|
ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO
-
ĐẠO ĐỨC PHẬT
GIÁO
-
&
HẠNH PHÚC CON NGƯỜI
-
Hòa thượng Thích Minh Châu
---o0o---
-
-
11
-
-
TIẾNG RỐNG CON SƯ TỬ
-
-
Có khi đức Phật
khuyên các vị Tỷ-kheo rống tiếng rống con sư tử trong khi thuyết
pháp, tức đức Phật muốn nhấn mạnh một vấn đề mà các ngoại đạo
đều hoảng hốt, lông tóc dựng ngược. Trong kinh số 11, Trung Bộ,
này đức Phật khuyên bảo các Tỷ-kheo hãy rống tiếng rống con sư
tử, tuyên bố dứt khoát rằng chỉ ở đây, trong giáo pháp đức Phật
dạy, mới có Đệ nhất Sa môn tức là chứng quả Dự lưu; mới có đệ
nhị Sa môn tức là chứng quả Nhất lai; mới có Đệ tam Sa môn tức
là chứng quả Bất lai; mới có đệ tứ Sa môn tức là chứng quả
A-la-hán; còn các ngoại đạo khác không có bốn hạng Sa môn như
vậy.
-
Một lời
tuyên bố như vậy tất nhiên đem lại những phản ứng của ngoại đạo:
"Chư tôn giả có tin tưởng gì, có sức lực gì mà giám tuyên bố chỉ
ở đây có bốn hạng Sa môn, ngoài ra không chỗ nào có bốn hạng Sa
môn?" Đức Phật khuyên các Tỷ-kheo trả lời như sau: "Chúng tôi tự
chánh kiến bốn pháp, chúng tôi có lòng tin bậc Đạo sư, có lòng
tin pháp, có sự thành tựu viên mãn các giới luật, có những pháp
hữu của chúng tôi, những người cư sĩ và những người xuất gia,
được chúng tôi thương, được chúng tôi mến". Đến đây, các ngoại
đạo có thể trả lời: "Chúng tôi cũng có lòng tin bậc Đạo sư, vị
ấy là bậc Đạo sư của chúng tôi. Chúng tôi có lòng tin pháp, pháp
ấy là pháp của chúng tôi, chúng tôi thành tựu viên mãn các giới
luật, những giới luật ấy là giới luật của chúng tôi. Và những
pháp hữu của chúng tôi, những người cư sĩ và cả những người xuất
gia, được chúng tôi mến, được chúng tôi thương. Như vậy có sự
sai biệt gì, có sự đặc biệt gì giữa quý vị và chúng tôi?"
-
Đến đây Thế Tôn
khuyên các Tỷ-kheo phải đặt ra một số câu hỏi: - Cứu cánh là một
hay đa diện, cứu cánh cho người có tham hay cho người không
tham; cho người có sân hay người không sân; cho người có si hay
người không si; cho người có ái hay người không ái; cho người có
chấp thủ hay người không chấp thủ; cho người có trí hay người
không trí; cho người thuận ứng nghịch ứng hay cho người không
thuận ứng không nghịch ứng; cho người ưa hý luận hay người không
ưa hý luận. Trước những câu hỏi dồn dập như vậy, các ngoại đạo
phải tiếp tục trả lời: - Cứu cánh ấy là một, không phải đa diện,
cứu cánh ấy là cha mẹ người không tham, không sân, không si,
không ái, không chấp thủ, người có trí, không thuận ứng không
nghịch ứng, không ưa, không thích hý luận.
-
Tiếp đến
đức Phật nêu rõ những sa môn, Bà-la-môn nào không như thật tuệ
tri sự tập khởi, sự đoan diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất
ly của hai loại tùy kiến: Hữu và Phi hữu, vị ấy sẽ không thành
tựu được tám pháp đưa đến cứu cánh giải thoát.
-
Rồi đức Phật dạy có
hai loại tri kiến: Hữu kiến và Phi hữu kiến. Những sa môn,
Bà-la-môn nào chấp trước kiến, thân thiết hữu kiến, những vị ấy
bị chướng ngại đối với phi hữu kiến, thân thiết phi hữu kiến,
những vị ấy bị chướng ngại đối với hữu kiến. Những sa môn,
Bà-la-môn nào không như thật tuệ tri sự tập khởi, sự đoạn diệt
của hai loại kiến này, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của
hai loại kiến này, những vị này là những vị có tham, có sân và
có si, có ai, có chấp thủ, ưa hý luận, thích hý luận; những vị
ấy là những vị không giải thoát khỏi sanh già chết, sầu, bi,
khổ, ưu, não. Thế tôn nói những sa môn, Bà-la-môn nào như thật
tuệ tri sự tâp khởi và sự đoạn diệt của hai loại kiến này, vị
ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của chúng, những vị này là
những vị không tham, không sân và không si, không ái, không chấp
thủ, không ưa hý luận, không thích hý luận; những vị ấy giải
thoát khỏi sanh già chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Thế Tôn tuyên
bố những vị ấy giải thoát khỏi khổ đau.
-
-
Đề cập xong hai loại
tà kiến, đức Phật phân tích bốn chấp thủ, tức là dục thủ, kiến
thủ, giới cấm thủ và ngã luận thủ. Có những sa môn, Bà-la-môn
tuy tự xưng là liễu tri tất cả thủ, nhưng chỉ có khả năng hiển
thị sự liễu tri về dục thủ, nhưng không thể chơn chánh hiển thị
sự liễu tri tất cả thủ. Ở đây đức Phật tuyên bố rõ ràng là trong
một pháp luật như vậy, nếu có tịnh tín đối với bậc Đạo sư, sống
tinh tấn với bậc Đạo sư, tịnh tín ấy được xem như là không hoàn
toàn, nếu có tịnh tín đối với pháp, tịnh tín ấy được xem như là
không hoàn toàn. Nếu có thành tựu viên mãn các giới luật, sự
thành tựu ấy được xem là không hoàn toàn . Nếu có sự thương mến
đối với những pháp hữu, sự thương mến ấy được xem là không hoàn
toàn. Vì sau như vậy? Thế Tôn tuyên bố: "Sự tình là như vậy,
trong mợt pháp luật không khéo thuyết giảng, không khéo hiển thị
, không có hướng thượng, không dẫn đến tịch tịnh, không được bậc
Chánh Đảng Giác hiển thị."
-
Đến đây,
đức Phật nêu rõ vị trị siêu đẳng của Như Lai, là bậc A-la- hán,
Chánh Đẳng Giác, bậc liễu tri tất cả thủ, chơn chánh hiển thị sự
liễu tri tất cả thủ. Ngài hiển thị sự liễu tri về dục thủ, sự
liễu tri về kiến thủ, sự liễu tri về giới cấm thủ và sự liễu tri
về ngã luận thủ. Trong một pháp luật như vậy, nếu có tịnh tín
đối với bậc Đạo sư, tịnh tín đối với pháp, tịnh tín ấy được xem
là hoàn toàn. Nếu có thành tựu viên mãn các giới luật, sự thành
tựu ấy được xem là hoàn toàn. Vì sao như vậy? Sự tình là như
vậy, trong một pháp luật khéo thuyết giảng, khéo hiển thị, có
hướng thượng, dẫn đến tịch tịnh, được bậc Chánh Đảng Giác hiển
thị.
-
Rồi đức Phật truy
nguyên, bốn chấp thủ này lấy ái làm nhân duyên, lấy ái làm tập
khởi; xúc lấy sáu nhập làm nhân duyên, lấy sáu nhập làm tập
khởi; thức lấy hành làm nhân duyên, lấy hành làm tập khởi; hành
lấy vô minh làm nhân duyên, lấy vô minh làm tập khởi. Khi một
Tỷ-kheo đã đoạn trừ vô minh, đã làm minh sanh khởi; vị ấy do vô
minh được đoạn trừ, do minh sanh khởi nên không chấp thủ dục
thủ, không chấp thủ kiến thủ, không chấp thủ giới cấm thủ, không
chấp thủ ngã luận thủ. Nhờ không chấp thủ nên không tháo động;
nhờ không hoảng hốt, tháo động, nên tự thân chứng được Niết-bàn.
Vị ấy tuệ tri: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm
đã làm, không trở lui lại trạng thái này nữa .
-
(Tiểu kinh Sư tử
hống, Trung Bộ, kinh số 11).
--o0o--
|
|