|
PHẬT GIÁO VIỆT NAM
NGUỒN MẠCH TÂM LINH
Nhà
Xuất Bản Tôn Giáo- HÀ NỘI–2003
Thích Nữ Trí Hải
---o0o---
Phần Một
-
04. Ý NGHĨA TRAI ĐÀN BẠT ĐỘ
-
-
I.
DẪN NHẬP
-
“Bạt” là nhổ lên, “độ” là vượt qua, thoát khỏi. Nhổ bật gốc rễ
của lòng tham để vượt qua các nẻo luân hồi, đấy là mục đích
chính của đạo Phật. Giáo lý Phật dạy rất nhiều, song chỉ có một
vị duy nhất là ly tham, giải thoát. Để đạt đến cứu cánh ấy, có
ba đường là Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật tông. Thiền chú
trọng tự lực, Tịnh chú trọng tha lực, còn Mật tông thì phối hợp
cả tự lực và tha lực để cuối cùng thấy tự, tha chỉ là một.
-
Trong một đàn tràng mandala, có đủ cả ba yếu tố thiền, mật và
tịnh độ, nhưng yếu tố sau cùng là Tịnh độ thì khá lu mờ. Điều ấy
làm ta thấy rõ, khi cô hồn đã lìa được tham ái chấp thủ thì ngay
tức khắc được giải thoát, vì “Liên đài bất ly đương xứ, tịnh
độ chỉ tại mục tiền”. (Đài sen không rời chỗ ở hiện tại, đất
tịnh nằm ngay trước mắt).
-
II.1. Mười Hai Loại Cô Hồn
-
Được triệu thỉnh bao hàm tất cả mọi người thuộc đủ các tầng lớp
trong xã hội xưa cũng như nay. Mỗi đoạn văn triệu thỉnh đều có
hai phần: đoạn trước nói về thân thế lúc đang sống, đoạn sau kể
từ hai tiếng “ô hô” là lời than cho số phận của cô hồn. Văn
chương rất súc tích; chính Nguyễn Du đã lấy hầu hết ý tứ trong
nghi lễ này để soạn thành bài “Văn tế thập loại chúng sinh”. Khi
đọc lên, chúng ta có cảm tường không những kêu gọi nhắc nhủ
người chết, mà còn cảnh tỉnh những người đang sống. Sau đây ta
sẽ kể ra 12 loại cô hồn theo Khoa nghi, bản dịch của Cố HT Bích
Liên, đồng thời đối chiếu các đoạn tương ứng trong Văn tế thập
loại.
-
Loại cô hồn đầu tiên là “lụy triều đế chúa”, những ông vua các
triều đại đã qua, phần lớn là những ông vua chết do tai nạn “đổi
đời”. Đang trong cảnh thái bình “Mấy đời chín lớp ở cao, Non
sông muôn dặm thâu vào một tay” nhưng bỗng chốc chiến hạm từ
phương tây kéo đến, thế là “Thuyền chiến phút đổi thay vượng
khí, Xe loan còn rủ rỉ hoan thinh”. Và rồi “Ôi thôi, Đỗ
quyên kêu trót tàn canh, Máu hờn nhuộm mãi trên cành đào hoa”.
-
Kế
đến là quan võ hay tướng tá: “Ngàn cân lực cử đảnh vàng, Thân
trường thành vững trăm ngàn dặm khơi”, nhưng thường chết bất
đắc kỳ tử “Trướng hùm lạnh uổng đời hãn mã, khói lan tràn nào
gã Phan long”. Ôi thôi, “Ngựa nhà chiến tướng vắng không,
Hoa hèn cỏ nội một vùng buồn thiu”.
-
Loại cô hồn thứ ba là “bá quận danh thần” hay quan văn, gồm
những quan huyện, phủ, tức là những nhân viên hành chính, thường
phải nhậm chức xa nhà, chết xa quê hương. “Nhà châu quận xa
làng phụ mẫu, Chốn nước trời theo dấu thần tiên. Ôi thôi, chinh
chinh biển loạn sông nghiêng, Mờ mờ hồn bướm ly miền dương quan”.
-
Về
ba hạng này văn tế Thập loại có khác: Nguyễn Du không kể những
ông vua chết bình thường, “lụy triều đế chúa”, không kể những
vua bị cướp ngôi, mà chỉ nhắc đến những kẻ “tính đường kiêu
hãnh, Chí những toan cướp gánh non sông. Nói chi đương thuở thị
hùng, Tưởng khi thế khuất vận cùng mà đau. Bỗng phút đâu lò bay
ngói lở, Không đem mình làm đứa thất phu”. Tức là những oan
hồn kiểu Từ Hải. Tướng cũng vậy, Nguyễn Du chỉ kể những ông
tướng phản loạn: “Kìa những kẻ bày binh bố trận, Đem mình vào
cướp ấn nguyên nhung. Gió mưa sấm sét đùng đùng, Phơi thây trăm
họ làm công một người”. Để đến kết quả là “Khi thất thế
cung rơi tên lạc, Bãi sa trường thịt nát máu rơi, Bơ vơ góc bể
chân trời, Nắm xương vô chủ biết rơi chốn nào”. Về quan văn,
Nguyễn Du nhấn mạnh hạng quan tòa xử án “Ngòi bút son thác
sống ở tay”, đã gây nhiều oan trái: “Thịnh mãn lắm oán
thù càng lắm”. Khi chết thì “Ngàn vàng khôn đổi được
mình, Lầu ca viện xướng tan tành còn đâu”.
-
Hạng thứ tư là hạng sinh viên học sinh, “bạch ốc thư sinh”. “Tan
lửa đóm tiếc dày công học, Mòn đĩa nghiên uổng nhọc chí bền. Ôi
thôi, lụa hồng bảy thước đề tên, Đất vàng một cụm lấp nền văn
chương”.
-
Đêm ngày chăm lo đèn sách, nhưng nửa chừng chết yểu thì những mớ
kiến thức bỗng trở thành vô nghĩa. Hạng này tuy không bị bạo tử
gian nan như ba hạng trên, vì chưa có danh phận, nhưng Khoa nghi
cho ta thấy rằng kiến thức ở đời thật vô nghĩa khi đối mặt với
cuộc tử sinh. Bởi vậy cái học đích thực phải là một cái học để
thăng hoa, chuyển hóa con người, chứ không thể chỉ là kiến thức
suông để tìm cơm áo, hư danh. Học cho nhiều mà đến khi chết vẫn
mờ mịt về bản thân mình thì vẫn là một thất bại, vẫn thành một
cô hồn vất vưởng. Trong Văn tế thập loại, Nguyễn Du nói về hạng
này như sau: “Cũng có kẻ rắp cầu chữ quý, Đem thân vào thành
thị lân la, Mấy thu lìa cửa lìa nhà, Văn chương đã chắc đâu mà
trí thân?” Nghĩa là vì công danh, lên kinh đô ứng thí, chưa
đỗ đạt gì đã thành cô hồn: “Dọc hàng quán phải tuần mưa nắng,
Vợ con nào nuôi nấng kiêng khem”. Bệnh mưa nắng qua loa đáng
lẽ không đến nỗi chết, song vì không được săn sóc, nên chết sớm:
“Vội vàng liệm sấp chôn nghiêng, Anh em thiên hạ, láng giềng
người dưng”. Người thiên hạ đã xa lạ mà gặp “anh em” của
thiên hạ thì lại càng xa hơn một bực, kẻ láng giềng cũng không
phải của mình mà là kẻ láng giềng của “người dưng” (chỉ chủ
trọ): được hạng này chôn thì chỉ làm quấy quá cho xong chuyện,
nên “Cô hồn nhờ gởi tha phương, Gió trăng hiu hắt lửa hương
lạnh lùng”.
-
Hạng thứ năm là một số các vị tu sĩ, mà nguyên văn gọi là “xuất
trần thượng sĩ”. Hạng này cũng vậy, mục đích là xuất trần, và
được gọi là thượng sĩ, nhưng tại sao lại còn quanh quẩn trong
thế giới cô hồn? Ấy chính vì khi sống, họ chỉ nói suông những
lời Phật dạy, lặp lại một cách máy móc lý Bát nhã, luận đàm về
vô thường, khổ, không, mà chưa thực sự áp dụng chân lý ấy vào
đời sống, vẫn còn tham một cái gì đó, nên không được siêu thoát.
Do vậy, tuy rằng họ không bị chết bạo tử như vua chúa tướng tá,
cái chết của họ vẫn ìà một tai nạn đáng thương, bởi vì chết mà
chưa đạt mục đích của đời sống xuất gia.
-
Họ
vẫn còn tiếc nuối một cái gì, nên lai vãng chỗ ở của họ trước
đây trong chùa chiền: “Cửa kinh trăng thảm lạnh lùng, nhà
thiền leo lét đèn chong canh dài” (Kinh song lãnh tẩm tam
canh nguyệt, thiền thất hư minh bán dạ đăng.) Họ không siêu do
vì đã “không đàm bí mật chơn thuyên” và “đồ thuyết khổ, không
diệu kệ”. Văn tế Thập loại của Nguyễn Du hoàn toàn không nhắc
đến hạng này.
-
Hạng sáu là các huyền môn đạo sĩ, những người luyện linh đơn
trong đạo Lão, những người coi bói tướng, thiên văn địa lý, đoán
vận mệnh người khác mà chính vận mệnh của mình thì mù tịt nên
vẫn trôi lăn trong sinh tử và chết rồi vẫn vất vưởng trong cõi
trung gian không giải thoát được. “Ôi thôi! Lò hương lâm quán
lãnh sương, tiếu đàn gió lạnh thổi tàn hạnh hoa”. Văn triệu
thỉnh nhắn nhủ họ quay về với chính đạo, bỏ các tà kiến, tà mạng
nói trên.
-
Văn tê thập loại của Nguyễn Du cũng không nhắc tới hạng này.
-
Hạng thứ bảy là thương gia lữ khách buôn bán xuôi ngược để kiếm
lời, rủi bị chết dọc đường. Hạng này cũng do tham lợi mà chết
bất kỳ. “Thân sương gió thịt chôn bụng cá, bước đá mây xương
rã đường đê. Ôi thôi, Vía theo mây bắc sề sề, hồn theo ngọn nước
xuôi về biển đông”. Nguyễn Du nói đến ba hạng thương gia:
Hạng “tính đường trí phú, làm tội mình nhịn ngủ bớt ăn”.
Đấy là hạng thương gia giàu nhưng cô độc và ích kỷ: “Ruột rà
không kẻ chí thân, Dẫu làm nên nữa dành phần cho ai?”. Bởi
thế nên khi họ chết thì “Khóc ma mướn thương gì hàng xóm, Hòm
gỗ đa bó đóm đưa đêm, Ngẩn ngơ nội cỏ đồng chiêm, Tuần hương
giọt nước biết tìm nơi đâu?” Hạng thương gia thứ hai tương
đương với Khoa nghi chẩn tế: “Cũng có kẻ vào sông ra bể, Cánh
buồm mây chạy xế gió đông Gặp cơn giông tố giữa dòng, Đem thân
vùi lấp vào lòng kình nghê”. Hạng thứ ba là tiểu thương kiếm
sống qua ngày: “Cũng có kẻ đi về buôn bán, đòn gánh tre chín
dạn hai vai, Gặp cơn mưa nắng giữa trời, Hồn đường phách sá lạc
loài nơi nao?”
-
Hạng tám là chiến sĩ trận vong. “Cờ điều phất ngọn tương
tranh, trong chòm mũi bạc đem mình chống đương. Gan ruột nát
theo trường kim cổ da thịt rơi đầy chỗ can qua. Ôi thôi, cát
vàng văng vẳng tiếng ma, mờ mờ xương trắng ai mà nhặt cho”.
Nguyễn Du thì: “Cũng có kẻ mắc vào cửa lính, Bỏ việc nhà gồng
gánh việc quan, Nước khe cơm vắt gian nan, Dãi dầu muôn dặm lầm
than một đời”. Hạng này khi sống đã khổ, mà chết còn thảm
thê hơn: “Buổi chiến trận mạng người như rác, Phận đã đành
đạn lạc tên rơi, Lập lòe ánh lửa ma trơi, Tiếng kêu thăm thẳm
tối trời càng thương”.
-
Hạng thứ chín là những sản phụ chết cả mẹ lẫn con: “Vần cung
phụng phút chường hung kiến, tuồng ngõa chương rơi rớt mẹ con”.
Ôi thôi, “nhành hoa nở trận mưa tuôn, đương khi trăng tỏ gặp
luồng mây xâm”.
-
Văn tế thập loại chỉ nhắc đến trẻ sơ sinh bị chết: “Kìa những
đứa tiểu nhi nhỏ bé, lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha, Lấy ai bồng bế
vào ra, U ơ tiếng khóc xót xa nỗi lòng”.
-
Hạng mười là những kẻ đui điếc câm ngọng, tôi tớ nô tỳ bị chết
vì tai nạn lao động “cần lao thất mạng thương nô”, những tì
thiếp bị vợ cả ghen tuông mà phải vong mạng do tự sát hay do bị
đầu độc “đố kị thương thân tì thiếp”. Những người này sở dĩ phải
chịu một đời khốn nạn vì kiếp trước đã không tu, khinh khi Tam
bảo, ngỗ nghịch đối với cha mẹ, tạo nhiều tội nghịch nên nay
phải trả quả báo, gọi là “báo chướng”. “Khinh Tam bảo tội
dường cát bãi, nghịch song thân ác dẫy cõi người. Ôi thôi, đêm
trường thăm thẳm bóng ma, cửa mù thui thủi như tòa thu đông”.
(Trường dạ mang mang hà nhựt hiểu, U quang ẩn ẩn bất tri xuân).
Văn tế thập loại không kể riêng một hạng này, thay vì thế, lại
có một hạng mà Khoa nghi không nhắc tới, đó là hạng buôn hương
bán phấn: “Lại có kẻ lỡ làng một kiếp, Liều tuổi xanh bán
nguyệt buôn hoa”. Số phận của họ thật thảm: “Sống đã chịu
một đời phiền não, thác lại nhờ hớp cháo lá đa” vì không có
chồng con cúng tế.
-
Hạng mười một là những cung phi mỹ nữ như Dương quý phi, gặp lúc
thất thế phải tự sát, tự trầm: “Hồn vân vũ tan vườn Kim cốc,
Ruột trăng hoa héo dọc Ma ngôi”. Ôi thôi, “Phong lưu ngày
trước đâu rồi, xương khô lạnh lẽo trên chồi cỏ cây”. “Kim
cốc” là nhà vàng do tỷ phú Thạch Sùng xây cho người đẹp Lục Châu
ở, Mã Ngôi là nơi Dương quý phi bị bức tử. Văn tế nêu lên hai
người đẹp chết oan, (một người đoan chính là Lục châu không chịu
nhục nên tự sát, và một người ăn ở hai lòng là Dương quý phi thì
bị bức tử) để cho ta thấy rằng “cô hồn” bao hàm nhiều hạng sang
hèn thiện ác chứ không chỉ thuần là kẻ ác mới thành cô hồn. Văn
tế thập loại thì “Kìa những kẻ màn lan trướng huệ, Những cậy
mình cung quế Hằng nga” đến khi đổi đời “một phen thay
đổi sơn hà” thì “Trên lầu cao dưới dòng nước chảy, phận
đã đành trâm gãy bình rơi, Khi sao đông đúc vui cười, Mà khi
nhắm mắt không người nhặt xương”.
-
Cuối cùng là những hành khất, tù nhân bị tử hình, những kẻ chết
ngang trái do tai nạn nước, lửa, bị thú dữ ăn thịt, ngộ độc, tự
ải, sét đánh... “Lại thỉnh kẻ cơ hàn khất cái, Cùng tù nhân
mang phải trọng hình, Gặp tai nước lửa hại mình, Hoặc vương hùm
sói tan tành thịt xương”. Văn tế thập loại có những đoạn
tương đương như sau: “Cũng có kẻ nằm cầu gối đất, Dõi tháng
ngày hành khất ngược xuôi, Thương thay cũng một kiếp người, Sống
nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan”. Về hạng tù nhân, Nguyễn
Du nhắc đến hạng chết trong ngục thay vì bị tử hình: “Lại
những kẻ mắc oan tù rạc, đem mình vào chiếu nát một manh. Nắm
xương chôn lấp góc thành, Kiếp nào cởi được oan tình ấy đi?”
Và trong đoạn cuối Văn tế thập loại, cụ Nguyễn Du đã kể chung
các hạng người chết ngang trái như sau: “Có những kẻ chìm
sông lạc suối, Cũng có người sẩy cối sa cây, Có người gieo
giếng, thắt dây, Người trôi nước lũ, kẻ lây cháy thành. Người
thì mắc sơn tinh thủy quái, Người thì sa nanh sói ngà voi. Có
người hay đẻ không nuôi, Có người sa sẩy, có người khốn thương!”
Ngày nay còn các tai nạn khác như điện giựt, rớt máy bay, đụng
honda, tai nạn lao động trong các nhà máy, tai nạn do nhiễm
phóng xạ nguyên tử, tai nạn do hóa chất... không bút nào tả cho
xiết những loại chết ngang trái này. Lại nữa, trong 12 loại cô
hồn, cả trong Khoa nghi lẫn Văn tế thập loại đều không thấy nhắc
đến một hạng người khốn đốn nhất ngay cả lúc đang sống, đó là
hạng người mắc bệnh thần kinh.
-
Sau nhiều giai đoạn nghi lễ rất chi tiết có tính cách chuyên môn
– gồm có lễ Phật, thỉnh sư thăng tòa, thỉnh Tì lô giá na Pháp
thân Phật ngự trên mão đội, kết giới năm phương hướng, kết giới
hàng ma, và bắt ấn đọc thần chú để làm cho đàn tràng trong ngoài
thanh tịnh, gia trì thần lực vào các pháp khí như chuông, mõ,
linh, khánh, v.v.. cùng các đồ cúng – tất cả 12 loại cô hồn được
mời thọ hưởng pháp vị Cam lồ. Vị chủ sám xướng đại khái như sau:
-
“Tôi nay thừa oai thần chư Phật, xin mời tất cả quỷ thần trong
ba nẻo sáu đường. Nguyện cho tất cả các bộ loại quỷ thần nhờ
năng lực Như lai, vào giờ này được hấp thụ Pháp vị cam lồ ngon
nhứt cua Phật, ăn uống no đủ, phát tâm bồ đề xa lìa tà hạnh. Nhờ
vậy không còn phải luân hồi trong các ác đạo, ba nghiệp thân
miệng ý thanh tịnh, chứng đạo bồ đề”. Sau đó là phần khai thị
cho cô hồn về chân lý nòng cốt của Phật, là tất cả đau khổ tội
ác đều do vô minh, tham ái. Ánh sáng từ bi của Phật chiếu cùng
khắp, như mặt trời không soi sáng riêng ai, chỉ tại người mù
không thấy. Bây giờ, hãy từ bỏ vô minh cố chấp, nương theo ánh
từ quang của Phật tức thì được giải thoát khỏi các đường dữ.
-
2.
Tam Mật Gia Trì
-
Sự
cầu nguyện cốt ở chỗ thân, khẩu, ý ba nghiệp phải hoàn toàn
thanh tịnh gọi là “tam mật gia trì” để hợp nhất tự lực với tha
lực, thành một năng lực vô biên có thể “bạt độ” tất cả cô hồn. Ở
đây hai yếu tố Thiền, Mật kết hợp chặt chẽ. Trước khi quán các
tướng (như quán ánh sáng của Phật, quán các đồ cúng đầy khắp hư
không và đủ loại cần dùng cho đủ loại cô hồn: tỉ như nước uống
thì phải quán nhiều thứ nước như la de, xá xị, nước mía, nước
sinh tố, pepsi-cola và mọi thức uống khác hiện có trên thị
trường) thì cần thiết tâm phải trống rỗng tất cả mọi khái niệm,
như một bầu trời bao la không một gợn mây trong đó. Trong Chân
không có đủ tất cả, mặc dù nhìn bằng mắt thịt thì chẳng có gì:
“tức Giới, tức Định, tức Tuệ, phi mộc, phi hỏa, phi yên”.
-
Từ
cái tâm thanh tịnh quán ra chư Phật, Bồ tát đầy cõi Hư không,
hoặc quán ra quỷ thần, cô hồn, thực phẩm đầy cả hư không. Khi đã
quán được cái không thành cái có, thì có thể thấy được cái có
cũng là không, cả hai cái có, không đều từ Chân tâm biến hiện,
đều như huyễn. Bát nhã tâm kinh dạy, vật chất không khác chân
không, chân không chẳng khác vật chất. Vật chất chính là chân
không, chân không chính là vật chất. Trong Chân không, bao hàm
tất cả vật chất, vì tất cả vật chất rút giảm đến cùng chỉ là
nguyên tử, nguyên tử khi được phân tách lại gồm có âm điện tử,
dương điện tử và trung hòa tử, những thứ này vừa là ánh sáng vừa
là năng lượng, vừa động vừa tĩnh, vừa là sắc, vừa là không. Mọi
sự vật từ vật chất đến tinh thần đều được kết hợp bằng những
nguyên tố đơn giản nhất ấy, tùy tỉ lệ và cách sắp xếp của chúng
mà có ra vạn loại. Sự khám phá này của khoa học vật lý đã tiến
rất gần đến Phật giáo và giúp người ta hiểu được phần nào về mật
tông.
-
Trong mật tông, mỗi vị Phật hay Bồ tát, mỗi nguyên tố vũ trụ như
địa thủy hỏa phong đều có chủng tự và ấn quyết riêng. “Chủng tự”
là những âm thanh tương ứng với một vị Bồ tát, hình thức ngắn
gọn của thần chú. Mỗi nguyên lý cấu tạo vũ trụ cũng có chủng tự
riêng, như phạn tự LAM tiêu biểu Địa giới, VAM tiêu biểu Thủy
giới, RAM tiêu biểu Hỏa giới và YAM tiêu biểu Phong giới (hay
Không giới). Nghĩa là, không có gì khác nhau giữa LAM với đất,
VAM với nước..., và một vị đắc tứ thiền (vì cần phải KHÔNG TÂM
trước, tức là TỊNH CHỈ hoàn toàn, mới quán được thành công, và
thành công đây là “thần thông” hô phong hoán vũ) chỉ cần lẩm
nhẩm những chủng tự này và quán nước, quán đất là có thể hóa
phép thành nước để dập tắt lửa, hay thành đất để đi giữa hư
không hoặc đi trên nước. Tay bắt ấn là thân nghiệp, miệng đọc
chú là ngữ nghiệp, tâm quán tưởng chủng tự là ý nghiệp. Có thể
nói rằng, “tam mật gia trì” giống như một phòng thí nghiệm vật
lý trong đó mọi điều kiện phải được hoàn tất thì mới có được
hiệu quả mong muốn.
-
3.
Ngũ Phương Phật
-
Ngũ phương Phật tượng trưng cho năm uẩn không còn bị chấp thủ
trong một bản ngã, gọi là Ngũ trí Như Lai: Ở trung ương, đức Tì
Lô Giá Na tượng trưng Sắc uẩn và cũng là Pháp giới thể tính trí.
Đông phương là Phật Bất Động hay A Súc Bệ, tượng trưng Thức uẩn
đã chuyển thành Đại viên cảnh trí. Nam phương là Phật Bảo Sinh,
tượng trưng Thọ uẩn đã chuyển thành Bình đẳng tính trí. Tây
phương là Phật A Di Đà, tượng trưng Tưởng uẩn đã chuyển thành
Diệu quan sát trí. Bắc phương là Phật Bất Không Thành Tựu, tượng
trưng Hành uẩn đã chuyển thành Thành sở tác trí. Mật tông khi
truyền sang Trung Quốc còn chịu ảnh hưởng Dịch lý, nên Ngũ
phương còn tượng trưng Ngũ hành trong Dịch học: Trung ương là
hành Thổ, sắc vàng, phương Đông là hành Mộc sắc xanh, phương Nam
là hành Hỏa sắc đỏ, phương Tây là hành Kim sắc trắng, phương Bắc
là hành Thủy sắc đen (hoặc lục).
-
Con người là một tiểu vũ trụ đầy đủ tất cả tiềm năng của đại vũ
trụ bên ngoài, vì được cấu tạo bởi cùng những nguyên tố là địa
thủy hỏa phong, và cũng theo những quy luật âm dương ngũ hành
như vũ trụ.
-
Vì
tự giam mình trong cái vỏ cứng của sự chấp thủ, gọi là năm thủ
uẩn, ta tự tạo ra một bản ngã hẹp hòi mà chỉ là ảo tưởng, bản
ngã ấy lên xuống qua lại trong các nẻo luân hồị để chịu bao
nhiêu đọa đày thống khổ. Vì bản ngã đã phi thực, nên khổ cũng
phi thực, chỉ như người và cảnh trong mộng. Khi tỉnh mộng rồi ta
mới biết cái “tôi” trong mộng và những gì cái “tôi” ấy kinh
nghiệm trong mộng đều không thực có. Giải thoát là lìa chấp thủ,
khi hết chấp thủ vào một cái tôi riêng rẽ, thì con người và vũ
trụ là một. Ngũ uẩn thành ngũ trí Như lai, nghĩa là thành những
năng lực vô tận vô biên để cứu thoát chúng sinh trong các đọa
xứ.
-
Nhưng chúng sinh vốn là Phật, chỉ vì chấp thủ mà thành chúng
sinh, cho nên trong việc “cứu độ” của Phật, cần có sự hợp tác
chặt chẽ của chính những chúng sinh được cứu. Trong không gian
luôn luôn có những luồng điện đủ các tần số đang phát sóng, mỗi
chúng sinh ví như một cái radio, cần phải bật lên và vặn đúng
tần số mới nghe được. Sự tu tập và cứu độ trong mật tông căn cứ
trên nguyên lý ấy.
-
Tính Không, nguyên lý nòng cốt của mọi sự, gọi là Pháp giới, nằm
ở trung tâm. Nó là chỗ phát xuất và chỗ trở về của vạn pháp
trong vũ trụ. Tương tự nguyên lý Dịch, từ thái cực sinh lưỡng
nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh ra bát quái, từ
bát quái biến ra 64 quẻ cho đến vô cùng tận, một đồ hình mật
tông cũng thế, tất cả Phật, Bồ tát, thiện thần, hung thần đều là
hóa thân của Kim cương tát đỏa, và Kim cương tát đỏa là hóa thân
của đức Tì lô giá na. Năm Phật ở năm phương chỉ cần ngồi đấy
không cần phải làm gì cả, nên thường gọi là Phật thiền (Dhyàni
Buddhas). Hành động phóng quang cứu khổ, vân vân, đã có các hóa
thân thành hai mặt đối kháng như lành và dữ, nam tính và nữ
tính, vân vân.
-
Cho nên hai bên mỗi vị Phật thường có hai Bồ tát hầu cận, tượng
trưng hai nguyên lý đối nghịch ấy, như lưỡng nghi sinh từ Thái
cực. Phật không làm gì, nhưng không có Phật thì không xong việc
gì cả. Ngài an tọa ở đấy nhưng cứu độ được cả mười phương chúng
sinh, khi chúng sinh nâng cao tâm hồn đủ để bắt gặp những tần số
rung động của các hóa thân Phật. Ta có thể ví chư vị Phật thiền
ở ngũ phương giống như những yếu tố xúc tác (catalyst) trong hóa
học, một hiện diện vô hành nhưng rất cần thiết.
-
Khổng Tử cũng nói: “Trời không nói gì cả, mà bốn mùa vận hành,
trăm hoa tươi tốt”. Lá xanh cần mặt trời như thế nào, thì chúng
sinh cũng cần Phật như thế ấy, mặc dù Phật chỉ việc ngồi đấy mà
thôi, mọi sự độ sinh đã có chư vị Bồ tát chiếu liệu. Và ở hóa
thân, thì có hai mặt lành dữ, nhưng tựu trung cũng chỉ từ một
căn bản. Như Bồ tát Quan Âm cứu khổ khi hóa thành Diện nhiên Đại
sĩ để thống lĩnh 12 loại cô hồn thì phải có gương mặt thật dữ
dằn. Tại vì chúng sinh có kẻ cần phải dùng biện pháp mạnh mới
hàng phục được.
-
Trong một mandala đầy đủ (gồm trên 100 vị phật, Bồ tát, thiện
thần, hung thần – ngũ phương Phật chỉ là cái lõm) những hung
thần (như Tiêu diện) tượng trưng cho những khuynh hướng xấu ác
trong tâm, hoặc sự tự trừng phạt của một lương tâm bất an do ác
nghiệp; vì Phật giáo vốn không công nhận có sự thưởng phạt của
một quyền năng bên ngoài. Chư thiên thiện thần chỉ đóng vai trò
ngoại hộ, hỗ trợ tinh thần cho bậc tu hành, chứ không giải thoát
cho ai được cả. Nhiều người xem chẩn tế hiểu lầm mật tông là một
hình thức mê tín đa thần (thần quyền), nhưng Tử thư – quyển sách
mà người Tây Tạng đọc để hướng dẫn người sắp chết – luôn luôn
nhắc nhở rằng, tất cả hiện tượng gì họ thấy trong tâm nhãn trước
giờ chết đều do tâm biến hiện, đừng sợ hãi khiếp đảm mà cần giữ
tâm chuyên nhất, hoặc hướng về ánh sáng tiếp độ của Phật thì sẽ
được giải thoát. Người giữ được nhất tâm trước những hình ảnh
khủng khiếp gọi là giải thoát nhờ thiền định, hay tùy pháp hành,
còn người nhờ niệm Phật, sám hối mà không sợ hãi và cuối cùng
nhận ra các hiện tượng đó đều do tâm tạo, thì gọi là giải thoát
nhờ đức tin, hay tùy tín hành. Nhưng thiền định hay đức tin đều
do tự mình khổ công đào luyện suốt cả đời may ra mới công hiệu
khi chạm mặt với cái chết.
-
Thần chú (mantra) cũng như chủng tự mỗi vị Phật liên hệ đến một
màu sắc khác nhau, như Tì Lô Giá Na màu vàng, A Súc Bệ màu xanh,
Bảo Sinh màu đỏ, A Di Đà màu trắng, Bất Không Thành Tựu màu đen
hay lục.
-
Sự
đọc chú, tâm tập trung quán tưởng là điều kiện cần thiết để có
cảm ứng chuyển được vật và triệu thỉnh được thần. Điều này có vẻ
huyền bí nhưng kỳ thực chỉ là một sự nối dài của nguyên lý vật
lý mà ta đã biết về âm thanh đến một tần số nào đó có thể làm vỡ
kính, hay một ví dụ khác, người Việt khi nghe tiếng “me chua”
thì chảy nước miếng. Nếu không để ý, hoặc phát âm thành “mè” hay
“mẻ” thì không có tác dụng gì cả.
-
Theo cuốn Tử thư của người Tây Tạng, một người mới tắt thở, nếu
suốt đời đã tu chứng cao, có trí tuệ, khi gặp ánh sáng Pháp giới
(biểu trưng năng lực vũ trụ) thần thức sẽ nhập một với ánh sáng
và được giải thoát ngay, không phải trải qua giai đoạn trung ấm
tức là khoảng thời gian người chết biết rằng mình đã chết
(thường là ba ngày rưỡi sau khi tắt thở) cho đến 49 ngày sau.
Nếu vụng tu, khi gặp ánh sáng Năng lực vũ trụ, thần thức sẽ vô
cùng kinh hãi, trốn chạy như trong một cơn ác mộng, và thế là lỡ
mất cơ hội giải thoát. Người mới chết thường chưa biết mình
chết, nên thấy bà con khóc lóc thì bực mình. Họ kêu gọi người
thân đang khóc nhưng không ai nghe, mặc dù họ vẫn nghe được,
biết được mọi sự xảy ra trong thế giới người sống. Sau đó, người
chết rơi vào một trạng thái bất tỉnh trong ba ngày rưỡi; và khi
tỉnh dậy, có một sự sáng suốt bừng lên, biết mình đã chết, và do
không chịu nổi trạng thái không thân, họ toan tìm lối nhập vào
một bào thai để có một thân xác. Trạng thái 49 ngày của thân
trung ấm khởi đầu từ đây. Ngày thứ nhất (tức khoảng ba ngày rưỡi
sau khi tắt thở), hào quang vàng của Pháp thân Tì Lô Giá Na
chiếu đến cứu độ và đồng thời lại có ánh sáng cõi trời màu trắng
đục chiếu đến.
-
Ánh sáng của Phật rất xốn xang (nhất là đối với người không quen
nghe kinh niệm Phật) còn ánh sáng cõi trời thì dịu hơn, thế là
người ấy tái sinh lên trời. Nếu là người ác, họ có thể để tuột
mất cả hai ánh sáng này, lang thang qua ngày thứ hai. Khi ấy Kim
cương tát đỏa hóa thân của Phật A Súc tượng trưng Thức uẩn thuần
tịnh chiếu đến ánh sáng màu xanh; ngày thứ ba đức Bảo Sinh
(tượng trưng thẩm mỹ) chiếu đến ánh sáng màu đỏ; ngày thứ tư
Phật A Di Đà chiếu ánh sáng màu trắng (tưởng uẩn thuần tịnh);
ngày thứ năm Phật Bất Không chiếu đến ánh sáng màu lục. Mỗi lần
ánh sáng cõi Phật chiếu đều có thêm ánh sáng tương tự nhưng dịu
và đục cũng chiếu đến, và những ánh sáng này tương đương với các
cõi a tu la, người, địa ngục, ngạ quỷ. Do vậy, người chết được
nhắc nhở luôn luôn đừng đi theo những ánh sáng đục, dịu vì đấy
là những nẻo luân hồi mà họ sẽ rơi vào. Hãy luôn luôn đi theo
những ánh sáng chói chang của Phật. Điều này theo quy luật đồng
thanh tương ứng, nếu người chết từng nặng về sắc, hay thọ, hay
tưởng, hay hành, hay thức, thì khi chết sẽ đi theo những gì mà
họ khoái nhất lúc sinh tiền, tượng trưng bằng những ánh sáng của
Phật và các cõi. Nếu người chết vẫn trốn chạy tất cả ánh sáng,
do sợ hãi và lưỡng lự, thì qua ngày thứ sáu, tất cả hóa Phật ở
năm phương hướng đồng loạt chiếu hào quang đến một lần chót, tựa
như một mẻ lưới cuối cùng, để cứu vớt. Kể từ ngày thứ bảy trở
đi, thần thức mò mẫm qua các nẻo luân hồi để tìm một thân xác,
cho đến khi gặp một hoàn cảnh thích ứng với nghiệp của nó, và
như thế là có tái sinh, nhập thai và già chết như cũ nên gọi là
trôi lăn hay luân hồi. Đấy là sơ lược tiến trình của một thân
trung ấm qua 49 ngày sau khi chết, vì lý do đó mà có sự kết giới
ngũ phương tượng trưng năng lực cứu độ của chư Phật đối với 12
loại cô hồn.
-
Ở
đây có thể khởi lên một câu hỏi: nếu không có một bản ngã, nếu
là vô ngã, thì AI luân hồi? Trả lời: không ai cả, chỉ có luật
ĐỒNG KHÍ TƯƠNG CẦU vận hành ở đây. Năm uẩn khi tan rã, cái gì
thuộc đất trở về đất, nước đi theo nước, hơi trở về hư không, đó
là phần “sắc uẩn” tức thân xác. Phần vô hình cũng có nhiều yếu
tố như thương, giận, sợ, si, thù, ghét, buồn, hận, vân vân, mỗi
thứ đều có những “phóng xạ” những tần số rung động khác nhau.
Nếu một người khi sống tham dục nhiều, thì phần “khí” của họ có
rất nhiều phóng xạ tham dục, và sẽ bị thu hút tới những chỗ nào
nhiều tham dục nhất như loài heo, nếu người ấy đồng thời không
có một nghiệp lành nào, không ưa gì khác ngoài sự hưởng thụ vật
dục. Con heo kiếp sau và con người kiếp trước không phải là một,
nhưng quả có chịu ảnh hường của con người kiếp trước, nên cũng
không thể nói là hoàn toàn khác. Cũng giống như trong một đời
người, lúc sơ sinh khác hẳn lúc trưởng thành, từ thân thể cho
đến tính tình, tri thức, đến nỗi ta khó mà nhận ra cả hai chỉ là
một.
-
III. KẾT LUẬN
-
Nếu ta ý thức sự cứu tế xã hội cần thiết trong cõi người sống
như thế nào, thì trong cõi vô hình, sự bạt độ vong linh cũng cần
thiết như thế ấy: “Sống làm sao, chết làm vậy”. Con người không
những chỉ sống bằng lý trí mà còn sống bằng tình cảm. Cúng giỗ
người chết cũng như tiếp tế cho người thân ở xa, chẳng những làm
ấm lòng kẻ ra đi mà còn an lòng người ở lại. Điều cần thiết là
phải làm thế nào để sự cúng tế vừa hợp lý vừa hợp tình “Lý” đây
là chân lý Phật đã dạy, theo đó chết chỉ là một chuyển tiếp qua
đời sống khác, nếu còn ở trong vòng luân chuyển. Như vậy, rất
cần chuẩn bị cho người chết một tái sinh tốt đẹp bằng phương
pháp thực hành các việc phước như ăn chay, bố thí, phóng sinh
nhân danh người quá cố. Dù người chết không thực sự hưởng các đồ
cúng, vẫn nhờ công đức bố thí ấy mà được lợi lạc. (Theo lời Phật
dạy, chỉ có kẻ đọa vào loài quỷ đói mới hưởng đồ cúng.) Huống
hồ, trong một trai đàn, phẩm vật hiến cúng tuy nhiều song vẫn
chưa quan trọng bằng “pháp thí”, cam lồ pháp thực để cảnh tỉnh
người còn kẻ khuất. Đó mới thực là cuộc lễ hội bố thí vĩ đại đem
đến kết quả quốc thái dân an.
--o0o--
|
|