|
ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO
-
ĐẠO ĐỨC PHẬT
GIÁO
-
&
HẠNH PHÚC CON NGƯỜI
-
Hòa Thượng Thích Minh Châu
---o0o---
-
-
18
-
- CHỮ
HIẾU
- TRONG
KINH TẠNG HÁN VĂN
-
- Chúng ta có
thể nói rằng, một người Á Đông, một người dân Việt Nam không thể
không có hiếu với cha mẹ. Lòng biết ơn cha mẹ đã trở thành tánh
tự nhiên, ăn sâu vào tâm của những người phương Đông; và khi lọt
lòng chào đời, đứa con như đã thâm cảm được tất cả ân đức sâu
dày của cha mẹ đã tác thành và đã thương yêu mình. Một người
Việt Nam không ghi ơn và trả ơn cha mẹ thì còn là một người Việt
nữa, vì người ấy đã tự mình bới gốc rễ những gì tinh hoa nhất
của tinh thần Viêt Nam, tự mình phá huỷ những gì cao đẹp nhất
của tinh thần dân tộc.
- Tinh hoa và
tinh thần cao đẹp ấy của người dân Việt, không phải chính tự
nhiên mà có, mà chính là nhờ ảnh hưởng của cả một nền giáo dục,
một tổ chức văn hóa từ ngàn xưa để lại, xứng hợp với bản tánh,
với phong tục của người Á Đông, của dân tộc Việt Nam; và nhờ vậy
mà truyền thống từ lâu đời này qua đời khác vẫn được mật thiết
duy trì phát triển. Trong tất cả các ảnh hưởng, ảnh hưởng lớn
nhất của đạo Phật, một tôn giáo, một nền giáo dục được truyền
vào Việt Nam từ cuối thế kỷ thứ I, được đi sâu vào tầng lớp quần
chúng và mãi được duy trì, qua các thời đại; cho đến ngày nay
vẫn được đa số dân chúng tôn thờ quy ngưỡng. Chúng ta hãy tìm ở
đây quan điểm đạo Phật đối với chữ Hiếu như thế nào, và những
lời Phật dạy đã có ảnh hưởng gì đối với dân tộc Việt Nam.
- Trước hết,
đạo Phật nêu rõ công ơn của cha mẹ đối với con cái, công ơn sâu
dày thâm trọng không thể nào tả xiết. Với lý tương quan tương
duyên giữa mọi sự vật trong vũ trụ, đức Phật đã trình bày rõ
ràng luật tương quan sinh tồn của con người; và người con được
sống ở đời được thành người tất cả là nhờ công ơn sanh thành
dưỡng dục của mẹ cha trải biết bao năm tháng. Hãy thành kính đọc
lên những câu kinh thấm nhuần đạo Hiếu của người con đã nhớ đến
nỗi đau khổ của người mẹ trong khi thai sản:
- "Ở đời mẹ hiền chịu thai con
Mười tháng cưu mang luôn chịu khổ
Với năm dục lạc, tình không đắm
Tùy thời ăn uống cũng chung đồng
Ngày đêm canh cánh lòng thương xót
Đi đứng nằm ngồi chịu khổ đau
Đến thời mãn nguyệt sanh con dại
Đau tợ dao gươm cắt ruột gan
Mê mẫn đông tây không phân biệt
Khắp thân đau đớn khó nhẫn kham... "
(Kinh Tâm Địa Quán)
- Và những
người dân quê trong những phút chạnh lòng tưởng nhớ đến cha mẹ,
hát lên câu ca dao:
- "Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một thời thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con".
- Có lẽ, người
dân quê mộc mạc ấy đã được một vị Tổ sư nào xa xưa dạy cho câu
kinh này trong Tâm Địa Quán:
- "Cha lành ơn cao như non Thái
Mẹ hiền ân sâu như biển cả
Nếu ta ở đời trong một kiếp
Nói ân mẹ hiền không thể hết".
- Có người tự
cho mình là văn minh dám nói rằng: "Cha mẹ không có ân gì với
con cả, chỉ muốn thoả mãn một chút dục tình mà chẳng may sinh
con, nay nuôi nấng, chịu khổ cực vì con là phải lắm". Nhưng đã
sanh ra làm con người, ai lại khỏi có dục tình? Vì còn phải sống
trong dục giới nên mới lập gia đình, mới sanh con đẻ cái, mới
tác thành con người, nào có gì là vượt khỏi địa giới con người
đâu? Nhưng cha mẹ một khi sanh con, không một cha mẹ nào lại
không hy sinh cho con, và vui lòng chịu cực khổ vì con. Nhưng
cha mẹ chịu chết vì con thì nhiều, những người con chịu chết vì
cha mẹ hiếm lắm. Như vậy làm sao dám tính toán so lường ân cao
nghĩa trọng của mẹ cha?
- Hãy đọc hai
đoạn kinh sau đây để thành kính nghiêng mình trước hình ảnh hai
bậc ân nhân cao trọng của những người con biết vinh dự được làm
người con:
- "Cha mẹ
đối với con cái, ân đức cao nặng sâu dày; ân đức sản sanh từ tâm
bú mớm, ân đức tắm giặt nuôi nấng trưởng thành, ân đức cung cấp
các món cần dùng, ân đức chỉ dạy cách sống ở đời. Cha mẹ luôn
luôn muốn con rời khổ được vui, không bao giờ xao nhảng nhớ con
thương con như ảnh theo hình". (Kinh Bổn Sự)
- "Ân cha
hiền lớn như núi cả, ân mẹ hiền to như bể rộng, không gì hơn một
niềm hiếu thuận, đem vật nhỏ mọn nuôi dưỡng mẹ lành. Ở đời lấy
gì làm sáng, lấy gì làm tối? Mẹ hiền còn sống gọi là mặt trời
sáng chói; mẹ hiền mất rồi gọi là đêm tối u ám". (Kinh Tâm Địa
Quán)
- Tình tương
thân tương ái giữa cha mẹ và con cái ấy sở dĩ mặn nồng và mãnh
liệt, cũng nhờ đạo lý đồng thể Đại Bi của đạo Phật khai sáng một
phần nào. Người mẹ trong khi ôm ấp đứa con, đã nhận chân được
máu thịt của con chính là máu thịt của mình, thân xác của con
chính là thân xác của mình. Vì vậy cho nên, người mẹ là người đã
khổ với nỗi khổ của con, đã vui sướng với nỗi vui sướng của
người con. Lòng hy sinh không bờ bến bắt nguồn từ tâm Đại Bi của
các vị Bồ-tát đã ngụyên trọn đời cứu độ cho chúng sinh, chung
vui chịu khổ với chúng sinh, thể nhập vào thân xác của từng
chúng sinh, để giáo hóa cứu độ cho chúng sinh, và đức Bồ-tát
Quán Thế Âm, bà mẹ của những bà mẹ, đã được toàn thể chúng sinh
tôn xưng là bậc Từ Mẫu ngàn đời của những người con xoay vần
trong biển xanh từ đau khổ.
- Người mẹ Việt
Nam trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp là người mẹ
bất diệt trên lịch sử hùng cường của nòi giống Việt Nam. Trong
lúc nước nhà điêu linh, gia đình tan nát, những bà mẹ không
những tự tay phải lo sự sống xa gia đình, xa nhà, tản mát trên
trận địa để chống giữ bờ cõi nước nhà. Cứ mỗi tin một người con
bỏ mình trong nạn chiến tranh cũng làm trào động bể nước mắt đau
khổ của bao bà mẹ. Nếu "Nước mắt của chúng sinh tràn đầy bốn bể
đại dương" như lời Phật dạy, thời ba phần nước mắt ấy phải để
dành riêng cho tình thương của những bà mẹ lên chùa khẩn cầu chư
Phật gia hộ cho con mình được mọi điều an lành trong khi xa
vắng. Nhìn cử chỉ chí thành chí kính, nghe tiếng khẩn vái thiết
tha não ruột, lòng người con Phật sao khỏi cảm động bồi hồi.
Trong khi mình không được ở bên con để lo miếng cơm manh áo, để
kết khuy nút cho con, để kéo mền đắp cho con trong cơn mưa lạnh,
để che chở cho con khỏi bị các loại nạn nguy hiểm, những bà mẹ
Việt Nam lên chùa khẩn cầu đức Phật, bà mẹ của những bà mẹ,
thành kính gửi tình thương của chính tự lòng mình, nhờ chư Phật
chuyển đạt lòng thương ấy đến bên người con, âu yếm che chở cho
con. Những lời khẩn cầu nồng nàn chí thiết của ngàn vạn bà mẹ
Việt Nam đã toả rộng làn sóng tình thương, lan khắp hang cùng
ngõ hẻm. Và những người con trong khi xa nhà, vắng bóng mẹ hiền,
cũng cảm thấy lòng mình được sởi ấm, lòng thương mẹ, thương nước
dạt dào thêm. Chúng ta có thể nói: "Chỉ có những bà mẹ mới hiểu
được tình thương của những bà mẹ. Chỉ có các vị Bồ- tát mới hiểu
được tình thương của những bà mẹ Việt Nam ".
- Một lần nữa,
chúng ta hãy thành kính nghe lời tán thánh của đức Phật đối với
những bà mẹ hiền:
- Quả đất ở đời gọi là nặng
Mẹ hiền ơn nặng quá hơn nhiều
Tu-di người đời gọi là cao
Mẹ hiền ân cao quá hơn nhiều
Gió lốc ở đời gọi là mau
Nhất niệm mẹ hiền mau hơn nhiều"
(Kinh Tâm Địa Quán)
- Nếu bà mẹ là
cả một tình thương bộc lộ mãnh liệt, say đắm, thời người cha
Việt Nam thương con lại kín đáo, mạnh liệt, và sáng suốt hơn.
Một người bạn đã đến nói với chúng tôi: "Mãi khi hơn hai mươi
tuổi tôi mới biết cha tôi thương tôi". Quen sống với đời sống
bên trong, và tự nhận thiên trách của mình khác hẳn với bà mẹ,
người cha chú trọng hơn nhiều đến sự giáo dục và tác thành cho
con, muốn con trở thành trở thành những người lý tưởng của mình,
nối nghiệp cho cả giòng giống tổ tiên của mình. Lòng thương can
đảm và bình tĩnh ấy khiến người con nông nổi khó chịu thật,
nhưng chính là cả một sức mạnh khiến các người con sống đúng với
tinh thần gia tộc, xứng đáng là một người con lý tưởng cho gia
đình, cho nước nhà. Một người con đến xin phép cha cho ra trận,
người cha nói tự nhiên: "Ừ thôi con đi, gắng sao cho xứng đáng
nước non nhà". Một tin đưa từ mặt trận về: "Người con đã từ
trần", người cha thốt lên một câu: "Chết vinh còn hơn sống nhục.
Con mình xử sự đúng với tinh thần của gia đình, của Tổ Quốc là
đủ". Rồi mặc cho vợ con khóc lóc, người cha thản nhiên châm
thuốc hút. Nói rằng người cha không biết đau vì con là không
hiểu một chút nào tâm trạng của người cha, đã phải nuốt giận
chịu đắng, để đủ sáng suốt, đủ can đảm mà nắm cương lãnh gia
đình, để đào tạo những người con lý tưởng cho đất Việt. Người
cha Việt Nam thản nhiên, lãnh đạm, nhưng cương quyết ấy đã sống
đúng với tinh thần Á Đông, kín đáo, trọng lý trí, trọng lý tưởng
và quên mình nghĩ đến gia tộc, nghĩ đến Tổ quốc, nghĩ đến nhân
loại. Chính tình thương sáng suốt và kín đáo ấy đã được đức Phật
Thích Ca Mâu Ni hiện thân tượng trưng một cách thiết thực và
toàn cõi Á Đông đều thành kính tôn xưng Ngài là đấng Từ Phụ của
muôn loài.
- Đối với tình
thương cao cả và mãnh liệt của những bậc cha mẹ như vậy, đạo
Phật luôn nhắc nhủ các người con phải biết ơn và nhớ ơn. Kinh
Đại Tập dạy rằng: "Gặp thời không có Phật, khéo thờ cha mẹ
tức là thờ Phật". Kinh Tứ Thập Nhị Chương đã từng nói:
"Thờ trời đất quỷ thần, không bằng có Hiếu với cha mẹ, vì cha mẹ
là vị thần minh cao nhất trong các thần minh". Với hai lời
dạy trên, đức Phật tôn trọng cha mẹ đến bậc nào, và chúng ta
thấy hiếu hạnh là một trong những hạnh cần thiết nhất của người
Phật tử. Chính đức Phật luôn luôn nhắc nhở công ơn của cha mẹ
Ngài:
- "Ta trải
qua nhiều kiếp tinh tấn nay mới thành Phật, toàn là công ơn cha
mẹ Ta. Vậy nên, người muốn học đạo không thể không tinh tấn hiếu
thảo với cha mẹ". (Phân Biệt Kinh)
- "Ta tự nhớ
trong nhiều kiếp quá khứ, từ tâm hiếu thuận cúng dường cha mẹ;
do công đức như vậy, nên lên các tầng trời thì làm vị Thánh
vương" (Kinh Hiền Ngu).
- Công đức hiếu
hạnh thật không thể nghĩ lường và muốn thành tựu tư cách của con
người trên đường đời cũng như trên đường đạo không thể không
nghĩ đến hạnh báo Hiếu.
- "Điếu thiện tối cao không gì
hơn hiếu; điều ác, ác nhất không gì hơn bất hiếu" (Kinh Nhẫn
Nhục).
- "Làm con
đối với cha mẹ đem lễ mọn cúng dường thì được phước vô lượng,
làm chút điều bất thiện đối với cha mẹ thì tội cũng vô lượng"
(Kinh Tập Bảo Tạng).
- Công đức báo
hiếu đã được đức Phật luông luôn tán thán, và đạo làm con không
thể nào không nghĩ đến sự hiếu dưỡng cha mẹ, nên cách báo hiếu
thiết thực chơn chánh, được đức Phật chỉ dạy rất nhiều và rất
tinh tường.
- Biết ân cha
mẹ và muốn báo đáp ân đức cũng chưa đủ. Hệ trọng là phải biết
cách báo ân chân chánh, thiết thực có lợi ích cho cha mẹ và cho
tất cả mọi người. Thông thường ở ngoài đời, phần nhiều lo phụng
dưỡng cha mẹ khỏi mọi điều thiếu thốn về vật chất, luôn luôn tôn
trọng kính lễ cha mẹ và xử sự thế nào cho cha mẹ khỏi phải phiền
lòng. Ở nơi đây, chúng ta để ra ngoài những người con chỉ biết
tự lo thân sung sướng mà hất hủi cha mẹ, chúng ta cũng để ra
ngoài những người con làm ô danh gia tộc bằng những hành vi đê
tiện xấu xa, vì những người con này không còn đuợc gọi là một
người con nữa và không được gọi là người dân Việt nữa - vì không
một người Việt nào lại không có Hiếu. Chúng ta lấy cách báo ân
như vậy cũng tạm gọi là chân chánh; và ở đời, sống cam tâm trong
trong cuộc đời giả tạm, đành chịu những nỗi đau khổ: Già, Đau,
Sống, Chết đoanh vậy, thì không có gì quý bằng sự phụng dưỡng
cha mẹ và sống cuộc đời thanh bạch đạo đức làm hiển danh cha mẹ.
Và đức Phật cũng đã từng khuyên những người con hãy: "Phụng
sự cha mẹ không thiếu thốn, phàm làm việc phải trình trước cha
mẹ rõ... "(Kinh Trường A Hàm).
- Nhưng mục
đích đạo Phật là giải thoát con người khỏi những nỗi đau khổ căn
bản của cuộc đời là Sanh, Lão, Bệnh, Tử; thời đối với những
người của con chí thành chí hiếu, đức Phật dạy rằng bổn phận của
người con là phải làm thế nào cứu độ cha mẹ thoát khỏi những nỗi
khổ cội rễ của con người. Và chỉ có vậy mới thiết thực báo ân
cha mẹ.
- Kinh Hiếu Tử
nói rằng:
- "Cúng dường cha mẹ không bì
bằng khuyên cha mẹ làm việc lành bỏ việc ác".
"Ở đời gọi là hiếu phải khuyên cha mẹ bỏ ác làm lành".
"Nếu không thể cải hóa cha mẹ phụng trì Tam Bảo; thời tuy có
hiếu dưỡng cha mẹ, cũng gọi là bất hiếu".
- Đức Phật lại dạy thêm:
- "Làm con
phụng dưỡng cha mẹ, dùng trăm vị cam lộ dâng cúng cha mẹ, dùng
thiên nhạc vi diệu làm vui lòng cha mẹ, hai vai tự cõng cha mười
mẹ đi cùng khắp bốn biển, trọn đời đáp ân nuôi dưỡng cha mẹ, như
vậy chưa gọi là Hiếu, Cha mẹ ngu si không kính thờ Tam Bảo, hung
ngược dâm dật, nguy biện trái đạo... người con phải hết sức cản
ngăn, mới gọi là Hiếu" (Kinh Hiếu Tử).
- "Muốn báo
ân cha mẹ, nên khuyên cha mẹ đối với Phật, Pháp, Tăng, đối với
các pháp nhân quả v.v..., cha mẹ chưa tin, khuyên cha mẹ tin
rồi, khiến lòng tin tăng trưởng; cha mẹ không giữ tịnh giới,
khuyên giữ tịnh giới, khuyên làm việc huệ thí; khéo an trú để tự
điều phục. Như vậy, mới gọi là chân thực báo ân cha mẹ... (Cảnh
Sách).
- Và đức Phật
so sánh hai cách báo hiếu:
- "Lấy món
cam lồ phụng dưỡng cha mẹ là hiếu thế gian. Khuyên cha mẹ tu
tịnh giới là hiếu xuất thế gian. Hiếu thế gian thì cha mẹ chỉ
hưởng phước trong một đời, báo hiếu như vậy không lớn. Hiếu xuất
thế gian cha mẹ hưởng phước vô tận, vì cha mẹ được sinh Tịnh độ
phước thọ trải vô lượng kiếp; như vậy mới là đại hiếu" (Long Thư
Tịnh Độ Văn).
- Chúng ta thấy
rằng, đức Phật trong khi dạy những người con khuyên cha mẹ phụng
thờ Tam Bảo không phải muốn cho mọi người tôn thờ Ngài và đạo
của Ngài như nhiều người lầm tưởng; chính đức Phật chỉ muốn khai
sáng cho tất cả những bậc cha mẹ, noi theo đường chân chánh sáng
suốt, thiết thực dắt dẫn mọi người thoát khỏi những nỗi khổ mà
thôi. Khi những người con khuyên cha mẹ theo đạo Phật, quy y Tam
Bảo là chỉ muốn cha mẹ được sống giác ngộ giải thoát. Sống giác
ngộ là nhận sự thật hiển nhiên của sự vật và sống đúng với sự
vật ấy, không còn mê mờ mù quáng; sống giải thoát là sống vượt
ra khỏi sự trói buộc của dục vọng của sự vật, và được sống tự
tại thanh tịnh. Chính chỉ có vậy mới là chân thực báo ân cha mẹ,
và chỉ có vậy mới là báo ân chân chánh; ngoài ra đều chỉ là
những chữ Hiếu giả tạm.
- Đối với cha
mẹ đã từ trần rồi, người con cần phải làm thế nào? Thông thường
chú trọng trong lúc đám hiếu đám tang, kỵ giỗ, tế lễ, làm thế
nào cho hương hồn được thoả mãn và cho miệng thế gian khỏi chê
trách là được. Người Việt Nam rất trọng thờ cúng tổ tiên. Đối
với dân tộc Á Đông, chết rồi không phải là mất hẳn, và các ông
bà cha mẹ vẫn còn sống với con cháu và ủng hộ che chở cho con
cháu. Những ngày kỵ giỗ không những để cho con cháu có dịp nhớ
tưởng đến ông bà mà thôi, mà cũng là một dịp để nhắc lại tinh
thần của gia đình, của gia tộc, để khuyến khích con cháu phải
làm thế nào sống cho đúng tinh thần ấy. Nhưng mọi sự kính lễ
hình như mất hết ý nghĩa thuần túy xưa, và biến thành những cử
chỉ mê tín dị đoan, làm cho có làm, và nhiều khi gây ra tai hại
khác nữa.
- Đạo Phật với
đạo lý Luân hồi trình bày cho chúng ta rõ rằng cha mẹ ông bà khi
chết đi không phải là mất hẳn, mà chỉ là chuyển nghiệp thác sanh
vào một trong sáu cõi phàm mà thôi; và còn ở trong các cõi phàm
là còn phải sanh tử luân hồi đau khổ. Vì vậy, các người con chí
hiếu và sáng suốt phải chú trọng làm thế nào mà chuyển đổi được
trọng nghiệp của cha mẹ khỏi đoạ lạc trong sáu đường, và nhất là
đừng tạo nên nghiệp ác cho cha mẹ. Ví dụ như, khi cha mẹ lâm
chung, mà khóc than ảo não, làm cho cha mẹ luyến tiếc không có
niệm xả ly, tức là khiến cha mẹ tạo thêm nghiệp đoạ lạc trong
sáu đường dữ. Lại khi cúng tế mà giết hại các loài súc sanh tức
là làm tăng thêm nghiệp ác cho cha mẹ và bắt buộc cha mẹ phải
đoạ lạc. Khi cha mẹ sắp sửa trút hơi thở cuối cùng, cần nhất
phải làm cho cha mẹ thân tâm thanh tịnh, không có sợ hãi, không
có mến tiếc cõi đời, chỉ có nhất niệm dứt bỏ tất cả dục vọng,
tất cả luyến ái, luôn luôn chí thành hướng niệm chư Phật, cầu
vãng sanh lên cõi Tịnh Độ là một cõi không còn tham sân si,
không còn sanh tử luân hồi. Cần nhất là con cháu trong nhà đứng
xung quanh giường, nhất tâm niệm Phật, không khóc than, không
kêu gào, chỉ giữ chí thành kính cầu nguyện cho cha mẹ được vãng
sanh lên cõi Tịnh Độ mà thôi. Đối với những cha mẹ ví tạo những
nghiệp quá nặng không thể tự giải thoát được thời các người con
có hiếu cần phải luôn luôn hướng niệm đến cha mẹ và cầu sức chú
nguyện của thập phương tăng, dùng đạo đức tu hành mà chuyển
nghiệp cho cha mẹ khỏi đau khổ luân hồi trong sáu đường dữ. Tóm
lại, đạo Phật rất chú trọng đến hai đức tánh là Giác ngộ và Giải
thoát cho cha mẹ, khi còn sống cũng như đã mất, bao giờ người
con chí hiếu cũng phải nhất tâm nhất niệm chú nguyện cho cha mẹ
được Giải thoát và Giác ngộ.
- Riêng đối với
cha mẹ, người con cần phải báo hiếu như trên, nhưng đối với tự
thân, người con cần phải xử sự thế nào để đền đáp ân đức sanh
thành của cha mẹ? Nhận hiểu đúng với chân tinh thần đạo Phật,
những người con Phật sẽ tự thấy con đường tiến thân đúng với
nghĩa báo hiếu nhất là tự mình sống đúng với lời Phật dạy. Một
người con can tâm sống trong đêm tối của mê tín, mê muội, nghĩa
là sống trái với tinh thần giác ngộ, tức là khiến cho toàn thể
chúng sinh trong đấy có cha mẹ mình chịu ảnh hưởng ngu muội của
mình; như vậy tức là bất hiếu. Một người dục vọng sướng trong sự
dục lạc vật chất, tức là đem lửa dục vọng thiêu đốt chúng sinh,
trong ấy đau khổ nguy hại, như vậy tức là bất hiếu. Một người
con làm cho chúng sinh khác đau khổ, trong đấy có cha mẹ mình,
như vậy là bất hiếu. Cử chỉ xứng hợp với tinh thần báo hiếu chân
chính của người Phật tử là sống đúng với lời Phật dạy và làm mọi
người sống đúng với lời Phật dạy.
- Ở nơi đây,
cần phải hiểu thêm rằng, một người không phải là Phật tử mà mọi
cử chỉ đều đúng với tinh thần giác ngộ và giải thoát, thời người
ấy thật chính là một Phật tử chân chính và là một người con chí
hiếu. Một người Phật tử mà xử sự trái với tinh thần giác ngộ và
giải thoát, thì người ấy không phải là người Phật tử chân chính,
và là một người con bất hiếu.
- Hiểu một cách rộng rãi và giải
thoát hơn, Hiếu là gì? Nếu không phải là những hạnh nghiệp diệt
trừ những sự sai khác riêng biệt giữa Phật và chúng sinh, giữa
cha mẹ và con cái, để thể nhập vào bản thể chung cùng rộng rãi
của muôn sự muôn vật. Hiếu hạnh không còn là những chướng ngại
ngăn đón sự giải thoát cá nhân hay toàn thể, không còn là những
nguyên nhân ích kỷ nhỏ nhen khiến cho mọi gia đình đau khổ để
gia đình mình được sung sướng, cũng không còn là những câu chấp
lễ nghi phiền phức làm trở ngại những sự phát triển chân chánh.
Nghĩa chữ Hiếu ở nơi đây không còn bó hẹp trong phạm vi gia
đình, gia tộc, xã hội mà mở rộng khắp muôn loài muôn vật trong
đại gia đình chúng sinh trong đại gia đình Phật tử.
- Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni của chúng ta là gương sáng của hạnh chí hiếu
toàn thiện toàn mỹ, và đời Ngài chỉ là phản ánh trung thành của
tâm đức đại Hiếu đại Từ.
- Ngày còn làm
Thái tử, nhận hiểu được con người là phải bị sự đau khổ: Sống,
Đau, Già, Chết bức bách, doanh vây. Ngài nghĩ đến Phụ vương
Ngài, nghĩ đến bà Ma-Gia mẹ Ngài cũng phải quay cuồng hụp lặn
trong biển đau khổ ấy. Ngài hiểu rằng cha mẹ đau khổ là chúng
sinh đau khổ, chúng sinh đau khổ là cha mẹ đau khổ. Lo riêng cứu
độ cho cha mẹ, thời sự cứu độ ấy không được rốt ráo; lo riêng
cứu độ cho chúng sinh, thời không tròn đạo Hiếu.
- Ngài lại hiểu
thêm rằng nguyên nhân khổ đau là do mê mờ ái dục. Vì mê mờ nên
không nhận chân được sự thật, vì ái dục nên say đắm trong cảnh
trần lao đau khổ. Chính lòng thương chúng sinh, lòng hiếu cha mẹ
thúc đẩy, Ngài từ bỏ tất cả quốc thành thê tử để tìm đạo giải
thoát cho cha mẹ, cho muôn loài. Cũng chính lòng thương lòng
hiếu ấy là những sức mạnh giúp Ngài trì chí chuyên tâm, tìm đạo,
tu khổ hạnh, tu thiền định và thành bậc Chánh giác. Thành đạo,
giác ngộ được sự thật, Ngài thực hành ngay chí nguyện độ sanh
kiền đi giáo hóa cứu khổ cho tất cả chúng sinh, không thể kể
xiết.
- Rồi Ngài về
thành Ca-tỳ-la-vệ, thuyết pháp cho vua Tịnh Phạn, lên cung trời
Đao Lơi thuyết pháp cho bà Ma-Gia nghe. Đến khi vua cha lâm bệnh
sắp từ trần, Ngài đến bên giường thuyết pháp giảng dạy khiến cho
vua Tịnh Phạn khỏi phải đau khổ, buồn rầu, và thác sanh lên cõi
Tịnh Cư Thiên. Khi đưa đám vua cha đức Phật cũng một tay bưng
quan tài để làm gương cho cho những người con bất hiếu ở đời, tự
thân làm lễ trà tỳ cho vua cha.
- Và cho đến
khi nhập Niết-bàn, Ngài chỉ một từ tâm vô lượng cứu độ cho toàn
thể chúng sinh không một phút giây dừng nghỉ. Cứ mỗi chúng sinh
được hóa độ, đức Phật lại được tán dương, quy ngưỡng và vua Tịnh
Phạn và bà Ma-Gia lại được tôn kính, được danh tiếng thêm lên.
Nếu ngày nay hàng vạn hàng vạn ức Phật tử biết cung kính, biết
được tên họ của vua Tịnh Phạn và bà Ma-Gia; hàng vạn ức chúng
sinh được giác ngộ giải thoát tất cả là nhờ công ơn báo hiếu vẹn
toàn của đức Phật, một người con chí hiếu, một bậc cha mẹ đại
từ, không thể nghĩ nghì, không thể ước-lường, không thể tán
dương cho hết lời được.
- (1950)
--o0o--
|
|