|
PHẬT GIÁO VIỆT NAM
CHÁNH PHÁP & HẠNH PHÚC
Nhà
Xuất Bản Tôn Giáo-2001
H. T. Thích
Minh
Châu
---o0o---
-
15. MỘT NỀN GIÁO DỤC TOÀN DIỆN
-
-
Năm 1967, tôi viếng thăm Đại học Yale và được một giáo sư Mỹ
đang nghiên cứu Tây Tạng học đón tiếp tôi với bộ mặt thật hớn.
hở, sung sướng, và một câu đón chào mà tôi không bao giờ quên:
"Tôi sung sướng đón chào Thầy, vì tôi chắc rằng Thầy đến đây
không phải để cải hóa tôi theo Đạo của Thầy”. Tôi chỉ mĩm cười,
không đáp lại nhưng chính khi ấy, tôi cảm giác được “tất cả sự
sung sướng” của tôi khi “được một bậc Thầy như đức Phật”. Cái
cảm giác sảng khoái, “nhẹ nhõm", hay dùng cho đúng danh từ Phật
học hơn là Passaddhi (khinh an) ấy của ông bạn giáo sư Mỹ, khi
cảm thấy mình không bị đe dọa, bị giáo hoá, cũng là cảm giác
chung cho tất cả những ai được đối thoại với đức Phật khi Ngài
còn sống hay khi trực tiếp hoặc gián tiếp được tiếp nhận giáo lý
của Ngài. Được gặp đức Phật, đối thoại với Ngài, được đọc những
lời Ngài dạy hay chiêm ngưỡng hình bóng giải thoát của Ngài,
chúng ta đều linh cảm khả năng giáo hóa thần diệu của Ngài. Điểm
đặc biệt là chúng ta không bị đóng vai trò thụ động, chúng ta
không cảm thấy bị giáo hóa, bị chinh phục, vì đức Như Lai chỉ là
ngườì chỉ đường (Tathàgato ak-khataro), chúng ta là người đi
trên con đường ấy. Đức Như Lai chỉ là vị giới thiệu phương pháp
suy tư chín chắn (yo-niso mana-sikaro), chính chúng ta là người
suy tư và quyết định.
-
Câu chuyện sau đây chứng tỏ không bao giờ đức Phật gợi cho chúng
ta những tình cảm dao động làm chi phối sự suy tư chín chắn của
chúng ta. Ngài khuyên chúng ta hãy bình tĩnh sáng suốt, như thật
(yathàbhùtam) xác nhận sự việc rồi có những thái độ thích nghi.
-
Khi được các vị Tỳ-kheo hỏi, vì sao ngoại đạo Suppiyo lại dùng
vô số phương tiện hủy báng Phật, pháp, Tăng, còn Thanh niên
Brahmadatta trái lại dùng vô số phương tiện tán thán Phật, Pháp
và Tăng, đức Phật trả lời nhẹ nhàng nhưng thật sự vô tư và sáng
suốt, Ngài kính trọng "con người" trong các vị Tỷ kheo, khuyên
các vị này nhận xét bình tĩnh, vô tư, dựa trên những sự kiện xác
đáng để bỏ bác hay tán thành:
-
"Này các Tỳ-kheo, nếu có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay
hủy báng Tăng, các Thầy chớ có vì vậy sanh lòng căm phẫn, tức
tối, tâm sanh phiền muộn. Nếu có người hủy báng Ta, hủy báng
Pháp hay hủy báng Tăng, và nếu các Thầy công phẫn và
phiền muộn, thời các Thầy có thể biết được lời nói của những kẻ
ấy là đúng hay sai lạc chăng?"
-
"– Bạch Thế Tôn, không thể được!”
-
" Này các Tỷ-kheo, khi có người hủy báng Ta, hủy báng Pháp hay
hủy báng Tăng các Thầy phải nói rõ những điểm không đúng sự thật
là không đúng sự thật: "Như thế này, những điểm này không đúng
sự thật; như thế này, điểm này không chính xác; việc này không
có giữa chúng tôi; việc này không xảy ra giữa chúng tôi ".
-
"Này các Tỷ-kheo, nếu có người tán thán Ta, tán thán Pháp hay
tán thán Tăng, thời các Thầy không nên hoan hỷ, tâm không nên
thích thú. Này các Tỳ-kheo, nếu có người tán thán Ta, tán thán
Pháp hay tán thán Tăng, nếu các Thầy hoan hỷ, thích thú, thời sẽ
có hại cho các Thầy. Này các Tỷ-kheo, nếu có người tán thán Ta,
tán thán Pháp hay tán thán Tăng thời các Thầy hãy công nhận
những gì đúng sự thật là đúng sự thật: “Như thế này, điểm này
đúng sự thật, như thế này điểm này chính xác việc này có giữa
chúng tôi, việc này đã xảy ra giữa chúng tôi"
(Trường Bộ Kinh, Đại Tạng, trang 13).
-
Khi sắp nhập Niết-bàn, một lần nữa đức Phật dặn dò các vị Tỳ
-kheo cần phải thận trọng, chớ có vội tin những lời, dầu được
xem là tự đức Phật nói hay từ các vị Thượng tọa đa văn đa trí
nói:
-
"Này các Tỳ-kheo, có thể có vị Tỳ-kheo nói: "Này Hiền giả, tôi
tự thân nghe từ miệng Thế Tôn, tự thân lãnh thọ, như vậy là
Pháp, như vậy là Luật, như vậy là lời dạy của bậc Đạo Sư”. Này
các Tỳ-kheo, các Thầy không nên tán thán, không nên hủy báng lời
nói của vị Tỷ-kheo ấy, không tán thán, không hủy báng, mỗi mỗi
chữ, mỗi mỗi câu cần phải học hỏi kỹ lưỡng và đem so sánh với
kinh, đem đối chiếu với luật. Nếu chúng không phù hợp với kinh,
không tương ứng với luật thì các thầy có thể kết luận: "Chắc
chắn những lời này không phải là lời Thế Tôn, và vị Tỷ-kheo đã
thọ giáo sai lầm".Và này các Tỷ-kheo, các Thầy hãy từ bỏ chúng.
Khi đem so sánh với kinh, đem đối chiếu với luật, và nếu chúng
phù hợp với kinh, tương ứng với luật, thời các thầy có thể kết
luận: "Chắc chắn những lời này phải là lời dạy của Thế Tôn. Và
vị Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo chân chánh".
-
Chúng ta phải thận trọng, không hủy báng, không tán thán, học
hỏi từng chữ, từng câu, rồi đem đối chiếu với kinh, đối chiếu
với luật; có phù hợp mới chấp nhận, không phù hợp thời không
chấp nhận. Thái độ suy tư chín chắn, phối hợp thích nghi, thật
là một phương pháp hữu hiệu và thực tiễn, khi phải đối trị với
những phức tạp tuyên truyền xuyên tạc.
-
Dân chúng Kalama phân vân đến hỏi đức Phật:
-
"Bạch Thế Tôn, có nhiều ẩn sĩ và Bà-la-môn đến viếng Kesaputta.
Họ chỉ giảng giải và sáng tỏ những lý thuyết của riêng họ, khinh
miệt, lên án và phỉ báng những lý thuyết của những người khác.
Nhưng bạch Thế Tôn, về phần chúng con, chúng con luôn luôn hoài
nghi và hoang mang không biết vị nào trong số những nhà ẩn sĩ và
Bà-la-môn khả kính ấy đã nói sự thật và vị nào nói sai quấy"
-
Đức Phật trả lời, với thái độ suy tư, trầm lặng trong sáng như
hồ nước trong của những tâm hồn sáng suốt:
-
"Phải đấy, hỡi những người Kalama, các người hoài nghi, hoang
mang là phải; các người nghi ngờ những điều đáng nghi ngờ. Này
các Kalama, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo
truyền thống; chớ có tin vì nghe người ta nói; chớ có tin vì
được kinh tạng truyền tụng; chớ có tin vì nhân lý luận siêu
hình; chớ có tin vì đúng theo một lập trường; chớ có tin vì đánh
giá hời hợt các dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến;
chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị
Sa-môn là bậc Đạo Sư của mình. Này các người Kalama, khi nào các
người biết rằng: "Những việc này là xấu, những việc này là bất
thiện, những việc này bị người có trí chỉ trích, những việc này
nếu tuân theo và thực hiện sẽ mang lại tai hại và xấu xa", thì
các người hãy từ bỏ chúng... Này các người Kalama, khi nào các
người biết rằng: "Những việc này là tốt, những việc này là
thiện, những việc này được người có trí tán thán, những việc này
nếu tuân theo và thực hành sẽ mang lại lợi ích tốt đẹp”, thì các
người hãy chấp nhận chúng"(Tăng
Chi I, Đại Tạng, Kinh Các vị ở Kesaputta, trang 336).
-
Chúng ta thấy rõ, đức Phật bao giờ cũng kính trọng sự suy tư,
nhận xét và quyết định của chúng ta, Ngài không muốn chúng ta
nhắm mắt tuân theo Ngài, vâng theo sự phán xét của Ngài. Ngài
không muốn chúng ta đóng vai trò thụ động, nhắm mắt tin theo
truyền thống, tin đồn hoặc dựa vào uy tín cá nhân hay của Thầy
mình để khỏi phải suy tư, quyết đoán. Ngài đòi hỏi ở những Phật
tử một sự suy tư chín chắn, một ý thức kinh nghiệm bản thân, rồi
mới đánh giá sự việc là thiện hay ác, tiếp đến mới có thái độ
tuân theo hay từ bỏ. Chúng ta sung sướng vì đức Phật trọng chúng
ta, vì đức Phật tin ở khả năng suy tư chín chắn của chúng ta, vì
chính thái độ rất “người” trong chúng ta có những tiềm năng nhận
xét khá chính xác, khỏi đóng vai trò thụ động, nô lệ cho ai cả.
-
Khi nói đến giáo dục, chúng ta thường liên tưởng đến đào tạo
kiến thức, huấn luyện khả năng chuyên môn cho học viên. Nếu có
đề cập đến tác phong đạo đức, thời xem vấn đề này như một vấn đề
luân lý đạo hạnh, ấn định bởi truyền thống hay tập tục xã hội.
Quan niệm này không đi ra ngoài mục đích và đường hướng giáo dục
đương thời, nhưng đã bỏ rơi hay không đánh giá đúng mức quan
trọng hai khía cạnh “thái độ” và "phương pháp" của giáo dục mà
theo chúng tôi nghĩ phải đóng một vai trò quan trọng để xây dựng
một nền giáo dục gọi là toàn diện hay trọn vẹn.
-
Vấn đề sở dĩ đặt ra ở đây là vì con người của chúng ta khi đối
mặt với các sự vật bên ngoài hay những khái niệm bên trong đều
có những phản ứng, những thái độ, những cử chỉ của thân thể, của
miệng nói hay của ý thức, những danh từ mà đạo Phật gọi bằng
danh từ chuyên môn là Kàyakamma (thân nghiệp), Vacikamma (khẩu
nghiệp) và Manokamma (ý nghiệp). Một người thích uống rượu bia,
cảm thấy sung sướng khi có chai rượu trước mặt mình và có cử chỉ
đem chai rượu về cho mình để uống. Trái lại một người ghét rượu
thời cảm thất khó chịu khi có chai rượu trước mặt và muốn xua
đuổi chai rượu như xua đuổi ruồi, muỗi. Còn nếu không ghét cũng
không thích rượu, thời đối với rượu có cử chỉ thản nhiên, tự
tại.
-
Tóm lại, con người của chúng ta đứng trước các đối tượng bao giờ
cũng có một trong ba phản ứng: Một là ưa thích, đem về cho mình
đối tượng mình ưa thích; hai là ghét bỏ, đẩy xa mình đối tượng
ấy; thứ ba là thản nhiên, không ưa thích cũng không ghét bỏ. Đạo
Phật gọi cử chỉ đem về cho mình là tham (lobha), cử chỉ đẩy xa
mình ra là sân (dosa), và cử chỉ thản nhiên là xả (upekkhà).
Định nghĩa này không bao hàm một ý nghĩa luân lý, đạo đức gì mà
chỉ là một phản ứng của con người trước những đối tượng sai
khác. Đức Phật với cái nhìn tâm lý của Ngài, thấy con người luôn
luôn bị chi phối, bị ảnh hưởng bởi sự vật bên ngoài, không tự
tại, không tự chủ. Và phương pháp giáo dục ở nơi đây là nhằm
huấn luyện con người được tự chủ, tự tại đối với các đối tượng.
Nói một cách khác, con người phải được giáo dục như thế nào để
con người trở thành một người chủ đối với đối tượng, chứ không
phải là một người nô lệ của đối tượng.
-
Đức Phật đi xa hơn, Ngàỉ tìm nguyên nhân của tham và của sân.
Ngài tìm hiểu tại sao con người lại có hai phản ứng trái ngược
đối với đối tượng, và Ngài tìm thấy rằng sở dĩ có tham vì hiểu
lầm có một tự ngã, nên đem về cho mình cái gì tự ngã ưa thích;
sở dĩ có sân, vì hiểu lầm có một tự ngã, nên hất xa mình ra cái
gì tự ngã ghét bỏ. Sự hiểu lầm ở nơi đây, đạo Phật gọi là si hay
moha.Chúng ta có tham vì có si, chúng ta có sân vì có si, tham
luôn luôn đi đôi với si và sân luôn luôn đi đôi với si chớ tham
không khởi lên một lần với sân. Và giáo dục ở nơi đây nhằm trừ
diệt si hay thay đổi một quan điểm sai lầm bằng một quan điểm
đúng đắn, thay hiểu lầm (vô minh) bằng trí tuệ. Nói một cách
khác, giáo dục theo đạo Phật chú trọng lấy trí tuệ (Duy tuệ thị
nghiệp) diệt trừ si mê, si mê trừ, thời tham và sân cũng được
diệt trừ luôn. Chỉ cần có một kiến thức, một quan điểm, một cái
nhìn đúng đắn (giác ngộ), thời mọi hành vi thiện ác, tham sân
đều được diệt trừ (giải thoát). Vấn đề giáo dục không còn là vấn
đề đạo đức, luân lý nữa, mà là vấn đề kiến thức, vấn đề tri
kiến, vấn đề trí tuệ, vấn đề thái độ, vấn đề phản ứng.
-
Lời khuyên sau đây của vua A-dục, trong Bia ký số XII có thể
khiến nhiều người không bằng lòng: "Người ta không nên chỉ kính
trọng tôn giáo của riêng mình và bài bác những tôn giáo của kẻ
khác, mà phải kính trọng tôn giáo kẻ khác vì lý do này hay lý do
khác. Như thế ta có thể làm cho tôn giáo mình phát triển và giúp
đỡ các tôn giáo nữa. Nếu không, tức là ta đã đào huyệt cho chính
tôn giáo của mình và còn làm hại các tôn giáo khác. Kẻ nào chỉ
kính trọng tín ngưỡng của mình và bài xích những tín ngưỡng
khác, thực ra họ đã làm thế vì sùng tín ngưỡng của riêng mình,
nghĩ rằng: "Tôi sẽ làm rạng danh tôn giáo của tôi". Nhưng trái
lại, khi làm thế họ đã tổn thương tôn giáo mình một cách trầm
trọng hơn nữa. Bởi thế sự hòa hài là tốt đẹp: Mọi người nên lắng
nghe và có thiện chí lắng nghe những lý thuyết mà người khác đề
xướng”. (Con Đường Thóat Khổ W. Rahula – Thích Nữ Trí Hải dịch,
trang 20).
-
Chúng ta hiểu rằng: Là Phật tử, không phải nghĩa là theo một tôn
giáo tên Phật giáo mới được gọi Phật tử, mà chính cần có cử chỉ
tôn trọng các tôn giáo khác, các tư tưởng khác mới là Phật tử.
Cử chỉ trầm lặng bình thản trước sự vô thường của đức Thế Tôn
cùng cử chỉ tôn trọng các tôn giáo khác, các tư tưởng khác với
mình là hai thái độ, hai cử chỉ, biểu hiện chất liệu giải thoát
và khoan dung của đạo Phật. Giáo hóa, giáo dục ở nơi đây chính
giúp chúng ta có một thái độ, có một cử chỉ thích nghi, hợp lẽ
khi chúng ta phải đối diện với những tình trạng đa diện của xã
hội ngày nay.
-
Có người sẽ bảo, giáo dục như vậy khiến con người trở thành cây
đá, không tình cảm, không ham muốn, thời đời còn gì là thú vị
nữa. Thật sự vấn đề ở đây không phải đời thú vị hay không thú
vị. Vấn đề chính là nơi phản ứng con người trước muôn vàn đối
tượng, và con người cư xử, hành động, phản ứng như một người chủ
hay như người nô lệ, chỉ có thế thôi.
-
Đạo Phật còn đi xa hơn, đức Phật xem con người là tổng hợp của
hai năng lực mà danh từ chuyên môn gọi là Sắc mạng căn
(Rùpajìvitind riya) và Danh mạng căn (Nàmajìvitindriya). Những
động lực làm con người sống, con người lớn và già, những sức
mạnh khiến máu chạy, tim đập, mạch nhảy, phổi thở, những năng
lực khiến tóc dài, xương cứng dần và dài thêm, những sức mạnh
khiến tay chân cử động, khiến con người có cử chỉ này, có lời
nói nọ... ; đạo Phật gọi là Sắc mạng căn. Những sức mạnh
khiến con người cảm thấy vui buồn, sung sướng hay đau khổ, tham
muốn vật này, chán ghét vật khác, khi suy tư như thế này, khi lo
nghĩ như thế kia, tất cả động lực làm thế giới tình cảm, thế
giới trí thức, thế giới tâm linh họat động, tất cả động lực sức
mạnh ấy gọi là Danh mạng căn. Và con người là sự tổng hợp của
hai sức mạnh, khả năng, năng lực ấy. Hai năng lực này liên quan
mật thiết với nhau, tương quan và tương trợ lẫn nhau. Những món
ăn của chúng ta không những ảnh hưởng đến thể chất chúng ta mà
còn ảnh hưởng đến thế giới tình cảm, thế giới trí thức của chúng
ta. Trái lại, những điều chúng ta lo nghĩ, những tư tưởng chúng
ta suy tư, những sách vở chúng ta đọc, lòng tham, lòng sân của
ta đều có những phản ứng tương xứng đến thân thể của chúng ta.
Vì con người của chúng ta là sự tổng hợp của hai năng lực như
vậy, nên trong con người của chúng ta phát ra những quang tuyến,
những sức mạnh vô hình ảnh hưởng đến cảnh vật xung quanh. Có
người mới gặp lần đầu đã trìu mến cảm phục chúng ta. Có người
mới thấy, đã thù ghét chúng ta ngay, không cần phải suy nghĩ đắn
đo. Lời nói của chúng ta, bộ điệu của chúng ta, dáng mặt của
chúng ta, tư tưởng của chúng ta đều phát tiết những sức mạnh,
những ảnh hưởng chi phối người và vật mà ta tiếp xúc; đạo Phật
dùng một danh từ mahesakkà, người có thế lực và appesakkà, người
ít thế lực (Đức Phật và Phật pháp trang 306); để chỉ cho khả
năng chi phối của con người. Như vậy chúng ta thấy sự tu hành
hay nói cho đúng hơn là sự giáo dục ở nơi đây là làm thế nào để
huấn luyện cho mỗi cá nhân hàm chứa và phát triển những khả
năng, nhưng sức mạnh chi phối tốt đẹp đối với người hay cảnh vật
mà mình tiếp xúc. Ở nơi đây, vấn đề kiến thức không còn được đặt
ra mà chính vấn đề khả năng, vấn đề vận dụng sức mạnh tâm linh,
sức mạnh đạo đức được đặc biệt chú trọng. Nhưng để tránh những
hiểu lầm, chúng ta cần xác định những sức mạnh này không có hàm
nghĩa luân lý, dù rằng chúng có thể có những tác dụng gọi là đạo
đức.
-
Như vậy con người biến thành một trung tâm có những năng lực hấp
dẫn và xua đẩy đối với sự vật và sự vật cũng có khả năng hấp dẫn
và xua đẩy con người, mà danh từ chuyên môn của đạo Phật gọi là
tham (lobha), và sân (dosa), dù rằng đó không có một tác dụng
luân lý. Chúng ta để hai kim địa bàn gần nhau, đầu kim chỉ Bắc
của địa bàn này tìm đến và dính liền với đầu kim chỉ Nam của địa
bàn kia, trái lại xua đẩy đầu kim chỉ Bắc. Sự hấp dẫn và xua
đuổi này chỉ là một định lý thuận ứng và nghịch ứng, không có
tính cách luân lý. Với định lý này, chúng ta thử tìm hiểu những
hiện tượng đã xảy ra mà chúng ta thường cho là định mệnh hay may
rủi do một sự thường phạt của một đấng thiên liêng nào.
-
Chúng ta thấy có người chỉ chậm bước có một phút mà thoát chết
nạn phi cơ, hay nhờ thình lình cúi xuống mà tránh được viên đạn
bắn phải. Nhiều khi chết sống, trở thành vấn đề đường tơ kẻ tóc.
Viên đạn mà chúng gọi là vô tình hình như lựa chọn người này
tránh né người kia. Quả bom mà chúng ta gọi là vô tình, hình như
lựa chọn chỗ mà rơi, tìm chỗ mà trúng. Chúng tôi nói hình như,
thực sự không có gì là hình như cả mà chỉ bị sự chi phối của
định lý thuận ứng và nghịch ứng, định lý hấp dẫn và phản hấp
dẫn. Và hiểu như vậy, chúng ta sẽ thấy vấn đề giáo hóa hay giáo
dục ở nơi đây hoàn toàn hướng về đào tạo cho cá nhân những sức
mạnh Sắc mạng căn và Danh mạng căn như thế nào, để con người trở
thành một chủ lực tác động chi phối hơn là một tha lực thụ động,
bị chi phối.
-
Hào quang của đức Phật chỉ là sự tinh tụ lại những phản xạ giác
ngộ và thanh tịnh của Sắc mạng căn và Danh mạng căn của Ngài,
không có gì gọi là bí mật hay luân lý cả. Trở lui về thế giới
con người và bước vào địa hạt thực tế hơn, chúng ta thấy rõ con
người hiện tại bị dao động mãnh liệt trước sự chi phối của chính
trị, kinh tế, xã hội trước sự hấp dẫn của vật dục. Con người
hiện tại sống dao động, hoang mang, lo âu, sợ hãi, nghi ngờ, bối
rối, thiếu hẳn sự bình tĩnh của những con người không bị dao
động, mất hẳn thái độ tự tại của những tâm hồn tự chủ, vắng bóng
hẳn nét thản nhiên của những tư thái quân bình. Cho nên một nền
giáo dục gọi là toàn diện, ngoài sự đào tạo cho tuổi trẻ những
kiến thức tổng quát, những khả năng chuyên môn, còn phải luyện
cho tuổi trẻ một tâm hồn quân bình, một thái độ tự tại và một tư
thái thanh thản.
-
Lời đức Phật dạy thật là giản dị, vì chỉ có người sáng suốt mới
thốt ra những lời giản dị. Nhưng những lời giản dị ấy lại được
ví như tiếng rống con sư tử, làm tà ma ngoại đao khiếp đảm, làm
hung thần ác quỷ run sợ. Như vậy lời dạy của Ngài hàm chứa cả
một sức mạnh phi thường, một khả năng chi phối mãnh liệt. Chúng
ta hãy tìm hiểu hiệu năng của lời Phật dạy đối với vấn đề lãnh
đạo, nguyên tắc lãnh đạo, nhất là vấn đề lãnh đạo Giáo hội. Vì
đây là một vấn đề hết sức quan trọng đã chi phối bao nhiêu hoạt
động của tu sĩ cũng như cư sĩ và làm một số người phải thắc mắc
phân vân.
-
Thấy đức Phật già yếu, Đề-bà-đạt-đa từ lâu muốn chiếm ngôi vị
Giáo chủ, đến thưa với đức Phật: “Bạch Thế Tôn, hãy yên tâm tu
Thiền nhập định và giao trách nhiệm lãnh đạo Giáo hội Tăng già
cho tôi, tôi sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm". Lời đức Phật trả
lời thật dứt khoát rõ ràng. "Ta còn không giao trách nhiệm lãnh
đạo Giáo hội cho Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, huống nữa là cho
Thầy, vừa vô trí, mà nhỏ nhen tâm địa. (Vinaya, II trang 188)”.
Chúng ta dễ hiểu vì sao đức Phật không giao cho Đề Bà Đạt Đa
đứng ra lãnh đạo Giáo hội. Nhưng điều làm chúng ta phân vân thắc
mắc là vì sao đức Phật từ chối cả với hai Ngài Xá Lợi Phất, trí
tuệ đệ nhất và ngài Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất. Đoạn kinh
sau này, trích trong kinh Mahà-Parinibbàna (Những Ngày và Những
Lời Dạy Cuối Cùng của Đức Phật trang 47, 48), giúp trả lời sự
phân vân của chúng ta. Ngài A Nan lo sợ đức Phật nhập diệt mà
không có lời trối trăn cho Giáo hội, đức Phật trả lời: “Này
Ananda, chúng Tỳ kheo còn mong mỏi gì nữa ở nơi Ta? Này Ananda,
Ta đã giảng Chánh pháp, không có phân biệt trong ngoài, vì này
Ananda, đối với các pháp, đức Như Lai không bao giờ là vị Đạo sư
còn nắm tay (mitthi-àcarya). Này Ananda, những ai nghĩ rằng: "Ta
sẽ là vị cầm đầu chúng Tỳ kheo hay chúng Tỳ kheo chịu sự giáo
huấn của Ta”, thời này Ananda, Như Lai không có nghĩ rằng: "Ta
sẽ là vị cầm đầu chúng Tỳ kheo, hay chúng Tỳ kheo chịu sự giáo
huấn của Ta”, thời này Ananda, làm sao Như Lai lại có lời di
giáo cho chúng Tỳ kheo?" (trang 100).
-
Trong đoạn kinh này, đức Phật đã khiêm tốn từ chối vai trò lãnh
đạo của mình, và không chịu xem chúng Tỳ kheo chịu sự giáo huấn
của mình. Chúng ta chắc chắn đức Phật không bao giờ có những cử
chỉ khiêm tốn hão, những lời nói đưa đẩy, những lời nói để mà
nói. Ngài từ chối sự lãnh đạo, vì vai trò của Ngài chỉ là một vị
chỉ đường: “Tumhchi Kiccam àtappam".
-
"Tathàgoto akkhàtaro" Dhammapada, số 276, "Các người hãy nỗ
lực cố gắng, đức Như Lai chỉ là vị chỉ đường”.
-
Lời khuyên tiếp của đức Phật cho ngài Ananda nêu rõ đường hướng
giáo hóa Tăng, Ni của đức Phật, nếu chúng ta muốn xem đức Phật
là một nhà giáo hóa:
-
"Vậy nên, này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình;
hãy tự mình y tựa chính mình, chớ y tựa gì khác. Dùng Chánh pháp
làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa
một gì khác".
-
"Này Ananda, những ai, sau khi Ta diệt độ, tự mình là ngọn đèn
cho chính mình, tự mình y tựa chính mình, không y tựa một gì
khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ
nương tựa, không nương tựa vào một pháp gì khác; những vị ấy,
này Ananda, là những vị tối thượng trong hàng Tỳ kheo của Ta"
(trang l01). Và để làm an lòng ngài Ananda, và một lần nữa, cá
nhân của mình để đạo pháp lên trên, đức Phật nhắc nhủ các đệ tử
của Ngài những lời dạy, an ủi cuối cùng: "Này Ananda, nếu trong
các người, có người nghĩ rằng: "Lời nói của bậc Đạo sư không còn
nữa. Chúng ta không có bậc Đạo sư. Này Ananda, chớ có những tư
tưởng như vậy". Này Ananda, Pháp và Luật, Ta đã giảng dạy và
trình bày, sau khi Ta diệt độ, chính Pháp và Luật ấy sẽ là Đạo
sư của các người”.
-
Như vậy, đức Phật có hai thái độ giáo dục hay giáo hóa rất rõ
rệt. Đối với các đệ tử, Ngài không đóng vai trò lãnh đạo, mà chỉ
đóng vai trò người chỉ đường. Các đệ tử phải tự mình nỗ lực,
phải nương tựa nơi chính mình. Cá nhân lãnh đạo tuy không phải
không quan trọng, nhưng cá nhân lãnh đạo phải nhường bước cho
nguyên tắc lãnh đạo, đường hướng lãnh đạo, và đối với Giáo hội,
đường hướng nguyên tắc lãnh đạo là Chánh pháp.
-
Hai quan niệm lãnh đạo này hết sức giản dị nhưng hàm chứa những
sức mạnh phi thường, vô cùng mãnh liệt vì làm đảo lộn những quan
niệm lãnh đạo đương thời và mở đường cho những đường hướng tư
tưởng thật là triệt để. Lãnh đạo, giáo hóa hay giáo dục ở nơi
đây, không phải từ trên áp đặt xuống, không phải từ ngoài vào,
mà phải là từ bên trong phát ra, trách nhiệm nhà lãnh đạo, nhà
giáo dục là khơi dậy, kích thích làm cho sống động và phát triển
những tiềm năng sẵn có trong lòng mỗi người, và hướng dẫn, hướng
thượng những tiềm năng ấy phát triển và nảy nở hướng đến những
mục tiêu tốt đẹp hơn.
-
(Bài thuyết giảng cho sinh viên Trường Cao cấp Phật học Việt Nam
khóa III 1993
- 1996).
--o0o--
|
|