|
PHẬT GIÁO VIỆT NAM
NGUỒN MẠCH TÂM LINH
Nhà
Xuất Bản Tôn Giáo- HÀ NỘI–2003
Thích Nữ Trí Hải
---o0o---
Phần Hai
-
-
I.
TỔNG QUAN TÁC PHẨM
-
Hermann Hesse
-
Hermann Hesse sinh năm 1887 ở một tỉnh nhỏ Tây Đức. Thuở thiếu thời ông bán
sách nên có dịp đọc sách nhiều. Sự nghiệp của ông bắt đầu bằng thơ nên văn của
ông có tính chất thơ và súc tích (khó hiểu). Thời đại ông sống gặp lúc thế
chiến thứ 2, đang thời hưng thịnh của Đức quốc xã với Hitler tàn sát dân Do
Thái, ông phải định cư vĩnh viễn ở Thụy Sĩ. Tất cả tác phẩm của ông đều chứa
đựng một triết lý bi quan, nói lên sự đau khổ, cô đơn của con người giữa cuộc
đời. Con người đó cũng là chính ông, nên có thể xem tác phẩm ông như một độc
thoại nội tâm vậy. Mẫu người mà ông đề cập vừa rất đặc thù, vừa rất phổ quát.
Đó là những con người luôn luôn nỗ lực vươn lên khỏi những giới hạn tầm thường
của cuộc sống, và luôn luôn thất bại trong nỗ lực nầy. Ta có thể bắt gặp hình
ảnh của chính mình trong đó, nên mặc dù
Hesse
nói về một hạng người đặc biệt, mà ta vẫn thấy họ rất gần gũi với ta.
-
Hầu hết tác phẩm của ông được xây dựng theo một đường hướng như sau:
-
1)
Luôn luôn có hai nhân vật thuộc hai khuynh hướng đối nghịch: tuân kỷ luật và
nổi loạn (hay thiên thần và ác quỷ, lý tính và cảm tính). Đó cũng là hai
khuynh hướng trái ngược trong cùng 1 con người. Dường như ông có ý nói cả hai
đều không ổn, vì quá thánh thiện thì dễ kiêu căng, hãnh diện về sự khổ hạnh,
về sự siêu việt của mình (Tất Đạt thấy mình như một vì sao, còn tha nhân chỉ
như những chiếc lá rụng). Tất Đạt lúc tu khổ hạnh, và Tất đạt ăn chơi trác
táng đều là hai cực đoan. Khi giác ngộ Tất đạt sống một đời trung đạo: không
kiêu hãnh về sự thành đạt của mình, nhưng cũng không đắm say thế tục.
-
2)
Có sự nhất thể trong 1 con người dù có nhiều mặt khác nhau, và nhất thể của
cuộc đời dù thiên hình vạn trạng. Thấy được nhất thể đó mới thật sự giải thoát
không còn thấy có hai tướng đối nghịch. Tất Đạt khi giác ngộ đã sống như một
người bình thường (mà không phải tầm thường) mới có thể hướng dẫn Thiện Hữu
đạt giác ngộ. Thiện Hữu suốt đời giữ giới khổ hạnh nhưng vẫn đau khổ vì còn
thấy nhị nguyên. Cuối cùng ông phải nhờ Tất Đạt, biểu trưng cho trung đạo.
-
3)
Hesse không đề cao khoái lạc giác quan, trí thức hay khổ hạnh. Một giải pháp
đem đến an lạc cho con người không phải là khoa học kỹ thuật, càng không phải
là những thánh đường hay tu viện, mà chính là tình người, Menschenliebe. Chính
tình người đó cứu ta ra khỏi sự cô độc trong cuộc đời (là 1 hình thức của kiêu
căng vì thấy mình hơn người). Đó là điều mà ông muốn nhấn mạnh, và do sự đề
cao tình người thắm thiết đó, ông đã được giải Nobel vào chặng cuối của văn
nghiệp ông, với tác phẩm Das Glaserspiel.
-
4)
Ông còn muốn nói lương tri của con người (tức Phật tính) không bao giờ mất. Đó
là khi Tất Đạt định tự tử (sau khi thấy mình chạy theo cuộc đời không được cái
gì mà mất mát nhiều quá), thì chợt nghe tiếng “Om” từ lòng sông. Đó là Phật
tính nhờ đó ta vượt khỏi vũng lầy (trái với Sigmund Freud dường như nhấn mạnh
bản năng thú vật điều khiển con người trong mọi hoạt động từ thấp hèn đến
thanh cao).
-
-
II. DIỄN TIẾN CÂU CHUYỆN DÒNG SÔNG
-
Cuộc đời của Tất Đạt cũng là cuộc đời của mọi người chúng ta. Ba lần tỉnh ngộ
của Tất Đạt tương đương với ba lần vấp ngã của chàng. Ngộ đi liền với mê,
phiền não đâu thì giác ngộ đó (phiền não tức bồ đề).
-
Lần đầu, do cơn mê khổ hạnh Tất Đạt ngộ được rằng khổ hạnh không đưa đến trí
tuệ, và đã từ bỏ khổ hạnh để đi ra giữa cuộc đời, sử dụng các giác quan để học
bài học đau khổ do đam mê khoái lạc giác quan. Sự mê lầm thứ hai này được đánh
thức bằng tiếng “OM” mầu nhiệm, gợi nhớ lại những ngày tu khổ hạnh, và nhờ đấy
chàng bỏ ý định quyên sinh. Lần ba nhân sự đau khổ vì đứa con yêu quý đã bỏ
chàng mà đi, Tất Đạt đã ngộ được rằng cuộc đời là “như vậy”, và không còn thái
độ kiêu hãnh, khinh thường người thế tục, mà thấy tất cả đều là anh em, đạt
đến lòng bi mẫn sâu xa đối với tất cả cuộc đời. Lúc đó con người mới thật sự
hạnh phúc, vì mình là tất cả.
-
-
A.
TẤT ĐẠT, CON NGƯỜI KHỔ HẠNH
-
1.
Trước khi gặp Phật
-
Đức Phật ra đời là để xóa bỏ 5 giai cấp trong xã hội Ấn lúc bấy giờ: Bà la
môn, Sát đế lợi, Phệ xá (thương gia), Thủ đà la (giai cấp công nhân) và giai
cấp nô lệ. Ngài tuyên bố “Không có giai cấp trong giòng máu cùng đỏ, trong
giọt nước mắt cùng mặn” nên ngài chính danh lại những danh từ thông dụng lúc
bấy giờ là sa môn và bà la môn. Với ngài, sa môn là người ly dục, ly bất thiện
pháp. Bà la môn là người trí đã diệt trừ tham, sân, si. Trong câu chuyện thì
hai danh từ này ám chỉ giai cấp. Cuộc đời của Tất Đạt lúc đầu hết sức thánh
thiện trật tự và gương mẫu. Cha Tất Đạt một người bà la môn chuyên tế tự, thấy
khuynh hướng thánh thiện của con nên ông rất mừng hi vọng con ông sẽ tiếp tục
sự nghiệp của ông. Nhưng Tất Đạt lại là mẫu người nổi loạn, phê phán. Chàng
nghi ngờ tất cả các thủ tục cúng tế cổ truyền của Bà la môn giáo (như tắm rửa
để tẩy sạch tội lỗi) và chàng nghi ngờ luôn cả kinh Vệ Đà vốn là uy quyền tối
thượng trong Bà la môn giáo. Chành phản kháng lại tất cả các trật tự trong xã
hội chàng đang sống. Tóm lại, Tất Đạt là một biểu tượng của sự trong sạch, một
mẫu người lý tưởng và gương mẫu, nhưng lòng luôn luôn khắc khoải vì chưa tìm
ra chân lý.
-
Thiện Hữu trái lại, là người luôn tuân phục một trật tự sẵn có, hăm hở sống
theo điều thiện và không bao giờ nghi vấn về cuộc đời. Thiện Hữu là cái bóng
của Tất Đạt, nhưng cũng có thể là một khía cạnh khác trong tâm hồn Tất đạt.
Mỗi con người chúng ta đều có hai khía cạnh mâu thuẫn ấy, nên phải đau khổ.
-
Tất Đạt đã tu thiền đến độ sống được trong phi ngã, như có thể xuất hồn để
nhập vào một con chim, mục đích là để quên bản ngã của mình trong nhất thời
hầu chống lại những đau khổ trong cuộc sống. Nhưng khi trở lại tự ngã của mình
chàng vẫn băn khoăn, vẫn thắc mắc về số phận con người.
-
(Đức Phật gọi thứ định đó ví như đá đè cỏ vì khi xuất định thì vẫn là người
bình thường với đầy đủ tham, sân, si.)
-
Tất Đạt cũng có thái độ phê phán đối với kiểu nhập định như vậy, và với tất cả
lễ nghi của Bà la môn giáo. Chàng cho rằng chân lý là những gì không thể
truyền đạt được. Như cha chàng sống một đời thánh thiện với lễ nghi tế tự, mà
vẫn đau khổ.
-
Tất Đạt xin phép cha đi theo một nhóm sa môn để tu khổ hạnh. Một thời gian sau
chàng bảo Thiện Hữu người bạn đồng tu: Điều cần thiết nhất đáng biết nhất
(hạnh phúc tối thượng, niết bàn) thì ta không thể học được mà chỉ học được
những điều phụ thuộc bên lề. Thiện Hữu rất lo lắng, khi thấy rằng mặc dù đã
nắm hết những thuật bí truyền của các sa môn, Tất Đạt vẫn giữ thái độ bất mãn
với những sở đắc của mình, và Thiện Hữu không biết Tất Đạt sẽ bỏ nhóm sa môn
khi nào.
-
2.
Khi gặp Phật
-
Nghe tin đức Phật sắp đến thuyết pháp trong vùng lân cận, Thiện Hữu đề nghị
Tất Đạt cùng đến nơi ngài. Tất Đạt cáo từ sa môn trưởng để ra đi nhưng ông ta
nổi giận. Tất Đạt bèn chứng tỏ đã học được ở ông những gì. Chàng bắt đầu thôi
miên vị sa môn già, thu phục ý chí của ông, khiến ông cúi đầu lẩm bẩm nói lời
chúc tụng chàng trước khi lên đường. Thiện Hữu vô cùng khâm phục bạn, nói:
“Anh thật đã tiến rất xa, nhiều hơn tôi tưởng. Nếu lưu lại chốn này, chắc có
ngày anh sẽ học cách đi được trên mặt nước”. Tất Đạt nói, chàng không ham gì
học cách đi trên mặt nước hay các thần thông kiểu đó.
-
Trái với Thiện Hữu muốn bỏ các sa môn để tìm gặp Phật, bỏ thầy này tìm đến
thầy khác, Tất Đạt chỉ muốn ra đi để tìm gặp lại chính mình.
-
Sau khi nghe đức Phật thuyết pháp, Thiện Hữu vui mừng đứng lên xin gia nhập
tăng đoàn và tin chắc rằng Tất Đạt cũng làm như mình. Nhưng khi nghe Tất Đạt
nói: “Lần đầu tiên Thiện Hữu đã biết đi trước tôi một bước, tôi xin chúc lành
cho bạn”, Thiện Hữu đã òa khóc. Tất Đạt ngắm nhìn đức Phật, chiêm ngưỡng từng
dáng điệu của Ngài, một con người thánh thiện cho đến đầu gót chân. Nhưng
chàng không xin ở lại để tu theo Phật.
-
Sự
ra đi của Tất Đạt làm cho Thiện Hữu nghi ngờ giáo pháp của Ngài. Biết tâm lý
của bạn, Tất Đạt nói: “Bạn hãy yên tâm! Làm sao tôi có thể tìm được khuyết
điểm trong lời dạy của Ngài?”.
-
Khi đến từ giã đức Phật, Tất Đạt đã hỏi Ngài 3 điều:
-
1)
Nếu thế giới đã hoàn thiện trong mọi giây phút, thì tại sao cần phải độ chúng
sinh?
-
2)
Tại sao hiện tại không có ai thành Phật ngoại trừ Ngài?
-
3)
Điều cần học nhất, niết bàn giải thoát mà ngài đã chứng, sao không ai học
được?
-
Đức Phật không trả lời, Ngài chỉ nói: “Ông bạn lý luận hay lắm, nhưng hãy cẩn
thận trước sự khôn ngoan quá mức! Giáo lý của ta không phải để mà lý luận”.
-
Tuy thế những hình ảnh của Đức Phật đã ảnh hưởng cả cuộc đời của Tất Đạt một
cách gián tiếp, mãi cho đến khi chàng đạt được sự an lạc. Tất Đạt luôn nhớ đến
hình ảnh của đức Phật: “Ta chưa thấy một người nào có dáng dấp khoan thai,
phản ảnh một nội tâm an lạc như thế. Đấy là một người đã nhiếp phục được tự
ngã. Ta cũng có ngày nhiếp phục được tự ngã như vậy. Ta đã thấy một người, mà
trước người ấy ta phải cúi đầu. Ta không bao giờ cúi đầu trước một người nào
khác nữa. Không có giáo lý nào lung lạc ta được nữa, khi mà giáo lý của người
này đã không quyến rũ được ta. Phật đã cướp của ta, Ngài đã cướp đi Thiện Hữu,
lâu nay là cái bóng của ta mà bây giờ đi theo ngài. Nhưng Phật đã đem lại cho
ta chính ta”.
-
Có
thể nói Tất Đạt đã không theo Phật vì không có “duyên”, và vì còn cái
“nghiệp” với Kiều Lan sau này. Nhưng quả tình, Tất Đạt rất kính yêu đức Phật,
và hình ảnh Ngài ám ảnh suốt cuộc đời chàng cho đến khi chàng tỉnh thức.
-
3.
Sau hhi từ giã đức Phật
-
Đây là sự thức tỉnh lần đầu của Tất Đạt. Chàng cảm thấy giờ đây mình không thể
về lại với gia đình hay với đời khổ hạnh nữa, sau khi đã giã từ đức Phật.
Chàng cảm thấy cô đơn cùng cực, đứng giữa trời đất mà không biết phải làm gì.
Đây là trạng thái mà trong nhà thiền gọi là đứng trên đầu sào cao trăm thước
còn dưới kia là vực thẳm.
-
Người tu hành có lúc đi đến chỗ tuyệt vọng, không còn nơi bám víu. Nếu không
vượt qua được giai đoạn này thì sẽ tẩu hỏa nhập ma, trở thành một con người sa
đọa.
-
-
B.
TẤT ĐẠT, CON NGƯỜI BÊ THA
-
1.
Sự sa đọa qua ba nấc
-
Sau khi quyết định không trở về nhà mà cũng không đi theo đức Phật, Tất Đạt
lang thang ra khỏi khu rừng thì gặp kiệu của một kỹ nữ trang sức lộng lẫy tỏa
hương thơm ngát đang đi đến. Ông nhìn chăm chăm không rời. Kiều Lan chưa từng
thấy ai nhìn mình 1 cách lạ lùng như vị sa môn râu tóc bù xù kia. Do duyên
nghiệp trói buộc, nàng cảm mến ngay, trong khi Tất Đạt đang theo các gia nhân
để hỏi dò về nàng. Khi Kiều Lan cho tiếp kiến, Tất Đạt đã bảo: Tôi muốn học về
tình yêu? Nàng có thể dạy tôi không? Kiều Lan cười lớn bảo, những người đến
với tôi phải giàu sang, có nhiều tặng phẩm! Rồi cô khuyên Tất Đạt hãy đến làm
việc với Vạn Mỹ, là một trong những thương gia giàu có thường đến với cô. Kiều
Lan còn cho Tất Đạt những chỉ dẫn quý báu trên đường tiến thân giữa cuộc đời.
Vạn Mỹ rất hài lòng có Tất Đạt là người cộng sự.
-
a)
Trong giai đoạn đầu cuộc sống thế tục, chàng vẫn còn bị chi phối bởi 3 nguyên
tắc của đời sa môn là suy tư, chờ đợi và nhịn đói. Ở giai đoạn này Tất Đạt là
mẫu người lý tưởng trong xã hội: có nhiều tiền mà không nô lệ đồng tiền, giúp
đỡ mọi người với một tâm bình đẳng, vui vẻ với mọi người và sống có điều độ.
Vạn Mỹ nhận xét: “Người bà la môn này không bao giờ trở thành một thương gia
thực thụ. Hắn luôn thư thái trong công việc, chẳng bao giờ lo sự mất của và
vẫn còn sống đời sống của một sa môn”. Chàng thường kể cho Kiều Lan nghe về
đức Phật và đời tu khổ hạnh của mình lúc trước.
-
b)
Nhưng một khi đã sa đọa rồi thì không ngừng lại ở đó. Tất Đạt ngày một tiến
sâu vào sa đọa. Dần dần chàng biết uống rượu, đánh bạc, rành các nghệ thuật ăn
chơi. Từ từ chàng thấm nhiễm tất cả các thói tục của những người có tiền,
nhưng trong tâm chàng vẫn khinh người, vẫn thấy mình là một vì sao đứng tách
biệt trên bầu trời, còn tha nhân chỉ như những chiếc lá rụng theo chiều gió.
-
c)
Để chứng tỏ lòng khinh tiền của mình, chàng phung phí trong các cuộc chơi, ném
tiền qua cửa sổ. Nhưng đến khi bị thua bạc quá nhiều thì chàng không còn thái
độ giải thoát nữa. Tất Đạt bắt đầu đi đòi nợ để có tiền đánh bạc, cau có với
những con nợ dầy dụa, rồi đi lang thang đến cái nấc cuối của sa đọa là trở
thành một trọc phú: dần dà nét mặt chàng nhiễm lấy những vẻ thường có nơi
những người giàu, vẻ bất bình, mệt mỏi, nhàn hạ và vắng bóng yêu thương. Căn
bệnh nội tâm của giới trưởng giả đã nhiễm sâu vào trong chàng.
-
2.
Sự chán ngấy dục lạc
-
Khi đã đạt tới chỗ thấp nhất của sự sa đọa thì trong chàng bừng lên một mãnh
lực cứu chàng ra khỏi vực thẳm. Đó là điểm linh quang hay Phật tính hay lương
tri trong con người mà dù lăn lộn trong vũng lầy bao nhiêu lâu vẫn không mất.
Đó là lúc Tất Đạt nằm chiêm bao về đức Phật, về Thiện Hữư, về Tăng đoàn, về
cảnh thanh tịnh trong khu vườn trưởng giả Cấp cô độc nơi chàng đã gặp đức
Phật. Giấc mơ đã thức tỉnh Tất Đạt ra khỏi vũng lầy dục vọng, nên khi thức
dậy, chàng buồn vô hạn vì thấy mình đã bỏ đi những gì quý báu nhất trong cuộc
đời để đi theo những cái không ra gì, mà vẫn không tìm được hạnh phúc, vẫn đau
khổ gấp bội lần. Chàng nhớ lại đời sống trong sạch, thánh thiện chàng đã sống
trước kia, nhớ hình ảnh đức Phật rồi nhìn lại con người mình. Chàng soi gương,
cảm thấy chán ghét tột độ bộ mặt mình, thấy nó thật già và xấu xí. Tiền của,
sắc dục đã đưa đẩy chàng trở thành một con người tàn tạ thế này thì cuộc đời
quả thật vô vị, chán chường. Tất Đạt kể lại giấc mộng của mình cho Kiều Lan
nghe, rồi biến mất. Chàng đi lang thang đến một bờ sông, cúi nhìn xuống làn
nước, bắt gặp vẻ mặt quái dị của mình, ghê tởm nó, phỉ nhổ lên nó. Chàng kinh
tởm chính bản thân mình, suy gẫm lại cuộc đời mình và thấy nó hoàn toàn thất
bại, đã đến tận cùng của đau khổ, không còn cái gì để bám víu. Ý định quyên
sinh lởn vởn trong đầu Tất Đạt. Chàng leo lên một cành cây nhô ra ngoài mặt
nước rồi chúi đầu toan lao xuống. Ngay lúc đó chàng nghe vẳng lại từ lòng sông
và từ đáy lòng chàng, phát ra tiếng
Om
vi
diệu (mật ngữ ở đầu mỗi bài thần chú) làm chàng thức tỉnh, thấy rõ hành vi
điên rồ của mình. Chàng giật mình, té ra đời ta đã tới chỗ ghê gớm đến thế
sao? Tất Đạt bò xuống đất gối đầu trên rễ cây mà ngạc nhiên vô cùng khi thấy
cuộc sống sa đọa từ bao năm qua đã không ảnh hưởng đến chàng cho bằng tiếng
Om
vẳng lên từ trong vô thức. Đó là giây phút đốn ngộ lần thứ hai.
-
Chàng nhẩm lại tiếng
Om
một thời gian khá lâu rồi nhắm mắt ngủ với tiếng
Om
trong tâm thức, một giấc ngủ sâu không mộng mị.
-
Khi tỉnh dậy Tất Đạt thấy một sa môn ngồi canh giấc ngủ cho mình và chàng nhận
ra ngay Thiện Hữu, nhưng Thiện Hữu không nhận ra chàng. Thiện Hữu nói: “Thấy
ông ăn mặc sang trọng mà nằm ngủ ở chỗ vắng vẻ thế này thì có thể bị cướp hoặc
bị rắn cắn, nên tôi đã canh cho ông ngủ. Giờ ông đã tỉnh dậy rồi thì tôi xin
chào ông để còn ra đi”. Tất Đạt nói: “Cám ơn thầy sa môn đã canh cho tôi.
Nhưng thật ra tôi không cần ai canh cả? Vậy ông cứ đi đi, Thiện Hữu!” Thiện
Hữu ngạc nhiên: “Tại sao ngài lại biết tên tôi?”. Tất Đạt đáp: “Tôi đã biết
tên anh từ ngày anh mới sinh ra và còn biết rõ cả tên cha, mẹ, ... cả
gia đình anh nữa, vì tôi đã từng ngồi thiền với anh khi xưa, đã từng tu khổ
hạnh với anh, rồi anh đi theo đoàn sa môn của Phật”. Thiện Hữu mừng rỡ khi gặp
lại Tất Đạt và hỏi: “Bây giờ anh đang đi đâu?”
-
-
Tất Đạt đáp: “Tôi đang đi hành hương?”
-
-
Thiện Hữu nói: “Chưa bao giờ tôi thấy một sa môn đi hành hương với bộ y phục
kiểu cách như thế!”.
-
-
Tất Đạt đáp: “Nhưng giờ thì bạn đã thấy. Và tôi có nói tôi là sa môn đâu?”
-
(Hành hương mà Tất Đạt nói có 1 ý nghĩa sâu sắc chàng đang đi trên đường trở
về quê hương tâm linh. Dù dưới bất kỳ một hình thức nào mà biết thanh lọc bản
thân, trải qua những đau khổ để rút kinh nghiệm từ cuộc sống, thì đời sống ấy
là một cuộc hành hương. Không phải chỉ người tu mới hành hương mà mọi người
đều đang hành hương để vươn lên từ vũng lầy của cuộc đời.)
-
Thiện Hữu vì còn đang chấp vào danh từ và hình tướng nên không hiểu. Chàng
chào Tất Đạt rồi ra đi. Tất Đạt nhìn theo với lòng cảm mến người bạn thiếu
thời. Sau khi thức dậy chàng có cảm tường mình sống một cuộc đời mới, nhìn vũ
trụ vạn vật với lòng thương yêu bình đẳng và người đầu tiên mà chàng trải lòng
yêu thương là Thiện Hữu. Đó là điều kỳ diệu mà tiếng
OM
đã đem lại cho chàng: lần đầu tiên chàng yêu mến tất cả mọi sự chung quanh với
niềm hoan hỉ. Và chàng thấy dường như bấy lâu nay mình đã đau khổ chỉ vì không
biết yêu thương.
-
Giờ đây chàng không thể trở về với cuộc sống sa đọa như cũ. Đây là lần tỉnh
ngộ thứ hai. Chàng nằm suy nghĩ về số phận của mình, và tìm xem đâu là nguyên
nhân những sai lầm trong quá khứ. Chàng đã chiến đấu 1 cách vô vọng với tự ngã
khi làm một người Bà La Môn, một sa môn khổ hạnh: “Quá nhiều tri thức đã ngăn
ngại chàng, quá nhiều sự thánh thiện, khổ hạnh ép xác; chàng đã quá kiêu căng,
luôn luôn là người thông minh nhất, hăng hái nhất, luôn luôn hơn người một
bước, luôn luôn là người trí thức, người giảng đạo, người hiền triết. Tự ngã
chàng đã len lỏi vào trong chức vị giảng đạo ấy, vào lòng kiêu hãnh ấy vào tri
thức ấy. Nó an vị ở đấy một cách vững vàng và tăng trưởng dần, trong khi chàng
tưởng rằng mình đang hủy hoại nó bằng cách nhịn đói và sám hối. Bây giờ chàng
đã hiểu vì sao chàng phải trở thành một thương gia, một người cờ bạc rượu chè,
một người trọc phú cho đến khi con người thuyết giáo, vị sa môn trí thức trong
chàng chết đi. Chàng phải sống qua những năm tháng kinh khủng, chịu đựng cơn
buồn nôn, học các bài học điên rồ của một cuộc đời vô vị trống rỗng cho đến
lúc chàng đi tới chỗ tuyệt vọng đắng cay để cho Tất Đạt, con người của hoan
lạc, con người của giàu sang cũng chết nốt. Chàng đã chết, và một Tất Đạt mới
đã thức dậy sau một giấc ngủ hồi sinh”.
-
Ở
lần tỉnh ngộ thứ nhất sau khi gặp Phật, là Tất Đạt tỉnh cơn mộng ép xác
khổ hạnh. Khi chàng buông ra, mở tung cửa ngõ giác quan thì chàng sa ngay vào
đời sống khoái lạc. Ấy là do những năm dài ép xác dục vọng bị dồn nén, giờ đây
giác quan chàng như một lò xo bị nén quá mức bắt đầu được bung ra. Ở lần tỉnh
ngộ thứ hai, chàng tỉnh khỏi cơn mộng sa đọa chạy theo lạc thú thế tục. Cả hai
thái độ này đều là hai cực đoan đáng trách nên đức Phật dạy cần phải sống
trung đạo.
-
Ở
giai đoạn tu khổ hạnh, Tất Đạt còn bị “phiền não chướng” chỉ cho sự mê chấp
cái tự ngã thánh thiện, và đây là cơn mộng ép xác. Ở giai đoạn sa đọa theo
rượu chè, trai gái là Tất Đạt còn bị “nghiệp chướng” chỉ sự buông lung sáu
căn, và đây là cơn mộng buông lung sa đọa. Ở giai đoạn cuối, sau khi tỉnh cơn
mộng buông lung sa đọa, Tất Đạt còn phải chịu cái khổ vì đứa con, có thể gọi
đây là “báo chướng”. Chỉ sau khi vượt qua khỏi cả ba chướng ngại, chàng mới
thực sự giải thoát.
-
Nhờ dòng sông mà chàng tỉnh ngộ nên Tất Đạt cảm thấy yêu mến dòng sông không
muốn rời. Chàng đi dọc theo con sông và khi đến bến đò chàng gặp lại Vệ Sử,
người đã đưa chàng qua sông lúc chàng từ giã đời sống sa môn để đi vào đời
sống sa đọa. Vệ Sử không nhận ra vì chàng đã thay đổi quá nhiều và đang ăn mặc
sang trọng.
-
Tất Đạt nói: “Con sông đẹp quá, tôi muốn ở lại để học từ dòng sông này. Vậy
ông có thể cho tôi ở lại học việc để đưa đò với ông không?”.
-
Vệ
Sử đáp: “Một người ăn mặc sang trọng như ông thì làm sao chịu đựng được đời
sống cực khổ của 1 người đưa đò và hơn nữa phải có sự thích thú thì mới làm
được nghề này”.
-
Tất Đạt nói: “Hôm nay tôi đã bị phê bình vì bộ y phục này hai lần. Ông có thể
đổi cho tôi 1 bộ đồ cũ rách để tôi chèo đò với ông không?”.
-
Vệ
Sử nói: “Có chuyện gì khiến ông quyết định như thế? Người như ông đâu phải để
đi chèo đò!”.
-
Tất Đạt bộc lộ hết tâm sự với Vệ Sử. Vệ Sử nói, “Thảo nào tôi thấy ông quen
quen. Có phải ông là vị sa môn mà tôi đã đưa qua sông cách đây lâu lắm rồi
chăng?”
-
Vệ
Sử bằng lòng để chàng ở lại trong chòi bên sông. “Anh hãy ở lại, nhưng không
phải học với tôi mà học từ dòng sông”. Từ đấy hai người làm bạn với nhau rất
thân thiết.
-
3.
Đau khổ vì đứa con
-
Dần dà, tin đồn loan ra về hai ông thánh sống ở bên sông. Nhiều người hiếu kỳ
đi đò qua sông để tìm hiểu sự thật. Có người công nhận họ thánh thiện thực,
nhưng nhiều người chỉ cho là tin nhảm.
-
Một ngày, có tin đức Phật sắp nhập Niết bàn, và rất đông người hành hương đến
viếng Phật lần cuối. Trong số những người hành hương này, một hôm có cả Kiều
Lan đem theo đứa con trai nhỏ. Khi đến bờ sông, Kiều Lan bị rắn cắn. Đứa con
chạy kêu cứu, gặp Tất Đạt và Vệ Sử trong chòi. Hai người đưa Kiều Lan vào
chòi, nàng đang hấp hối. Tất Đạt quan sát sự biến đổi trên gương mặt người
thân yêu nhất đang đi dần vào cõi chết, và thấy như chính mình cũng đang chết.
Chàng lạ lùng ngắm nhìn sự biến đổi từ một sắc đẹp đã làm chàng say mê mà giờ
đây chỉ là cái xác thân tàn tạ.
-
Kiều Lan nói: “Tôi định đến viếng đức Phật để được sự bình an nhưng giờ đây
gặp anh, tôi đã tìm thấy sự bình an đó. Có phải anh đã đạt đến Đấy rồi
chăng?”. Và nàng giới thiệu với Tất Đạt đứa con của họ.
-
Tất Đạt sung sướng đón nhận đứa con trai của chàng sau khi chôn cất Kiều Lan,
nhưng đứa trẻ thì chẳng những không thương chàng mà còn chống cự lại. Một ngày
kia nó mắng Tất Đạt, không nhận chàng là cha, ăn cắp hết số tiền dành dụm của
hai người rồi lấy chiếc đò trốn đi. Tất Đạt nhớ con quay quắt. Chàng rủ Vệ Sử
đi tìm đứa trẻ, nhưng Vệ Sử bảo: “Không, tôi chỉ đi tìm chiếc đò mà thôi. Con
chim non kia đã quen 1 nếp sống khác, một chiếc tổ khác. Nó không chạy trốn
của tiền và thành thị với cảm giác chán chường như bạn đã trốn, nó đã từ giã
những thứ ấy một cách miễn cưỡng. Tôi đã hỏi dòng sông nhiều lần, nhưng dòng
sông đã cười tôi, cười bạn, cười sự điên rồ của chúng ta. Nước sẽ tìm đến
nước, tuổi trẻ sẽ tìm đến tuổi trẻ. Bạn hãy hỏi dòng sông đi, và lắng nghe!”.
-
Nhưng Tất Đạt vẫn còn nghiệp nhớ thương đứa con. Chàng trốn Vệ Sử xuống phố
tìm nó nhiều ngày nhưng không gặp.
-
Nỗi đau khổ lần này của Tất Đạt dã giúp chàng hiểu thêm những nỗi khổ của cuộc
đời. Chàng không còn thấy mình cao hơn thiên hạ, không khinh đời nữa mà cảm
thông được với mọi người. Chàng chèo đò chở mọi người qua sông, cảm thấy họ
đều là anh em. Chàng chia sẻ nổi đau khổ của một bà mẹ mất con, một người vợ
mất chồng. Chàng không còn thấy những đau khổ của họ là tầm thường, như khi
còn làm sa môn chàng đã thấy. Bây giờ, khi đã trải qua tất cả những nhịp cầu
đoạn trường của cuộc đời, chàng mới có khả năng cảm thông với mọi người. Đây
là lần tỉnh ngộ rốt ráo từ đó tâm đại bi phát sinh.
-
Một ngày kia khi vết thương đang đau nhói nơi chàng, Tất Đạt chèo đò qua sông,
tâm can tê tái vì nỗi nhớ. Chàng lên bờ với mục đích xuống phố tìm con. Sông
vẫn chảy nhẹ nhàng, đấy là mùa khô nhưng tiếng nước reo lên một cách kỳ diệu.
Con sông rõ ràng đang cười người chèo đò lẩm cẩm. Tất Đạt đứng nghiêng mình
trên làn nước để lắng nghe. Chàng thấy diện mục mình phản chiếu trên dòng nước
lặng lờ trôi. Có cái gì trong hình ảnh ấy phảng phất giống phụ thân chàng.
Chàng nhớ lại khi còn là thanh niên, nào chàng đã khiến cha buồn lòng khi buộc
ông phải để cho chàng đi theo những người khổ hạnh, nào chàng đã bỏ đi mà
không bao giờ quay về! Cha chàng há đã không chịu đựng nỗi đau đớn mà giờ đây
chàng đang chịu đựng vì đứa con hay sao! Phải chăng ông đã chết từ lâu trong
cô quạnh, không thấy lại con mình. Chàng lại không chờ đợi 1 số phận tương tự
đó sao? Con sông cười lớn: Phải, như thế đấy! Tất cả mọi sự, nếu không chịu
đựng một lần để cuối cùng kết thúc, thì vòng lẩn quẩn đó sẽ tái diễn, những
đau khổ tương tự sẽ tái diễn mãi hoài.
-
Tất Đạt trở về kể lại mọi sự với Vệ Sử. Vệ Sử nói: “Anh đã lắng nghe dòng
sông, và anh đã hiểu được một ít. Nhưng hãy lắng nghe thêm nữa.”
-
Tất Đạt lắng nghe. Chàng thấy hình ảnh cha chàng, hình ảnh của chính chàng và
hình ảnh của con chàng chạy loạn xạ vào nhau. Hình ảnh Kiều lan cũng xuất hiện
rồi trôi đi, hình ảnh Thiện Hữu cùng bao nhiêu người khác cũng hiện đến rồi đi
qua. Họ đều trở thành một phần của dòng sông,con sông cũng đầy những khát
vọng, buồn đau, ray rứt, đầy những ước muốn không được thỏa lòng. Tất cả những
làn sóng nước đều vội vã đi về mục đích, chảy về nguồn thác, về biển, về đồng
bằng, về đại dương. Nước trờ thành hơi bốc lên, hơi thành mưa rơi xuống thành
suối, nguồn, sông lạch rồi lại đổi thay, lại tuôn chảy. Nó vẫn còn âm hưởng
của nỗi buồn sầu tìm kiếm, nhưng trong đó còn có nhiều tiếng khác hòa theo:
tiếng của hoan lạc bi ai, tiếng dữ, tiếng lành, tiếng cười, tiếng khóc, hàng
trăm tiếng, hàng ngàn tiếng. Tất cả những tiếng ấy kết thành thế nhân, vũ trụ.
Tất cả đều là dòng biến chuyển, là khúc sinh ca. Khi Tất Đạt chú ý lắng nghe
cung đàn muôn điệu ấy, khi chàng không chỉ lắng nghe riêng rẽ nỗi buồn thảm
hay khúc hoan ca, khi chàng không ràng buộc mình với thanh âm nào riêng biệt
mà lắng nghe cái Nhất thể, cái Toàn diện, thì lúc ấy cung đàn muôn điệu kia
chỉ bao hàm có một tiếng OM.
-
Tất Đạt còn thấy nhiều hình ảnh khác, thấy trọn vẹn cuộc đời, thấy được đại
thể của vũ trụ bao la trong đó không phải chỉ riêng mình chàng đau khổ. Khi ấy
chàng thấy rằng cuộc đời vốn là “như vậy” (như thị). Đạt đến đấy thì không
buồn khi xuân tàn cũng không vui khi xuân đến, sống một cách tự tại, thản
nhiên. Đây là lần giác ngộ thứ ba và cuối cùng của Tất Đạt.
-
Tất Đạt trở về tâm sự với Vệ Sử. Ông nhìn vào mắt Tất Đạt và biết chàng đã
giác ngộ: “Tôi chờ giây phút này đã lâu! Bây giờ công việc tôi đã xong, xin
từ biệt.” Rồi ông đi vào rừng.
-
Hình ảnh Vệ Sử là hình ảnh Bồ tát ở trong đời để đưa người từ bờ này (bờ mê)
qua bờ bên kia (bến giác). Bồ tát không ở bờ này hay bờ kia, cũng không ở giữa
dòng, không trụ đâu cả. Bồ tát là một người bạn giúp đỡ mà không kể là mình đã
cứu giúp, cũng không tự cho là thầy của bất cứ ai.
-
Một ngày kia, Tất đạt chèo đò cho một đoàn sa môn trong đó có Thiện Hữu sang
sông. Thấy người chèo đò vui vẻ đưa sa môn qua sông mà không lấy tiền, (không
nhận ra Tất Đạt) Thiện Hữu khen:
-
–
Ông tốt quá! Chắc ông cũng là người đang đi tìm chính đạo phải không?
-
Tất Đạt:
-
–
Ông tự cho mình là người tìm kiếm hay sao?
-
Thiện Hữu:
-
–
Phải. Suốt đời tôi luôn đi tìm chính đạo.~
-
Tất Đạt:
-
–
Vì anh luôn tìm kiếm nên anh không bao giờ gặp được!
-
Thiện Hữu kinh ngạc hỏi:
-
–
Sao anh nói lạ vậy?
-
Tất Đạt:
-
–
Người đi tìm kiếm vì đã có mục đích, nên chỉ chăm bẳm vào đó, không thấy
được bao nhiêu chuyện khác. Người không đi tìm thì luôn sống thong dong, tự
tại, vui với những gì mình gặp. Vì không tìm kiếm nên tôi luôn luôn gặp gỡ
những điều mới lạ. Cũng vì hăm hờ tìm kiếm, mà mấy lần gặp lại người bạn cũ
của mình, anh vẫn không nhận ra.
-
Khi ấy Thiện Hữu mới kinh ngạc kêu lên:
-
–
Ồ Tất Đạt, lần này tôi cũng lại không nhận ra được anh! Tại sao anh
bỏ bộ y phục sang trọng để trở thành người chèo đò?
-
Tất Đạt đáp:
-
–
Tất cả những đoạn đời đều là những lớp áo giả tạo! Cả tôi và anh cũng thế.
-
Khi nhìn kỹ bạn, Thiện Hữu thấy vẻ thanh thoát tỏa ra từ con người chàng. Vị
sa môn nói:
-
–
Qua bao nhiêu năm tầm đạo, tôi vẫn đau khổ vì chưa tìm thấy bình an. Tôi
thấy hình như anh đã đạt được Nó. Xin anh hãy nói cho tôi nghe.
-
Tất Đạt nói:
-
–
Tôi thấy trên đời, chỉ có yêu thương là quan trọng nhất!.
-
Thiện Hữu ngạc nhiên:
-
–
Anh nói lạ thật! Đức Phật đã khưyên kẻ tu hành không nên có những tình cảm thế
tục như là sự thương yêu, bám víu.
-
Tất Đạt:
-
–
Nhưng tôi biết tôi không nói trái với ý của Ngài! Làm sao ngài không có tình
yêu, khi Ngài đã bỏ cả cuộc
đời để giáo hóa con người thoát khổ, đạt đến an lạc. Ngài phải là một Con
Người chan chứa tình yêu!
-
Thiện Hữu vẫn không hiểu những gì bạn nói, và tha thiết van nài:
-
–
Xin anh hãy nói cho tôi một lời dễ hiểu. Đời tôi đi thường gian nan và tăm
tối!
-
Tất Đạt nói như ra lệnh:
-
–
Thiện Hữu! Hãy cúi sát gần tôi và hôn trán tôi đi!
-
Đây là một hành vi gây chấn động, mà các bậc thầy Thiền tông và Mật tông
thường sử dụng để thức tỉnh môn sinh, khi ngôn từ không có hiệu quả. Nó nói
lên rằng chỉ có tình yêu có nội dung trí tuệ mới đem lại sự an lạc, giải thoát
cho con người, không phải chỉ trí tuệ suông.
-
Cuối cùng, Thiện Hữu cảm thấy như vừa được chính Đức Phật giải tỏa mọi khổ đau
khắc khoải, và tìm thấy an lạc.
-
-
III. NHẬN ĐỊNH
-
A.
PHÂN TÍCH NHÂN VẬT
-
1.
Tất Đạt:
-
Là
biểu tượng cho mẫu người mà Phật giáo gọi là Tuệ giải thoát. Con người đó phải
dũng mãnh, tỉnh giác trong mọi lúc, có thái độ phê phán, phản tỉnh. Tất Đạt
hội đủ những đức tính ấy, như ta thấy ngay cả trong thời gian chàng sống sa
đọa.
-
(Thái độ nhìn ngắm, tỉnh giác:)
-
-
Giai đoạn đầu của sự sa đọa: Mặc dù sống cuộc đời trụy lạc chàng vẫn
còn thái độ tỉnh giác của một sa môn: “Chàng thấy mọi người sống một cách trẻ
con, giống như thú vật, làm chàng vừa cảm thương vừa khinh bỉ. Chàng cảm thấy
họ lao nhọc, khổ sở, bạc đầu về những chuyện đối với chàng thật không đáng gì:
tiền bạc, danh vọng hão huyền, lạc thú nhỏ nhoi. Họ đánh chửi nhau, than vãn
về những nỗi khổ chỉ làm cho một sa môn mỉm cười, và họ đau khổ về những thiếu
thốn mà một sa môn không cảm thấy”.
-
–
Giai đoạn hai: “Thỉnh thoảng chàng nghe trong tâm tư một tiếng nói yếu ớt
nhẹ nhàng, nhắc nhở chàng 1 cách âm thầm, phàn nàn một cách lặng lẽ đến nỗi
chàng khó nghe rõ. Rồi đột nhiên chàng nhận ra rằng mình chỉ như đang chơi một
ván bài, rằng chàng cũng vui vẻ đấy, đôi khi còn hưởng thụ khoái lạc nữa,
nhưng cuộc sống chân thật đang trôi qua mà không động chạm đến chàng”.
Và hình ảnh đức Phật vẫn luôn ở trong tâm trí Tất Đạt. Chàng nói với Kiều Lan:
“Tôi không bao giờ quên được người ấy. Mỗi ngày có hàng ngàn người vây quanh
ngài, sống theo lời dạy của ngài. Nhưng họ chỉ là những chiếc lá rơi, không có
trong họ sự minh triết và định hướng”.
-
(Thái độ phê phán của Tất Đạt:)
-
Kính bạch đấng Giác ngộ, tôi nghĩ rằng không ai tìm được giải thoát qua những
lời chỉ giáo. Ngài không thể truyền cho ai bằng ngôn từ, những gì đã đến với
ngài trong giây phút ngài đạt giác ngộ. Lời chỉ giáo của ngài dạy rất nhiều:
phải sống thế nào, tránh điều ác như thế nào. Nhưng có một điều giáo lý ấy
không chứa đựng, ấy là tại sao chỉ có mình ngài đạt được những điều ngài đã
chứng để trờ thành một đấng giác ngộ. Chính vì thế mà tôi phải đi con đường
của tôi, không phải để tìm một lý thuyết hay hơn,
vì tôi biết không thể có nhưng để từ bỏ mọi lý thuyết và thầy dạy, để tự
mình đạt đến đích–-hay là chết. Nhưng tôi sẽ nhớ mãi hôm nay và giờ phút này,
hởi Đấng Toàn giác, khi chính mắt tôi được chiêm ngưỡng một bậc thánh nhân.
-
(Tất Đạt, mẫu người sống bằng cảm tính hơn là lý tính : )
-
Mẫu người của Tất Đạt là mẫu người mẫn cảm nên đối trước Đức Phật, chàng thích
chiêm ngưỡng dáng dấp, từ dung của Ngài hơn là nghe những gì ngài dạy. Mẫu
người nặng về cảm tính như Tất Đạt nếu đi tu sẽ trở thành một nhà thần bí,
nghĩa là không thể suy tư trừu tượng được, mà phải có biểu tượng cụ thể. Họ là
những nghệ sĩ, những người sống “hết mình” nên dễ khổ đau.
-
Trong tác.. phẩm Nhà khổ hạnh và gã lang thang, Hermann Hesse cũng đã
để Đan Thanh (tương đương nhân vật Tất Đạt ở đây) đối thoại với Huyền Minh
(mẫu người lý tính) như sau.
-
Đan Thanh: Làm sao có thể suy tư không hình ảnh?
-
Huyền Minh: Suy tư và tưởng tượng hoàn toàn khác nhau. Suy tư được thể hiện
bằng khái niệm, công thức, mà không phải bằng hình ảnh. Khi hình ảnh chấm dứt
thì triết lý bắt đầu. Với anh, thế giới được tạo bằng hình ảnh, nhưng với tôi
thì bằng ý tưởng. Anh là một bậc thầy trong lãnh vực tưởng tượng. Nếu đi tu,
anh sẽ là một nhà thần bí, là người không thể tách rời tư tưởng khỏi hình ảnh.
Bời thế anh không phải là người tư duy. Nhà thần bí là một loại nghệ sĩ âm
thầm. một nhà thơ không vần điệu, một nhạc sĩ không âm thanh, một họa sĩ không
sơn cọ.
-
(Bởi thế, tôn giáo chính thống duy lý xem mật tông là một thứ tà đạo, vì tưởng
tượng nhiều quá thì dễ đi xa sự thật, và những hình ảnh biểu tượng có thể làm
người khác hiểu lầm–tỉ dụ các hình ảnh trong một đền thờ Ấn giáo.)
-
Sau bao năm xa cách, khi gặp lại Đan Thanh và hiểu rõ chàng hơn, Huyền Minh
thú thật:
-
Từ
trước tôi vẫn xem nhẹ nghệ thuật, đến nay tôi mới hiểu là có nhiều nẻo đường
đi đến chân lý. Tư duy không phải là con đường duy nhất, lại càng không phải
là con đường tốt nhất. Cả anh và tôi đều đang nỗ lực, và đương nhiên cả hai
đều bất toàn, nhưng nghệ thuật quả thật vô tội vạ hơn tư duy (trong lãnh vực
nghệ thuật không bao giờ có chiến tranh.)
-
Sau khi Đan Thanh tạc xong bức tượng đắc ý để tạ ơn tri ngộ, chàng trở lại đời
sống lang thang, làm cho Huyền Minh nhớ nhung và phải xét lại cuộc đời mình. “Nhờ
Đan Thanh, tâm hồn chàng trở nên rào rạt nhưng cũng vì Đan Thanh, chàng trở
nên nghèo nàn, yếu đuối. Thế giới trong đó chàng sống và xem như nhà mình: thế
giới của học thuật, đời sống tu sĩ, chức vị giáo hội, lâu đài tư tưởng vững
chắc, tất cả thế giới ấy đã bị Đan Thanh làm cho lung lay tận gốc rễ. Bây giờ
lòng tu viện trưởng đầy dẫy hoài nghi. Dĩ nhiên về phương diện lý trí, đạo đức
thì đời của chàng tốt hơn, đúng hơn, trật tự hơn và gương mẫu hơn, đó là một
cuộc đời của phụng sự, hiến dâng, luôn luôn nỗ lực cho ánh sáng, công bằng.
Cuộc đời của người ấy trong sạch hơn đời của một nghệ sĩ lang thang, một kẻ
quyến rũ đàn bà. Nhưng dưới cái nhìn của Thượng đế thì cuộc đời gương mẫu này
có gì tốt đẹp hơn cuộc đời của Đan Thanh? Con người có thật sinh ra để sống 1
cuộc đời máy móc, điều độ, học Aristotle và thánh Thomas, học tiếng La tinh,
Hy lạp, dập tắt cảm giác, chạy trốn trần gian không? Không phải con người còn
được tạo dựng với những giác quan và bản năng, với những bóng đen đẫm máu và
khả năng gây tội ác làm kinh hoàng và thất vọng đó sao?
-
Những câu hỏi ấy quay cuồng trong đầu óc vị tu viện trưởng mỗi khi nghĩ đến
Đan Thanh. Phải, có lẽ sống như Đan Thanh thật hồn nhiên hơn, “người” hơn,
cam đảm hơn và e còn cao quý hơn, khi dấn mình vào dòng thực tại khắt khe hỗn
loạn, dấn mình vào tội lỗi để chấp nhận những hậu quả đắng cay. Có lẽ việc làm
của Đan Thanh khó hơn, can đảm hơn và chân thực hơn: lang thang trên đường
thiên lý với đôi giày rách, đùa với cảm quan để trả giá bằng đau khổ. Huyền
Minh đã nhìn sâu vào cuộc đời thác loạn của bạn mà vẫn không giảm chút nào
lòng kính trọng mến yêu. Ồ không, từ khi tu viện trường thấy được những pho
tượng do bàn tay vấy máu của chàng nghệ sĩ tạc nên, Huyền Minh biết rõ trong
trái tim con người bốc dồng ấy, kẻ quyến rũ đàn bà ấy, có những thiên bẩm tràn
trề ánh sáng và tài hoa.
-
Người nghệ sĩ chịu đựng để cho người ta khinh bỉ mình, như trong Mưa nguồn
Bùi Giáng đã nói:
-
Tôi xin chịu cuồng si để sáng suốt,
-
Tôi đui mù cho thỏa dạ yêu em
-
(chỉ cuộc đời).
-
Điểm tương đồng giữa nghệ sĩ với người tư duy là, đến chỗ tuyệt đỉnh của nghệ
thuật, nghệ sĩ cũng đành bó tay như nhà tư duy không có lời để diễn đạt chân
lý. Đan Thanh từ giã xưởng điêu khắc để lang thang trở lại, vì chàng thấy
không một nét họa nào, một đường điêu khắc nào có thể diễn tả sự linh động của
cuộc đời. Cuộc đời giống như một bà mẹ bí ẩn không bao giờ hiển lộ toàn thân
cho ta thấy, nên Đan Thanh đành chết đi để cho bức tranh tuyệt tác về Bà Mẹ
đời vẫn mãi mãi là một lẽ huyền vi.
-
Tóm lại, Tất Đạt là mẫu người đốn ngộ, theo con đường Kim cang thừa của Mật
tông. Những kẻ chưa có giới định, chưa có công lực của trí tuệ, cao ngạo, ích
kỷ, tâm giao động, mà đi con đường tuệ hay Kim Cang thừa thì rất nguy hiểm, dễ
dàng sa đọa. Bởi thế, ta không nên quên rằng, trước khi bước vào cuộc sống sa
đọa, Tất Đạt đã từng tu khổ hạnh và có những định chứng rất cao, nhờ thế chàng
mới có thể gượng lại được một khi sắp chết đuối trong thanh sắc cuộc đời.
-
2.
Thiện Hữu
-
Là
mẫu người tư duy, khổ hạnh, nên thích những cái trừu tượng. Chàng thuộc mẫu
người nặng về lý tính. Thiện Hữu đi theo con đường tiệm giáo tùy tín hành,
là người đã tu nhiều kiếp nên biết chọn lựa để gởi mềm tin của mình, và
may mắn gặp dựợc thiện tri thức. Tuy Thiện Hữu suốt đời đi theo Tất Đạt, nhưng
khi gặp Phật ông đã bỏ Tất Đạt chứ không a dua theo bạn một cách mù quáng.
Thiện Hữu là hạng người đã trồng nhiều căn lành nên không thể sa đọa, mặc dù
lâu ngộ chân lý.
-
3.
Vệ
Sử
-
Nhân vật này tượng trưng cho lương tri hay Phật tính, vượt lên trên cả cảm
tính và lý tính. Vai trò của Vệ Sứ ìà hình ảnh của một Bồ tát âm thầm sống
giữa cuộc đời. Người chèo đò là người luôn di động qua lại, không trụ một nơi
nào: không ở bờ sinh tử không ở bờ Niết Bàn cũng không ở giữa dòng. Trung Đạo
cũng vậy, không phải là con đường giữa, mà vượt lên trên các cực đoan.
-
Vệ
Sử đưa người từ bờ mê sang bến giác, ông là người đã âm thầm hướng dẫn cho Tất
Đạt cách học lắng nghe từ dòng sông. Tất Đạt cũng là một học trò giỏi, nên khi
theo Vệ Sử học từ dòng sông thì Tất Đạt ngộ được một điều: không phải chỉ có
dòng sông thiêng liêng, mà tất cả mọi sự vật đều thiêng liêng. Chúng ta có thể
học đạo từ khắp nơi: ngọn cây, chiếc lá... chứ không phải chỉ có dòng sông.
-
Vệ
Sử có khả năng đặc biệt là biết lắng nghe, trong Phật giáo gọi là phản văn,
xoay cái nghe trở về tâm để lắng nghe tự tính thanh tịnh, nghe cái nhất thể,
không bám vào một đối tượng nào. Nhờ sự lắng nghe đó mà con người có thể giải
thoát.
-
B. TƯ TƯỞNG NÒNG CỐT
-
Hermann Hesse đã gởi gắm những suy tư của mình về chân lý, về cuộc đời và về
sự giải thoát qua các nhân vật Tất Đạt và Vệ Sử. Có thể tóm tắt các tư tưởng
nòng cốt như sau:
-
1)
Chân lý là cái gì không thể truyền dạy được. Kinh điển không đem lại cho ta
niết bàn, an lạc được mà tự mình phải chứng lấy.
-
2)
Mọi lập ngôn đều bao hàm cái điều ngược lại: nói “thiện” đã bao hàm ác, nói
“khiêm tốn” đã bao hàm kiêu căng.
-
3)
Thời gian không thật có. Giải thoát chính là nhìn thực tại một cách toàn diện
không cắt xén. Trong đứa bé đã ẩn tàng ông già, trong sinh đã có diệt. Chết là
bắt đầu đời sống mới dưới một hình dạng mới. Tất Đạt nói: Thời gian không
thực có, này Thiện Hữu! Tôi đã luôn luôn trực nhận điều ấy. Và nếu thời gian
không có thực, thì cái đường tưởng tượng ngăn chia đời này với cõi vô cùng,
phân chia thiện và ác, hạnh phúc với khổ đau, cũng chỉ là ảo tưởng.
-
Thiện Hữu: Sao lại như thế?
-
Tất Đạt: Này nhé bạn! Tôi là một kẻ phạm tội và bạn là một kẻ phạm tội.
Nhưng một ngày kia người phạm tội cũng sẽ đạt Niết Bàn, thành Phật. Ý niệm
“một ngày kia” chỉ là ảo tưởng, chỉ là một sự so sánh. Không, đức Phật tiềm
tàng (Phật tính) đã có sẵn trong người tội lỗi, tương lai đã nằm sẵn trong
hiện tại. Đức Phật tiềm tàng ấy phải được trực nhận trong người kia, trong
bạn, trong tôi, trong mọi người. Thiện Hữu, thế giới không từ từ tiến trên
đường dài để đạt đến toàn thiện. Không, nó hoàn hảo trong mọi lúc, trong từng
giây phút. Tất cả mọi tội lỗi đều mang theo nó sự ân xá, mỗi trẻ con đã là một
ông già tiềm tàng, mọi mầm non đã mang sẵn chết chóc, và trong mỗi người đang
hấp hối, có sự sống vĩnh cửu.
-
Chúng ta quen nhìn một chiều, hoặc sinh hoặc diệt, nên đau khổ. Người giác ngộ
thì thấy sự luân chuyển của vạn vật cũng như bốn mùa, trong diệt có sinh và
ngược lại, như Mãn Giác thiền sư nói:
-
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
-
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
-
4)
Những sợ hãi, lo sầu đều ở trong thời gian, (nghĩa là, người ta chỉ lo sợ khi
dự đoán về tương lai, và so sánh với quá khứ) nên mọi đau khổ trên đời sẽ được
khắc phục khi ta khắc phục thời gian, khi ta bất chấp nó (chỉ sống trong hiện
tại với tất cả sự tỉnh giác để thấy rằng khái mệm “hiện tại” cũng không thực).
-
5)
Cái gì có giá trị, là chân lý đối với người này thì dường như với người khác
không có nghĩa gì cả (Do vậy thật không nên áp đặt tư tưởng, lối sống của mình
cho người khác).
-
6)
Tất cả mọi sự đều thiêng liêng nếu ta biết nhìn và biết lắng nghe. Mỗi sinh
vật đều gợi cho ta chân lý vĩnh cửu nếu ta không bám vào nó. Đừng hòng tìm
Thượng đế ở một nơi nào, vì Thượng đế ở khắp nơi. Chỗ tuyệt đỉnh của đạo cũng
như của nghệ thuật, là sự im lặng vô ngôn. Khi ta dừng lại ở 1 cái gì để cho
đó là thượng đế, thì chính lúc đó ta xa rời Thượng đế (A. Gide).
-
Không bám vào 1 biểu tượng nào cả mới thấy được chân lý (vô sở trụ). Chính
thái độ nhìn của ta quan trọng hơn đối tượng nhìn.
-
Tất Đạt nói: “Thú thật tôi không cho danh từ, tư tưởng có 1 tầm quan trọng
nào, tôi quan tâm đến sự vật nhiều hơn. Một người trên dòng sông này đã là
thầy của tôi, ông ta là một người thánh thiện, trong bao nhiêu năm ông chỉ tin
vào dòng sông, không tin gì khác. Con sông đối với ông ta như một thượng đế.
Trong nhiều năm ông không biết rằng mỗi làn gió, mỗi đám mây, mỗi thân chim,
sâu bọ cũng đều thiêng liêng không kém, và có thể dạy cho ông ta hệt như dòng
sông đã dạy”.
-
7)
Yêu thương cuộc đời là quan trọng hơn tìm hiểu và phân tích nó. “Bây giờ
Tất Đạt nhìn cuộc đời với một thái độ khác trước: không quá khôn ngoan, không
quá kiêu hãnh, và vì thế tò mò, thân thiện hơn. Khi chàng đưa qua sông những
nhân vật thường ngày, họ không còn xa lạ với chàng như trước. Mặc dù đã đạt
tới mức tự giác cao độ và chịu đựng được cái ung nhọt cuối cùng của mình, bây
giờ chàng thấy những người thường tình ấy đều là huynh đệ của chàng, những ước
mơ phù phiếm của họ không còn phi lý mà trở nên dễ hiểu, đáng thương và lại
còn đáng phục nữa là khác”.
-
8)
Danh từ không nói lên được chân lý.
-
Tất Đạt bảo Thiện Hữu: “Với tôi dường như thương yêu là quan trọng nhất
trên đời. Những tư tưỡng gia vĩ đại có thể đặt nặng vấn đề tìm hiểu nhân sinh
vũ trụ, nhưng tôi nghĩ, chỉ có một điều quan trọng là yêu thương cuộc đời,
không phải khinh bỉ nó, không thù ghét nhau mà nhìn đời nhìn mình cùng tất cả
mọi sự với niềm yêu thương, quý trọng”.
-
Thiện Hữu: “Nhưng đây chính là điều mà đấng giác ngộ gọi là vọng tưởng.
Ngài dạy lẽ độ lượng, nhẫn nhục, từ bi... nhưng không dạy yêu thương.
Ngài giới răn chúng ta không được trói buộc mình vào tình yêu thế tục”.
-
Tất Đạt: “Chúng ta lại rối ren về danh từ và ý nghĩa. Tôi không phủ nhận
rằng danh từ thương yêu của tôi thật trái ngược với lời chỉ giáo của đức Cù
Đàm. Tôi khinh thường danh từ cũng vì lẽ ấy: tôi biết mâu thuẫn kia chỉ là ảo
tưởng. Quả thế, làm sao Ngài không biết đến tình yêu khi mà Ngài, mặc dù đã
nhận chân sự phù phiếm giả tạm của nhân thế, vẫn dấn thân suốt đời giủp đỡ và
giáo hóa con người?”
-
Vậy đừng nên bám chặt vào ngôn từ mà quay lưng với nghĩa lý. Danh từ hông thể
diễn tả được tất cả mọi sự.
-
9)
Lương tri (hay Phật tính) của con người luôn luôn trỗi dậy khi có cơ hội, dù
con người có lăn lộn trong phiền não vô minh bao lâu đi nữa. Nó như một viên
Kim cương bất hoại: Cả cuộc đời ăn chơi của Tất Đạt đã không ảnh hưởng chàng
bằng một tiếng OM khi chàng đứng trên bờ vực thẳm.
-
C.
BIỂU TƯỢNG DÒNG SÔNG
-
1)
Dòng sông tượng trưng cho dòng thời gian, dòng đời. Tất cả những triết
gia cổ điển và hiện đại đều ví thời gian như dòng nước chảy. Khổng Tử,
Héraclite, Henri Bergson đều ví thời gian và tâm thức như dòng nước (stream of
consciousness). Cuộc đời con người giống như một dòng sông tuôn chảy không bao
giờ đứng lại, đây là tính vô thường của cuộc đời. Vì vô thường cho nên mỗi
giai đoạn trong cuộc đời chỉ là giả tạm, không thật: đó là tính vô ngã, cũng
như dòng sông không thực có.
-
Tất Đạt: “Bánh xe hiện tượng quay nhanh lắm Thiện Hữu! Đâu là Tất Đạt con
người bà la môn? Đâu là Tất Đạt sa môn? Đâu là Tất Đạt con người giàu có? Cái
gì giả tạm sẽ đổi thay”.
-
Trong tập Mưa nguồn, thi sĩ Bùi Giáng viết:
-
Dòng sông chảy, ai người xin níu lại?
-
Còn đời người thì:
-
Xuân xanh xô cổng chạy dài
-
Bỏ
sương tuyết phủ phượng đài phía sau
-
2)
Tính nhất thể của cuộc đời: Con sông đồng lúc ở khắp mọi nơi, cũng thế
cuộc đời là toàn thể bất khả phân: sống chết, vinh nhục, xấu tốt, được thua,
còn mất, vui buồn... tất cả đó là cuộc đời.
-
3)
Dòng sông cũng thường được dùng để ví với dòng vô thức tuôn chảy không
ngừng, chiếm vị trí quan trọng như làn nước ngầm bên dưới, nơi sinh sống của
loài thủy tộc.
-
4)
Dòng sông luôn luôn trở về: “Nước đi ra biển lại mưa về nguồn,” (Tản
Đà) cuộc đời cũng vậy tuần hoàn như bốn mùa luân chuyển, cho nên biệt ly cũng
là trùng ngộ:
-
Thưa rằng ly biệt mai sau
-
Là
trùng ngộ giữa hương màu nguyên xuân
-
(Bùi Giáng)
-
KẾT LUẬN.
-
Câu Chuyện Dòng Sông
trước hết là một tác phẩm văn học nghệ thuật, cho nên bất cứ một phân tích nào
về phương diện tư tưởng đều mang ít nhiều tính chủ quan do người đọc tự gán
cho nó. Bởi thế những ai phê phán sách này phỉ báng đạo Phật hay đề cao đạo
Phật, đều không nhằm chỗ.
--o0o--
|
|