|
ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO
-
ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO
-
VÀ HẠNH PHÚC CON NGƯỜI
-
Hòa Thượng Thích Minh Châu
---o0o---
-
-
4
-
ĐẠO
PHẬT THIẾT THỰC VÀ HIỆN TẠI
-
Lịch sử
Đức Phật Thích ca là lịch sử một con người, nhờ công phu tập bản
thân, đã trở thành một con người hoàn thiện, một bậc thánh giữa
thế gian, con người vĩ đại nhất sinh ra ở đời này, theo lời ca
ngợi Phật của nhà thi hào Ấn Độ nổi tiếng Tagore.
-
Bằng
cuộc đời của Ngài và bằng những lời dạy của Ngài được các đệ tử
kết tập lại trong ba tạng kinh điển, Đức Phật đã khai thị cho
loài người biết rằng, bất cứ người nào, với nỗ lực bản thân và
tu tập đúng hướng, cũng có thể đạt tới đích an lạc, giác ngộ và
giải thoát, trở thành bậc thánh giữa cõi thế, một hoa sen thơm
mọc giữa bùn lầy mà không vẩn mùi bùn.
-
Đó
chính là ý nghĩa nhân bản cao cả của Đao Phật, một tôn giáo đặt
niềm tin lớn vào con người, đề cao con người ngang hàng với bậc
Thánh, vì con người thật sự có sẵn trong mình khả năng, mầm mống
để trở thành bậc Thánh, nếu con người muốn mà quyết tâm tiến
theo con đường Đức Phật đặt ra.
-
Đạo
Phật không hứa với chúng ta một thiên đàng xa xôi siêu thế. Đạo
Phật yêu cầu chúng ta nhìn thẳng vào thực tại, tìm ra những
nguyên nhân gì gây ra cho chúng ta bất hạnh và đau khổ, ưu tư và
sợ hãi, rồi chỉ chúng ta phương pháp thiết thực để đoạn trừ
những nhân tố.
-
Đức
Phật thường nói Ngài thuyết pháp để cho người biết, người thấy,
không phải người không biết, không thấy; và pháp của Ngài giảng
là thiết thực và hiện tại, giúp chúng ta ngay bây giờ, ở đây,
đoạn tận mọi khổ đau và mê lầm, sống an lạc và hạnh phúc hướng
tới giải thoát và giác ngộ.
-
Đức
Phật Thích Ca, vì bổn sư vô cùng tôn quý, đã sanh ra giữa loài
người, đã đến với chúng ta như một người, thì những điều gì Ngài
tuyên bố hay giảng thuyết, con người có thể hiểu được và làm
được. Lời dạy của Ngài cò giá trị thiết thực và hiện tại, có thể
giúp chúng ta giải quyết tốt đẹp các vấn đề của cuộc sống.
-
Sanh ra
ở đời, ai cũng muốn hạnh phúc, không ai muốn đau khổ, mà Đạo
Phật chính là đạo giúp con người thoát khổ đau và sống an lạc,
giúp con người đoạn tận khổ đau ngay tại đời này bằng những
phương pháp thiết thực và hiện tại, mà mọi người chúng ta đều
hiểu được và làm được, không phải là những chuyện gì xa xôi,
huyền bí, siêu thực.
-
Đức
Phật đến với chúng ta như một con người, với sự phấn đấu kiên
trì của bản thân, Ngaì đã trở thành bậc thánh, và Ngài lại vạch
ra con đường để mọi người có thể noi theo, phấn đấu kiên trì,
cuối cùng cũng được giác ngộ và giải thoát như Ngài. Đó là con
đường đạo tám nhánh – Bát chánh đạo – mà mọi người đều có thể
học tập và tu chứng, không phân biệt nam hay nữ, già hay trẻ,
trí hay ngu, thậm chí cũng không có phân biệt, trong quá khứ,
người đó đã sống như thế nào, đã phạm lỗi lầm gì.
-
Khi Đức
Phật còn tại thế, Ngài có độ cho hai người thật đặc biệt. Đó là
Angulilama, một tướng cướp khét tiếng tàn ác ở vương quốc
Kosala, và Ampapali, một kỹ nữ nổi danh tài sắc ở thành phố
Veisàli. Cả hai người, sau khi xuất gia đều trở thành A-La-Hán
tức là bậc Thánh đã thoát vòng sanh tử, là ruộng phước vô thường
ở đời, xứng đáng để tất cả chúng ta đảnh lễ cúng dường.
-
Những
lời Đức Phật dạy mặc dù nói lên cách đây hơn hai nghìn năm trăm
năm, nhưng vẫn còn giá trị lớn lao và thiết thực đối với tất cả
chúng ta, đối với con người ở cuối thế kỷ XX này.
-
Tôi tin
rằng, nếu chúng ta thật sự sống đúng theo lời Phật dạy, thì dù
tại gia hay xuất gia, cuộc sống của chúng ta sẽ giảm bớt được
nhiều bất hạnh và đau khổ, sẽ được an lạc hơn, hữu ích hơn đối
với bản thân, đối với gia đình và xã hội. Vì đó là nếp sống đạo
đức và hướng thượng, đảm bảo hạnh phúc an lạc cho mình và con
người, cho đời này và cho đời sau. Với nếp sống hướng thượng
theo đúng lời Phật dạy, chúng ta sẽ tiến dần dần, một cách chắc
chắn, tới đích giác ngộ và giải thoát, dù rằng trên tiến trình
đó, chúng ta còn phải trải qua nhiều kiếp.
-
Thái độ
của Đức Phật đối với thiện và ác là một thái độ phân biệt rõ
ràng, phân biệt trong kết quả của nó trong hiện tại và tương
lai, phân biệt cả trong nguyên nhân của chúng là tham, sân, si
nếu là ác; và không tham, không sân, không si, nếu là thiện.
-
Trong
một bài kinh, Đức Phật nói với tôn giả A Nan Đà: "Ta tuyên bố
một cách dứt khoát rằng, này A
Nan Đà,
thân làm ác, miệng nói ác, ý nghĩ ác là điều không nên làm. Nếu
làm những điều không nên làm ấy, thời có những nguy hại như sau
được chờ đợi: Tự mình chê trách mình; sau khi biết thời kẻ trí
chê trách; tiếng ác đồn xa; bị suy ám khi mệnh chung; sau khi
chết, sinh vào cõi dữ, cõi ác..."
-
Như vậy
là Đức Phật khẳng định rất khoát rằng, người ác ngay trong đời
sống hiện tại ít nhất cũng chịu khổ trên bốn phương diện. Một là
tự mình chê trách mình, lương tâm cắn dứt dày vò, nội tâm như
lửa đốt, ưu não, nhiệt não, khổ não. Hai là bị người có trí chê
trách. Ba là bị quần chúng lên án chê bai, vì vậy mà người làm
ác đi đâu cũng sợ hãi, xấu hổ. Bốn là khi mệnh chung, tâm người
ác bị hôn mê si ám, dù có muốn cũng không trối trăn gì được cho
người thân. Và sau khi chết, thân hoại mạng chung, người ác tái
sanh vào cõi ác, cõi dữ.
-
Còn đối
với người thiện, Đức Phật nói như sau: "Này A Nan Đà, ta
tuyên bố dứt khoát rằng, thân làm thiện, miệng nói thiện, ý nghĩ
thiện là điều nên làm. Nếu làm những điều nên làm ấy thì những
lợi ích như sau được chờ đợi: Tự mình không chê trách mình; khi
được biết thời kẻ trí sẽ tán thán; tiếng lành đồn xa; khi mệnh
chung không bị suy ám; sau khi chết được tái sinh vào cõi trời,
cõi đời này". (Tăng Chi I, 70).
-
Luật
nhân quả nghiệp báo là công bằng và hợp lý. Ai làm, người ấy
chịu . Gieo nhân ác chịu quả ác. Gieo nhân thiện được quả lành.
Chính vì vậy mà Đức Phật dạy: "Người là chủ nhân của nghiệp,
đồng thời cũng là kẻ thừa tự của nghiệp... "(Trung Bộ III,
361).
-
Nhưng
vấn đề khó khăn là nhân và quả khác thời, từ khi tạo nhân cho
tới khi sanh quả, phải trải qua một thời gian nhất định. Nếu quả
báo cuộc đời này thì gọi là hiện báo, cuộc đời sau gọi là sinh
báo, thuộc các đời sau nữa gọi là hậu báo. Nhưng dù là hiện báo,
sinh báo, hay hậu báo, con người cũng không thể nào tránh được
quả báo do nghiệp nhân tại ra. Vì vậy mà cụ Nguyễn Du đã viết:
-
"Đã
mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lật trời gần trời xa.
-
Nghiệp
do chính mình làm chớ không do ai quàng vào cho mình. Mà đã do
mình làm, thì mình mang lấy vào thân chứ không thể có ai mang hộ
cho mình.
-
Kệ 127,
kinh Pháp cú viết:
-
"Không
trên trời giữa biển,
Không lánh vào đồng núi,
Không chỗ nào trên đời,
Trốn được quả ác nghiệp".
-
Quả báo
phát sinh khác thời với nghiệp nhân, sách Phật gọi là quả Dị
Thục. Dị Thục là chín muồi và đổi khác. Không những khác về thời
gian mà còn khác về quy mô và hình thức. Người phàm phu vì không
hiểu lẽ dị thục, cho nên không hiểu và không tin luật nhân quả,
phạm tội ác bừa mà không biết sợ. Người có trí hiểu lẽ dị thục,
cho nên thận trọng, biết sợ hãi ngay đối với những lỗi nhỏ. Một
mồi lửa có thể đốt cháy cả cánh đồng. Một con sâu con, nếu sinh
sôi nảy nở có thể phá trụi cả khu rừng hoa quả. Một hạt thóc,
gieo xuống đất ruộng, trở thành cây lúa với nhiều bông. Lẽ dị
thục là như vậy. Nó được chứng minh là đứng đắn trong thiên
nhiên, ngoài xã hội, xung quanh chúng ta, nếu chúng ta biết nhìn
và biết suy nghĩ.
-
Kệ 71,
kinh Pháp cú viết:
-
"Nghiệt
ác đã được làm,
Cháy ngầm theo kẻ ngu,
Như sữa không đông ngay,
Như lửa, tro che đậy".
-
Kệ 67
và 68 viết:
-
"Nghiệp
làm không chánh thiện,
Mắt nhuốm lệ khóc than,
Và nghiệp làm chánh thiện,
Hoan hỷ, ý đẹp lòng,
Làm rồi sanh ăn năn.
Gánh chịu quả dị thục "
-
Người
có trí hiểu lẽ dị thục của luật nhân quả nghiệp báo, cho nên vừa
tránh mọi lỗi lầm nhỏ nhặt, vừa siêng năng làm việc thiện, việc
lớn củng như việc nhỏ, trong mọi trường hợp. Nếu một mồi lửa nhỏ
có thể đốt cháy cả cánh đồng thời một việc thiện, dù nhỏ củng
thể đem lại phước báo vô lượng, nếu việc thiện đó được làm với
tâm hồn trong sáng vô tư, vô ngả, không vị kỷ. Trong sách Phật,
có danh từ "phước điền", nghĩa là ruộng phước, chỉ cho quý vị
xuất gia, sống cuộc sống thánh hạnh, thánh tịnh. Quý vị đó là
ruộng phước. Thế nhưng một người, xuất gia hay tại gia, nếu biết
chánh niệm tỉnh giác, hộ trì các căn, tu tập đến chổ thuần tịnh,
trong sáng, mọi cấu uế tham sân, si đều được gạn lọc sạch, thời
mỗi việc làm thiện của người đó, dù là nhỏ, cũng đem lại phước
báo vô lượng. Vì sao? Vì bản thân họ đã là ruộng phước, vì tâm
địa họ cũng rộng lớn vô lượng.
-
Như quý
vị đều biết, Đạo Phật khẳng định có tái sinh, có luân hồi, có
nhiều cõi sống khác cõi sống loài người. Có cõi sống thiện, có
cõi sống ác. Cõi người, cõi trời là những cõi sống thiện. Cõi
súc sanh, cõi ngạ quỷ, cõi địa ngục là các cõi sống ác. Đức Phật
và các bậc Thánh đã thoát khỏi cảnh luân hồi sinh tử, không
những dạy chúng ta con đường thoát khỏi sinh tử mà còn chỉ bày
cho chúng ta nếp sống đạo đức, thiện lành, hướng thượng để giúp
chúng ta tuy vẩn còn luân hồi sinh tử nhưng luân hồi sinh tử
trong các cõi thiện, cõi lành mà thôi.
-
Kệ 182,
kinh Pháp cú viết ;
-
"Khó
thay được làm người,
Khó thay nghe diệu pháp,
Khó thay được sống còn,
Khó thay Phật ra đời"
-
Bốn cái
khó trên, hầu như chúng ta ở đời đều đạt được cả. Đức Phật tuy
nhập Niết-bàn cách đây hơn 2.500 năm, nhưng Phật có để lại diệu
pháp mà chúng ta được nghe, được học. Chúng ta có được thân
người là việc hy hữu. Thân người tuy bị bệnh, bị già, bị chết,
nhưng ngày nào chúng ta còn được sống, thì thân người vẫn là
phương tiện để chúng ta tập làm thiện sự và Phật sự, hướng tới
giác ngộ và giải thoái.
-
Nếp
sống thiện là nếp sống an lạc hạnh phúc. Nếp sống bất thiện là
nếp sống bất hạnh và đau khổ. Ý nghĩa thiết thực của đạo đức
Phật giáo là ở chỗ đó.
-
Kinh
Phật phân biệt thiện hay ác theo ba loại:
-
- Thứ
nhất là thiện ở nơi hành động của thân, tức là không sát sinh mà
còn phóng sinh, trân trọng sự sống của muôn loài; không lấy của
không cho mà còn bố thí, giúp người khác bằng của cải vật chất
(tài thí), bằng đạo lý (pháp thí), bằng lấy sức che chở kẻ yếu
(vô uý thí), hay là tìm cách chia sẻ niềm vui với người khác
(tùy hỉ thí); không tà dâm, tà hạnh mà sống trong sáng bình dị.
Ba điều thiện về thân, nếu đảo ngược lại, thành ba điều ác, như
sát sinh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục.
-
- Thứ
hai là thiện ở lời noí. Cụ thể là nói lời chân thật, không nói
dối; nói lời diệu hiền, dễ nghe, không nói lời thô ác; nói lời
đoàn kết, không nói lời chia rẽ; nói lời có ích, có lợi, không
nói lời vô nghĩa.
-
- Thứ
ba là thiện ở trong ý nghĩ, cụ thể là không tham lam, không giận
dữ, không si mê. Kinh Phật thường nói tắt là không tham, không
sân, không si.
-
Ba điều
thiện này là ba điều thiện gốc, căn bản, vì từ đó khởi sinh mọi
lời nói thiện và việc làm thiện.
-
Chính
vì vậy mà đạo Phật khuyên chúng ta phải tu tập tâm, như là căn
bản của mọi sự tu tập.
-
Trong
kinh Tăng Chi, tập 1, trang 12, đức Phật khẳng định rằng, tâm
không tu tập là tâm khó sử dụng, tâm tu tập là tâm dễ sử dụng,
tâm không tu tập đem lại tác hại lớn, tâm tu tập đem lại lợi ích
lớn, tâm không tu tập đem lại đau khổ, tâm tu tập đem lại an
lạc...
-
Đức
Phật nói tiếp, "Này các tỷ -kheo, ta không thấy một pháp nào
khác, đem lại lợi ích lớn như tâm được điều phục, tâm được hộ
trì, được phòng hộ, được bảo vệ, tâm được đặt đúng hướng... "
(Tăng Chi 1, 15-16)
-
"Này
các tỷ- kheo, vị tỷ-kheo với tâm hồn đặt đúng hướng, làm minh
sinh khởi, có thể chứng đạt Niết-bàn. Sự tình này có xảy ra. Vì
cớ sao? Này các tỷ -kheo, ví tâm được đặt đúng hướng... "
-
Tâm đặt đúng hướng là đúng hướng thiện, hướng giải thoát và
giác ngộ. Tâm đặt sai hướng là ác, hướng tà, hướng cỏi ác, cõi
khổ. Chính vì vậy mà đạo Phật khuyên chúng ta tu tập tâm, phải
hàng giờ, hàng ngày, thường xuyên gạn lọc nhơ bẩn của tâm, mọi
cấu uế của tâm, khiến tâm có tham trở thành tâm không tham, tâm
có sân trở thành tâm không sân, tâm có si trở thành tâm không
si. Tâm được gội sạch mọi cấu uế từ ngoài vào, đức Phật gọi là
tâm sáng chói, tâm nhu nhuyến dễ sử dụng, tâm không bị khấu đục.
Đức Phật dạy:
-
"Này
các Tỷ-kheo, với tâm không bị khấu đục, biết được lợi ích của
mình, biết được lợi ích của người hay biết được lợi ích cả hai,
sẽ chứng ngộ các pháp thượng nhân, tri kiến, thù thắng, xứng
đáng là các bậc thánh. Sự kiện như vậy có xảy ra. Vì cớ sao? Vì
rằng tâm không bị khấu đục, này các Tỷ-kheo "
(Tăng Chi 1, tr. 17)
-
Mọi
công phu tu tập của chúng ta đều phải hướng tới nhổ cho sạch mọi
cấu uế tham sân si làm nhơ bẩn tâm chúng ta. Nếu như tâm nhơ
bẩn, đầy dẫy tham sân si, thì lời nói và hành động cũng sẽ nhơ
bẩn, gây đau khổ và bất hạnh. Trái lại, nếu tâm được tu tập,
được làm cho sạch, gạn lọc hết tham sân si, thì lời nói và hành
động cũng sẽ tự nhiên được thiện lành trong sáng, đem lại cho
chúng ta an lạc và hạnh phúc, hướng chúng ta đến giác ngộ và
giải thoát. Chính vì vậy mà Đức Phật khuyên răn chúng ta hãy
thận trọng từ trong ý nghĩ, phải luôn luôn chánh niệm tỉnh giác.
Chánh niệm là ý nghĩ chân chánh, không nghĩ xấu, nghĩ bậy. Tỉnh
giác là tỉnh táo, theo dõi mọi ý nghĩ, mọi niệm, đảm bảo mọi ý
nghĩ, mọi niệm trong tâm chúng ta đều chân chánh, thiện lành,
không để cho xen vào bất cứ một ác thiện nào. Chúng ta phải luôn
luôn, thường xuyên tỉnh táo, đề phòng khi mắt thấy sắc, tai nghe
âm thanh, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị... không để cho trong tâm,
mống khởi lên bất cứ một ý niệm nào, một tà niệm nào. Nếu một ác
niệm hay tà niệm nào nổi lên, thì lập tức tìm ra nguyên nhân và
đoạn trừ.
-
Tu tập
tâm là như vậy, nếp sống đạo đức Phật giáo là một nếp sống có
phân biệt rõ rệt, dứt khoát thiện và ác, chính và tà. Phân biệt
từ trong nguyên nhân, cội gốc là tham sân si hay là không tham,
không sân, không si. Phân biệt trong sự thể hiện bằng lời nói và
hành động, và phân biệt trong kết quả, kết quả cho mình và cho
người khác, kết quả ở đời này và các đời sau. Hơn nữa, Đạo Phật
còn dạy chúng ta phương pháp thiết thực hiệu nghiệm để từ bỏ ác,
bất thiện để làm điều thiện, điều lành.
-
Có thể
nói đó là một nền đạo đức hoàn chỉnh, tại gia hay xuất gia đều
theo được.
-
Chúng
ta tin tưởng rằng người sống theo nếp sống đạo đức Phật giáo, sẽ
được sống đạo đức an lạc. Gia đình sống theo nếp sống đạo đức
Phật giáo, sẽ được sống hòa thuận an vui. Nếu xã hội và thế giới
thể hiện nếp sống đạo đức Phật giáo, thì cả xã hội và thế giới
này sẽ được hòa bình, an lạc và hạnh phúc lâu dài.
--o0o--
|
|