ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO
-
ĐẠO ĐỨC PHẬT
GIÁO
-
&
HẠNH PHÚC CON NGƯỜI
-
Hòa thượng Thích Minh Châu
---o0o---
-
-
10
GIÁ TRỊ HẠNH PHÚC
QUA ĐẠI KINH VÍ DỤ LÕI CÂY
Từ khi còn là một Thái tử
cho đến khi thành tựu đạo Vô Thượng Bồ đề, đức Phật đã trải qua đủ
mọi lạc thú ở thế gian, kể cả những lạc thú cao cấp trong Thiền định
như Vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nhưng tất cả những
lạc thú đó cuối cùng để lại cho Ngài một ưu tư lớn về tính chất vô
thường, và không thể nào tìm thấy hạnh phúc chân thật trong các lạc
thú đó. Và thật sự có một hạnh phúc chân thật không bị quy luật vô
thường chi phối được Ngài tìm thấy ngay sau khi giác ngộ, đó là giải
thoát bất động. Nhờ kinh nghiệm tự thân và kinh nghiệm chứng ngộ
này, đức Phật đã trình bày năm hạng người điển hình đang tìm cầu
hạnh phúc qua "Đại Kinh Ví Dụ Lõi Cây".
Qua bài kinh này, người
học Phật có thể nhận thức được đâu là chân giá trị hạnh phúc và đâu
là hạnh phúc vô thường tạm bợ. Nếu không có được nhận thức như thế
thì chúng ta khó có thể đạt đến mục đích mong muốn, khó có thể đạt
được hạnh phúc chân thật của sự giải thoát và giác ngộ. Năm hạng
người được đức Phật trình bày trong bài kinh này đều có cùng ước
muốn là đi tìm cầu hạnh phúc, họ sống phạm hạnh để mong giải thoát
mọi khổ đau ởcuộc đời: "Ở đây, có Thiện nam tử do lòng tin xuất
gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình: Ta bị chìm đắm trong sanh,
già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị chìm đắm trong đau khổ, bị chi
phối bởi đau khổ. Rất có thể toàn bộ khổ uẩn này có thể chấm dứt".
Tuy nhiên, việc thành đạt
mục đích giải thoát mọi khổ đau hay không là hoàn toàn tùy thuộc vào
nhận thức của chính mỗi người qua các giai đoạn thành đạt trong việc
tu tập của người ấy. Thông thường, các giai đoạn thành đạt ấy đem
lại sự hỷ lạc cho vị hành giả và nếu say mê, tham đắm, tự mãn đối
với sự thành đạt này thì vị ấy sẽ bị dừng lại ở đó, khó có thể đạt
đến mục đích cứu cánh giải thoát. Các hỷ lạc trong lộ trình tu tập
của vị hành giả được đức Phật phân ra như là năm hạng người, và cũng
chính là năm trạng thái hạnh phúc, từ phàm tục cho đến giải thoát
hoàn toàn:
1. Có người được lợi
dưỡng, tôn kính, danh vọng. Do lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng vị ấy
khen mình, chê người: "Ta được lợi dưỡng như vậy, được tôn kính như
vậy, được danh vọng như vậy. Còn các Tỷ-kheo khác ít được biết đến,
ít có uy quyền". Do vậy, vị ấy trở thành mê say, tham đắm, phóng
dật. Do sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ.
2. Có người không tự mãn
với lợi dưỡng, danh vọng nên thành tựu Giới đức. Do thành tựu Giới
đức này, vị ấy hoan hỷ, tự mãn và khen mình, chê người: "Ta là người
trì giới, theo thiện pháp. Các Tỷ-kheo khác phá giới, theo ác pháp".
Do thành tựu Giới đức này, vị ấy trở thành mê say, tham đắm, phóng
dật. Do sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ.
3. Có người do không tự
mãn với lợi dưỡng, danh vọng, không tự mãn với Giới đức nên thành
tựu Thiền định. Do thành tự thiền định này, vị ấy hoan hỷ, tự mãn và
khen mình, chê người: "Ta có thiền định nhất tâm, các Tỷ-kheo không
có thiền định, tâm bị phân tán". Do vậy, vị ấy trở thành mê say,
tham đắm, phóng dật. Do sống phóng dật, vị ấy bị đau khổ.
4. Có người do không tự
mãn với lợi dưỡng, danh vọng, không tự mãn với Giới đức, không tự
mãn với Thiền định nên thành tựu tri kiến. Vì tri kiến này, vị ấy
hoan hỷ, tự mãn và khen mình, chê người: "Ta sống, thấy và biết; các
Tỷ-kheo khác sống, không thấy và không biết". Vị ấy do tri kiến này,
trở thành mê say, tham đắm, phóng dật. Do sống phóng dật, vị ấy bị
đau khổ.
5. Có người do không tự
mãn với lợi dưỡng, danh vọng, không tự mãn với Giới đức, không tự
mãn với Thiền định, không tự mãn với tri kiến nên thành tựu thời và
phi thời giải thoát, và vị ấy có thể từ bỏ thời và phi thời giải
thoát. Như vậy, phạm hạnh không phải vì lợi ích lợi dưỡng, danh
vọng, không phải vì lợi ích thành tựu Giới đức, không phải vì lợi
ích thành tựu Thiền định, không phải vì lợi ích thành tựu tri kiến,
mà tâm giải thoát bất động chính là mục đích của phạm hạnh này, là
lõi cây, là mục tiêu cuối cùng của phạm hạnh.
Như vậy, Tâm giải thoát
bất động là mục đích của phạm hạnh, là lõi cây, là hạnh phúc chân
thật không hề có sự khổ đau; còn lợi dưỡng, danh vọng, giới đức,
thiền định, tri kiến đều không phải mục đích của phạm hạnh được
không phải lõi cây, là hạnh phúc tạm thời của thế giới vật chất vô
thường.
Thế nhưng, lòng tham muốn
khiến con người chỉ tìm kiếm và chấp nhận chút hạnh phúc tạm bợ mong
manh mà không biết thú vui đó là nguyên nhân của khổ. Hạnh phúc ấy
luôn luôn bị phụ thuộc vào sự đối đãi của tầng số tăng giảm về lạc
thú. Hôm nay, ta ăn cơm với xì dầu sướng hơn ngày hôm trước, không
có xì dầu mà ăn; nhưng xì dầu lại là sự chán bỏ đối với nhửng món ăn
khác ngon hơn. Phương tiện xe đạp là thú vui so với đi bộ, nhưng lại
là sự chán bỏ đối với xe máy; và xe máy này là sự chán bỏ đối với xe
gắn máy đời mới hơn vv...
Vì thế, đức Phật dạy hạnh
phúc mà con người thường thọ hưởng không ngoài sự tham muốn và tưởng
nhớ các dục. Kinh Xà Dụ (Trung Bộ, số 22) ghi: "Người ta thọ dụng
các dục không goài các dục, không ngoài các dục tưởng, không ngoài
các dục tầm". Thọ dụng các dục nghĩa là thọ hưởng hạnh
phúc do thoả mãn lòng tham muốn khi các giác quan tiếp xúc với các
trần cảnh; thọ dụng các dục tưởng là thọ hưởng hạnh phúc do
tưởng nhớ những cảm thọ trong quá khứ; thọ dụng các dục tầm
là thọ hưởng các hạnh phúc do ước mong về tương lai. "Quá khứ đã
đoạn tận, còn tương lai thì chưa đến", nên hạnh phúc của dục
tưởng và dục tầm là hạnh phúc do vạng tưởng tạo lên, không thật có.
Còn hạnh phúc do các giác quan đưa đến thì lại vô cùng phức tạp.
Hạnh phúc này hoàn toàn tùy thuộc vào ý thích riêng của mỗi người,
nó không tùy thuộc vào thế giới vật chất. Cái này là thú vui thích
của người này nhưng đồng thời lại là cái khiến người kia bực bội,
chán ghét. Một ly cà phê, anh thích còn tôi thì ghét. Thích là hạnh
phúc, ghét là đau khổ. Phải chăng một ly cà phê vô tri ấy mà lại
chứa đựng cả hạnh phúc lẫn đau khổ?
Thật ra, hạnh phúc hay
khổ đau là chính thái độ con người đối với đối tượng nhận thức, chứ
không phải là đối tượng nhận thức. Vả lại, đối tượng nhận thức thuộc
thế giới khách quan, luôn luôn vận hành theo quy luật duyên sinh, vô
thường, vô ngã; trong khi đó, thú vui (hạnh phúc) mà con người thọ
dụng thì thuộc chủ quan tự ngã. Sự mâu thuẫn giữa thế giới khách
quan và tâm ý chủ quan này đã tạo ra biết bao khổ đau trên cuộc đời.
Thế nhưng, do ý chí muốn sống (hay kiết sanh thức) đã khiến
cho loài hữu tình bất chấp mọi khổ đau để tìm kiếm chút hạnh phúc
tạm bợ trong cuộc sống này. Vô minh là thế.
Do vậy, vấn đề nhận thức
đúng đắn về bản chất và giá trị của hạnh phúc là vấn đề rất quan
trọng. Đại kinh Ví Dụ Lõi Cây cho chúng ta thấy rõ giá trị hạnh phúc
qua năm phần của một cây Đại thọ, gồm lõi cây, giác cây, vỏ trong,
vỏ ngoài và cành lá.
- Hạnh phúc cành lá là
lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng;
- Hạnh phúc vỏ ngoài là thành tựu Giới đức;
- Hạnh phúc vỏ trong là thành tựu Thiền định;
- Hạnh phúc lá cây là thành tựu Tri kiến; và
- Hạnh phúc lõi cây là Giải thoát bất động.
Đối chiếu năm phần của
một cây đại thọ như thế, chúng ta có thể dễ dàng thấy được giá trị
hạnh phúc của lợi dưỡng tôn kính, danh vọng; thấy được giá trị hạnh
phúc của Giới đức, của Thiền định, của Tri kiến và của Giải thoát
bất động. Qua đó chúng ta có thể biết được chúng ta đang sống và cảm
thọ ở mức hạnh phúc nào, đồng thời biết định hướng cho mình một
hướng đi đúng đắn.
***
Trong bài kinh này, đức
Phật hướng dẫn cho chúng ta thấy rằng mục đích cuối cùng của phạm
hạnh phải là Giải thoát bất động. Tuy nhiên, trên chặng đường
đi đến mục đích ấy, chúng ta không thể không trải qua bốn giai đoạn
trước. Điều quan trọng ở đây là chúng ta không nên cho lạc thú của
các giai đoạn đó chi phối bước tiến của mình, không nên dừng lại và
chấp thủ tự mãn những gì mình đã đạt được. Lời dạy của đức Phật
trong Đại Kinh Ví Dụ Lõi Cây thật là cao siêu. Những gì đức Phật dạy
từ bỏ thì những thứ đó con người đang ngưỡng vọng và hướng đến. Thật
vậy, chỉ cần thành tựu Giới đức thôi thì đã đạt đến Biệt giải thoát
rồi, huống nữa là thành tựu Thiền định và thành tựu Tri kiến. Do đó
con người đi đến đích ở đây thật là dài, và lạc thú ở trong đó cũng
không phải là ít, không khéo thì chúng ta khó có thể đạt được mục
đích mà đức Phật mong muốn. Lợi dưỡng, Tôn kính, Danh vọng, Giới
đức, Thiền định, Tri kiến rất cần thiết cho những ai chưa đạt đến,
nhưng lại là mối nguy hiểm cho những ai tự mãn, say mê, tham đắm và
dừng lại ở đó.
Giáo lý đức Phật muốn
trình bày trong kinh này không phải là một pháp môn tu tập cụ thể,
mà ở đây, Ngài mở ra cho chúng ta một Chánh Tri Kiến,
một cách nhìn đúng đắn về lộ trình tu tập đưa đến giải thoát giác
ngộ. Tuy được hướng dẫn cho người xuất gia tu phạm hạnh, bài kinh
này vẫn có giá trị thiết thực cho bất cứ ai muốn tìm cầu hạnh phúc
chân thật mà không sợ bị sai đường lạc lối, không sợ bị rơi vào tà
kiến khổ đau. Giải thoát bất động là ngọn hải đăng soi sáng cho
những con thuyền lênh đênh đi tìm bờ cập bến, đang đi tìm kiếm hạnh
phúc chân thật. Có ngọn đèn, có con đường, đoàn lữ hành lướt sóng
vượt qua mà không bị phong ba làm chướng ngại, không bị dòng tục lụy
cuốn trôi.
Hành giả tin chắc phía
ngọn đèn là bờ, thấy được rằng vượt qua những hạnh phúc tầm thường
không thật thì sẽ đạt đến hạnh phúc chân thật thanh cao; vượt qua
được cành lá, vỏ cây, giác cây thì sẽ đạt đến lõi cây. Hãy tin rằng
chỉ có lõi cây, chỉ có Giải thoát bất động mới là hạnh phúc vững bền
và chắc thực, bởi "Cái gì là lõi cây, cái ấy sẽ tồn tại lâu dài"
(Yo sàro so thassati).
(Trung Bộ I, bài kinh số
29).
--o0o--
|