|
ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO
-
ĐẠO ĐỨC PHẬT
GIÁO
-
&
HẠNH PHÚC CON NGƯỜI
-
Hòa Thượng Thích Minh Châu
---o0o---
-
-
12
-
-
KINH NGHIỆM GIÁC NGỘ GIẢI THOÁT
-
CỦA ĐỨC PHẬT PHÁT XUẤT TỪ
-
CÁC
SUY TẦM (VITAKKÀ) THIỆN VÀ ÁC
-
-
Trong kinh Song Tầm,
kinh số 19, Trung Bộ, đức Phật giới thiệu cho chúng ta một kinh
nghiệm bản thân tu trì của Thế Tôn, khởi điểm từ sự phân loại
các tầm, thành bất thiện tầm và thiện tầm, và cách thức ứng xử
của Ngài đối với các tầm bất thiện và tầm thiện, để một mặt loại
trừ các bất thiện tầm, một mặt tăng trưởng của thiện tầm.
-
Ngài
thuật lại: "Trước khi Ta giác ngộ, khi chưa thành Chánh Giác,
còn là Bồ-tát, Ta suy nghĩ như sau: -Ta sống suy tư chia hai
loại tầm. Phàm có dục tầm nào, sân tâm nào, hại tầm nào, Ta phân
thành một loại. Phàm có ly dục tầm nào, vô sân tầm nào, bất hại
tầm nào, Ta phân thành loại thứ hai". Đối với bất thiện tầm,
Ngài đối xử rất đặc biệt với mục đích loại trừ chúng. "Ta sống
không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. khi dục tầm khởi lên, Ta
tuệ tri: Dục tầm này khởi lên nơi Ta, và dục tầm đưa đến tự hại,
đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, diệt trí tuệ, dự phần vào
phiền não, không đưa đến Niết-bàn. Khi ta suy tư: Dục tầm đưa
đến hại người, dục tầm được biến mất. Khi ta suy tư: Dục tầm đưa
đến hại cả hai, dục tầm được biến mất. Khi ta suy tư: Dục tầm
diệt trí tuệ, dự phần vào phiền não, không đưa đến Niết-bàn, dục
tầm được biến mất. Như vậy, Ta tiếp tục từ bỏ, tẩy trừ, chấm dức
dục tầm được khởi lên".
-
Cũng vậy đối với sân
tầm, hại tầm. Khi chúng ta suy tầm, suy tư nhiều vấn đề gì, thời
tâm sanh khuynh hướng đối với vấn đề ấy. Khi chúng ta suy tầm,
suy tư nhiều về dục tầm, chúng ta từ bỏ ly dục tầm. Khi tâm đã
nặng nề dục tầm thời tâm vị ấy có khuynh hướng dục tầm. Cũng như
vậy đối với sân tầm, hại tầm. Như vậy là sự ngăn chặn không cho
khởi lên các bất thiện tầm. Rồi đức Phật dùng ví dụ như một
người mục đồng đang chăn bò về mùa thu, khi lúa đã bắt đầu trổ
hạt. Người ấy phải luôn luôn ngăn chặn không cho con bò chạy
xuống ruộng, vì biết rằng con bò phá hại mùa màng sẽ đưa lại
nhiều sự nguy hại, như đánh đập, trách móc, tù tội v. v... Rồi
đức Phật tuyên bố: "Cũng vậy, ta đã thấy sự nguy hại, như bị
đánh đập, trách móc, tù tội v. v..." Rồi đức Phật tuyên bố:
"Cũng vậy, Ta thấy được sự nguy hại, sự hạ liệt, sự uế nhiễm của
các pháp bất thiện và thấy sự viễn ly, sự lợi ích, sự thanh tịnh
của các pháp thiện".
-
Đối với các bất thiện
tầm, Thế Tôn đã ngăn chặn sự sanh khởi, và đoạn trừ chúng, còn
đối với thiện tầm thì trái lại, Ngài tế nhị nuôi dưỡng chúng,
giúp chúng phát triển và hướng tới nhất tâm. Khi ly dục tầm, vô
sân tầm, bất hại tầm khởi lên, Thế Tôn biết, các thiện tầm này
không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại
cả hai, tăng trưởng trí tuệ, không dự phần vào phiền não, đưa
đến Niết-bàn. Thế Tôn biết rằng, nếu Thế Tôn suy tầm, suy tư
ngày đêm các thiện tầm, không phải tùy nhân duyên ấy Thế Tôn
thấy sợ hãi, nhưng nếu Thế Tôn suy tầm, suy tư quá lâu, thân có
thể mệt mỏi. Khi thân đã mệt mỏi thì tâm bị dao động. Khi tâm bị
dao động thì tâm xa lìa định tĩnh. Khi ấy từ nội thân, Thế Tôn
trấn an tâm, trấn tỉnh tâm, khiến được nhất tâm, khiến thành
định tĩnh. Vì sao vậy? Vì để tâm khỏi dao động.
-
Nếu chúng ta suy tầm,
suy tư nhiều vấn đề gì, thời tâm sanh khuynh hướng đối với vấn
đề ấy. Nếu chúng ta suy tầm, suy tư nhiều về ly dục tầm, vô sân
tầm, bất hại tầm, chúng ta từ bỏ dục tầm, sân tầm, hại tầm. Khi
tâm được đặt nặng về ly dục tầm, vô sân tầm, bất hại tầm, thời
dục tầm, hại tầm bị loại trừ. Ví như vào tháng hè, khi tất cả
lúa gạo đều cất vào kho, người chăn bò ở dưới gốc cây hay ở
ngoài trời, được an nhàn tự tại, chỉ cần ghi nhớ: "Ðây là những
con bò". Vị tu hành cũng như vậy, vị ấy cần ghi nhớ: "Đây là
phương pháp", tức chỉ cho Chỉ và Quán mà vị hành giả đang hành
trì.
-
Đến đây Thế Tôn đã
loại trừ các bất thiện tầm, đã trấn an các thiện tầm, hướng đến
nhất tâm và bắt đầu hành trì thiền định: "Ta ly dục, ly ác
bất thiện pháp, chứng và chú sơ thiền, một trạng thái hỷ lạc do
ly dục sanh, có tầm, có tứ. Diệt tầm và tứ, Ta chứng và trú
thiền thứ hai, một trạng hỷ lạc do định sanh, không tầm không
tứ, nội tĩnh nhất tâm. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân
cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và
trú thiền thứ ba. Xả lạc xả khồ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước,
chứng và trú thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh
tịnh".
-
Từ thiền thứ tư ở sắc
giới, Thế Tôn chứng và trú túc mạng minh, thiên nhãn minh, lậu
tận minh. "Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm,
không phiền não, nhu nhuyễn dể sử dụng, vững chắc như vậy, Ta
dẫn tâm hướng tâm đến túc mạng minh, thiên nhãn minh, lậu tân
minh. Ta như thật thắng tri: Đây là khổ. Đây là khổ tập. Đây là
khổ diệt. Đây là con đường đưa đến khổ diệt. Đây là những lậu
hoặc. Đây là những lậu hoặc tập khởi. Đây là những lậu hoặc đoạn
diệt. Đây là con đường đưa đến lậu hoặc đoạn diệt. Nhờ biết như
vậy, thấy như vậy, khởi lên trí hiểu biết: Ta đã giải thoát. Ta
thắng tri: Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành. Những việc nên làm
đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa. Trong đêm, canh
ba, Ta chứng được minh thứ ba. Vô minh diệt, minh sanh. Bóng tối
diệt, ánh sáng sanh, trong khi ta sống, không phóng giật, nhiệt
tâm tinh cần".
-
Cuối
cùng, đức Phật dùng một ví dụ nói lên vai trò của Thế Tôn trong
nhiệm vụ giới thiệu con đường giải thoát cho chúng sinh, trong
khi ấy, ma vương tìm mọi cách hãm hại các loại hữu tình.
-
Như trong một khu
rừng rậm rạp có một hồ nước thâm sâu và một đoàn nai lớn sống
gần một bên. Có một người đến, muốn hại đoàn nai, đóng cửa con
đường an toàn, mở cửa con đường nguy hiểm, đặt một con mồi đực,
đặt một con mồi cái. Như vậy, sau một thời gian, đoàn nai lớn
gặp ách nạn, hao mòn dần. Lại có một người đến, muốn đàn nai
được an toàn, muốn đàn nai được hạnh phúc, đóng cửa con đường
nguy hiểm, mở cửa con đường an toàn, đem đi con mồi đực, huỷ đi
con mồi cái. Như vậy đoàn nai ấy sau một thời gian được hưng
thịnh, sung mãn. Và đức Phật giải thích ví dụ: Hồ nước lớn thâm
sâu chỉ cho dục vọng. Đoàn nai chỉ cho các loài hữu tình. Người
muốn hại đoàn nai chỉ cho ác ma. Con đường nguy hiểm chỉ cho con
đường tà đạo tám ngành: tà tri kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà
nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định. Con mồi đực chỉ
cho hỷ và tham. Con mồi cái chỉ cho vô minh. Còn người muốn đoàn
nai được hạnh phúc chỉ cho đấng Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh
Ðẳng Giác. Con đường đưa đến an toàn, an ổn chỉ cho con đường
thánh đạo tám ngành: chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh
định. "Như vậy Ta mở của con đường an toàn đưa đến hạnh phúc.
Ta mang đi con mồi đực. Ta huỷ bỏ con mồi cái. Những gì vị Đạo
sư cần phải làm cho các đệ tử vì lòng thương tưởng chúng, những
điều ấy Ta đã làm, vì lòng thương tưởng chúng, những điều ấy Ta
đã làm, vì lòng thương tưởng các ngươi. Chư Tỷ-kheo, đây là
những gốc cây, đây là ngôi nhà trống. Hãy thiền định, chớ có
phóng dật, chớ có hối tiếc về sau. Đó là lời giáo huấn của ta".
-
Trong kinh này, Thế
tôn giới thiệu con đường giải thoát, giác ngộ, phát xuất từ bất
thiện tầm, thiện tầm, trừ diệt dục tầm, vô sân tầm, bất hại tầm,
tăng trưởng ly dục tầm, vô sân tầm, bất hại tầm. Giai đoạn này
được xem như là giai đoạn Giới học trong Giới-Ðịnh-Tuệ. Tiếp
đến, Thế tôn hành trì sơ thiền, thiền thứ hai, thiền thứ ba,
thiền thứ tư, được xem như giai đoạn Ðịnh học trong
Giới-Ðịnh-Tuệ. Thế tôn chứng ba minh, như thật thắng tri khổ,
tập, diệt, đạo, thắng tri các lậu hoặc, các lậu hoặc tập khởi,
các lậu hoặc đoạn diệt. Đây có thể là được xem như giai đoạn Tuệ
học. Nhờ biết như vậy, thấy như vậy, khởi lên trí hiểu biết:
"Ta đã giải thoát, Ta đã thắng tri: Sanh đã tận, phạm hạnh đã
thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui lại trạng
thái này nữa". Giai đoạn này được xem như là giai đoạn giải
thoát, giải thoát tri kiến, trong tiến trình giải thoát 5 giai
đoạn: "Giới, Định, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến".
-
Trong kinh này chúng
ta chứng kiến khả năng tuyệt diệu của đức Phật đối với bất thiện
tầm và thiện tầm, hai cách ứng xử hoàn toàn sai khác nhau để
loại trừ các bất thiện tầm và phát triển thiện tầm. Đối với bất
thiện tầm, đức Phật nhấn mạnh đến những tai hại của người bất
thiện tầm như đưa đến hại mình, đưa đến hại người, đưa đến hại
cả hai, diệt trí tuệ, dựa phần vào phiền não, không đưa dến
Niết-bàn. Nhờ phân tích như vậy, các bất thiện tầm được trừ
diệt, không còn sanh khởi. Còn đối với thiện tầm, đối trị sự mệt
mỏi của thân, khi suy tư tầm quá lâu, trấn an tâm, trấn tỉnh
tâm, khiến tâm không giao động, và hướng đến định tĩnh nhất tâm
để tu tập thiền định. Cuối cùng, ví dụ được Thế tôn đúc kết nói
nên lòng thương tưởng của Thế tôn đối với mọi loài hữu tình,
trong khi ấy ma vương hay những sức mạnh thù địch lại muốn đem
lại sự đau khổ cho các chúng sinh. Cũng trong ví dụ này, Con
đường Thánh đạo Tám ngành được xem như con đường giải thoát được
đức Phật giảng dạy, hướng dẫn mọi chúng sinh đưa đến giải thoát
và giác ngộ. Câu nói cuối cùng của bài kinh là cả một lời khích
lệ các đệ tử hãy nhiệt tâm tinh cần hành thiền, chớ có phóng
dật, chớ có hối tiếc mai sau.
--o0o--
|
|