|
TỦ SÁCH TỊNH ĐỘ
-
SỰ TÍCH ĐỨC DI LẶC BỔ TÁT
-
(ĐỜI KHÁC)
-
-
Hồi đời Lục Triều, Đức Di
Lặc lại ứng tích làm phó Đại sĩ ở tại Chùa Song Lâm một thời kỳ nữa.
-
Khi Ngài ra mắt Lương Võ
Đế, vua liền hỏi Ngài rằng :"Xin Đại sĩ cắt nghĩa cho quả nhơn nghe
làm sao kêu là : Đạo?"
-
Ngài liền bạch rằng: "Tâm
thiệt là Đạo", tôi xin chứng nghiệm như vầy, thì bệ hạ đủ hiểu.
-
Khi bệ hạ chưa lên ngự tại điện này, trong tâm lúc ban đầu chưa khởi
niệm, bổn trí vẫn tự nhiên mà được diệu tịnh quang huy, sáng suốt hiện
buổi nay, rực rỡ đến thuở trước, và đầy lấp tất cả cõi Thái hư, cái
tịnh quang ấy muôn đời không sanh, vĩnh kiếp không diệt, chẳng phải
Thánh mà cũng chẳng phải Phàm, không thúc phược mà cũng không giải
thoát.
-
Đó là tâm thể rất mầu nhiệm
và rất vắng lặng. Ngoài cái tâm không có đạo gì riêng khác, và ngoài
đạo cũng không có tâm nào phân biệt nữa, vì thế cho nên mới gọi :"tâm
là đạo".
-
Vua Võ Đế lại hỏi nữa rằng:
"Vậy chớ Đại sĩ có tôn ai làm Thầy hay không?"
-
Ngài bạch rằng :"Thầy thì
không có ai là Thầy của bần đạo, còn tôn thì bần đạo cũng không có tôn
ai, đến việc tùng sự, thì cũng không có tùng sự với người nào cả".
-
Vua Võ Đế nghe Ngài nói như
vậy, thì biết là một vị Bồ Tát lâm phàm, nên càng tôn trọng Ngài một
cách rất đặc biệt.
-
Đoạn Ngài lại thưa với Vua
rằng :"Bệ hạ ngày nay mà đặng hưởng điều tôn vinh như vầy, nguyên nhân
cũng là một vị Bồ Tát hạ trần mà cứu thế.
-
Vậy xin Bệ hạ phải mở thông
ý địa, nên tự lượng nơi mình, tâm để cho thanh tịnh, đừng trước nhiễm
vật gì, lấy đó làm căn bản, cần nhứt phải dùng chỗ hư linh làm cơ sở,
lấy sự vô tướng làm nguyên nhơn, nguyện vọng chí thành cầu cho đạt tới
chỗ Niết bàn mà làm cực quả.
-
Nếu bệ hạ thi thố những
phương pháp trị quốc, thì phải dùng chánh pháp mà sửa trị trong thế
gian, và thi hành những điều nhơn đức, đặng làm cho lê dân cảm hóa.
-
Trong triều thì trọng dụng
những người hiền tài mà trừ khử mấy kẻ cưu lòng gian nịnh, còn ngoài
thì thi nhơn chánh đến kẻ quan quả, cô độc, bỏ những hình phạt trừng
trị nặng nề, và ban chánh lịnh cho có nghiêm minh trật tự. Nếu Bệ hạ
trị vì trong thiên hạ, thi nhơn bố đức được như thế, thì kẻ xa người
gần đều gội nhuần ơn đức vô cùng vô tận. Chừng đó việc can qua phải
dứt, mà trong đội ngũ lại ninh bình, thì ngôi trời được hùng tráng mà
an hưởng cuộc thái bình. Nếu chánh sách thi thố được công hiệu như
thế, thì Bệ hạ thiên cơ đã thần diệu, lại còn nối ngôi quốc tổ được
lâu dài nữa. Đó là bần đạo hi vọng sao cho Bệ hạ được như vậy".
-
Có một ngày kia, ông Lưu
Trung Thừa ngồi tại chỗ trạm dịch với Ngài, thoạt thấy có Thánh giá
vừa đến, liền lật đật đứng dậy làm lễ, còn Ngài ngồi yên lặng một chỗ.
-
Khi Thánh giá qua khỏi rồi,
ông Lưu Trung Thừa bèn hỏi Ngài rằng :"Theo ý tôi tưởng, Ngài chẳng
chịu làm tôi với Thiên tử, không muốn làm bạn với Chư hầu, cớ sao mà
lại ngã mạn như vậy, xin Ngài nói cho tôi rõ".
-
Ngài liền đáp rằng :"Để bần
đạo giải cho ông rõ. Phàm việc kỉnh mà biểu lộ ra hình tướng, thì
không có tánh kỉnh, còn bề ngoài chẳng cử động sự kỉnh về lễ nghe tham
bái, thì thiệt trong tâm có ẩn điều kỉnh vô giá. Bần đạo thấy Thánh
giá mà động thân, thì pháp địa tự nhiên cũng rúng động. Hễ pháp địa
rúng động, thì tất cả các pháp cũng chẳng an nhẫn, nếu các pháp chẳng
an nhẫn, tức là không có kỉnh, nên bần đạo vẫn ngồi tự nhiên là vậy
đó".
-
Ông Lưu Trung Thừa nghe
Ngài nói như thế, thì rất kỉnh phục.
-
Vua Lương Võ Đế biết Ngài
là một vị Bồ Tát tái lai, nên thiết lập một chỗ pháp hội rất nghiêm
trang, rồi thỉnh Ngài lên diễn kinh cho bá tánh nghe.
-
Khi trần thiết xong rồi,
Ngài lên ngồi trên pháp tòa, lẳng lặng làm thinh được giây phút, chớ
không nói một lời chi cả.
-
Trong đám người đến nghe
kinh đó, có một vị Thái tử thấy vậy mới hỏi Ngài rằng :"Thưa Ngài!
Đáng lẻ chỗ Chư Thiên nhơn cưu hội đây, Ngài phải giảng giải cho mọi
người rõ thấu lẽ chơn chánh của Phật, đặng nhờ đó mà tu học mới phải,
cớ sao Ngài làm thinh mà không biện luận nghĩa lý chi, lại vội xuống
pháp tọa như vậy ?"
-
Ngài liền trả lời rằng
:"Phàm việc gì nói hay là nín, đều thuộc về Phật sự cả. Như thế có
phải làm đúng theo Phật lý hay không? Vậy mà ông còn buộc tôi nói năng
làm chi nữa".
-
Thái tử nghe mấy lời bèn
làm thinh, trong lòng càng khâm phục Ngài vô cùng.
-
Cách ít lâu, Ngài ra mắt
vua, rồi quì xuống mà tâu rằng :"Muôn tâu bệ hạ! Bần đạo có như ý bửu
châu và thanh tịnh giải thoát, chiếu diệu rõ rệt đến mười phương. Nếu
Bệ hạ chịu thọ lãnh mấy vật ấy, thì có ngày sẽ chứng đến quả Bồ đề. Vả
lại các pháp chẳng phải có, mà cũng chẳng phải không, phàm vật gì
thuộc về hữu tình đồng quy nơi thiệt tế . Các việc trong thế gian đều
là bức tranh huyễn hóa, rốt cuộc rồi hoàn về chỗ không, cũng ví như
trăm sông tuy phân ra muôn dòng ngàn mạch, nhưng tóm lại cũng chảy về
biển.
-
Pháp Thế gian và pháp Xuất
thế gian cũng chẳng qua là lý chơn như. Vì lý chơn như thiệt không có
sanh và không có diệt, nên không có Niết bàn, tam thế cũng bình đẳng,
mười phương đều thanh tịnh. Nếu lấy phần thanh tịnh bình đẳng ấy làm
sự nhiêu ích cho các giống hữu tình, thì được đồng lên bờ giác ngạn.
-
Nếu chỗ sắp đặt phương pháp
đặng như thế, thì cuộc trị bình trong thiên hạ sẽ hóa ra cảnh giới
trang nghiêm. Đó là Bệ hạ dùng diệu pháp mà tế độ nơi đời, được như
vậy thì các khác nào như một vị Từ Bi Vương tái thế".
-
Vua Lương Võ Đế nghe mấy
lời của Ngài biện giải, càng thêm tôn sùng kính trọng hơn nữa.
-
Khi Ngài ở tại Chùa Song
Lâm, thấy Kinh tạng chứa đầy, Ngài biểu mấy đạo chúng đem từ cuốn mà
tả ra. Bổn ý của Ngài muốn khiến cho kẻ sơ địa phàm phu nhờ công đức
chuyển kinh đó mà đạt tới nơi chánh chơn của Phật.
-
Bởi vậy trong thiên hạ, duy
có chỗ Song Lâm, thì Thiên Long thường ủng hộ, nên kinh tạng được toàn
bổn mà lưu truyền đời sau.
-
Thoạt một ngày kia, có một
làn định quang kim túc của Đức Thích Ca, mùi thơm bát ngát, từ phương
đông bay đến mà nhóm nơi mình của Ngài.
-
Bỗng nhiên có tiếng xướng
rằng :"Phó Đại Sĩ xuất hiện ra đây, là thay thế cho Đức Thích Ca mà
thuyết pháp, ngồi trên chỗ Long Hoa thắng hội mà chỉ rõ cái bổn nguyện
từ mẫn của Đức Văn Thù và xiển dương huệ tập phổ thế của Đức Quan Âm".
-
Rõ ràng Ngài cũng như bực y
vương, đại thí những lương phương diệu tể mà điều trị tất cả bịnh vô
minh phiền não. Thiệt là Ngài có công phu rất lớn và nhiều phương pháp
khởi tử siêu sanh.
-
Có một bửa kia, khí trời
nóng nực, Ngài ra ngoài gành biển mà hóng mát, dòm thấy dưới mé có một
vùng quanh co theo bờ, và dân cư tại đó chỉ làm được ruộng muối mà
thôi. Hễ đến thời tiết mùa thu, thì nước biển tràn lên linh láng,
không thế nào mà ngăn cản cho đặng.
-
Ngài thấy vậy, liền nói với
những người bổn xứ rằng: "Bần đạo muốn làm sao cho chỗ này thành ra
ruộng tốt, để cho bá tánh cày cấy đặng nhờ đó mà an cư lạc nghiệp".
-
Dân chúng nghe mấy lời ấy,
đều cười rộ lên mà nói rằng: " Ông này thiệt điên cuồng! Thuở nay
thiền biển mà ai làm thành ruộng cho đặng bao giờ ?"
-
Ngài thấy dân chúng không
đem lòng tin, liền lấy bao đựng cát đem chất xây giáp vòng như vách
lũy mà bao ngạn luôn bãi cát ấy.
-
Lạ thay! Trọn một vùng bờ
đê của Ngài làm đó, cách ít lâu cứng cũng như đá vậy, ngăn được ngọn
nước thủy triều ngoài biển, không thế nào chảy vô được nữa, nhưng hồi
Ngài làm đó có chia ra ba chặng, để ngừa khi Trời hạn và nước lụt.
-
Đến sau, nội trong khu đất
ấy đều thành ra ruộng cả, ước chừng hơn hai ngàn mẫu, thường năm cày
cấy đặng mùa luôn luôn. Dân cư trong xứ mỗi năm gặt lúa rồi, trích ra
một phần ba để cung cấp cho tăng đồ trong các Chùa lân cận, mua chim
cá mà phóng sanh, và làm nhiều việc phước thiện khác nữa.
-
Hiện nay mấy cái bờ bằng
cát của Ngài làm đó hằng bền chắc, không có hư rã chút nào.
-
Thiệt là linh cảm thay chỗ
di tích của bực Đại Thánh ngày xưa! Cho nên dân cư ở dọc theo mé biển
ấy đều được phong y túc thực luôn luôn, cùng nhau lập Chùa thờ Ngài và
truy tặng ruộng ấy là "phước điền".
-
Sau Ngài qua phía Nam núi
Phong Sơn mà chỉ điểm những chỗ ẩn tích nơi thâm khê cùng cốc, rồi mấy
nơi ấy lần lần trở nên phong cảnh rất thiên nhiên và nét xuân quang
bốn mùa đều xuất sắc.
-
Bửa nọ, Ngài đi chơi tới xứ
Bắc thượng, chợt thấy một người đương sửa soạn làm thịt loài súc.
-
Ngài lật đật chạy lại can
rằng :"Bần đạo xin tỏ cho nhà ngươi nghe. Tất cả loài súc sanh, nguyên
nhân cũng là người thế gian, chớ không phải khác đâu, vì tạo ác nghiệp
rất nặng nề, nên nay phải chịu khổ quả như vậy. Thoảng như mình làm
điều phước thiện mà một đời chẳng được giàu sang, thì cũng còn có ngày
trông giải thoát, chớ tạo nghiệp sát sanh như vậy, thì ngày sau khó
tránh khỏi luân hồi khổ thú.
-
Bần đạo nguyện sao nhà
ngươi hồi tâm tự lượng, đem tấm lòng nhân từ mà dung thứ những loài
động vật, vì nó cũng đủ cả Phật tánh và cũng biết ham sống sợ chết như
ta vậy.
-
Những người có nhơn hằng
lấy con mắt Từ mà quán xét, xem vạn vật với ta đồng một thể, và muôn
tượng với ta đồng một gốc. Nếu tấm lòng nhơn ái được như thế, thì
chẳng những trọn đức từ bi lợi vật một thuở mà thôi, lại nhiều kiếp
được trường thọ là khác nữa".
-
Người ấy nghe Ngài phân
giải như vậy, liền tỏ ngộ và chung thân không dám sát sanh loài động
vật nữa.
-
Lại có một khi, Ngài đương
đi ngoài đường, tình cờ gặp một người nông phu vừa cột một con trâu,
đặng tính bề làm thịt.
-
Ngài đi hối hả lại can rằng
:"Phàm ở đời, có nhơn thì có quả, không có sai chạy mảy nào, đó là lẻ
cố nhiên như vậy. Hễ giết loài vật, thì có ngày chúng nó cũng giết
lại, vậy mà trong đời có ai biết sợ sệt đâu, non dao rừng kiếm với vạc
dầu ở chốn âm ty, để trừng trị những người tạo ác nghiệp như ngươi
vậy, thì đời kiếp nào mà trông phần giải thoát cho đặng".
-
Người nông phu nghe Ngài
nói như thế, liền cúi đầu đãnh lễ và nguyện trọn đời không dám tái
phạm nữa.
-
Ngài thường đi chơi ngoài
đồng, bữa nọ lại gặp một ông Sa di hỏi Ngài rằng :"Thưa Đại Sĩ! Làm
thế nào mà hàng phục được vọng tâm của mình ?"
-
Ngài nghe hỏi, liền trả lời
rằng :"Tâm là vật gì đâu mà ông phải tìm cho uổng công phu. Vả lại
vọng tâm thiệt không có căn bản, hễ buông nó ra thì không thấy dấu
tích gì là vọng. Bởi bị các duyên đeo đuổi lăng xăng, nên mới thành ra
vọng niệm như vậy. Nếu nhứt chơn của ta đặng yên tịnh rồi, thì toàn
thể như như phóng ra khắp cả pháp giới và bốn thể vẫn tự nhiên mà rõ
rệt. Chừng đó, dẫu cho bụi trần cấu cũng không có thế nào mà che lấp
cho đặng, thì có vật chi đâu mà ngươi gọi rằng điều phục".
-
Ông Sa di nghe Ngài biện
bạch như thế, vùng tỏ ngộ và tôn kính vô cùng, rồi đãnh lễ mà từ giã.
-
Cách ít lâu Ngài đi chơi,
chợt thấy một ông Sa môn còn nhiễm theo tục trần, cứ khu trục trong
trường mộng ảo.
-
Ngài bèn đón lại mà chỉ dụ
rằng :"Bần đạo coi ông vốn thiệt là Phật. Lẽ nào ông nên tự độ lấy
mình, đặng mong có ngày chứng đặng quả vô sanh pháp nhẫn, cớ sao ông
lại còn yễm trợ theo thói phàm tình, đành che lấp bổn lai diện mục như
vậy?
-
Bây giờ ông phải bỏ các
duyên cấu trược, mà giũ sạch những thói tà phong, ráng sức công phu mà
suy tìm trong tâm thể vô sanh, thì có ngày sẽ đạt tới chỗ diệu minh
chơn tánh. Nếu ông hồi quang phản chiếu cho toàn thủy toàn chung rồi,
sẽ đặng vô ngại viên thông.
-
Bần đạo ao ước làm sao cho
ông được như thế, thì có khác nào một vị La Hán xuất trần, nếu chẳng
vậy thì cũng làm một vị Khuất sát trượng phu. Chớ cách hành động như
ông đó, thì đã không có ích cho mình, mà lại uổng công xuất thế học
đạo vô vi, đến chung quy cũng còn lăn lộn trong đường Lục đạo, biết
chừng nào mà thoát ra khỏi đặng vòng sanh tử. Như vậy có khổ hay không
?"
-
Ông Sa môn nhờ Ngài điểm
hóa, nên liền tỏ ngộ lý chơn thừa. Từ đó về sau, ông càng lo tu học,
không còn nhiễm nữa.
-
Thiệt cách phô tế của Ngài
không khác nào một ông lương y, đã điều trị không biết bao nhiêu là
chứng trầm kha phế tật, rõ ràng một hột minh châu có thể chỉ sắt hóa
nên vàng, một lời pháp ngữ có thể đổi người phàm trở nên bực Thánh.
-
Bởi vậy cho nên Ngài thường
dùng những phương pháp thiền định rất giản dị mà độ thoát tất cả chúng
sanh qua khỏi sông mê bể khổ, dẫn dụ người đời ra khỏi nhà lửa đường
mờ.
-
Ngài lại chẳng nên sự cấu
nhục của thế tình, cứ xen lẫn trong chốn trần lao, mà thi hành những
sự lợi ích cho hạng người còn sống say thác ngủ. Vì vậy cho nên trong
tám phương hồ hải, chỗ nào cũng là chỗ viên giác đạo tràng của Ngài
thế thác cả.
-
Còn đối với thập loại chúng
sanh, thì Ngài càng đem lòng quyến luyến như con một cha, như người
một nhà, không phân biệt nhơn ngã, và không biện luận Bắc Nam, vì tất
cả chúng sanh thảy đều đủ chơn như diệu tánh như Ngài vậy, nhưng vì bị
màn vô minh che lấp, nên phải trì trục trong vòng khổ hải sầu thành đó
thôi!
-
Ngài thường đối với quần
chúng mà nói rằng :"Muôn tượng chỉ bao la, song một mảy trần chẳng
lập, nhứt chơn trong pháp giới, trăm hạnh đều phân vân. Tuy vậy chớ
không lọt ra ngoài vòng như như chí lý, cho nên động tịnh đều là pháp
tham thiền, nếu một niệm mà được khế chơn, thì sẽ có ngày mau lên bờ
bỉ ngạn.
-
Đó là lời pháp ngữ của Ngài
phát ra những lý mầu nhiệm của thiền gia, để bủa khắp chốn mê đồ, đặng
mở rộng những nghĩa huyền tôn trong tâm địa, trước là thâu thập những
người có lợi căn, sau là thức tỉnh số người còn độn trí. Thiệt công
phu của Ngài đến vô lượng vô biên, lòng phổ tế trong đời cũng vô cùng
vô tận.
-
Đến đời Lương, nhằm khoảng
vua Quân Vương trị vì, niên hiệu Trinh Minh, năm thứ hai, ngày mùng ba
tháng ba, Ngài đối trước chúng nhơn mà nói rằng :"Qua năm tới đây,
cũng ngày này và tháng này, thì ta đem trái "Di Lặc" mà cúng dường cho
đại chúng".
-
Quả nhiên qua năm sau, cũng
trong ngày ấy và tháng ấy, đại chúng thấy Ngài ngồi kiết già trên bàn
thạch, gần bên Chùa Song Lâm mà nhập diệt. Ai nấy thảy đều kinh dị và
than thở vô cùng.
-
Trong đại chúng mới hiệp
lực cùng nhau kết khám mà để thi hài của Ngài, rồi làm một tòa bửu
tháp rất tôn trọng, ngoài ngạch bia có khắc hiệu là: Định Ứng Tháp.
-
Hiện nay tại chỗ bửu tháp
ấy, tuy trãi mấy phen tang thương biến đổi, mà công trình vẫn còn đồ
sộ như xưa, thánh tích nguy nga, xa trông vọi vọi, bốn mùa người đàn
Việt tới lui chẳng ngớt, một phương trời chuông trống rất oai nghiêm.
-
Đức Di Lặc tuy chưa đến
thời kỳ xuất thế, nhưng tấm lòng từ bi vô hạn đối với tất cả quần
sanh, đôi phen tùy theo cơ duyên thục thác mà ứng tích nơi đời, đặng
nêu bày lẽ chánh tôn định huệ, cố ý nhiếp trì những hạng người đương
chìm đắm nơi sông ái hà, và ra công phổ độ những kẻ bị chới với giữa
dòng khổ hải.
-
Thiệt công đức của Ngài
không có bút mực nào mà mô tả ra cho hết đặng.
-
Từ ấy chí nhẫn nay, có trên
ngàn năm mà phước điền của Ngài còn lưu trụ các điện Đại hùng, thiện
quả vẫn còn bủa khắp nơi trong thế giới.
-
Chẳng những mười phương
đảnh lễ tôn sùng Ngài mà thôi, cho đến sáu chữ "Nam Mô Di Lặc Tôn
Phật" thì người thường một lòng trì niệm, chẳng có chút nào biến đổi
cả.
-
Nói tóm lại, Đức Di Lặc còn
nhiều số kiếp nữa mới xuất hiện ra đời, để nối ngôi cho Đức Thích Ca
mà làm một vị Phật thứ năm trong Hiền kiếp, đặng đại chuyển pháp luân
mà tế độ muôn loài và phổ lợi trong sa giới.
-
Nhưng ngặt vì chúng sanh
chưa rõ lẽ thiện chơn, cứ vọng tưởng những việc huyễn hoặc, mà đành
chịu sa chìm vào nơi khổ hải và tự mình chuốc lấy nẻo luân hồi.
-
Chớ Chư Phật tuy đã nhập
diệt rồi, song Tam Bảo còn lưu trụ khắp cõi nhơn gian, nếu ai hết lòng
tinh tấn vui theo mà thọ trì, thì cũng như Phật đương trụ thế vậy.
-
Tiếc thay! Người đời trí
cạn chướng sâu và tội nhiều phước ít, cho nên đối diện ngôi Tam Bảo
coi như cách xa ngàn dặm.
-
Vì nguyên nhân của chúng
sanh như thế, nên bất đắc dĩ Ngài mới ứng tích nhiều thời kỳ, đặng hóa
độ các kẻ phàm loại trong nhơn gian đó thôi.
--o0o--
|
|