục đòi hỏi một điều không thể có, ấy
là một thứ trường cửu không xen lẫn khổ đau, nhưng đòi hỏi như
thế chẳng khác nào mò trăng đáy nước.
-
Này chư Hiền, diệu đế thứ ba là, mọi nỗi sầu đau khi được hiểu
rõ đều có thể chữa lành. Khổ có nguyên nhân nên sẽ có sự chấm
dứt khi nguyên nhân của nó chấm dứt. Nguyên nhân của khổ là dục
vọng ích kỷ, khi dục được dập tắt thì tâm ở trong trạng thái
tỉnh thức. Sức khỏe tâm hồn, sự lành mạnh ấy gọi là ái diệt, hay
niết bàn.
-
Diệu đế thứ tư là lòng tham dục vị kỷ, nguyên nhân của khổ ấy có
thể được dập tắt bằng cách theo một con đường tám chính: chính
kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng, chính
tinh tiến, chính niệm, chính định. Nếu pháp là bánh xe thì 8
chính là 8 căm xe.
-
Chính
kiến là thấy cuộc đời đúng như thực chất của nó, giữa
dòng thác đổi thay đang tuôn chảy thì tìm đâu có một chỗ bám víu
bên ngoài. Biết rõ rằng hạnh phúc không đến từ bên ngoài, rằng
mọi sự sinh ra phải bị hủy diệt. Chính kiến tức thấy đúng, chính
kiến là khởi điểm của trí tuệ. Từ chỗ thấy đúng phát sinh ý chí,
mong muốn, suy tư phù hợp với thực chất của cuộc đời. Cũng như
cơn nước lũ cuốn trôi một ngôi làng ngủ say, cái chết cuốn trôi
những người không chuẩn bị. Bởi thế hãy nhớ kỹ điều này, hãy
biết sống trước khi quá muộn, biết sống là chỉ suy nghĩ, dự tính
không hại mình, không hại người, không hại cả mình và người.
Biết sống là chỉ suy tư những gì phù hợp với chân lý vô thường,
vô ngã. Biết sống là quá khứ không truy tìm, tương lai không ước
vọng, đó gọi là chính tư duy. Hai chính này tức là
thấy đúng và tư duy đúng, thuộc về Tuệ.
-
Chính
ngữ hay nói đúng, chính nghiệp hay làm
đúng, chính mạng hay sinh nhai chân chính, đó là 3
điều phát sinh từ chính tư duy, thuộc về Giới. Ba điều này có
nghĩa là sống thuận theo tính nhất thể của đời sống, không chỉ
nhắm đến hạnh phúc bản thân mà còn nhắm đến an lạc cho tất cả.
-
Chính mạng là không làm nghề hại đến sinh mạng của người khác,
loài khác. Tất cả đều ham sống, sợ đau khổ, bởi thế hãy xem tất
cả như chính thân mình. Chính nghiệp là tránh những việc làm
trái với lương tâm, tổn hại đến sự sống của muôn loài, của môi
trường.
-
Ba
chính cuối cùng liên hệ đến tâm, đó là chính tinh tiến,
chính niệm, chính định. Mọi sự tùy thuộc vào tâm, cuộc
đời chúng ta do tâm của ta hình thành, chúng ta trở thành những
gì do tâm ta suy nghĩ, đau khổ sẽ tiếp theo một tư tường xấu ác
như bánh xe lăn theo con vật kéo xe, niềm vui sẽ tiếp theo một
tư tường tốt lành như hình với bóng. Chính tinh tiến là luôn đào
luyện bản thân về 3 phương diện, thân, lời, ý. Như cần tập thể
thao để rèn luyện thân thể, người yêu mến niết bàn cũng phải rèn
luyện tâm ý, chỉ nhờ nỗ lực tinh tiến không ngừng mà ta có thể
đạt đến niết bàn:
-
“Hăng
hái giữa những người biếng nhác,
-
Ttỉnh thức giữa đám người ngủ mê.
-
Hãy tiến lên như con tuấn mã bỏ xa bầy ngựa yếu hèn”
-
(Pháp cú)
-
Chính niệm là đặt hết sự tỉnh thức vào một việc hiện tại trước
mắt. Cái gì thiện, có lợi cho mình và mọi người, đem lại an lạc
dài lâu, hãy tập trung vào đó. Cái gì tiêu cực chủ quan, làm cho
tâm dao động, thoái hóa, thì đừng chú ý đến nó. Sự đào luyện
chính niệm, điều phục tâm để tập trung vào cái gì đáng tập
trung, là việc hết sức gian nan. Một cái tâm không điều phục
thường phải đau khổ và thường gây ra đau khổ. Nhưng một tâm khéo
điều phục đem lại sức khỏe và hạnh phúc.
-
Chính định là phương pháp đào luyện tâm:
-
“Như
mái nhà vụng lợp, mưa sẽ nhỏ giọt vào,
-
Dục tham sẽ lẻn vào tâm không khéo tu tập”.
-
(Pháp cú)
-
-
Hãy đào luyện tâm bằng phương pháp thiền định thì dục tham sẽ
không lọt được vào, như mưa không lọt qua mái nhà khéo lợp. Ba
chính sau cùng này thuộc về Định.
-
Này chư Hiền đây là con đường mà chính ta đã đi qua, không có
con đường nào khác để thanh lọc tâm thức. Hãy đi theo con đường
ấy để chiến thắng ác ma, ở cuối con đường là sự chấm dứt đau
khổ. Nhưng các ngươi hãy tự mình nỗ lực tinh tiến khi Như Lai đã
chỉ rõ con đường.
-
Phật xác định rõ vai trò của Ngài: Ngài là vị lương y đã chẩn
bịnh và tìm ra phương thuốc trừ bệnh, nhưng uống hay không còn
tùy thuộc ở con bệnh. Nếu con bệnh không muốn nhận rằng mình có
bệnh, hoặc biết mình bệnh mà không muốn chữa, thì đó không là
lỗi lương y. Ngài là vị hướng đạo chỉ rõ con đường tốt cho người
đi, nhưng nghe rồi bỏ qua không chịu đi thì không phải lỗi của
người dẫn đường.
-
Đối với Phật tử chúng ta, cuộc đời cao cả của đức Thế Tôn là bài
thuyết pháp, từ khi Ngài còn tại gia cho đến khi thành đạo và
giáo hóa độ sanh, mỗi giai đoạn trong lịch sử đời Ngài đều là
một chặng đường tỉnh thức để đưa đến sự giác ngộ hoàn toàn trong
phút giây thành đạo. Ta có thể đặt tên bốn chặng đường ấy là:
chặng đường thực nghiệm, chặng đường từ bỏ, chặng đường sáng tạo
và chặng đường chuyển hóa.
-
Chặng
đường thực nghiệm
-
Khi còn tại gia, thọ hưởng dục lạc, thái tứ vẫn luôn luôn sống
tỉnh thức, có lối nhìn đầy trí tuệ và bi mẫn. Mặc dù được vua
cha thương yêu, mặc dù sống trong cung vàng điện ngọc, mặc dù bị
bủa vây giữa thế tục xa hoa phù phiếm, thái tử không bao giờ
quên chính niệm. Chính niệm ấy khiến
-
Ngài chú ý điều đáng chú ý, dù nó rất thoáng qua, dù nó bị che
khuất. Đó là hình ảnh con giun quằn quại dưới luống cày, là hình
ảnh già bệnh chết, hình ảnh những vũ nữ mệt nhoài sau hậu
trường.
-
Mặt trái của cuộc vui, mặt trái của cuộc đời dù được che đậy rất
kỹ, vẫn không thoát khỏi lối nhìn sắc bén của một con người tỉnh
thức. Nhờ vậy thái tử không bị đắm chìm trong đời sống thế tục,
dù đó là sự vàng son của ngôi vua, hạnh phúc của tình yêu tuổi
trẻ và sắc đẹp. Ta có thể gọi đấy là giải thoát bằng con đường
thực nghiệm, nhờ một cảm quan bén nhạy và lối nhìn tỉnh thức. Đó
là cách tu hành mà Phật dạy cho Bồ tát tại gia trong phẩm Tịnh
Hạnh - kinh Hoa Nghiêm. Muốn tu theo cách này, cần một lối dụng
tâm chân chính trong khi năm giác quan tiếp xúc 5 đối tượng bên
ngoài. Tổ Huệ Năng cũng dạy:
-
“Tâm
sẵn có trí tuệ thanh tịnh,
-
chỉ cần vận dụng tâm ấy thì sẽ thành Phật”,
-
(Tự tánh bồ đề, bản lai thanh tịnh
-
Đản dụng thử tâm trực liễu thành Phật)
-
Ta hãy đọc vài đoạn cách “dụng tâm” của Bồ tát trong kinh Hoa
Nghiêm, giải thoát bằng con đường thực nghiệm, bằng ngay sự việc
trước mắt chứ không cần phải cạo đầu đi tu hay lên núi xuống
hang gì cả. Điểm chính yếu trong cách dùng tâm này là tỉnh thức
trong công việc mình đang làm, sống ngay với phút giây hiện tại
đồng thời phát triển lòng bi mẫn và chính niệm.
-
“Bồ
tát tu tại gia hãy làm cho mọi người hiểu thấu nhà không thực,
hết bị sự bức bách của nhà.
-
Khi hiếu dưỡng cha mẹ, hãy nguyện cho mọi người khéo thờ phụng
chư Phật, cứu giúp cả chúng sanh.
-
Khi sum họp gia đình, hãy nguyện cho mọi người xem ghét thương
bình đẳng, để xa lìa ái luyến.
-
Khi thọ hưởng 5 dục, hãy nguyện cho mọi người nhổ tên độc tham
dục, được hoàn toàn an vui.
-
Khi xem ca vũ nhạc, hãy nguyện cho mọi người lấy chính pháp làm
vui, rõ múa ca giả dối.
-
Khi ở trong phòng thất, hãy nguyện cho mọi người được vào nơi
thánh địa, xa dục lạc nhiễm ô.
-
Khi đeo chuỗi ngọc quý, hãy nguyện cho mọi người bỏ trang sức
giả dối, đạt đến chỗ chân thật.
-
Khi đi lên lầu cao, hãy nguyện cho mọi người lên được lầu chính
pháp, thấy bao quát mọi loài.
-
Khi gặp tai nạn nguy, hãy nguyện cho mọi người được tự do tùy ý,
đi đâu không chướng ngại.
-
Khi bỏ nhà ra đi, hãy nguyện cho mọi người, xuất gia không
chướng ngại, tâm thường được giải thoát.
-
Thấy đường lên dốc cao, hãy nguyện cho mọi người được lìa cả 3
cõi, không có tâm khiếp nhược.
-
Khi đường đi xuống dốc, hãy nguyện cho mọi người tâm tính thường
khiêm hạ, thêm lớn mãi căn lành. .
-
Khi gặp đường quanh co, hãy nguyện cho mọi người từ bỏ tâm bất
chính, và các ác tà kiến.
-
Thấy người ham vui thú, hãy nguyện cho mọi người lấy chính pháp
làm vui, hoan hỉ trong chính pháp.
-
Thấy người không ham vui, hãy nguyện cho mọi người, tâm không bị
đắm mê, trong các pháp hữu lậu.
-
Thấy người tướng xinh đẹp, hãy nguyện cho mọi người, đối trước
Phật, Bồ tát, có lòng tin trong sạch.
-
Thấy người tướng xấu xí, hãy nguyện cho mọi người, đối các việc
ác tà, không khởi tâm ham thíchthích.
-
Thấy người biết đền ơn, hãy nguyện cho mọi người đối chư Phật Bồ
tát, thường biết nhớ ơn sâu.
-
Thấy người quên ơn nghĩa, hãy nguyện cho mọi người, đối với kẻ
ác độc không giữ tâm báo thù.”
-
Đấy là con đường thực nghiệm của Bồ tát tại gia, những người tu
ngay trong khi mắt thấy tai nghe hàng ngày, trong những cảnh
thuận ý hay nghịch ý bằng cách đào luyện chính niệm và từ bi .
-
Giải thoát bằng con đường thực nghiệm này còn có nghĩa là nhìn
mọi sự vật dưới ánh sáng của tuệ giác, qua đó tất cả đều là biểu
hiện của pháp thân, dù đó là trúc tía, mai vàng, hay bùn lầy,
nước đọng, ánh sáng hay bóng tối, mùa xuân hay mùa đông. Chỉ cần
cái mỉm cười, cái gật đầu của ta thì mọi sự đều tốt lành theo
kiểu ông già họ Tái mất ngựa. Tín tâm minh nói: “Chỗ chí đạo
không gì khó, chỉ kỵ lọc lừa”. (Chí đạo vô nan, duy hiềm
giản trạch)
-
Ngôn ngữ thiền gọi điều này là đoạt tâm không đoạt cảnh, bỏ sự
rắc rối. Mọi rắc rối có ra là do tâm rắc rối, bởi thế chỉ cần vô
tâm hay vô niệm là giải quyết được tất cả.
-
Chặng đường từ bỏ
-
Khi từ bỏ đời sống tại gia vào rừng tu khổ hạnh, là thái tử từ
bỏ con đường thực nghiệm để dấn thân vào vực thẳm, vào bóng tối,
vào đau khổ tự nguyện nhưng đồng thời vẫn tỉnh thức để thoát ra
khỏi nó khi thấy nó không đưa đến giải thoát. Con đường này mệnh
danh là sự giải thoát nhờ từ bỏ, như người tu khổ hạnh
nhờ khổ hạnh mà lìa dục hoặc như nghệ sĩ bị ám bởi một thể tài
nghệ thuật.
-
Chặng
dường sáng tạo
-
Nhờ từ bỏ lối tu khổ hạnh, thái tử tiến đến trung đạo, vượt trên
khổ và lạc, tìm thấy ánh sáng giác ngộ. Đấy gọi là giải thoát
bằng con đường sáng tạo, như sự bừng dậy của mùa xuân sau những
tháng đông băng giá, như ánh sáng cuối đường hầm. Sự sáng tạo
nghệ thuật cũng vậy, chỉ xảy đến sau khi nghệ sĩ hoàn toàn quên
mình, rút vào bóng tối để cho nghệ thuật tự hiển bày.
-
Chặng đường chuyển hóa
-
Cuối cùng khi quyết định ra thuyết pháp độ sanh là đức Phật đã
bước lên chặng đường tỉnh thức thứ tư, đem hoa trái của giác ngộ
gieo rắc khắp mọi người không phân biệt. Đấy cũng là con đường
của những chính trị gia thánh thiện như Gandhi, Dalai Lama thứ
XIV, đấy là con đường của Moise khi xuống núi Sinai, của Jesus
khi đến với đám đông tụ họp bên bờ sông Jordan. Họ là những
người đã giã từ thế gian rồi trở lại thế gian, sau khi đã hoàn
toàn chuyển hóa để phụng sự con người.
-
V.
KẾT LUẬN
-
Theo đại thừa giáo, cuộc đời của đức Thích Tôn từ khi đản sanh
cho đến khi nhập niết bàn đều là thị hiện như những phương tiện
độ sanh: thị hiện đản sanh, thị hiện thọ hưởng dục lạc, thị hiện
xuất gia tu khổ hạnh, thị hiện thành đạo và thị hiện niết bàn.
Thị hiện làm thái tử ở Ấn Độ cách đây 2535 năm là có không gian
và thời gian, nhưng kỳ thực Ngài là đấng bất sanh bất diệt vượt
ngoài thời không, Ngài là trung đạo, là bất nhị vì Ngài vượt
trên tất cả qua bốn chặng đường vừa nói. Ở trong dục lạc mà
không đắm mê dục lạc, xuất gia tu khổ hạnh nhưng không vướng mắc
khổ hạnh, thành đạo đạt niết bàn nhưng không vướng mắc niết bàn,
để cuối cùng trở lại giáo hóa độ sanh. Niết bàn của Ngài bấy giờ
trở thành vô trú niết bàn, một niết bàn không có
biên giới ngăn chia với sanh tử. Bởi vậy thật là niềm vui lớn
cho những ai có đủ lòng tin theo đó Phật là đấng chân thường,
như kinh Pháp Hoa dạy,
-
chư hữu tu công đức
-
nhu hòa chấp trực giả
-
tất giai kiến ngã thân
-
tại thử nhi thuyết pháp
-
(Những ai dày công tu luyện, tính tình nhu hòa chất trực, thì
sẽ thấy pháp thân của ta đang còn thuyết pháp)
-
Sau đây xin mạn phép trích dẫn một lời của Thượng tọa Trí Quang
để kết thúc bài này: “... Nhưng vô trú niết bàn là gì? Là xả bỏ
phiền não mà không xả bỏ chúng sanh. Nên Phật thường trú, thị
hiện đủ loại hình mà ích lợi chúng sanh. Không những thị hiện
thân Phật, thị hiện thành đạo thị hiện niết bàn, thậm chí đến
cái thân tôi tớ giúp việe Phật cũng thị hiện, và nói như kinh
Địa Tạng, cao nguyên bình nguyên ao hồ suối giếng, không có gì
lợi ích có tác dụng hóa độ cho chúng sanh mà Phật không thị
hiện. Phật thị hiện đến như vậy mà ta không nhận biết, vì ta là
đồ bể không thể chứa nước, hoặc chứa mà nước đục nước xao dộng,
thì chẳng bao giờ thấy được hình bóng vầng trăng”.
--o0o--
|
|