-
QUYỂN HAI
-
-
BÁO ÂN
-
-
---o0o---
-
Báo Ân
- Lời
thuật rằng, lễ trọng ở cúng tế; do vậy báo đền ân đức là một trong
các ân.
-
Ân tổ quốc là trọng,
những mong triều đình thịnh đạt biết trọng Phật, hộ trì chư tăng vì
cái thể của sự thương xót cao tột mà các bậc thánh kế thừa. Thoảng
hoặc lúc nhàn hàng Thích tử hâm mộ theo tôn dung các Ngài! Do vậy
mới lập ra quy tắc quốc khánh, cho chí chư thiên có ân hộ trì giáo
pháp trong đó có nghi Tề Thiên. Mặt trời, mặt trăng có ơn chiếu sáng
nên có nghi bảo vệ nhựt nguyệt; ân đàn việt tín thí có cầu nắng cầu
mưa nên có nghi trừ sâu bọ v.v.. Những việc trên đây đều nhằm báo ân
vậy. Ngoài ra, vì người cầu ân thì theo nghi cầu chúc Vi Đà, dùng
thiên tôn hiện thân trời mà ủng hộ Phật pháp, nguyện lực rộng sâu,
có cảm liền ứng nên có bài tán rằng:
-
- "Vi Đà thiên tướng
quân
-
Hộ pháp nhuận hồng ân
-
Thấy ma phá khuấy tỳ
kheo
- Xót
thương xông tới bên
-
Hợp thời dứt trừ ngay
-
Hộ pháp Vi Đà Tôn Thiên
Bồ Tát".
-
Cho nên gọi rằng khéo
hiện hình tướng thiên tôn mà gia tâm hộ pháp đó.
-
Nay ở tòng lâm thường
lúc gặp tai nạn hay cầu Hộ Pháp Vi Đà, không phải cầu sự linh
ứng. Biết cầu ban ân cũng tự biết báo ân. Cho nên dành một chương
báo ân riêng. Thần Táo lấy việc ăn uống của số đông làm chỗ nương
dựa, vốn là một trong 5 lễ kỵ nên sẽ đề cập ở cuối quyển.
-
Ngày Lễ
Phật
Chung Cả Nước
-
Vân tập tăng chúng lên
Phật điện: niệm hương đảnh lễ, tán Phật, tụng thần chú:
Đại Bi, Thủ Lăng Nghiêm Thập chú, Kinh Bát Nhã, Thượng
Lai…Niệm Phật, hồi hướng, phục nguyện:
-
- "Thiền môn nghiêm
tịnh,
-
Bốn chúng an hòa,
-
Phật nhựt sáng soi,
-
Pháp luân thường chuyển".
-
- “Hôm nay ngày…tháng...
năm…(tên) Hoàng Đế Thánh Vị, đại chúng cung tựu đại điện
trước Phật trần thiết hương hoa quả phẩm, đèn nến đủ diên kỳ
nguyện dân an nước thịnh, đời trị thái bình, cùng hết thảy chúng
sinh đều thành Phật đạo". Sáng hôm lễ húy kỵ, tăng chúng vân tập
chánh điện, thầy Trụ Trì niệm hương, cắm hương lên lư, đảnh lễ Tam
Bảo, tán lư hương, tụng Kinh Kim Cang xong, châm trà cúng,
tụng Bát Nhã, sám nguyện, hồi hướng, phục nguyện… Hôm nay…(như
trên)… phục nguyện: Thức thần rong chơi tám hướng, cởi xe mây ngựa
gió tới đây chứng minh trong ngôi vị trời, thọ điện ngọc, lầu son
vui thỏa thích; mười phương ba đời hết thảy chư Phật chứng minh gia
hộ cho…Hoàng Đế, cùng quốc dân đồng bào và nhân dân trên thế giới
được thân tâm an lạc, thọ mạng kéo dài, cùng Phật pháp mãi trường
tồn, chúng sanh đều trọn thành Phật đạo…".
- Phàm
pháp cúng chư Thiên, dự định ngày. Thầy Tri Khách lo chuẩn bị trần
thiết pháp đàn, nhờ hương đăng quét dọn sạch sẽ và trang hoàng tràng
phan, cờ phướn, lọng… cho thật trang nghiêm đầy đủ. Giữa chánh điện
thiết trí tòa cao tôn trí Tam Bảo, kế đó hai bên đặt bàn hương án,
trên bàn sắp đồ cúng, hiến cúng đèn quang minh theo hầu chư thiên;
và các vị thần linh 3 cõi gồm 46 bài vị trên bàn cũng bày hương hoa,
trà quả, đèn đuốc v.v.. Kế ở dưới bậc thấp hơn đặt bài vị thiên tiên
sắp đồ cúng giống nhau. Như cúng cơm rau, mì, thức ăn…đều phải đầy
đặn đúng pháp; ắt không nên dùng sanh vật, không thể đồ ăn nguội
nhạt, ngược lại rước lấy lỗi thiếu cung kính. Sắm sửa các thứ sẵn
trước một ngày. Trước giờ đi ngủ, vị Tri Khách gióng 3 hồi trống để
thông báo giữa chúng buổi lễ sáng hôm sau, và cắt đặt, đề cử các
phần vụ xong xuôi, đại chúng chỉ tịnh.
-
Sáng sớm thức dậy, thúc
hiệu lệnh, chư tăng vân tập chánh điện. Đảnh lễ Tam Bảo, khai chung
bảng, niệm hương, cử tán… (như nghi trên, chỉ thêm phần tán cuối):
-
- "Trên cao thần hộ
pháp soi sáng,
-
Trời, trăng, sao tỏ
rạng nhân gian,
-
Giữ đất nước an khang,
-
Lòng, thành dâng hiến
cúng ,
-
Phước thọ vững bình
an".
-
Nam Mô Đăng Vân Lộ Bồ
Tát Ma Ha Tát
(3 lần).
-
(Nghi lược bớt, tham
khảo thêm cuốn Thiền Môn Nhựt Tụng).Chỉ 49 tôn hiệu Phật phải viết
như dưới đây:
-
Pháp
đàn thiết lập đàn tràng
-
Chính
giữa: Trung
Thiên Giáo Chủ: Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Đông Phương A Súc
Phật, Nam Phương Bảo Tướng Phật, Tây Phương Vô Lượng Thọ Phật, Bắc
Phương Vi Diệu Thanh Phật, Bảo Hoa Công Đức Hải, Lưu Ly Kim Sơn.
Chư Phật Quá Khứ: Chiếu Minh, Bảo Thắng Phật, Vô Cấu Xí Bảo Quang
Minh Vương Tướng Phật, Kim Diệm Quang Minh Phật, Kim Bách Quang Minh
Chiếu Tàng Phật, Kim Sơn Bảo Cái Phật, Kim Hoa Diệm Quang Tướng Phật,
Đại Cự Phật, Bảo Tướng Phật" (14 vị Phật viết chung 1 tấm).
-
Đàn nội
ở trên bên trong treo phía trái:
-
- Nam Mô Kim Quang Minh
Hải Vi Diệu Pháp Cự Tối Thắng Kinh Vương.
-
Ở trên
bên phải:
-
Nam Mô Quang Minh Hội
Thượng Chư Đại Bồ Tát, Tín Tướng Bồ Tát, Kim Quang Minh Bồ Tát, Kim
Tạng Bồ Tát, Thường Bi Bồ Tát, Pháp Thượng Bồ Tát…
(6 vị Bồ Tát này viết
chung 1 tấm), Ta Bà Giáo Chủ Hiệu Lịnh Độc Tôn Đại Phạm Thiên
Vương và các quyến thuộc vị ấy. (Để bên trái ở dưới vị thứ nhất.)
-
Bên trái
vị thứ 1: Địa
Cư Thế Chủ Đao Lợi Trung Vương, Đế Thích Tôn Thiên.
Bên trái
vị thứ
2: Đông Phương Hộ Thế Càng Đạt
Bà Chủ - Trì Quốc Thiên Vương. Bên
trái vị thứ 3: Nam Phương Hộ Thế: Cưu Bàn Trà Chủ Tăng
Trưởng Thiên Vương.
Bên trái
vị thứ 4: Tây
Phương Hộ Thế: Đại Long Vương Vương Quảng Mục Thiên Vương.
Bên trái vị thứ 5:
Bắc Phương Hộ Thế -
Đại Dược Xoa Chủ: Đa Văn Thiên Vương.
Bên trái vị thứ 6:
Thân Phục Oán Ma Thệ
Vị Lực Sĩ – Kim Cang Mật Tích Tôn Thiên.
Bên trái vị thứ 7: Đặc Tôn
Chi Chủ Cư Sắc Đảnh Thiên - Ma Hê Thủ La Tôn Thiên.
Bên trái
vị thứ 8: Nhị
Thập Bát Bộ Thống Lãnh Quỉ Thần Tán Chỉ Đại Tướng Tôn Thiên.
Bên trái vị thứ 9:
Năng Dữ Tổng Trì Đại
Trí Huệ Tụ - Đại Biện Tài Tôn Thiên.
Bên trái vị thứ 10:
Tùy Kỳ Sở Cầu Linh Đắc Thành Tựu - Đại Công Đức Tôn Thiên.
Bên trái Vị thứ 11:
Ân Ưu Tứ Bộ Ngoại Hộ Tam Châu - Vi Đà Thiên Tướng Tôn Thiên.
Bên trái Vị thứ 12:
Tăng Trưởng Xuất Sanh Chứng Minh Công Đức – Kiên Lao Địa Thần Tôn
Thiên.
Bên trái
Vị thứ 13:
Giác Trường Thùy Ẩm Nhân Quả: Hổ Nghiêm Bồ Đề Thọ Thần Tôn Thiên.
Bên
trái Vị thứ 14: Sanh Chư Quỉ
Vương Bảo Hộ Nam Nữ - Quỉ Tử Mẫu Thần Tôn Thiên.
Bên trái
Vị thứ 15:
Hành Nhựt Nguyệt Tiền Cứu Binh Phạt Nạn Ma Lợi Phộc Tôn Thiên.
Bên trái Vị thứ 16:
Bách Minh Lợi Sanh Thiên Quang Phá Ám - Nhựt Cung Thái Dương Tôn
Thiên.
Bên trái
Vị thứ 17:
Tinh Chư Tú Vương Thanh Lương Chiếu Dạ Nguyệt Cung Thái Âm Tôn Thiên.
Bên trái Vị thứ 18:
Bí Tạng Tháp Bảo Chủ Chấp Quần Long - Ta Kiệt La Vương Tôn Thiên.
Bên trái Vị thứ 19: Chưởng U
Minh Quyền Vi Địa Ngục Chủ - Diệm Ma La Tôn Thiên.
Bên trái
Vị thứ 20:
Ngũ Nhạc Cư Đông Thái Sơn Phủ Quận - Thiên Tề Nhân Nguyên Tôn Thần.
Bên trái Vị thứ 21:
Thiết Vi Lưỡng Sơn Thập Bát Ngục Chủ - Thập Điện Minh Vương Tôn
Thần.
Bên trái
Vị 22: Không
thần, địa thần, trú thần, dạ thần; nhứt thiết hộ thân chư thần đẳng
chúng.
Bên trái
Vị thứ 23: Vô
Sắc Tứ Không Phi Phi Tưởng Xứ, Vô Sở Hữu Xứ, Thức Xứ, Không Xứ Chư
Đại Thiên Vương.
-
Bên phải
vị thứ 1: Sắc
Giới Tứ Thiền, Ngũ Na Hàm Thiên, Sắc Cứu Cánh, Thiện Hiện, Thiện
Kiến, Vô Nhiệt, Vô Phiền Chư Đại Thiên Vương.
Bên phải
vị thứ 2: Sắc
Giới Tứ Thiền Ngoại Đạo Sở Cư - Vô Tưởng Thiên Vương.
Bên phải
vị thứ 3: Sắc
Giới Tứ Thiền Cư Phàm Phu Vị - Quảng Quả, Phước Sanh, Vô Văn Thiên
thượng, Chư Đại Thiên Vương.
Bên phải
vị thứ 4: Sắc
Giới Tam Thiền: Biến Tịnh, Vô Lượng Tịnh, Thiểu Tịnh Chư Đại Thiên
Vương.
Bên phải
vị thứ 5: Sắc
Giới Nhị Thiền: Quang Âm, Vô Lượng Quang, Thiểu Quang, Chư Đại Thiên
Vương.
Bên phải
vị thứ 6: Sắc
Giới Sơ Thiền Thiên Vương Đại Phạm Thứ Cập Phạm Phụ, Phạm Chúng Chư
Vị Thiên Vương.
Bên phải
vị thứ 7: Dục
Giới Chi Gian Thị Vi Ba Tuần, Ngũ Đế Đại Ma, Cập Chư Ma Thiên. Bên
phải vị thứ 8: Dục Giới Ở Đảnh Tha Hóa, Đại Tự Tại Thiên
Vương. Bên phải vị thứ 9:
Dục Giới Hàng Thứ Hằng Thọ Hóa Lạc Tự Tại Thiên Vương.
Bên phải
vị thứ 10:
Dục Giới Ở Giữa Đẩu Suất Đà Thiên - Tri Túc Thiên Vương.
Bên phải
vị thứ 11:
Dục Giới Không Cư - Dạ Ma Thiên Vương.
Bên phải
vị thứ 12: Ở
Tu Di Đảnh Bốn Phương Mỗi Phương Bốn Vị: Tam Thập Nhị Đại Thiên
Vương.
Bên phải
vị thứ 13: Ở
Tu Di Xéo Tứ Phương Tứ Bộ Chư Thiên Thiên Tử. Bên
phải vị thứ 14: Nhơn Bổn Không Cư Ứng Thế Kiết Hung Chư
Tinh Tú Thiên.
Bên phải
vị thứ 15: Tu
Di Sơn Hạ Như Thứ Tam Cấp Thường Kiều Thiên, Trì Man Thiên, Kiên Thủ
Thiên, Chư Thiên Thiên Tử.
Bên phải
vị thứ 16:
Quang Minh Hội Thượng Tích Thị Bát Bộ Khẩn Na La Vương, Ca Lâu La
Vương, Ma Hầu La Già Vương v.v.. Nhứt Thiết Thần Vương.
Bên phải
vị thứ 17:
Quang Minh Hội Thượng Tích Chưởng Khí Giới, Ni Liên Hà Thần, Chư Vũ
Đại Thần, Đại Ẩm Thực Thần, Phong Thủy Chư Thần, Hỏa Thần Hết Thảy
Chư Thần.
Bên phải
vị thứ 18:
Đông Tây Lưỡng Độ, Thập Bát Già Lam, Bổn Tự Già Lam, Hộ Pháp Thánh
Chúng.
Bên phải
vị thứ 19:
Thiên Can Địa Chi Lục Thập Thái Tuế, Thập Nhị Cung Thần, Chư Đại
Tinh Quân.
Bên phải vị thứ 20:
Trị Niên Thái Tuế, Bổn Mạng Cung Tào, Nghiệp Đạo Minh Quan, Nhứt
Thiết Tinh Quân.
Bên phải
vị thứ 21: Ở
Tỉnh, Tỉnh Chủ, Phủ, Phủ Chủ, Huyện Người Đứng Đầu Thành Hoàng Tôn
Thần.
Bên phải
vị thứ 22:
Đương Sơn Thổ Địa Chánh Thần, Thổ Địa Phường Nào…. Chánh Thần (nơi
trai chủ ở).
-
(Có 22
thần thổ địa như trên)
-
Phàm nghi cúng chư
thiên như trong cuốn Thiền Môn Nhựt Tụng, theo nghi thông thường.
Đây chỉ ghi lòng sớ như sau:
-
Ngưỡng nguyện:
-
- "Trên hội Linh Sơn,
thọ âm di chúc của Phật, đến đạo tràng xứ Ma Kiệt Đà
chứng minh vua trong đời phẩm Diệu Nghiêm chúng sanh nương
tựa; ba cõi trên cao mong giáng lâm thương tình chứng giám. Nay có
Châu Nam Thiệm bộ trong 4 châu thiên hạ, tại nước, tỉnh, phủ,
huyện, phố…ở tại địa chỉ… chùa, phụng Phật sửa soạn thiết
trai cúng chư thiên, để cầu việc gì… tín chủ (tên) hôm nay cúi đầu
dâng hương bày tỏ lòng thành, mong phóng hào quang soi tỏ, Thích
Ca Văn Phật trên hội Kim Quang chư Phật, Bồ Tát, trời rồng 8 bộ
chúng, các Thánh hiền dùng quyền thật, ngồi tòa sen vàng, mong thông
thấu lời bày tỏ".
-
Lại nguyện vì việc gì…
(nói rõ tâm nguyện):
-
- "Hôm nay ngày… tháng…
năm chọn sắm mấy thức chay thanh nhẹ dâng cúng, quyền cao của thiên
chủ, mong rủ thiên ân dung thọ tấc lòng thành dâng cúng. Lại ngưỡng
mong: Phật đoái lòng thương, đức Trời trãi rộng theo chỗ cầu mà ban
ân, là tỏ sự cảm ứng như tiếng vang, lòng người khắc cốt. Trời nghe
lời tâu này mà hiển hiện thần thông dùng pháp Phật cảm hóa. Mong
hồng ân Tam Bảo, chư thiên chóng rủ ân từ, chiếu soi gia hộ cho
chúng con được gội nhuần lợi lạc. Ngày… tháng… năm (tên người) xin
chí thành dâng sớ".
-
Chứng nghĩa ghi rằng:
-
Kinh Kim Quang Minh
có 3 bản dịch khác nhau như:
-
1- Đàn Vô Sấm đời Bắc
Lương dịch 4 quyển, là sách lưu hành hiện nay.
-
2- Hai ngài Bửu Quí đời
Tùy và Chí Đức (người Thiên Trúc) dịch chung 8 quyển.
-
3- Nghĩa Tịnh đời Đường
dịch 10 quyển văn từ lưu loát gọi là Kinh Kim Quang Minh Tối
Thắng Vương.
-
Cúng chư thiên nay chỉ
dùng bản dịch thời Bắc Tống, cúng 20 vị trời, lược quá nhiều. Đây có
49 vị bèn dùng ba bản dịch chính, muốn đầy đủ xem Thanh Quy xưa, hẳn
rõ ràng tường tận hơn. Nay trích dẫn Kinh Kim Quang Minh Tối
Thắng Vương quyển 8, phẩm Đại biện tài thiên nữ về một đoạn bài
kệ để chứng minh cổ Thanh Quy. Kinh ghi rằng:
-
- "Nay con xin triệu
thỉnh: chúng Thanh Văn của Phật, mong chóng đến đây gia hộ cho tâm
cầu của con được thành tựu. Chỗ mong cầu là lời chân thật, tất cả
mong rằng không gian dối. Trên từ trời Sắc cứu cánh và trời Tịnh
Cư Thiên, Đại Phạm và trời Phạm Phụ, hết thảy chúng Phạm
Vương cho đến các trời khắp trong 3000 cõi, chủ cõi Tố Ha
và các quyến thuộc của họ. Con nay xin triệu thỉnh mong mỏi được đức
từ bi thương tưởng cùng gia hộ. Trời Tha Hóa Tự Tại và trời Hóa
Lạc cho thấy các chúng trời; Đức Di Lặc sắp thành Phật,
các chúng trời Dạ Ma và 33 trời, trời Tứ Thiên Vương,
hết thảy Chư Thiên, các vị thần đất, nước, gió, lửa nương ở
núi Diệu Cao, 3 thần nơi 7 biển cùng với hàng quyến thuộc,
thần tài và thần ngũ đảnh, trời, trăng và các sao cùng hết thảy
thiên chúng, làm cho thế gian an ổn; ở đây đang chờ mong các vị
thiên thần… Chẳng ham tạo nghiệp tội; kính lễ Quỉ La Sát mẹ và
con yêu dấu, trời rồng, Dược Xoa, Càng Thát Bà, A Tu La, Khẩn
Na La, Mạc Hô Lạc Già v.v... con dùng thần lực Thế Tôn
kính xin triệu thỉnh…". Y cứ Kinh văn này tức là dựa theo cổ. Thanh
Quy đầy đủ mới có thể cảm thông được. Các bậc hiền sau này cần nên
lưu tâm hơn.
-
Gặp hôm nhựt thực, hay
nguyệt thực, trổi hiệu lệnh cho chư tăng biết vân tập lên chánh điện
làm lễ cầu nguyện:
-
- "Niệm hương.. hôm nay
ngày… tháng…năm… đến giờ đặt bàn về hướng mặt trời (hay mặt trăng)
vái cúng. Đảnh lễ Tam Bảo, tán Phật:
-
- "Nam mô Thập
Phương Thường Trú Tam Bảo" (3 lần) và tiếp đọc:
-
- "Nam Mô Nhựt Quang
Biến Chiếu Bồ Tát" (nếu nguyệt thực đọc là Nguyệt Quang,
ánh quang trở lại tròn đầy).
-
Đọc Tâm Kinh Bát Nhã,
kế đọc biến thực, Cam Lồ chân ngôn v.v... Tiếp đọc sớ hộ mặt
trời như sau: “Sớ
rằng: Hôm nay ngày nhựt thực, ngày ngũ Kỵ hay ngày giáng họa, ra oai
tác quái sáu cách, nên kêu gọi dân chúng cứu hộ; mong nương Phật lực
cần cầu. Do vậy, nay vân tập chúng tăng xin phát tâm thành cùng niệm
thánh hiệu Đông Phương Thế Giới Lưu Ly Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ
Tát cùng trải ra cứu hộ, mong mặt trời sáng trong chóng ban cho
ánh sáng trở lại".
-
Lại nguyện:
-
-"Năm sắc mở tung hoàng
đạo soi sáng khắp quần âm cho tiêu mất mà đức dương hưng thạnh trở
lại hôm nay. Đọc sớ xong tán bài Nhựt quang:
-
- "Tròn sáng giăng
giăng,
-
Thánh đức khó lường,
-
Vạn tượng ấn trời thay
thiên chương,
-
Cõi nước được ân hưởng,
-
Soi rọi khắp âm dương,
-
Chúc mừng đại luân
vương".
-
Nam Mô Nhựt Cung Thái
Dương Tôn Thiên Bồ Tát.
-
Nguyệt thực:
-
- Hướng về mặt trăng
đọc sớ rằng: "Trăng chiếu sáng cõi âm làm chủ đêm, nương chỗ chiếu
soi bầu trời tỏ rõ chốn nhân gian đang bị nuốt trững, do kiên nể sợ
để cầu, để khẩn xin. Do vậy, hôm nay vân tập chúng tăng xin phát
lòng thành cùng niệm thánh hiệu Bồ Tát Nguyệt Biến Quang
Chiếu Ở Đông Phương Thế Giới Lưu Ly, dùng trải ra cứu hộ, mong
mỏi mặt trăng tỏ chóng phát ra ánh sáng mát dịu.
-
Lại nguyện:
-
- "Khí yêu biệt tích,
một vầng sáng rỡ đại địa sơn hà, mặt trăng trường cửu, vạn tượng
nhập vào cung Quảng Hàn".
-
Tán:
-
- "Hương bay phảng phất
-
Kiếng báu tròn đầy
-
Bông Ngân lạnh mát
-
Sao rải xung quanh
-
Ánh trăng trãi rộng
-
Nơi khuất càng thanh
-
Kính lễ nguyệt thực
-
Trời người lợi lành".
-
Nam Mô Nguyệt Cung Thái
Âm Tôn Thiên Bồ Tát
(3 lần).
-
Chứng nghĩa giải rằng:
-
Đây là báo ân mặt trời,
mặt trăng sáng chiếu. Sở dĩ nói “thực”, vì mặt trời mặt trăng chồng
khít nhau, mặt trời án khuất mặt trăng là nhựt thực, ngày đêm đều xa;
mặt trăng che mặt trời là nguyệt thực, cũng gọi là bạc thực, vì hắc
khí vây chung quanh một lớp mỏng. Mặt trời, mặt trăng vàng đỏ không
có ánh sáng như có hiện tượng bức bách của vật, hình sắc thiếu
khuyết là thực. Mặt trời mặt trăng thiếu khuyết bị lấn xâm như trùng
ăn lá, nhưng đây là ăn một lớp mỏng, cũng là một trong bảy nạn. Con
người và vạn vật đều thọ ân trời đất soi sáng nên cần phải bảo vệ.
Bảo vệ như sau đây nếu kẻ sĩ, dân giả mỗi người hết lòng thành đoái
tưởng tới ý trời. Cũng có thể nói bảo hộ trời trăng cõi này.
-
Tại sao niệm danh hiệu
Bồ Tát Đông Phương?
-
Đáp:
-
- "Vì danh nghĩa phù
hợp, xưng hồng danh Vị Bồ Tát ấy tới cứu mặt trời mặt
trăng. Vả lại, Phật pháp rộng sâu, lòng trời hợp thuận xưng hiệu ấy
rất thích nghi vậy".
-
Tóm kết:
-
Tuy xưng Nhựt Cung,
Nguyệt Cung nhưng theo gốc xưng danh. Nếu dựa lý để nói thì nhựt
là thật vậy; thường đích thực nên đem thật trí soi sáng lý chân như,
khiến chúng sanh diệt hết mọi mê lầm vào Niết Bàn an lạc. Tạm thời
không biết giống như người chết, nên phải giữ gìn hộ vệ. Mặt trăng
khuyết có lúc đầy lúc vơi, đem quyền trí soi sáng việc thế tục để
trừ dứt hết thảy phiền não của chúng sanh, khiến thảnh thơi trong
biển thanh lương. Một niệm chấp vướng là rơi hầm sụp hố nên cần phải
che chở bảo vệ. Nếu như nguyệt thực buổi chiều không cần phải cúng
ngọ, vì chư thiên dùng buổi sáng, không thọ cúng sau giờ ngọ, nhưng
dùng trà tốt, hương đèn cúng là được.
-
Rằm tháng 8 âm lịch sau
khi dùng cháo buổi chiều xong, đại chúng vân tập chánh điện cúng rằm
Trung Thu. Lễ phẩm đơn giản gồm hương hoa, trà quả, đèn bánh. (Nghi
tiết xem trước…) Tán:
-
- "Mây tạnh trời quang
sương đáng yêu
-
Nõn nà không vết thể tự
viên
-
Một vầng trăng tỏ tỏa
vô biên
-
Sáng soi khắp cùng cõi
đại thiên".
-
Nam Mô Nguyệt Cung Thái
Âm Tôn Thiên Bồ Tát
(3 lần).
-
Tụng Bát Nhã,
niệm Phật, sám nguyện, hồi hướng, phục nguyện, tự quy… lễ
xong lui về hậu liêu, sau khi nghe hiệu lệnh tất cả tập trung trai
đường, uống trà, dùng bánh Trung Thu, văn nghệ v.v…
-
Chứng nghĩa ghi rằng:
-
Tết Trung Thu
tương truyền là ngày Nguyệt đản nên người đời đều làm lễ kỷ niệm.
Dựa theo Phật Giáo mà luận, như cúng kỷ niệm trăng nên cúng trước
giờ ngọ, vì mặt trăng giống trời bởi Chư Thiên không thọ cúng
sau giờ ngọ. Vì theo Thanh Quy chỉ thiết lễ cúng gồm hoa hương, trà
quả, đèn bánh mà thôi. Không dâng cúng thức ăn vậy. Từ đó trở đi
tòng lâm cúng trăng giống người thế, lẫn lộn đã lâu đời. Thậm chí có
người gọi lễ Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát hoặc xưng là
Lễ Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát. Giá như có cúng nên dùng chay tịnh
theo nghi cúng Phật. Đáng trách mắc lầm lỗi, người ngu không nên lấy
bậy truyền bậy; các bậc cao minh thức giả cần phải đính chánh lại.
Như cho rằng, trời trăng vận hành là cái đức không hai, xưa nay chỉ
cúng trăng mà chưa ai cúng mặt trời, tại sao vậy?
-
Trả lời:
-
- "Việc này tùy theo lễ
tục, người đời chưa từng cúng mặt trời bao giờ. Ngoài ra, mặt trăng
ở trong âm u tăm tối tỏa chiếu ánh sáng mà vạn vật được hấp thụ từ
chỗ mát mẻ đó. Luận về công mặt trời vào hàng thứ hai; bàn về đức
đại bộ gần với đạo Phật chúng ta linh chiếu tự như; che lấp không
làm hại ánh sáng, huống chi sức sáng. Bóng hiện trong nước lớn nhỏ
dọi không khác, huống gì công năng. Dung nạp ánh sáng ắt soi tỏ cần
gì đầy. Trong sạch tự thuận cần gì vắng lặng. Nơi bẩn nhơ mà không
nhiễm cần gì trong trắng. Xoay vần mãi không dừng là vận cần gì hằng
hữu, đầy vơi không sai trật giờ cần gì tin. Sáng soi vạn vật mà
không lưu tâm cần gì hư không. Sao ban đêm tự độc chiếu cần gì đốt
cháy, phong kín tất cả trước mắt cần gì khắp nơi. Nếu như nhân mặt
trăng ngộ tâm là bổn giác tự sáng; chướng không thể làm mờ tối,
không phải ánh trăng sáng sao? Lợi ích vô cùng, ân oán không hai,
không phải công tâm của ánh trăng sao? Người người là đạo, pháp pháp
sáng rỡ, chẳng phải cái tròn đầy của mặt trăng ư? Xứ xứ luôn hiu hiu
tự đắc chẳng phải cái lặng lẽ của mặt trăng sao? Ở chốn trần lao mà
tự mình trong sạch chẳng phải cái trong trắng của trăng là gì? Tự
phát phấn đấu không ngừng chẳng phải cái hằng viễn của trăng hay sao?
Cây mận, cá heo chẳng cũng tin nơi trăng sáng chứ? Vật đạt thuận ứng
không phải cái lồng lộng của trăng hay sao? Tánh nó gần gủi nơi Phật
đạo như thế nên Phật thuyếp pháp ở núi Linh Thứu thường lấy trăng
làm thí dụ. Ngài Hàn Sơn nói rằng, tâm ta như trăng thu, không vật
gì so sánh được. Ôi thôi! Cái đức của trăng có thể nói là quá nhiều
vậy. Đêm Trung Thu xưng tụng là Nguyệt Đản, dù liên quan theo tục
truyền nhưng trời cao khí thiêng bề ngoài càng thêm sáng. Đại viên
cảnh trí như soi trước mặt, trong khi đang cúng này đây chẳng cũng
hợp lắm thay! Hoặc cũng nói: Phật dạy thầy tỳ kheo không lạy vua,
chư thiên vương v.v.. Nay Nguyệt cung đây chưa chứng đạo quả nên
không lễ lạy, nếu lễ lạy e tổn phước. Lập Thanh Quy dựa theo sách mà
luận, phàm các thiên thần đa phần do Thánh hiền biến hóa. Nay lạy
cái đức, vì kính trọng lòng hộ pháp của họ nên có thể lễ lạy. Nếu
như không có đức không ủng hộ pháp, vì không liên hệ với Phật giáo.
Phải tuân lời Phật dạy không lễ lạy là đúng, nếu vì danh lợi mà bày
điều mị hoặc với lễ thế tục, cả ta và người đều tổn hại, lầm lẩn rất
lớn vậy".
- Nghi
thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong Kinh Kim Cang
Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong
Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành,
nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy
Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ
thông báo viết: "Cầu tạnh ráo”. Nên dùng giấy vàng viết thông báo,
nội dung như sau:
-
- Nam Mô Kim Cang
Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm Hội Thượng Phật Bồ
Tát. (Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho
nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường). Thầy Trụ
Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu
có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm
niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện
để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư
cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt
Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh
cầu dứt mưa.
-
Lễ này theo như các
nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày
tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị,
trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh
cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau
đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý
tới mấy chi tiết như:
-
1- Mỗi ngày 2 buổi đều
có thời tụng kinh tại chánh điện;
-
2- Dùng hiệu lệnh vân
tập chúng đúng thời khắc;
- 3- Y
hậu chỉnh tề;
-
4- Thầy Trụ Trì niệm
hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v..
-
Tán rằng:
-
- "Đại bi Thánh chủ đạo
lý thần chương,
-
Viên dung vô ngại khó
thể so lường,
-
Nhập đàn đại chúng xin
nguyện tuyên dương,
-
Biến bứt xúc thành
trong sạch thanh lương".
-
Nam Mô Thanh Lương Địa
Bồ Tát Ma Ha Tát
(3 lần).
-
Trì tụng 21 biến Chú
Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000
lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư
1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:
-
- "Cửa trời im ỉm chẳng
mở thông
-
Ngày đêm thê thiết nổi
gió giông
-
Trừ dứt tai ương dân
ước nguyện
-
Hợp thời hé lộ một vừng
hồng
-
Là một trong bốn châu
thiên hạ
-
Châu Nam Thiệm người
người chờ mông".
-
Nước Việt Nam, tỉnh..
phủ..huyện.., phường..,quận.., thành phố.., Chùa…, Trụ Trì … Nếu có
các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng
hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật,
Quang Diệm Hội Thượng Chư Phật, Thánh Hiền, Thiên Long Tám Bộ Chư Vị
Tôn Thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch:
-
- "Ngưỡng mong giũ lòng
từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt
làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân
tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời
hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu
tạnh ráo dứt mưa". Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu
Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban
ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.
-
Lại nguyện:
-
- "Dẹt mây mờ bốn bề âm
chướng tiêu
-
Mặt trời hồng rọi chiếu
chốn trung thiên
-
Ánh sáng len lõi năm
miền hành tinh
-
Nơi nơi vạn loại thái
bình an nhiên
-
Lòng thành dâng sớ
thỉnh Phật, chư Thiên
-
Oai quang chứng giám
thần tiên thi hành".
-
Ngày…tháng…năm... Phật
lịch…Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.
-
Duy Na cử bài tán:
-
- "Chư Phật Như Lai
thương xót chúng sanh,
-
Vì cầu trời tạnh phá
sạch u minh,
-
Mưa nhiều hẳn được tạnh
thanh,
-
Khắp nơi rải sáng an
lành,
-
Vạn vật vui đón bình
minh".
-
Nam Mô Quang Diệm Hội
Thượng Phật Bồ Tát
(3 lần).
-
Tiếp theo nhịp khánh
đại chúng đồng niệm:
-
- Nam Mô Bổn Sư Thích
Ca Mâu Ni Phật
-
- Nam Mô Dược Sư Lưu Ly
Quang Vương Phật
-
- Nam Mô Nhựt Quang
Biến Chiếu Bồ Tát
-
- Nam Mô Nguyệt Quang
Biến Chiếu Bồ Tát
-
- Nam Mô Đại Bi Quán
Thế Âm Bồ Tát
(mỗi hiệu 3 lạy)
-
- Nam Mô Kim Cang
Quang Diệm Chỉ Phong Vũ Kinh Quang Diệm Hội Thượng Phật Bồ Tát".
-
Hồi hướng, phục nguyện,
tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như
trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại
làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.
-
Chứng nghĩa giải rằng:
-
Mọi sanh vật đều nhờ
mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm
nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa
gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn
họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý
nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng
như mọi loài.
-
Trời nắng lâu ngày mà
không mưa, sơn môn (chùa) phải yết bảng cầu mưa. Sau đây dựa theo
Kinh Đại Vân Luân cầu mưa. Cần lưu ý: lập đàn tràng nên chọn nơi
sạch sẽ, đủ rộng cho số người tham dự. Cấu trúc đàn tràng sao cho
thích hợp, trang nhã đẹp mắt; trên bàn bày biện hoa quả, lễ phẩm và
hương đèn xoay về hướng đông; các bàn phía tây, nam, bắc cũng tương
tự. Như vậy đều cúng long vương một thân 3 đầu, 5 đầu, 7 đầu hay 9
đầu. Bốn góc đàn tràng, mỗi góc cắm 7 lá phan màu xanh; mỗi bàn có
bình hoa, dĩa quả, đèn dầu. Chung quanh đàn lấy chiếu làm tường, bốn
bên có 4 cửa, mỗi bên có 2 lối đi cho long hộ vệ lấy đó làm ranh
giới. Kinh ghi rằng hoặc lấy tro hay mực làm ranh giới mà ngày nay
thường dùng mấy thứ này thay thế. Đầu rồng hướng ra phía cửa mà đuôi
uốn lượn hợp với bụng nó. Ngoài cửa có che cũng lấy chiếu làm ranh,
chọn một vị cao tăng trì giới đức hạnh làm chủ đàn; chư tăng cũng
lựa người giới hạnh thanh tịnh để tụng kinh mới có hiệu quả tốt.
-
Ngoài ra, cũng phải cắt
đặt 2 người thị giả lo chăm sóc hương đèn, châm nước cúng và những
lúc cần… như Kinh có ghi rõ. Nhất là trong thời gian Chùa cử hành lễ
cầu nguyện, ngày đêm phải nghiêm tịnh, chí thành tụng kinh, niệm chú
đến một tuần, 2 tuần, hay đến 3 tuần; tự nhiên được cảm ứng tới chư
thiên và lòng thành được thành tựu như ý nguyện.
-
Chứng nghĩa giải rằng:
-
Nói một cách tổng quát,
đàn dùng đất vàng thế trâu, núi tai trâu. Trâu núi tức giống bạch
ngưu ở dãy Himalaya, chúng ăn toàn cỏ thơm ở núi tuyết, mở chúng có
mùi thơm có thể dùng được. Những giống trâu khác đều hôi hám không
nên dùng. Ở phương đông chúng ta không thể lấy được loại hương này
nên dùng đất vàng sạch thay thế. Theo Kinh Trang Nghiêm ghi rằng:
màu xanh, sắc xanh án hướng bắc, màu đen là lấy nước công đức vậy.
Ngoài ra, nói một khủy tay mà ngày nay tương đương một mét; 3 khủy
tay tức 3 mét vậy.
-
Kế nói về hình long
vương ở bốn bên đàn tràng. Hình long vương vẽ trên bình phong, tấm
bình phong cao 2m60, rộng 1m60. Bình phong treo cao 1m20, ở giữa
dùng lụa mỏng bồi (dán) chắc chắn. Các hướng khác theo Kinh chỉ dẫn
hình vẽ, số đầu rồng nơi tranh vẽ. Tại hướng đông, rồng 1 thân 3 đầu;
hướng Nam, 1 thân 5 đầu; hướng Tây 1 thân 7 đầu; hướng Bắc 1 thân 9
đầu và cùng với quyến thuộc chúng vây chung quanh phía dưới là biển
sóng, trên có mây bay. Quyến thuộc long vương rất đông không thể vẽ
hết. Nên mỗi phương chỉ vẽ 4 quyến thuộc đứng 2 bên tả hữu; số đầu
rồng y theo Kinh mà vẽ.
-
Kế tiếp, Kinh nói về
tấm màn. Tấm màn ở giữa đàn tràng hướng về Đông che tòa cao, bề
ngang bề rộng 2 trượng, chu vi 9m, giữa nhô lên như mái nhà. Màn này
may bằng vải xanh, chống chỏi dùng trụ gỗ sơn đen. Vã lại màu làm
cho đen, buộc vải 4 góc thả thòng xuống đất; riềm của 4 phía đều rủ
châu anh lạc thanh tịnh trang nghiêm, rực rỡ như châu báu vậy.
-
Kế tiếp nói về bàn của
chủ đàn: chủ đàn là vị tăng, bàn xoay hướng Đông. Bàn có một chỗ
ngồi lấy gỗ đóng, thiết chỗ tòa cao 4 bàn nhỏ cao 2m60, vuông 3m
dùng vải xanh trải để Kinh lên trên rồi dùng miếng vải xanh đậy Kinh
lại, khi nào tụng hẳn giở ra. Chỗ ngồi cao 1m60, vuông 2m; chiếu
trải ngồi dùng đệm xanh lót lên trên.
-
Kế nói tới thứ tự 2 bàn
ngồi: thứ tự 2 bàn sắp đặt 2 bên chủ đàn nhìn qua 2 phía, Nam Bắc
đối diện hoặc cả 4 bên, tùy số người mà bàn cao 9cm, vuông 2m
cũng dùng gỗ đóng để Kinh có phủ vải giống như bàn chủ đàn.
Chỗ ngồi dưới đất trải đệm xanh vuông vức 2m.
-
Kế là hương đèn hoa quả:
một thảo lư dùng dâng hương (niệm hương), một cặp đèn dùng đèn cầy
đốt. Trước bàn để một lư trầm dùng hương bột, hương xông đốt cho
thơm hoặc dùng trầm để ở 2 bàn xông hương. Nói chung các loại hương
thơm phải có thị giả luôn luôn theo dõi ngày đêm không cho tắt để tỏ
lòng thành kính. Bốn bình hoa để ở bốn góc đàn tràng trước các cây
đèn. Bình phải tương xứng không lớn quá cũng không nên nhỏ quá và để
nước bên trong vừa phải để giữ hoa lâu tàn. Dùng nước thuốc xịt cho
hoa tươi tắn cũng như rảy nước sương sương lên hoa. Mỗi ngày chế
châm thêm nước hoặc có thể đem ra ngoài thoáng khí nếu để cách đêm.
Làm vậy làm cho hoa tươi tốt không héo, làm cho long thiên quỷ thần
hoan hỷ.
-
Kế nói tới quả: mỗi lần
cúng chọn 5 loại trái cây khác nhau để hợp với ngũ hành (5 thứ lưu
hành) trong trời đất. Dĩa quả lớn nhỏ tùy vị trí và bàn thờ, miễn
sao quả cho tươi tốt là được.
-
Kế nói về phan: phan
dùng 28 lá trồng trụ chung quanh 4 góc đàn tràng: mỗi góc 7 lá, dùng
vải xanh mới để may chiều dài 3m; cán dùng mực đen sơn, đầu cán gắn
khoăn để treo.
-
Kế nói về cách đặt đèn:
thông thường 28 ngọn đặt 4 bên đàn tràng, mỗi bên theo 7 lá phan làm
chuẩn. Đèn còn tùy vị trí mà cở lớn nhỏ cho cân xứng. Trên mỗi đèn
khắc chữ Long bên trong có đổ dầu, và ngày đêm giữ cho đèn cháy sáng
mãi.
-
Bên trên nói về đàn
pháp xong, kế nên dựa theo Kinh làm đúng pháp, Kinh ghi rằng: tôi
nay có mặt tại hội này, mong tất cả các vua rồng nương vào đây vì
muốn cầu mưa. Trước là triệu thỉnh các vị vào đàn; tăng chúng đều
tắm rửa sạch sẽ, giữ giới thanh tịnh, tất cả trang nghiêm vào đàn.
Chủ sám và 2 vị tả hữu sẵn sàng và Trụ Trì mặc áo xanh, đắp y màu
xanh. Đến giờ mẹo (từ 5-7g sáng) vào chánh điện niệm hương, lạy Phật
xong. Chủ sám cử tán:
-
- "Ngọc trời lồ lộ,
biển giác sóng vàng,
-
Cõi thế giới ba ngàn
phân đà tán,
-
Tam muội sạch làu,
-
Ít nhiều nước sáng,
-
Một giọt rạng sơn hà".
-
Nam Mô Thanh Lương Địa
Bồ Tát Ma Ha Tát
(3 lần).
-
Tiếp theo cầm chén nước
tịnh đọc vừa kiết ấn cam lồ:
-
- Nam Mô Đại Bi Quán
Thế Âm Bồ Tát
(3 lần)
-
- "Đầu nhành liễu Bồ
Tát cam lồ rãi
-
Một giọt tung trải khắp
mười phương
-
Tanh hôi tẩy sạch dường
lắng trong
-
Gia hộ đàn tràng được
thanh lương
-
Lời mật ngôn ngưỡng
mong trì tụng…"
-
Chúng cùng tụng Chú
Đại Bi (vị chủ sám đi xung quanh làm lễ sái tịnh; đi chậm rãi,
trước đi trong chánh điện theo phía tay mặt ra tới ngoài cửa đi
nhiễu một vòng, từ từ bước vô lễ đàn đi tới đàn trên đi nhiễu 3 vòng
xong, trở lại chỗ. Chúng có thể tụng 3 biến Chú Đại Bi tùy
theo vị trí rộng cở nào và thì gìờ nữa).
-
Chủ sám bắt lên:
-
- "Nam Mô Cam Lồ
Vương Bồ Tát Ma Ha Tát" (3 lần).
-
Chủ sám bước tới vào
ngay chính giữa niệm hương bạch Phật, phía sau vị Trụ Trì cùng niệm
hương xong, lui ra chỗ của mình, cùng đứng tán bài:
-
- "Ruộng cả đất cằn hạn
hán gây nên
-
Dân chúng tinh thành
cầu khẩn nào quên
-
Lúa mạ khô quèn kỳ
nguyện ngày đêm
-
Mong cho khắp chốn được
mát êm."
-
Nam Mô Hương Vân Cái Bồ
Tát Ma Ha Tát
(3 lần).
-
Xong rồi xướng đảnh lễ:
-
- "Nam Mô Thập
Phương Biến Pháp Giới Thường Trụ Tam Bảo" (3 lần).
-
Pháp sư nhiếp tâm quán
tưởng Mười Phương Chư Phật, Chư Đại Bồ Tát và Long Thiên Thánh
Chúng đều dùng thiên nhãn trông thấy, thiên nhỉ lắng nghe,
tha tâm thông rõ biết. Biết đây là nước Việt Nam, tỉnh, huyện, xã…
lâu nay không mưa, vì đó mà theo đúng pháp lập đàn, theo Kinh triệu
thỉnh các Ngài tới đây chứng minh gia hộ. Tưởng xong liền bạch:
-
- "Cung kính nghe rằng
Như Lai diễn pháp
-
Thường dạy tụng Kinh
triệu thỉnh trời mưa
-
Lòng từ cao hiển nghĩa
cả chở che
-
Thiết tòa cao phô vẽ
màu đất vàng
-
Chí thành sắp đặt pháp
đàn
-
Đốt đèn nhang, lập
tràng phan
-
Theo Kinh triệu thỉnh
sẵn sàng
-
Nhờ đây khổ hết lạc an
tái hồi
-
Rồng thiêng linh cảm
tới nơi
-
Vẹt mây dâng nước người
người hân hoan".
-
Nay đây tại Việt Nam…tỉnh,
quận, xã… ngày… tháng… năm… trời nắng hạn đã lâu, ruộng lúa nửa khô
sắp thành đồng không mông quạnh. Do vậy, y theo Kinh thiết lập đàn
tràng cầu trời giáng mưa để cứu vớt muôn dân. Song chỉ sợ nghi tiết
thất cách thiếu sót, tăng già giới đức kém nghiêm, cầu không đúng
pháp khó mà đạt sự cảm thông. Tha thiết nghe Đại Luân minh chú
hay trừ dứt lỗi này. Đại chúng chí thành cùng tụng chú Đại
Luân Minh Vương 7 biến để an vị đàn nghi. Tụng 7 biến xong,
pháp sư và đại chúng tụng kệ khai kinh, tán lư hương, tụng chú
Đại Bi 21 biến. Xong, tiếp xướng thỉnh:
-
- "Nhứt tâm triệu thỉnh…
Long Vương… mong mỏi dùng tha tâm thông, với thần túc thông; trên
vâng lời Phật chỉ định, dưới thương xót chúng hữu tình mà đến tỉnh,
quận, xã… sớm giáng cơn mưa”. (Chú Đại Minh Luân Vương).
-
Thỉnh xong, sám chủ quỳ
gối chấp tay bạch theo pháp đại từ trong Kinh và ban chú an lạc rồi;
sám chủ và vị thầy đại diện lắc linh, đại chúng cùng tụng chú đại từ
pháp và thí nhứt thiết lạc 3 lần. Sau đó sám chủ lễ thỉnh Chư Phật:
-
- "Nhứt tâm phụng thỉnh
hoặc Đa Bảo Như Lai, Bảo Thắng, Diệu Sắc Thân, Quảng Bác Thân, Ly
Bố Úy, Cam Lồ Vương, A Di Đà Như Lai, hoặc thỉnh Dược Sư Lưu Ly
Quang Như Lai" v.v..
-
Thỉnh xong, tiếp đọc:
-
- "Mong thay Chư
Phật Như Lai dùng từ lực vô duyên sắc xuống tỉnh, quận… sớm
giáng trận mưa. Nếu đàn tràng có 54 vị nên chia làm 6 ban, mỗi ban 9
vị tuần tự thỉnh cho đến ban cuối thỉnh xong, vị sám chủ quỳ gối
chấp tay, nhịp một hồi 3 tiếng khánh, đọc Kinh, trì chú, niệm Phật,
sám nguyện, hồi hướng, phục nguyện…
-
Bài hồi hướng:
-
- "Cầu mưa công đức
hạnh nhiệm mầu
-
Thắng phước bao nhiêu
con nguyện cầu
-
Khắp nguyện huyện, châu
gặp hạn hán
-
Chóng được mưa nhuần
thấm đượm sâu
-
Việc gấp như cứu lửa
cháy đầu
-
Vì cầu tiêu chướng
giáng mưa mau
-
Ngưỡng mong Tam Bảo,
thiên long thảy
-
Thương xót chúng sanh
hợp thời mưa
-
Mười Phương Ba Đời Phật
Như Lai
-
Tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát
-
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật
-
Tam tự quy đảnh lễ”.
-
Đàn này vị thầy hương
đăng phải hết lòng lo liệu không được để cho bất cứ một người nào
bàn tạp làm mất thanh tịnh. Sau giờ ngọ, nghe hiệu lệnh xong, vị
pháp sư và 2 người tác bạch cùng Thầy Trụ Trì là 4 người vào đàn
tràng hành lễ. Chí thành tụng kinh đọc lớn tiếng cầu mưa, như nghi
thỉnh trước giờ ngọ, sau ngọ chỉ tụng kinh liên tục cho đến khi nào
mưa lớn mới thôi. Trừ đàn này ra, các điện thờ chung quanh cũng phải
thứ tự luân phiên 10 người hay ít nhất là 4 người tụng 21 biến
Chú Đại Bi, niệm hiệu Quan Âm 1000 lần, lạy 12
nguyện của Bồ Tát, hồi hướng, phục nguyện, tự quy và đảnh lễ.
Kế tiếp đổi ban thứ hai luân phiên tụng suốt ngày đêm không dứt cầu
trời chóng mưa. Các nghi cúng trên một mực theo đúng nghi thường,
chỉ viết bài vị:
-
- "Nam Mô Vô Biên
Trang Nghiêm Hải Vân Oai Đức Luân Cái Long Vương và các quyến thuộc".
-
Đảnh lễ xong, đại chúng
tán bài:
-
- "Thánh chúng long
vương,
-
Oai đức khó lường,
-
Vâng lời Phật dạy,
-
Tán (rải) ngọc quỳnh
tương,
-
Quang lâm đạo tràng,
-
Nhuần sạch thanh lương,
-
Một giọt nhuận mười
phương".
-
Nam Mô Vân Luân Hội
Thượng Long Vương Thánh Chúng Bồ Tát
(3 lần).
-
Kế đọc sớ cầu mưa bằng
giọng thống thiết, nên viết 4 hàng: hàng đầu viết tạo 3 nơi hóa hoặc
chế bằng giấy viết hiệu 3 quan, cũng như 3 lồng sớ, mỗi tờ phóng
trên 1 tờ giấy hiệu quan trên tay biến hóa thật tài tình. Một tờ
trình Tam Bảo, một tờ trình chư thiên, một tờ trình các vị
long vương. Để lại một phong bì mỗi ngày đọc một lần cho đến khi
tụng xong hồi hướng rồi mới thiêu đốt:
-
Sớ rằng:
-
- "Thiết nghĩ, ánh
dương thái quá làm nóng cháy, muôn vật đều khô héo, đây trên do trời
phạt, dưới do dân nhiều tội lỗi. Chỉ chư Phật mở rộng môn từ bi mà
thần chú có cảm ứng cơ cầu, do vậy với lòng thành, thiết lập đàn
tràng cầu mưa tỏ bày tâm cảm, ngưỡng mong thánh đức dũ lòng đón nhận.
Nay tại Việt Nam (Úc Đại Lợi)… tỉnh… phủ… huyện… chùa… Trú Trì (pháp
danh). (Nếu có quan chức mời chú nguyện và biên tên họ vào sớ)… Hôm
nay chí thành niệm hương đảnh lễ Đại Vân luân chủ, Thích Ca Văn
Phật, cầu vũ hội thượng chư Phật Thánh hiền, thiên long tám
bộ, ty sở các thần, tọa đài hoa sen, mong cảm thông lời bày tỏ:
nhân chở che bổn xứ gặp lúc nắng hạn lâu ngày ban cho chỗ mưa nhỏ.
Suối khe cạn nước, vạn vật khô cằn; muôn dân trăm họ, khổ thống điêu
linh. Cơ quan chức trách lo nghĩ như khẩn cầu, nghe Phật dạy lấy
vầng mây lớn, tụng kinh trì chú cầu mưa; xin vì cảm thông, cho… (tên)
nay ngày… (kiến lập đàn tràng), y pháp cần cầu, vân tập tăng chúng
tụng kinh, trì chú, niệm Phật. Song e sự lý không cùng, lễ nghi
không đúng pháp khó cảm đến long thiên xin rộng lòng tha thứ; chưa
có mưa nhuần thấm xuống, do vậy chí thành dâng sớ: trước trình
Tam Bảo thánh chúng, kế thưa 3 cõi chư thiên, tiếp thưa cùng
long vương thánh chúng, ngưỡng cầu rũ lòng thương chứng giám, đoái
tưởng chúng sanh, mong cho tội nghiệp sâu dầy lấy lượng bình đẳng
gội nhuần, dậy sấm chớp nơi núi sông, đỗ mưa tuôn khắp chốn, cứu
sanh linh đồ thán, đang phải chịu nạn tai. Lại cầu cậu gió thầy mưa
trên chở dưới che địa thần lúa thóc, hết lòng quan tâm, che chở cho
lúa được mùa cũng giống mùa thu, tháng hòa năm thuận, muôn dân an
lạc thái bình. Cẩn niệm chí thành cúi đầu dâng sớ. Sớ văn đây cung
trình Tam Bảo chứng minh, đài sen thỉnh tọa; chư thiên cùng lên bảo
tòa, long thần chư vị thần linh lên bảo tòa. Ngày…tháng…năm …Trụ Trì…cẩn
bạch".
-
Phụ Chú:
-
Đàn Đại vân: đàn chính
ở giữa, 2 bên treo nhiều câu dùng giấy trắng, mực đen viết chữ đậm
nét như:
-
- "Đại Chiêm cam sâm
điền trù đắc nhi tư dục,
-
Kỳ phu huệ trạch thảo
mộc bị dĩ sanh thành.
-
(Mưa lớn đượm nhuần
ruộng được mùa thêm nẩy nở,
-
Sông Kỳ thẩm thấu cỏ
cây chớn chở phát sanh)".
-
Chứng nghĩa ghi rằng:
-
Tổ chức nghi thức cầu
mưa dựa theo Kinh Phật soạn ra. Duy chỉ lập đàn, sắp xếp chỗ ngồi,
phan phướn, hình tượng v.v... việc chi tiêu tiền bạc tốn kém. Nếu
quan chức đứng lo liệu vấn đề trở nên rất dễ giải quyết. Giả như chư
tăng phát tâm lo liệu có thể dùng giấy, gỗ thay vàng lá. Kỳ nguyện
cốt ở thành tâm trang trọng mà thôi. Song trải qua nếu có lúc mưa
lớn cũng làm cho tạnh dứt, tạnh hẳn mới thấy được hiệu quả kinh này.
Cũng có thể dùng để cầu trời tạnh ráo. Chỉ thay đổi nội dung 2 chữ
là được, đổi chữ cầu mưa thành cầu nắng và cũng đổi lời sớ nữa. Đây
là việc lợi ích lớn lao ngoài nghĩ ngợi, cảm thấu các bậc thần minh.
Ngoài ra, đàn tràng tụng Chú Đại Bi, giúp thêm lời ban ân
chóng cảm kích tới mọi sự cầu. Nếu như người cầu không thỏa mãn
không phải do tâm đại bi đà la ni. Thảng hoặc nơi núi cao, thôn làng
vắng vẻ, không có quan chức tham dự, nên mời chư tăng thanh tịnh xa
gần tới tụng kinh theo chỗ chuyên biệt của họ, chí thành cầu nguyện
cũng có thể có kết quả trời mưa. Kinh Hoa Nghiêm cảm ứng lược
ký ghi rằng, ngài Tăng Đạo Anh, họ Trần người quán huyện Bồ, 18 tuổi
cưới vợ ở chung 5 năm thề không gần nhau. Sau theo nghe Cự pháp sư
trong huyện giảng Kinh Hoa Nghiêm bèn thế phát xuất gia theo
nhiều người vào núi Chùa Bá Thê tu pháp tham thiền. Gặp tiết trời
nắng hạn giảng Kinh Hoa Nghiêm để cầu mưa. Có 2 cụ già, mỗi
vị có 2 đồng tử theo hầu tìm đến nghe giảng. Ngài Đạo Anh thấy lạ
bèn hỏi, mới biết đó là hải thần. Nhân đó nói rằng, nay vì đàn việt
xin cho trận mưa. Lão trượng sai 2 đồng tử, một từ lỗ cửa sổ phóng
ra trong thoáng chốc, một trận mưa to xối xuống, xa gần đều thấm
nhuần. Công đức giảng Kinh Hoa Nghiêm mà cảm động đến trời
làm đỗ cơn mưa lớn. Cũng như Kinh Pháp Hoa Trì Nghiệm
Ký ghi rằng, pháp sư Vân Quang, đời Lương, niên hiệu Phổ
Thông, năm thứ hai, tập họp chúng nơi đại điện giảng Kinh Pháp
Hoa, trời rưới mưa hoa giữa thiên không. Vua đem việc hạn hán
hỏi ngài Hòa Thượng Chí Công. Chí Công nói rằng: có mây có thể đưa
tới mưa. Vua nhân đó thỉnh Ngài giảng Kinh Pháp Hoa
đến đổi thấm nhuần khắp nơi trời bèn đỗ mưa to nơi nơi đều lợi lạc.
Nhân việc giảng Kinh Pháp Hoa đây mà cảm động trời đỗ mưa vậy.
-
Ngoài ra cũng có câu
chuyện kể rằng: Ngài Thích Chân Quán chùa Nam Thiên Trúc đời Tùy
Linh Ấn họ Phạm ở Tiền Đường. Lúc nhỏ tướng dị kỳ, lưỡi đỏ vằn quanh,
2 tay trái phải có chữ tiên nhơn, thường tụng Kinh Pháp Hoa
định mỗi ngày một bộ. Năm Khai Hoàng thứ 14 lúc trời hạn hán mời
Thầy giảng Kinh Hải Long Vương, trời liền nhóm mưa. Nhờ giảng
Kinh Hải Long Vương này mà làm cho trời mưa vậy. Ngoài ra,
Ngài Thích Trung Lập ở Minh Châu đời Tống, họ Trần người huyện Ngàn,
xuất gia năm 20 tuổi, được Vua ban hiệu Minh Trí vào đời Hy Ninh. Ở
Nam Hồ thay thế Ngài Thần Trí mỗi ngày chuyên tu pháp tham thiền.
Vào năm Nguyên Hựu Ngài tái chủ trì Chùa Diên Khánh chuyên lạy
Kinh Pháp Hoa 7 năm tu pháp viên mãn. Một hôm trong thiền quán,
Ngài thấy mình ngồi trong một chiếc thuyền lớn bơi đi tự biết tới
suối tuyền dũng; Ngài tụng Pháp Hoa hơn 10,000 bộ cứu được
hạn hán qua đi rất linh nghiệm. Tụng Kinh Pháp Hoa và lạy
sám Pháp Hoa mà làm cho trời mưa vậy.
-
Lại một chuyện khác,
đời Tống hội Kê Đạo vị sơn, Ngài Thích Tông Lợi đã thọ giới Tỳ Kheo,
tới Cô Châu nương Ngài Thần Ngộ lạy sám Pháp Hoa 3 năm. Một
hôm, thấy Bồ Tát Phổ Hiền cỡi hư không qua trước mặt,
tìm hỏi thành mới bích hồ, chuyên tu niệm Phật tam muội. Năm Chánh
Hòa nguyên niên trời hạn hán, Ngài cầu mưa cảm tới long vương hiện
thân sắc vàng rưới mưa đủ nước. Do công phu niệm Phật chí thành làm
cho trời mưa.
-
Kinh Kim Cang Trì
Nghiệm ký
ghi, đời Đường Khai Nguyên năm 93, Lữ Văn Triển làm việc ở huyện
Lãng Trung, rành rẽ Kinh Phật, lại chuyên trì tụng Kinh Kim Cang
đến hơn 30,000 lần nên được điềm linh ứng kỳ dị. Cuối năm nọ, 3 cái
răng đều rụng một lượt, bỗng mọc lại như cũ. Lúc còn làm việc tại
Lãng Trung nhằm năm hạn hán, Vua ra lệnh dân chúng cầu mưa, Ngài vừa
tụng một biến trời bèn đỗ mưa lênh láng; lại khổ ngập nước liền
khiến tụng Kinh cầu dứt mưa, hợp thời đáp ứng. Do tụng Kinh Kim
Cang làm cho trời mưa cũng như dứt mưa.
-
Một câu chuyện khác:
Ngài Liên Trì đại sư ở Minh Quí vừa đi tham học trở về Hàng Châu,
trên đường đi muốn vào thăm một tu viện trên núi cao, thấy mây giăng
đầu núi u tịch, Ngài bèn lấy gậy chống. Lúc đó trời đang hạn hán,
dân làng mời Thầy tụng kinh cầu mưa.
-
Thầy nói:
-
- “Lão tăng ở đây chỉ
biết niệm Phật và không có pháp thuật nào cầu mưa được cả”.
-
Dân chúng nói:
-
- “Chỉ cần thỉnh Đại Sư
niệm Phật”.
-
Mời Thầy ra khỏi núi
tới bờ ruộng niệm Phật, thế là mưa kéo tới ngay. Dân làng quá cảm
niệm ân đức Ngài nên hoan hỷ ủng hộ kẻ công người của lập nên ngôi
chùa cho Ngài tu niệm. Đây cũng chỉ do công phu niệm Phật mà cảm
được mưa vậy. Cho nên việc cầu mưa hoàn toàn nhờ vào công đức chư
Tăng hằng ngày công phu tu tập mới có thể cảm ứng được; cũng nên mời
vị chủ lễ trang nghiêm giới đức mới có hiệu quả. Nếu như mời vị
không đủ giới đức, chư Tăng thiếu tu chỉ làm trả lễ chiếu lệ nên
cũng khó mà cảm được tới trời. Thậm chí còn làm ồn ào phức tạp như
uống rượu, ăn thịt, vui đùa, làm điều bất chính, làm sao cảm thấu
trời được, lại càng tạo thêm nhiều tội lỗi nữa!
- Nghi
thức không truyền riêng như pháp cầu mưa để thành phổ thông. Ngũ Tổ
Hoằng Nhẫn thường có câu tụng khai kinh rằng:
-
- "Một năm chỉ trừ
tháng này
-
Trời cao chưa từng rơi
tuyết
- Long
thần ba cõi xét soi
-
Mỗi vị lần lượt cho
biết
- Khắp
trời khắp đất nhã bạc
-
Vã phải hợp thời đúng
tiết
- Mong
nhờ đại chúng từ bi
-
Trợ lực niệm chú gia
trì…"
-
Phàm gặp họa sâu hại
lúa, là việc gấp như lửa cháy. Trong đại tạng không có Kinh tụng trừ
họa sâu ăn lúa. Cổ đức chỉ có nghi thức cầu trời: tại phòng khách
chúng bạch Ngài Phương Trượng cho ý kiến xong, kế đến viết giấy đề
di hoàng (họa sâu ăn hại lúa). Tờ giấy này dán nơi cửa chùa và tại
phòng khách, cũng ghi rõ vào ngày…tháng…năm…có lễ tụng kinh trừ họa
sâu lúa, tụng Kinh Kim Quang Minh từ ngày… đến ngày… Sắm năm
loại trái cây, hương hoa cúng thiên, lễ sám Kinh Kim Quang
Minh vài ngày cầu nguyện trừ sâu, trong năm thạnh phát, nhân dân
an cư lạc nghiệp; đọc nêu danh các Thầy ra như sau (muốn biết thêm
nghi tiết, cần xem phần sau, Chương Trụ Trì phần niệm tụng có nói rõ).
Đây chỉ ghi lòng sớ:
-
- "Nay tại nước… tỉnh…phủ…huyện…chùa…
Trụ trì hoặc quan chức đứng cúng hay người làng hoặc người chủ chốt
theo đó biên tên họ đầy đủ. Ngày hôm nay cúi đầu niệm hương đảnh lễ
Kim Quang Hội chủ năng nhân Từ Tôn, trên hội quang minh, chư vị
thiên, phạm vương, đế thích bốn vua, thiên long tám bộ, chư thần
binh khí, thánh chúng các ty mời vào bảo tòa an tọa. Cung kính tỏ
bày khẩn niệm sâu bọ tác yêu gây tai ác đáng lo để lại nghiệt ngã
trong đời e xâm hại thành nạn. Không do công lực thần trừ khử, dù
tận nhơn lực nhưng vẫn lỗi lầm. Do vậy, tháng… ngày… này xin phát
lòng thành lập đàn trừ sâu phá lúa bảo vệ mùa màng".
-
Mỗi ngày cử chư tăng
tụng Kinh Kim Quang Minh và 5 thứ trái cây cúng thiên,
lễ sám Kinh Kim Quang Minh.
-
Lại nguyện:
- - "Nguyện
đem công đức này làm tiêu dứt nạn trùng, tưới rãi gió mưa quét sạch
các thứ không còn sót lại gì, chảy vào sông ngòi, theo nghiệp mà đi
làm cho dân chúng an cư lạc nghiệp, vạn vật sanh trưởng. Chúng con
không mong gì hơn khẩn thiết lòng thành mong mỏi. Ngày…tháng…năm,
tên Thầy Trụ Trì, tên vị quan chức.. 9 lần trình thưa".
-
Sớ phải viết trước,
ngày đầu tiên đốt một lá; còn một lá để giữa đàn tràng mỗi ngày
tuyên đọc cho đến khi hết sâu mới dứt; tụng hồi hướng, phục nguyện
xong đem đốt. Sau khi đọc sớ xong liền cử bài tán:
-
- "Gìn mạ giữ lúa,
- Chư vị
tôn thần,
-
Trừ sạch sâu bọ,
- Thỏa
mãn sanh dân,
-
Ruộng lúa đầy đồng,
- Mùa mới
đơm bông,
-
Xin đáp tạ thâm ân".
- Nam
Mô Tiêu Tai Chướng Bồ Tát (3 lần).
-
Ngoài nghi cúng trên
đều theo nghi phổ thông đến khi sâu bọ dứt là hồi hướng. Sách khác,
giữ hội mạ xanh cũng bao hàm như phần này.
-
Chứng nghĩa ghi rằng:
- Sâu bọ
phá hại lúa mạ là thiên tai. Xưa qui định tụng Kinh Kim Quang Minh,
lễ sám Kim Quang Minh, hiến cúng chư thiên chóng được cảm ứng.
-
Y cứ theo Kinh Kim
Quang Minh quyển 2 phẩm Tứ Thiên Vương ghi rằng, Kinh này hay
soi sáng cung điện chư thiên, là Kinh mà làm cho chúng sanh an lạc;
cho chí có thể trừ thiếu thốn, đói khát v.v.. Ngoài ra, phẩm công
đức thiên ghi rằng, do nhân duyên làm tăng thêm địa vị nên các địa
thần, chư thiên thảy đều hoan hỷ đem gieo giống lúa thóc mầm mộng lá,
bông hạt đều tươi tốt v.v... Phẩm Kiên Lao Địa Thần Kinh Địa
Tạng ghi rằng, vì thế cho nên trong Châu Diêm Phù Đề, mọi cây
cối, cỏ thuốc, nhánh lá gốc cành, hoa quả tuơi tốt, đẹp đẻ, thơm
tho, thảy đều đầy đủ v.v… Phẩm Quỉ Thần ghi rằng, đây do lực
Kinh nầy nên làm cho chư thiên hoan hỷ, trăm thứ hạt kết trái thảy
đều tươi tốt v.v.. Y cứ đây có thể thấy Kinh này đích thật có thể
trừ sâu phá lúa mạ; làm cho mùa màng thêm phong phú tốt đẹp. Cần
phải hợp lực làm cho Kinh phổ biến lưu thông rộng khắp để mọi nơi
thường trì tụng không ngừng thì thiên hạ thái bình, tội diệt, phước
tăng. Không có lỗi đối với Kinh này cho nên đời Đường các nhà dịch
kinh gọi là Tối Thắng Vương Kinh. Rất tiếc ngoài phần thủy
lục ra, sách ít thấy nghe hoặc nơi sơn giả hoang địa đều không có
Kinh này. Có thể xem trong Thiền Môn Nhựt Tụng có nghi
cúng Tề Thiên - từ dao thiên ngọc lộ - khởi, đến tán Phật quảng đại
từ bi rồi ngừng dứt. Tụng hết quyển càng tốt, chỉ cần đổi lại nhứt
tâm phụng thỉnh thay vì nhứt tâm đảnh lễ mà thôi.
-
Kinh Kim Quang Minh
cảm ứng ký ghi rằng, đời Tống có vị tăng tên Tùng Lễ, người Nương
Dương, cư ngụ ở Tinh Xá Bình Điền tại Đài Châu; người cẩn trọng ít
nói, vui buồn không lộ ra sắc mặt; sống giản dị chân thành, giữ giới
thanh tịnh. Đời Lương niên hiệu Càng Hóa mùa hạ nắng hạn, dân chúng
mời Ngài tụng Kinh Kim Quang Minh cầu mưa; Kinh tụng cảm tới
cõi thiên trời mưa luôn 3 ngày. Lúc bấy giờ Tiền Võ Túc Vương nghe
danh triệu mời vào cung, lập đạo tràng lễ sám Kim Quang
Minh v.v.. Căn cứ theo đó, tụng kinh đã làm cho trời mưa và hẳn
cũng hay trừ sâu làm hại lúa vậy. Song, người chủ trì ắt phải bậc
cao tăng, đức độ mới dễ đạt sự cảm ứng; không phải tư cách của bọn
tầm thường mà làm được. Nếu như thành tâm tụng Chú Đại Bi
thay thế cũng được, vì tất cả chú trọng ở mong cầu. Nếu kết quả
không như ý là do không vì tâm đại bi Đà La Ni vậy. Chỉ cần giữ tâm
chân thật cần cầu mọi việc gì cũng đều cảm ứng cả.
-
Phàm gặp sự hoang mang
hay đang ở chỗ tuyệt lương thực, hoặc đang tạo lập, hoặc sửa chữa
v.v.. Duy Na và Giám Tự bạch Trụ Trì cho biết ngày giờ hành lễ.
Ngoài thỉnh hóa chủ thông báo cho tín đồ biết, trong viết thông báo
dán nơi phòng khách. Thông báo cho biết rõ ngày…tháng…năm…Tới ngày,
nghe chuông, chư tăng đắp y tập trung tại chánh điện hoặc điện thờ
Vi Đà, tụng Thiện Thiên Nữ chú kỳ nguyện Vi Đà. Phải viết 2
lá sớ ghi rõ làm việc gì, lời phải thích hợp. Một lá tuyên đọc xong
rồi đốt để báo đến Thánh minh, một lá cúng xong hẳn đốt; mỗi lần
tụng kinh có đọc sớ. Mỗi ngày 2 buổi hoặc thúc bảng hay gióng chuông
3 hồi lại 4 tiếng để nhóm chúng tham gia khóa tụng. Đại chúng mời
Thầy Trụ Trì niệm hương xong cắm lên lư. Duy Na cử tán lư hương…Cuối
bài đọc:
-
- "Nam Mô Hộ Pháp Vi
Đà Tôn Thiên Bồ Tát" (3 lần), nên thủ mõ lớn - Tán xong tụng
Thiện Thiên Nữ chú, vừa đi nhiễu điện hoặc đi nhiễu quanh bàn
thờ Vi Đà vừa đọc chú 108 biến. Tối thiểu cũng đọc cho được
49 biến, tới lần cuối thỉnh 3 tiếng chuông cho đại chúng ngừng tụng.
Đứng chỉnh tề, Thầy Trụ Trì niệm hương, xong, Duy Na cử bài tán:
-
- "Vi Đà thiên tướng,
Bồ Tát hóa thân,
- Ủng hộ
Phật Pháp phát nguyện rộng sâu,
-
Tay cầm thanh kiếm trấn
áp ma quân,
-
Công đức vô biên thật
khó nghĩ bàn".
-
Nam Mô Phổ Nhãn Bồ Tát
Ma Ha Tát (3
lần).
-
Tán xong, đại chúng lạy
3 lạy rồi lui về chỗ. Mỗi ngày 6 thời, khởi sự, chấm dứt như trên.
Nếu việc gấp, ngày đêm 2 thời nên luân phiên nhau tụng phải thành
tâm để cầu nguyện. Đúng theo nghi thông thường cho đến ngày viên mãn,
hồi hướng, đốt sớ, tạ thần Hộ Pháp.
-
Phụ:
-
- Ngoài ra, quyên góp
thứ khác ngoài gạo, tùy theo đó sửa đổi lời lẽ trong văn sớ. Như
dưới đây:
-
- “Từng nghe tên chùa…,
tên vị thầy chủ sám, từ khi tiếp nối cho đến nay đã trải qua năm
tháng. Nay trụ cột tuy vững, tăng chúng rất đông, không thiếu thốn
lương thực. Sớm trưa chớ trông đợi, đang gặp hồi kém khó, cơm Hương
Tích khó khắc phục. Suối ngọt, trái rừng không đủ chửa lành cơn đói.
Kho trống, bếp lạnh làm sao được no bụng đây? Đã không có cách dự
trù chỉ còn kế nhờ vào sự ủng hộ của đàn việt”.
-
Lại nguyện:
-
- "Người có lòng nhân
trưởng giả, bố thí ra công giúp đỡ, thật là phước đức vô lượng. Hoặc
thí đậu, lúa, nấu ba bát cháo, hoặc cho rang gạo đưa tới mùi vị lục
hòa, một hộc, trăm hộc tùy lực, tùy duyên mà vui thí; ngàn thăng,
vạn đấu, do tâm hoan hỷ để quyên góp vào. Một lời, một việc đều có
công đức; hoặc quyên góp hay khuyến khích người đóng góp…đều là nhân
lành. Dựa vào chén cơm để kết duyên vui hưởng thiền duyệt (vị thiền).
Tặng ít mầm mà đăng sổ thiện, phước không thể lường hết. Từ đây tăng
chúng cần tu, sớm tối tụng kinh cầu nguyện. Chư Phật Thánh thần mật
thùy gia hộ, quyết định được an lành, nên sớm vâng hành. Kéo dài huệ
mạng của một ngôi chùa đâu hư tâm lực. Vì Tam Bảo làm lợi ích
thấm nhuần, thần xin khải bạch".
-
Nếu như gặp việc kiến
tạo, sửa sang…vào ngày hoàn mãn đều nên cúng kiến bẩm bạch Vi Đà
Tôn Thiên để đáp đền ân hộ pháp của Ngài.
-
Chứng nghĩa ghi rằng:
-
Việc cầu nguyện này
thuộc về cổ tục. Bởi vì, người xưa lấy đạo đức tu hành làm việc nhà,
chốn tòng lâm hoàn toàn không việc đi tụng kinh bái sám. Nhu cầu của
đại chúng như y phục, ẩm thực hoàn toàn nhờ Vi Đà thiên gia hộ. Ngài
cảm hóa 10 phương, chỉ người tu hành hẳn không hề chết đói. Muốn
thoát nạn gấp chỉ thành tâm cầu nguyện Vi Đà tướng đen gia hộ,
theo việc không miễn cưỡng được tùy duyên. Nay đa phần người ngu mạo
tăng đi hóa duyên (quyên góp) để bưng bít mờ mịt cốt dung dưỡng cái
xác thân. Như cây giữa rừng như dao kề ngọn, như trùng đục khoét,
hoặc 4 phía bị đóng đinh, đinh đóng chặt 7 ngày hay tạm thời giây
lát, bó cột dính lại với nhau cho người ta thấy; hoặc đào đất làm
huyệt chôn ngược đầu xuống, 2 chân chổng lên trời. Có người chôn sấp
lưng đến nổi phù lên màu xanh rồi dùng kiềm siết chặt lại. Bó mồm
miệng người ấy lại chỉ có uống nước gạo mà không thể ăn ngũ cốc được.
Hai chân đứng vắt qua lạy Kinh, khiến người ta trông thấy hoảng sợ;
hoặc lôi khối sắt hoặc kéo thuyền nhỏ nặng 110 cân. Tu khổ hạnh như
thế là làm điều kỳ dị dối người, mê hoặc chúng. Có nhiều hạng không
phải một. Không tham cũng ngu, thật đáng thương xót. Trong tòng lâm
chúng ta quyết định dứt khoát không làm những việc mị chúng như thế
mà chỉ giữ gìn Thanh Quy cẩn thận, nương giáo pháp tu hành, Vi Đà
thiên chắc không phụ các người đâu.
-
Ngày mồng 3 tháng 6 hay
ngày 13 chưa xác định chắc là
ngày sanh của Vi Đà Thiên.
-
Dùng cháo điểm tâm sáng
xong, thông báo tại trai đường, phòng khách. Thông báo đề: “Hôm nay
ngày… tháng…năm…nhằm ngày Khánh Đản (sanh) của Vi Đà Tôn Thiên”.
-
Đại chúng khi nghe hiệu
lệnh vân tập chánh điện hay điện thờ Vi Đà cúng ngọ theo nghi
thức trong Thiền Môn Nhựt Tụng (nên ở đây không ghi
phần này). Chỉ có lời cẩn bạch khác như sau: “Trộm nghe rằng:
-
Ba Châu cảm cách Hộ
Pháp thần
-
Vi Đà thiên Bồ Tát hóa
thân
-
Hành Phật sự nhiếp hóa
-
Đức hàm dung cả thiên
nhân
-
Trên cao nghe thấu
-
Tăng tục cảm ứng ân cần
-
Thiện ác rõ phân
-
Mở lòng thương trí vận
-
Bồ Tát phương tiện từ
tâm
-
Chứng pháp vô vi thâm
diệu
-
Công đức siêu vượt thế
trần
-
Nghĩ đời mạt pháp,
-
Tăng chúng phuớc căn
cạn dần
-
Đạo lực suy vi, tập
theo thói nhiễm
-
Đức Vi Đà Tôn Thiên gia
ân
-
Cảm ngoại ma không quấy
nhiễu
-
Đón mừng ngày Khánh hỷ
-
Đặc dâng cúng rau vi".
-
Lại nguyện:
-
- "Vua tôi được phước,
thiên hạ an hòa
-
Biển lặng trời thanh
-
Đất nước thái bình
-
Nơi nơi gió hòa mưa
thuận đẹp xinh
-
Phật đạo huy hoàng
-
Giáo pháp nhịp nhàng
chuyển vận
-
Tòng lâm an khang
-
Chùa hưng thánh hiền
tăng đa dạng
-
Đức chúng rộng dung hòa
ái
-
Bậc long tượng triển
khai pháp mầu
-
Thí chủ đàn na vui thỏa
-
Đạo lữ thảy nhuần ân
-
Phàm có niệm mong cầu
-
Được như ý thành tâm".
-
Chứng nghĩa ghi rằng:
-
Lễ Vía Vi Đà
chỉ tụng Kinh Kim Quang Minh và niệm Chư Thiên. Truyện
tích chỉ biết tên nhưng chưa ai rõ cốt chuyện, nên hoặc cho rằng
Ngài là Mật Tích lực sĩ hoặc là Phật Lâu Chí…
-
Căn cứ các Kinh như
Đại Quán Đảnh ở Tây Vức (Ấn Độ) thần Già Lam có 18 vị. Ở Đông độ
(Trung Quốc) có nhiều vị như Hoa Quang, Quan Đế (Công), Long vương
v.v... Hoa Quang sanh nhựt hoặc ngày 28 tháng 9 âm lịch, sanh nhựt
Long vương không thấy chép. Quan Đế thánh đản thông thường người Tàu
lấy ngày 13 tháng 5 âm lịch dựa theo tích truyện đời Minh
(1368-1661) niên hiệu Khương Hy năm thứ 9 tại tỉnh Quảng Đông, các
nhà hội quán đồng lập một tòa miếu thờ Quan Thánh. Tuy nhiên,
theo tích truyện y sanh Trần Diệu do đức Quan Thánh hiển linh về
mách bảo, Ngài sanh tháng 7 chứ không phải tháng 5 như mọi người tin
nghĩ. Thánh Hoa Quang, Long vương thánh tích không ghi rõ ngày sanh.
Chỉ có Quan Đế hiển thánh ở núi Ngọc Tuyền hoặc hiện thân tại Chùa
Hoàng Mai v.v…nay không có nơi nào hiển linh nữa. Vì thế, tại tăng
viện giới tăng già mới tôn Ngài là thần hộ pháp chốn già lam mà ngày
sanh nhựt như trên đã nêu. Nghi cúng giống như Lễ Vía Vi Đà thiên.
Chỉ có lời khác như:
-
- "Ngưỡng mong đại đế
phò trợ thánh giáo
-
Của Tam Bảo khí sắc
luôn vẫn mới
-
Xin thuận phàm tình,
dẫn sanh linh nương cậy
-
Bẩm thần oai linh hiển
-
Trấn các phương hoạnh
yểu nơi nao
-
Tâm chánh trực thông
minh
-
Hết thảy ác tà thanh
tảo
-
Là nhờ ân pháp vương
gia hộ
-
Hằng thường theo hộ
điện vàng
-
Thiên Đế giáng chỉ bảo
an
-
Đây ngày thánh đản hân
hoan
-
Vô cùng sạch đẹp mát
trong
-
Cung hiến hương trầm
-
Ngưỡng mong chứng giám
-
Từ đây bờ giác dự phần
-
Dứt trừ oan trái lần
khân
-
Vâng nhờ uy đức độ dần
chúng sanh
-
Rõ soi trong ngoài tăng
tục".
-
Văn này trước kia chỉ
dùng cho Quan Đế, nếu bạch chung ở già lam nên dùng lời như sau:
-
- "Cung kính nghe rằng
Già Lam Thánh Bồ Tát
-
Đèn trí soi ba cõi sáng
tỏa mười phương
-
Lấy già lam tựa nương
hộ trì Phật Pháp
-
Làm thành lũy giúp sức
bậc pháp vương
-
Khắp chốn phân thân
-
Chở che chúng tăng
-
Trông nom việc Phật".
-
Ghi tên họ người cúng
vào đây…, tên vị Trụ Trì…
-
-
"Thân nương nhờ ngôi già lam
-
Theo cội gốc để trở về
-
Mong gặp ngày tốt sanh
-
Thiết cúng niệm tâm
thành".
-
Lại nguyện:
-
- "Không quên Phật di
chúc
-
Có mặt khắp đạo tràng
-
Chánh pháp giúp xiển
dương
-
Lối ma sạch thênh thang
-
Mông ân gia hộ đàn na
-
Gia đình mọi thành viên
an hảo
-
Chúng đức hộ đạo quyền
uy
-
Đường giác rộng hanh
thông
-
Đạo tràng lập khắp chốn
-
Chấn chỉnh tông phong
-
Vĩnh viễn dài lâu
-
Tăng chúng hòa hài
-
Thành tựu đạo quả mãi
về sau…"
-
Chứng nghĩa rằng:
-
Ở Ấn Độ có 18 Vị Già
Lam xuất phát từ Kinh Thất Phật như:
-
1- Mỹ Âm
-
2- Phạm Âm
-
3- Thiên Cổ
-
4- Thán Diệu
-
5- Thán Mỹ
-
6- Ma Diệu
-
7- Lôi Âm
-
8- Sư Tử
-
9- Diệu Thán
-
10- Phạm Hưởng
-
11- Nhơn Âm
-
12- Phật Diệu
-
13- Thán Đức
-
14- Quảng Mục
-
15- Diệu Nhãn
-
16- Triệt Thính
-
17- Triệt Thị
-
18- Biến Thị
-
Các Thần già Lam
Đông độ tùy cơ duyên không nhất định hoặc chỉ một như Hoa
Quang hay Quan Đế; 3 hoặc 5 mà danh tánh được định như
lúc mới khai sơn. Ngày nay nhiều người tin Quan Thánh và
Vi Đà nổi bật hơn cả, nhân vì sự linh ứng của các Ngài vậy. Bài
tán ca tụng rằng:
-
- "Quan Thánh Đại Đế
-
Oai thần rộng khắp
-
Thệ nguyện thâm sâu
-
Hộ pháp hết lòng lo".
-
Ngày 24 tháng 6, mồng 3
tháng 8, 23 hoặc 24 tháng 12
âm lịch là lễ cúng.
-
Viết thông tư dán ở
trai đường giờ điểm tâm sáng như sau: hôm nay nhân ngày lễ táo quân
có diên (nghi) cúng ngọ. Khi nghe hiệu lệnh, đại chúng vân tập trước
điện Giám Trai để cúng. Nhà bếp đốt nhang đèn; lập bàn thờ trước
tượng Giám Trai, thiết đèn nến, hoa quả, cơm cúng đầy đủ. Mọi người
chỉnh tề, đốt nhang niệm hương, lễ Phật xong, Duy Na bắt bài tán Lư
Hương đến hết, nghi giống nghi cúng Vi Đà. Chỉ lúc cúng ngọ, thầy
Giám Viện dâng hương, hiến trà lễ lạy, đọc tới phần chú phổ cúng
dường xong, đến lượt Duy Na niệm hương lễ 2 lạy tiến tới trước quỳ
gối chấp tay đọc lời này:
-
- "Cung kính nghe rằng
Giám Trai đại sĩ
-
Ngài là bậc vô cùng đại
trí
-
Ứng hiện thần diệu tùy
nghi
-
Xôi nếp cúng đầy công
niệm nghĩ
-
Một hạt biến thành núi
Tu Di
-
Không thấy tướng ẩn
khuất trong mây
-
Thân to lớn hiện nhiều
cõi đó đây
-
Hộ pháp an tăng hưng
hiển
-
Việc Phật quyền phương
tiện
-
Ngưỡng mong uy đức
-
Chứng pháp trai diên".
-
Lại nguyện:
-
- "Nhờ thần minh nguyện
lực
-
Chứng lòng thành thực
kính dâng
-
Tùy cơ duyên cảm hóa
thân
-
Hiện có thân nhưng
không sắc tướng
-
Hiển hóa khôn lường
-
Hiện thân ăn uống mà
trợ pháp luân
-
Khiến bày bếp núc nhưng
tu chứng
-
Độ khắp quần mông (quần
sanh)
-
Khiến tiếp mùi biết
quay về
-
Mong ủng hộ già lam an
tịnh
-
Tăng chúng đều tinh tấn
tu hành
-
Thấm nhuần pháp lạc
-
Chốn chốn vững tông
phong".
-
Xá một xá rồi đại chúng
cùng lui về liêu nghỉ.
-
Chứng nghĩa ghi rằng:
-
Cúng bếp (ông táo) tuy
giống, nhưng tăng, tục tin có hơi khác nhau. Vị Giám Trai nơi
Phật môn là Đại Thánh, sự tích giống Chư Thiên, nên
cúng vào buổi sáng sớm, bởi vì Chư Thiên thọ thực buổi sáng.
-
Ngày nay qui định cúng
vào giờ ngọ cũng được vậy. Gần đây giới tăng sĩ cúng buổi chiều như
thế gian so với giờ ăn của quỉ, là không đúng, là cúng phi thời,
thần không thọ hưởng được; lại thêm phí phạm vô ích.
-
Ngoài ra, báo huyện Hà
Nam cho rằng, từ Đường khởi đầu ở chùa Thiếu Lâm có một vị tăng đầu
bù lưng đeo bầu rượu đi chân trần, chỉ mặc áo che ngực, làm việc ở
nhà trù rất chăm chỉ trong một thời gian dài không có pháp danh. Đến
năm lên 11 tuổi, giặc khăn đỏ nổi lên ở Hiệt Châu, lệnh động viên
đến chư tăng Thiếu Lâm nếu ai muốn thi hành nghĩa vụ. Vị tăng này
bèn cầm một hỏa côn ra đi biến thân cao lớn 10 trượng phi lên đứng
trên chóp núi. Giặc thấy thế khiếp sợ, vị tăng hô lớn nói:
-
- “Ta là Vua Khẩn Na
La”.
-
Nói xong, bèn biến mất.
Dân chúng mới biết là Bồ Tát hóa thân, tạc tượng để tại chùa
Thiếu Lâm thờ, bèn trở thành thần Già Lam. Giới tăng già khắp
nơi cho vị này là Giám Trai nên nặn tượng thờ cúng ở nhà trù.
-
Hết quyển hai.