|
ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO
-
ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO
-
VÀ HẠNH PHÚC CON NGƯỜI
-
Hòa thượng Thích Minh Châu
---o0o---
-
-
9
-
-
KINH NGHIỆM TU TẬP
-
CỦA ĐỨC PHẬT QUA KINH THÁNH CẦU
-
-
Sự kiện
ra đời của đức Phật để đem lại an lạc cho con người và cuộc đời,
đã được Ngài đề cập trong nhiều kinh: "Ta ra đời vì an lạc,
vì hạnh phúc, vì lợi ích cho chư thiên và loài người, vì lòng
thương tưởng cho đời". Với lý tưởng đó, Ngài đã trải qua bao
nhiêu thử thách, gian lao, bằng những kinh nghiệm của tự thân để
cuối cùng tìm được con đường đi ra khỏi khổ đau. Ở đây chúng ta
muốn giới thiệu kinh nghiệm tu học của đức Phật được ghi lại
trong kinh Thánh Cầu (số 26, Trung Bộ I).
-
Ở đời
cái gì cũng vậy, không phải ngẫu nhiên có được, mà đòi hỏi mỗi
con người chúng ta phải tự nỗ lực, tự tầm cầu, tự suy tư để tìm
đến con đường giải thoát cho tự thân và tha nhân. Đức Phật cũng
vậy, qua sự tu tập và kinh nghiệm của Ngài khi đang còn là
Bồ-Tát cho đến lúc chứng Vô thượng Chánh đẳng giác, nỗi khổ đau
kiếp người lúc nào cũng vẫn ám ảnh trong tâm thức, khiến Ngài
phải tự tư duy, tìm cầu giải thoát. Những kinh nghiệm đó được
Ngài chia ra hai loại, đó là Thánh cầu và phi Thánh cầu .
-
1. Thế
nào là Phi Thánh cầu?
-
"Ở đây,
này các Tỷ-kheo, có người tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị
sanh, tự mình bị già lại tìm cầu cái bị già, tự mình bị bệnh...
tự mình bị chết... tự mình bị sầu... tự mình bị ô nhiễm lại tìm
cầu cái bị ô nhiễm".
-
"Vợ
con, đầy tớ nam, đầy tớ nữ, dê, cừu, gà, voi, heo, trâu, bò,
ngựa đực, ngựa cái, vàng và bạc là bị sanh, bị già, bị bệnh, bị
chết, bị sầu, bị ô nhiễm. Những chấp thủ ấy là bị sanh, bị già,
bị bệnh, bị chết, bị sầu, bị ô nhiễm, và người ấy lại nắm giữ,
tham đắm, mê say chúng, tự mình bị sanh, bị già... bị ô nhiễm
lại tìm cái bị sanh, bị già... bị ô nhiễm. Này các Tỷ-kheo như
vậy gọi là Phi Thánh Cầu".
-
2. Thế
nào là Thánh cầu?
-
Ở đây,
này các Tỷ-kheo, có người tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự
nguy hại của bị sanh, tìm cầu cái vô sanh, vô thượng an ổn khỏi
các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị già... tìm cầu cái không
già... tự mình bị bệnh... tìm cầu cái không bệnh... tự mình bị
chết... tìm cầu cái bất tử... tự mình bị ô nhiễm... tìm cầu cái
không ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn. Này
các Tỷ-kheo như vậy gọi là Thánh Cầu".
-
Ngài đã
kể lại, khi Ngài đang còn là Bồ-tát, chưa chứng Chánh đẳng giác,
đã tự mình đi tìm cầu cái bị sanh, bị già, tự mình bị bệnh... tự
mình bị chết... tự mình bị sầu. Những nỗi khổ đau đang ám ảnh
trong tâm trí của Ngài và thấy sự nguy hại của chúng, Ngài từ bỏ
chúng và đến học đạo với hai vị đạo sư nổi tiếng đương thời là
Àlàra Kàlàma và Uddaka Ràmaputta. Khi đến học đạo với Àlàra
Kàlàma, được Àlàra Kàlàma tuyên bố về Vô-sở-hữu-xứ. Rồi Ngài suy
nghĩ không phải chỉ có Àlàra Kàlàma có lòng tin, có tinh tấn, có
niệm, có định, có tuệ, Ta cũng có lòng tin, có tinh tấn, có
niệm, có định, có tuệ. Suy nghĩ như vậy, Ngài tự thân nỗ lực và
không bao lâu Ngài đã chứng được pháp ấy. Nhưng pháp ấy cuối
cùng cũng không hướng đến yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh,
thượng tri, giác ngộ, Niết-bàn, mà chỉ đưa đến sự chứng đạt
Vô-sở-hữu-xứ. Ngài lại từ bỏ pháp ấy, ra đi. Tiếp đến học đạo
với Uddaka Ràmaputta, được Uddaka Ràmaputta tuyên bố về Phi
tưởng phi-phi-tưởng-xứ. Rồi Ngài suy nghĩ không phải chỉ có
Uddaka Ràmaputta có lòng tin, có tinh tấn, có niệm, có định, có
tuệ, Ta cũng có lòng tin, có tinh tấn, có niệm, có định, có tuệ.
Suy nghĩ như vậy, Ngài tự thân nỗ lực và không bao lâu Ngài đã
chứng được pháp ấy. Nhưng tựu trung, pháp ấy vẫn không hướng đến
yếm ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thượng tri, giác ngộ,
Niết-bàn, mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Phi tưởng
phi-phi-tưởng-xứ. Do đó Ngài lại từ bỏ pháp ấy, ra đi.
-
Sau khi
từ bỏ hai vị Àlàra Kàlàma và Uddaka Ràmaputta, vì hai vị này
chưa chứng được thánh quả, rồi Ngài đến Uruvela, lựa một địa
điểm khả ái, dễ dàng khất thực và Ngài tham thiền ở đó cho đến
khi thành đạo. Ngài tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại
của bị sanh, tìm cầu cái vô sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ
ách, Niết-bàn; và chứng được chúng; tự mình bị già... tìm cầu
cái không già... tự mình bị bệnh... tìm cầu cái không bệnh... tự
mình bị chết... tìm cầu cái bất tử... tự mình bị ô nhiễm... tìm
cầu cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách,
Niết-bàn vả đã chứng được cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn
khỏi các khổ ách, Niết-bàn. Rồi tri và kiến khởi lên nơi Ngài:
"Sự giải thoát của Ta không bị giao động. Nay là đời sống
cuối cùng của Ta, không còn tái sanh nữa".
-
Sau khi
thành đạo, Ngài suy nghĩ: "Pháp này do Ta chứng được thật là
sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý
luận, vi diệu, chỉ người trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này
thì ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục. Đối với quần
chúng như vậy thì thật khó mà thấy được định lý Idapacayatà
Paticcasamuppàda (Y Tánh Duyên Khởi Pháp); sự kiện này thật khó
thấy, tức là sự tịnh chỉ tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, ái
diệt, y tham, đoạn diệt, Niết-bàn. Nếu ta thuyết pháp mà người
khác không hiểu Ta, thời như vậy thật phiền toái cho Ta, như vậy
thật bực mình cho ta!". Phạm thiên Sahampati biết được tâm
tư của đức Thế Tôn, liền hiện đến đỉnhcầu Ngài ở lại đời để
thuyết pháp. Cuối cùng, Ngài nhận lời của Phạm thiên theo bài
kệ:
-
"Cửa
bất tử rộng mở
Cho những ai chịu nghe.
Hãy từ bỏ tín tâm,
Không chính xác của mình
Tự nghĩ đến phiền toái,
Ta đã không muốn giảng
Tối thượng vi diệu pháp,
Giũa chúng sinh loài người". - (Ôi Phạm thiên)
-
Từ đó,
Ngài vận chuyển bánh xe pháp. Trên con đường hoằng pháp Ngài gặp
tà mạng ngoại đạo Upaka, vị này ca ngợi và hỏi Ngài vì mục đích
gì mà xuất gia, ai là vị đạo sư và Ngài thọ trì pháp của ai. Để
khẳng định mình là bậc thầy của trời người, Ngài nói lên bài kệ
với tà mạng ngoại đạo Upaka như sau:
-
-"Ta,
bậc thắng tất cả,
Ta, bậc nhất thiết trí.
Hết thảy pháp không nhiễm,
Hết xả pháp, xả ly.
Ta sống không giải thoát,
Đoạn tận mọi khát ái.
Như vậy Ta tự giác,
Còn phải y chỉ ai?
-
Ta
không có Đạo sư,
Bậc như Ta không có,
Giữa thế giới Nhân, Thiên,
Không có ai bằng Ta,
Bậc Ứng cúng trên trời,
Bậc Đạo sư vô thượng.
Tự mình Chánh đẳng giác,
Tự an tịnh thanh thoát.
-
Để
chuyển bánh xe pháp,
Ta đến thành Kàsi.
Gióng lên trống bất tử,
Trong thế giới mù loà.
-
-"Như
hiền giả tự xưng, hiền giả xứng đáng là bậc chiến thắng vô
tận?".
-
-"Như
Ta, bậc thắng giả,
Những ai chứng Lậu tận,
Ác pháp, Ta nhiếp phục,
Do vậy, Ta vô địch.
Này Upaka!"
-
Rồi
Ngài đi đến vườn nai để hóa độ cho năm vị Tỷ-kheo trước kia đồng
tu khổ hạnh với Ngài và cả năm đều chứng quả A-la-hán. Tiếp
theo, Ngài nói bài pháp về năm dục trưởng dưỡng, sự nguy hại của
năm dục trưởng dưỡng và sự giải thoát năm dục trưởng dưỡng. Các
sắc do mắt nhận thức, sắc này khả ái, khả hỷ, khả lạc, kích
thích lòng dục, hấp dẫn. Các tiếng do tai nhận thức... các hương
do mũi nhận thức... các vị do lưỡi nhận thức... các xúc do thân
cảm xúc, khả ái, khả hỷ, khả lạc, kích thích lòng dục, hấp dẫn.
Như vậy gọi là năm dục trưởng dưỡng. Nếu những sa môn hay
Bà-la-môn nào bị trói buộc, bị tham đắm bởi năm dục trưởng dưỡng
này, không thấy sự nguy hại, sự giải thoát của chúng mà thọ dụng
của chúng thì những sa môn, bà-la-môn ấy sẽ rơi vào tầm tay của
Ác ma. Còn những sa môn hay bà-la-môn nào không bị trói buộc,
không bị tham đắm bởi năm dục trưởng dưỡng này, thấy sự nguy
hại, sự giải thoát của chúng mà thọ dụng chúng thì những sa môn,
bà-la-môn ấy sẽ không rơi vào tầm tay của Ác ma. Muốn vậy, cần
phải chứng được Tứ thiền, Tứ không và Diệt Thọ Tưởng Định bằng
trí tuệ, các lậu hoặc được đoạn trừ.
-
Qua đó,
chúng ta nhận thấy tiến trình tu tập của đức Phật từ khi đang
còn là Bồ-tát cho đến khi chứng Vô Thượng Bồ đề, Ngài luôn luôn
tự thân nỗ lực, không nương tựa vào bất cứ ai, mà chỉ nhờ vào
lòng tin, tinh tấn, niệm, định, tuệ của mình. Chính ngay cả
Àlàra Kàlàma và Uddaka Ràmaputta là hai vị đạo sư nổi tiếng
đương thời, vẫn không làm cho Ngài đạt được trí nguyện giải
thoát. Điều đó, Ngài đã từng dạy cho chư Tỷ-kheo: "Này các
Tỷ-kheo, hãy sống tự mình là ngọn đèn cho chính mình (attadipà
viharatha), chớ y tựa một ai khác. Lấy Chánh pháp làm ngọn đèn,
lấy chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một cái gì
khác... " (Kinh Chuyển luân Thánh vương Sư Tử hống, Trường
Bộ II).
-
Tóm lại, kinh nghiệm tu tập của Ngài được ghi lại
trong kinh Thánh cầu đã minh chứng rằng bằng tinh thần vô uý và
tự tin vào sức mạnh của chính mình, Ngài đã thắp ngọn đuốc bằng
niềm tin Giới, Định, Tuệ bừng sáng trong đêm đầy tăm tối, đem
lại con đường đi ra khỏi khổ đau cho nhân loại.
-
Vạn
Hạnh, mùa Thành Ðạo, PL 2542
--o0o--
|
|