-
QUYỂN
NĂM
-
-
Trụ Trì
-
(Tiếp
Theo)
-
---o0o---
-
5.23 Cúng La Hán
- Tiếp
đãi trai chủ giống như cúng trai phạn tăng, dự định ngày viết thông
báo dán tại thiền đường phòng khách. Thông báo rằng:
- - “Ngày
mai sau khi điểm tâm sáng, đại chúng chuẩn bị cúng La Hán, ban hương
đăng coi sóc trên chánh điện, 10 thầy cúng ngọ liệt danh sách như
sau: Đại Đức A, B, C, …"
- Chuẩn
bị nhang đèn, chân đèn, lư hương, chén bát, đũa muổng, tách trà, cơm
nước, bánh trái… lo cho hơn 500 người dự. Người phụ trách trai soạn
sắp xếp các Ban nấu nướng, để cung cấp 500 phần ăn. Ngày hôm sau 5
vị phụ trách hương đăng tới nhà kho lấy nước, lấy chén, đèn nhỏ 500
cây, chân đèn 250 đôi, lư hương. Mỗi người coi sóc 100 vị La Hán,
trước mỗi vị đặt một tách trà, một đôi đũa, một dĩa quả, một cây đèn.
Lư hương 2 vị chung một lư. Nước trà, cơm, bông trái, đèn đặt cúng
quanh tượng, rồi mới lên nhang đèn; kế pha trà, hiến thức ăn. Lại
mặt tiền chính giữa thiền đường, đặt một bàn vuông lớn, 2 chiếc bàn
nhỏ có thể để 16 vị La Hán. Chưng bông trái, nhang đèn, thức ăn đầy
đủ. Mỗi vị có một bài vị, một tách trà, một đôi đũa, một chén cơm. Ở
phía mặt tiền để chừa ra 3 mét, đặt 3 chiếc bàn dài trên để bì sớ 13
vị nhìn trên dưới, chính giữa; cũng đặt hương đèn và cúng 10 bộ La
Hán, mỗi bộ dùng kinh che kín, 10 cái thủ lư đều chuẩn bị sẵn. Tới
giờ cúng, vị Tri khách mời 10 Thầy cúng ngọ đắp y hậu tới chỗ thờ A
La Hán, kế mời trai chủ niệm hương. Các Thầy đảnh lễ Tam Bảo.
Trai chủ lần lượt đến bàn giữa niệm hương, rồi các bàn khác cũng vậy.
Duy Na cử tán:
-
- "Lư hương
vừa ngún, cõi pháp được xông
- Khói
trầm ngào ngạt một lòng kính dâng
- Khắp
hòa vũ trụ xa gần
- Hoa sen
rực rỡ đơm bông cúng dường
- Chư
Phật, Bồ Tát giáng phàm
- Hiện
hình La Hán trên vòm Thiên Thai
- Vào đời
thọ cúng hôm mai…"
- Nam
Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát.
- Duy Na
xướng: (Tất cả cung kính, Chúng cầm hương xướng hoà):
- "Chí
tâm đảnh lễ Thập Phương Pháp Giới Thường Trụ Tam Bảo”.
- Duy Na
nhập khánh đọc:
- Lại
nguyện:
- - "Người
chia thành phương tiện từ Gia Hạnh đến vị Đình Tâm, vị như 4 sa môn,
do vô học cầu nơi kiến đạo, đó đều biết khổ, đoạn tập, thọ đạo tạo
nhân là gốc quyền của tích pháp, hội ngộ lý KHÔNG của con người. Đến
như chứng bực Biện địa, vào Đại Thừa môn, chỗ học họ đồng Bát Nhã.
Vì thế cùng với Bồ Tát trong giữ kỹ hạnh mật, ngoài nghe âm thanh
Phật đạo, đều được gọi là thánh hiền tăng, nên đáng thọ của nhân
thiên cúng. Chỉ mong sao kham thọ
Phật phó chúc, ở phương này đủ duyên làm hưng long giáo pháp, đáng
cho phàm tình nhận đàn na cúng dường hôm nay. Tuệ chiếu hồi tinh mật,
bao bọc bởi lòng thương, cứu khắp chốn mê tình đưa lên miền Cực
Lạc".
-
Đại
chúng đọc hòa theo:
- - "Cho
nên con nhất tâm kiền thành phụng thỉnh."
- Tất cả
đồng lạy 1 lạy:
- - Nhất
tâm phụng thỉnh Tận Hư Không Biến Pháp Giới Thập Phương Thường Trú
Chư Phật, Pháp, Tăng.
- - Nhất
tâm phụng thỉnh Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật
- - Nhất
tâm phụng thỉnh Tận Hư Không Biến Pháp Giới Thập Phương Thường Trụ
Chư Thanh Văn Tăng cùng chư quyến thuộc
- Từ đây
trở xuống 9 lạy mỗi lạy đều xướng:
- - "Nhất
tâm phụng thỉnh", và phần cuối thêm "Cùng chư quyến thuộc." ...Thường
tùy tùng theo Phật, 1250 đại A La Hán, Lộc Uyển trước độ 5 vị tỳ
kheo, sau cùng độ Tu Bạt Đà La các vị A La Hán… Đại đệ tử Thế Tôn Ca
Diếp, A Nan Đà cùng 10 đại đệ tử… nghe pháp tại Linh Sơn chúng đại
tỳ kheo một vạn 2 nghìn đại A La Hán… tại hội Linh Sơn được thọ ký
học, vô học chư đại Thanh Văn chúng… Năm thời nghe pháp học, vô học
các vị chúng đại Thanh Văn… sau khi Thế Tôn tịch diệt kết tập 3 tạng
A Nan Đà và chư vị A La Hán… Hiện thế 16 vị đại A La Hán, 16,900
chúng đệ tử cùng các quyến thuộc. Trú xã…huyện… tỉnh… tên chùa… hiện
tại 500 vị A La Hán cùng các quyến thuộc".
- Lại
nguyện:
- - "Không
trái bổn thệ, thương xót hữu tình, giờ này hôm nay quang lâm đạo
tràng, chứng minh công đức".
- Thỉnh
xong, xá một xá. (Trong lúc thỉnh, Duy Na nghĩ tất cả A La Hán đều
dùng thiên nhãn soi sáng, thiên nhỉ thấy nghe, tha tâm biết được,
oai nghi nghiêm túc từ hư không mà đến đây).
- Ngoài
ra, bốn mặt thêm huệ cho đầy đủ thông giáo hai vị, như trên biệt
xuất 10 vị nhưng không cần thêm. Thỉnh xong xướng kệ tán thán:
-
- "Lần đầu
độ 5 người thành Tăng Bảo
- Cao Đệ
Đức Thế Tôn đạo ẩm quang
- Linh
Sơn một hội thật huy hoàng
- Chúng
vô học một vạn 2 nghìn
- Tu Bạt
Đà La độ sau cùng
- Năm
thời nghe pháp số chúng đông
- Hàng
Thanh Văn Niết Bàn chứng thông
- Ba tạng
lưu truyền nhờ công kết tập
- Mười
sáu vị chân nhân
được phó chúc
- Đời vị
lai làm bực phước điền sư
- Là
thường trụ thánh hiền tăng mười
phương
- Đều
được tôn phụng cúng dường nơi đây".
- Tán
xong, Duyệt chúng gõ mõ nhỏ đại chúng cùng đọc:
- -
"Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật".
- Chư
tăng, thí chủ đều hướng về Phật điện từ từ bước tới tiến về phía bàn
thờ La Hán đi kinh hành một vòng. Xong, đứng tại chỗ ngưng niệm Phật.
Đại chúng quỳ và cùng đọc:
- -
Nam Mô Thường Trụ Phật, Pháp, Tăng,
- -
Nam Mô Bồn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
- -
Nam Mô Khắp Hư Không Biến Pháp Giới, 10 phương Thường Trú Chư Thanh
Văn Tăng,
- -
Nam Mô Thường Tùy Theo Phật 1250 Vị Đại A La Hán,
-
- Kính lễ Lộc Uyển Trước Phật độ 5 tỳ kheo, sau cùng độ Tu Bạt Đà La
các bậc A La Hán,.
- - Kính
lễ Hàng Cao Đệ Đức Thế Tôn Đại Ca Diếp, A Nan v.v.. Đại A La Hán,
- - Kính
lễ Chúng Đại Tỳ Kheo nghe pháp tại hội Linh Sơn một vạn 2 nghìn Đại
A La Hán
- - Kính
lễ các Đại Thanh Văn được thọ ký học, vô học tại hội Linh Sơn
- - Kính
lễ Chúng Đại Thanh Văn đạt học, vô học nghe 5 thời thuyết giáo
- - Kính
lễ A Nan Tôn Giả, chư vị A La Hán kết tập 3 tạng sau Phật diệt độ
- - Kính
lễ Lịch Đại Tổ Sư, chư vị A La Hán trong thời chánh pháp, tượng pháp
sau Phật diệt độ
- - Kính
lễ 16 vị Đại A La Hán cùng 16,900 đệ tử A La Hán
- - Kính
lễ Hiện Trụ 500 vị Đại A La Hán đang thờ tại Bổn Tự.
- Lạy
xong, tiếp theo đọc Chú Biến Thực (21 lần), Chú Cam
Lồ (7 lần), Phổ Cúng Dường (7 lần), rồi tiếp:
- -
"Nam Mô Thập Phương Thường Trú Tam Bảo." (3 lần).
- Duy Na
quỳ đọc sớ như sau:
- - "Lại
nghe rằng: Tại rừng chiên đàn mùi thơm phảng phất, nơi hang sư tử
đều nghe tiếng gầm vang dội. Dám mong thành khẩn ngưỡng Đức Từ Bi.
Nay tại Úc Đại Lợi, Sydney thành phố, chùa… phụng Phật thiết lễ cúng
dường La Hán, mong ân gia hộ đệ tử… pháp danh… tuổi, đầu
thành đảnh lễ nhất tâm thượng kính; trung thiên chí thánh Mâu Ni
Thế Tôn thường tùy Thánh chúng các vị Đại A La Hán trên
đài Kim Liên chứng giám cho lòng thành tỏ bày của chúng con".
- Lại
nghĩ:
- - "Trí
siêu vô lậu, đạo hợp chân không, thần thông thông tỏ trong thoáng
chốc ở thiên thượng nhân gian. Bí hiện u thâm, quên hết nổi ưu lo
Thanh Văn, Đại thừa; phấn khởi gặp được thắng duyên thấy thánh tướng
nơi điện tiền, dâng khiết hương bày tỏ, nghinh phan báu mà cúng phó,
mong dũ soi huệ nhãn, doãn nạp tấc lòng thành. Do vậy, nhân nay ngày…
tháng… năm… đệ tử cung kính đến chùa… thực tỏ lòng thanh tịnh, nương
nhờ đức chúng trai giới nghiêm minh thật tu thiền tịnh. Trên cúng
Phật, Pháp, Tăng thường trụ Tam Bảo tại bảo điện bổn tự cúng
500 La Hán hóa thân đại sĩ, các bậc tôn giả Thánh hiền,
với chút hương hoa này cúng dường cùng khắp tất cả".
- Lại
nguyện:
- - "Pháp
môn nổi bật đèn Tổ thêm rạng soi; đàn na tịnh lạc, hải chúng an hòa,
mong thương phàm tình toàn nương nhờ từ lực. Chí thành dâng sớ, cung
kính thỉnh Tam Bảo chứng minh, cúng dường La Hán. Ngày…
tháng… năm…"
- Đọc sớ
xong, tán rằng:
-
- "Phước đức
cúng dường,
- Hạnh cả
mênh mông;
- Trong
mật ngoài hiển
- Mãi mãi
lưu phương.
- Thay
Phật rộng tuyên dương,
- Thọ
lịnh khó quên;
- Vào đời
làm chiếc thuyền nang".
- Nam
Mô Chư Đại A La Hán Tôn Giả
- Đại
chúng về chỗ của mình. Tri Khách mời trai chủ đến phòng khách dùng
trà. Chúng hương đăng thu dọn ngay đồ cúng đem xuống nhà trù để sửa
soạn cúng dường đại chúng. Những đồ vật khác cất vô kho chờ dịp cúng
khác. Hiến cúng đại chúng, ngoài nghi cúng xem thêm nghi thức cúng
trai phạn như trên. Sau khi điểm tâm sáng, 10 Thầy đã được phân
phiên lên chánh điện cúng ngọ; tới bàn thờ La Hán lễ A La Hán: Lễ
lạy La Hán chia nhiều thời, mỗi
thời 100 lạy từ số 1 tới số 12 như trên.
(Xem phần trước có đầy đủ).
- Kế:
-
Lạy 16
vị La Hán Hiện Thế.
- -
Chí thành đảnh lễ
Tân Đầu Lô Bạt La Đọa Xà Tôn Giả,
-
Sau mỗi vị
đều đọc "Chí thành đảnh lễ":
- - Ca
Nặc Ca Phạ Tha Tôn Giả,
- - Ca
Nặc Ca Bạt Triền Đọa Xà Tôn Giả,
- - Tô
Tần Tha Tôn Giả,
- -
Nặc Cự La Tôn Giả,
- -
Bạt Đà La Tôn Giả,
- - Ca
Lý Ca Tôn Giả,
- -
Phạt Xà La Phất Đa La Tôn Giả,
- -
Mậu Bác Ca Tôn Giả,
- -
Bán Thác Ca Tôn Giả,
- - La
Hổ La Tôn Giả,
- - Na
Già Bỉnh Na Tôn Giả,
- -
Nhân Kiệt Đà Tôn Giả,
- -
Phạt Na Bà Tư Tôn Giả,
- - A
Thị Đa Tôn Giả,
- -
Chú Trà Bán Thác Ca Tôn Giả,
-
Trăm
thứ nhất của 500 La Hán
-
1.
Chí tâm đảnh lễ A Nhã Kiều Trần Như Tôn Giả,
- Sau đây
mỗi vị mở đầu đều có "Chí tâm đảnh lễ" và "Tôn Giả" ở
cuối:
- 2.
A Nê Lâu,
- 3.
Hữu Hiền Vô Cấu,
- 4.
Tu Bạt Đà La,
- 5.
Ca Lưu Đà Di,
- 6.
Văn Thanh Đắc quả,
- 7.
Chiên Đàn Tạng Vương,
- 8.
Thí Tràng Vô Cấu,
- 9.
Kiều Phạm Bàn Đề,
- 10.
Nhân Xà Đắc Huệ,
- 11.
Ca Na Hành Na,
- 12.
Bà Tô Bàn Đậu,
- 13.
Pháp Giới Tứ Lạc,
- 14.
Ưu Lầu Tần Loa,
- 15.
Phật Đà Mật Đa,
- 16.
Na Đề Ca Diếp,
- 17.
Na La Diên Mục,
- 18.
Phật Đà Nan Đề,
- 19.
Mạt Điền Để Ca,
- 20.
Nan Đà Đa Hóa,
- 21.
Ưu Bà Cúc Đa,
- 22.
Tăng Ca Na Xá,
- 23.
Giáo Thuyết Thường Trụ,
- 24.
Thương Na Hòa Tu,
- 25.
Đạt Ma Ba La,
- 26.
Ca Na Ca Diếp,
- 27.
Định Quả Đắc Nghiệp,
- 28.
Trang Nghiêm Vô Ưu,
- 29.
Ức Thị Nhân Duyên,
- 30.
Ca Na Đề Bà,
- 31.
Phá Tà Thần Thông,
- 32.
Kiên Trì Tam Tự,
- 33.
A Niểu Lâu Đà,
- 34.
Cưu Ma La Đa,
- 35.
Độc Long Quy Y,
- 36.
Đồng Thanh Khể Thủ,
- 37.
Tì La Thị Tử,
- 38.
Phật Tô Mật Đa,
- 39.
Xà Đề Thư Na,
- 40.
Tăng Như Da Xá,
- 41.
Từ Mẫn Thế Gian,
- 42.
Hiến Hoa Đề Ký,
- 43.
Nhãn Quang Định Lực,
- 44.
Dà Da Xá Na,
- 45.
Sa Để Bí Sô,
- 46.
Bà Xà Đề Bà,
- 47.
Giải Không Vô Cấu,
- 48.
Phục Đà Mật Đa,
- 49.
Phú Na Dạ Xa,
- 50.
Ca Da Thiên Nhãn,
- 51.
Bất Trước Thế Gian,
- 52.
Giải Không Đệ Nhứt,
- 53.
La Độ Vô Tận,
- 54.
Kim Cang Phá Ma,
- 55.
Nguyện Hộ Thế Gian,
- 56.
Vô Ưu Thiền Định,
- 57.
Vô Tác Huệ Thiện,
- 58.
Thập Kiếp Huệ Thiện,
- 59.
Chiên Đàn Đắc Hương,
- 60.
Kim Sơn Giác Ý,
- 61.
Vô Nghiệp Tố Tịnh,
- 62.
Ma Ha Sát Lợi,
- 63.
Vô lượng Bổn Hạnh,
- 64.
Nhứt Niệm Giải Không,
- 65.
Quán Thân Vô Thường,
- 66.
Thiên Kiếp Bi Nguyện,
- 67.
Cù La Na Xá,
-
68. Giải Không Định Không,
- 69.
Thành Tựu Nhân Duyên,
- 70.
Kiên Thông Tinh Tấn,
- 71.
Tát Đà Ba Luân,
- 72.
Càng Đà Ha Lợi,
- 73.
Giải Không Tự Tại,
- 74.
Ma Ha Chú Na,
- 75.
Kiến Nhơn Phi Đằng,
- 76.
Bất Không Bất Hữu,
- 77.
Châu Lợi Bàn Đặc,
- 78.
Cù Sa Tỳ Kheo,
- 79.
Sư Tử Tỳ Kheo,
- 80.
Tu Hành Bất Trước,
- 81.
Tất Lăng Già Sai,
- 82.
Ma Lợi Bất Động,
- 83.
Tam Muội Cam Lộ,
- 84.
Giải Không Vô Danh,
- 85.
Thất Phật Nan Đề,
- 86.
Kim Cang Tinh Tấn,
- 87.
Phương Tiện Pháp Tạng,
- 88.
Quán Hành Luân Nguyệt,
- 89.
A Na Phần Đề.
- 90.
Phất Trần Tam MuộI,
- 91.
Ma Ha Cụ Di,
- 92.
Bích Chi Chuyển Trí,
- 93.
Sơn Đảnh Long Chúng,
- 94.
La Võng Tư Duy,
- 95.
Kiếp Tân Phú Tạng,
- 96.
Thần Thông Ức Đán,
- 97.
Cụ Thọ Câu Đề,
- 98.
Pháp Vương Bồ Đề,
- 99.
Pháp Tạng Vĩnh Kiếp,
- 100.
Thiện Vãng.
-
100 Vị
A La Hán trong số 500 xong.
-
101.
Chí tâm đảnh lễ Trừ Ưu Tôn Giả,
- Sau đây
mỗi vị mở đầu đều có "Chí tâm đảnh lễ" và "Tôn Giả" ở cuối:
- 102.
Đại Nhẫn,
- 103.
Vô Biên Tự Tại,
- 104.
Diệu Cù Nghiêm Độ,
- 105.
Kim Cát,
- 106.
Lôi Đức,
- 107.
Lôi Âm,
- 108.
Hương Tượng,
- 109.
Mã Đầu,
- 110.
Minh Thủ,
- 111.
Kim Thủ,
- 112.
Kính Thủ,
- 113.
Chúng Thủ,
- 114.
Biện Đức,
- 115.
Bình Đề,
- 116.
Ngộ Đạt,
- 117.
Pháp Tăng,
- 118.
Ly Cấu,
- 119.
Cảnh giới,
- 120.
Mã Thắng,
- 121.
Thiên Vương,
- 122.
Vô Thắng,
- 123.
Nguyệt Tịnh,
- 124.
Bất Động,
- 125.
Hưu Tức,
- 126.
Điều Đạt,
- 127.
Phổ Quang,
- 128.
Trí Tích,
- 129.
Bảo Tràng,
- 130.
Thiện Huệ,
- 131.
Thiện Nhãn,
- 132.
Bảo Dũng,
- 133.
Bảo Kiến,
- 134.
Huệ Tích,
- 135.
Huệ Trì,
- 136.
Bảo Thắng,
- 137.
Đạo Tiên,
- 138.
Đế Võng,
- 139.
Minh Võng,
- 140.
Bảo Quang,
- 141.
Thiện Điều,
- 142.
Phấn Tấn,
-
143. Tu Đạo,
- 144.
Đại Tướng,
- 145.
Tôn Vãng,
- 146.
Trì Thế,
- 147.
Quang Âm,
- 148.
Quyền Giáo,
- 149.
Thiện Tư,
- 150.
Pháp Nhãn,
- 151.
Phạm Thắng,
- 152.
Quang Diệu,
- 153.
Trực Ý,
- 154.
Ma Đế,
- 155.
Huệ Khoan,
- 156.
Vô Thắng,
- 157.
Đàm Ma,
- 158.
Hoan Hỷ,
- 159.
Du Hý,
- 160.
Đạo Thế,
- 161.
Minh Chiếu,
- 162.
Phổ Đẳng,
- 163.
Huệ Tác,
- 164.
Trợ Hoan,
- 165.
Nan Thắng,
- 166.
Thiện Đức,
- 167.
Bảo Nhai,
- 168.
Quán Thân,
- 169.
Hoa Vương,
- 170.
Đức Thủ,
- 171.
Hỷ Kiến,
- 172.
Thiện Túc,
- 173.
Thiện Ý,
- 174.
Ái Quang,
- 175.
Hoa Quang,
- 176.
Thiện Kiến,
- 177.
Thiện Căn,
- 178.
Đức Đảnh,
- 179.
Diệu Tý,
- 180.
Long Mãnh,
- 181.
Phất Sa,
- 182.
Đức Quang,
- 183.
Tán Kết,
- 184.
Tịnh Chánh,
- 185.
Thiện Quán,
- 186.
Đại Lực,
- 187.
Lôi Quang,
- 188.
Bảo Phục,
- 189.
Thiện Tinh,
- 190.
La Tuần,
- 191.
Từ Địa,
- 192.
Khánh Hữu,
- 193.
Thế Hữu,
- 194.
Mãn Túc,
- 195.
Xiển Đà,
- 196.
Nguyệt Tịnh,
- 197.
Đại Thiên,
- 198.
Tịnh Tạng,
- 199.
Tịnh Nhãn,
- 200.
Phục Long Vương.
-
100 Vị Thứ Hai Của 500 La Hán xong.
-
Trăm Thứ Ba Của 500 A La Hán
-
201.
Chí tâm đảnh lễ Ba La Mật Tôn Giả,
- Sau đây
mỗi vị mở đầu đều có "Chí tâm đảnh lễ" và "Tôn Giả" ở cuối:
- 202.
Câu Na Xá,
- 203.
Muội Thanh,
- 204.
Bồ Tát Thanh,
- 205.
Kiết Tường Chú,
- 206.
Bát Đa La,
- 207.
Vô Biên Thân,
- 208.
Hiền Kiếp Thủ,
- 209.
Kim Cang Vị,
-
210. Thừa Vị,
-
211. Bà Tư Tra,
-
212. Tâm Bình Đẳng,
-
213. Bất Khả Tỉ,
-
214. Nhạo Phú Tạng,
-
215. Hỏa Diệm Thân,
-
216. Phả La Đọa,
-
217. Đoạn Phiền Não,
-
218. Bạc Cù La,
-
219. Lợi Bà Đa,
-
220. Hộ Diệu Pháp,
-
221. Tối Thắng Ý,
-
222. Tu Di Đăng,
-
223. Một Đặc Già,
-
224. Di Sa Cơ,
-
225. Thiện Viên Mãn,
-
226. Ba Đầu Ma,
-
227. Trí Huệ Đăng,
-
228. Chiên Đàn Tạng,
-
229. Ca Nan Lưu,
-
230. Hương Diệm Tràng,
-
231. A Thấp Tì,
-
232. Ma Ni Bảo,
-
233. Phước Thủ,
-
234. Lợi Bà Di,
-
235. Xá Già Độc,
-
236. Đoạn Nghiệp,
-
237. Hoan Hỷ Trí,
-
238. Càng Đà La,
-
239. Sa Già Đà,
-
240. Tu Di Vọng,
-
241. Tri Thiện Pháp,
-
242. Đề Đa Ca,
-
243. Thủy Triều Thanh,
-
244. Trí Huệ Hải,
-
245. Chúng Cụ Đức,
-
246. Bất Tư Nghì,
-
247. Di Già Sơn,
-
248. Ni Đà Già,
-
249. Thủ Chánh Niệm,
-
250. Tịnh Cư Đề,
-
251. Phạm Âm Thiên,
-
252. Nhân Địa Quả,
-
253. Giác Tánh Giải,
-
254. Tính Tấn Sơn,
-
255. Vô Lượng Quang,
-
256. Bất Động Ý,
-
257. Tu Thiện Nghiệp,
-
258. A Dật Đa,
-
259. Tôn Đà La,
-
260. Thánh Phong Huệ,
-
261. Mạn Thù Hạnh,
-
262. A Lợi Đa,
-
263. Pháp Luân Sơn,
-
264. Chúng Hòa Hợp,
-
265. Pháp Vô Trụ,
-
266. Thiên Cổ Thanh,
-
267. Như Ý Luân,
-
268. Thủ Quang Diệm,
-
269. Vô Tỉ Hiệu,
-
270. Đa Gia Lâu,
-
271. Lợi Bà Đa,
-
272. Phổ Hiền Hạnh,
-
273. Trì Tam Muội,
-
274. Oai Đức Thanh,
-
275. Lợi Bà,
-
276. Danh Vô Tận,
-
277. A Na Tất,
-
278. Phổ Giải Sơn,
-
279. Biện Tài Độ,
-
280. Hành Hóa Quốc,
-
281. Thanh Long Chủng,
-
282. Thệ Nam Sơn,
-
283. Phú Già Da,
-
284. Hành Truyền Pháp,
-
285. Hương Kim Thủ,
-
286. Ma Nỗ La,
-
287. Quang Phổ Hiện,
-
288. Huệ Y Chánh,
-
289. Hàng Ma Quân,
-
290. Thủ Diệm Quang,
-
291. Trì Đại Y,
-
292. Tạng Luật Hạnh,
-
293. Phục Long Vương,
-
294. Đức Tự Lại,
-
295. Xà Dạ Đa,
-
296. Tần Ma Lợi,
-
297. Nghĩa Pháp Thắng,
-
298. Thí Bà La,
-
299. Xiển Đề Ma,
-
300. Vương Trụ Đạo.
-
100 Vị Thứ Ba Của 500 La Hán xong.
-
301.
Chí tâm đảnh lễ Vô Cấu Hạnh Tôn Giả,
- Sau đây
mỗi vị mở đầu đều có "Chí tâm đảnh lễ" và "Tôn Giả" ở
cuối:
- 302.
Khả Ba La,
- 303.
Thanh Quy Y,
- 304.
Thiền Định Quả,
- 305.
Bát Thoái Pháp,
- 306.
Tăng Già Da,
- 307.
Đạt Ma Chân,
- 308.
Trì Thiện Pháp,
- 309.
Thọ Thắng Quả,
- 310.
Tâm Thắng Tu,
- 311.
Hội Pháp Tạng,
- 312.
Thường Hoan Hỷ,
- 313.
Oai Nghi Đa,
- 314.
Đầu Đà Tăng,
- 315.
Nghị Tẩy Trường,
- 316.
Đức Tịnh Ngộ,
- 317.
Vô Cấu Tạng,
- 318.
Hàng Phục Ma,
- 319.
A Tăng Già,
- 320.
Kim Phú Lạc,
- 321.
Đốn Ngộ,
- 322.
Châu Đà Bà,
- 323.
Trụ Thế Gian,
- 324.
Đăng Đạo Thủ,
- 325.
Cam Lộ Pháp,
- 326.
Tự Tại Vương,
- 327.
Tu Đạt Ma,
- 328.
Siêu Pháp Vũ,
- 329.
Đức Diệu Pháp,
- 330.
Sĩ Ứng Chân,
- 331.
Kiên Cố Tâm,
- 332.
Thanh Hưởng Ứng,
- 333.
Ứng Phó Cúng,
- 334.
Trần Kiếp Không,
- 335.
Quang Minh Đăng,
- 336.
Chấp Bảo Cự,
- 337.
Công Đức Tướng,
- 338.
Nhẫn Sanh Tâm,
- 339.
A Thị Đa,
- 340.
Bạch Hương Tượng,
- 341.
Thức Mục Sanh,
- 342.
Tán Thán Nguyện,
- 343.
Định Phất La,
- 344.
Thanh Dẫn Chúng,
- 345.
Ly Tránh Ngữ,
- 346.
Cưu Xá tôn,
- 347.
Uất Đa La,
- 348.
Phước Nghiệp Trừ,
- 349.
La Dư Tập,
- 350.
Đại Dược Tôn,
- 351.
Thắng Giải Không,
- 352.
Tu Vô Đức,
- 353.
Hỷ Vô Trước,
- 354.
Khốt Cái Tôn,
- 355.
Chiên Đàn La,
- 356.
Tâm Định Luận,
- 357.
Am La Mãn,
- 358.
Đảnh Sanh Tôn,
- 359.
Tát Hòa Đàn,
- 360.
Chân Phước Đức,
- 361.
Tu Na Lợi,
- 362.
Hỷ Kiến Tôn,
- 363.
Vi Lam Vương,
- 364.
Đề Bà Trường,
- 365.
Thành Đại Lợi,
- 366.
Pháp Thủ,
- 367.
Tô Đốn Xà,
- 368.
Chúng Đức Thủ,
- 369.
Kim Cang Tạng,
- 370.
Cù Già Lợi,
- 371.
Nhựt Chiếu Minh,
- 372.
Vô Cấu Tạng,
- 373.
Trừ Nghi Võng,
- 374.
Vô Lượng Minh,
- 375.
Trừ Chúng Ưu,
- 376.
Vô Cấu Đức,
- 377.
Quang Minh Võng,
- 378.
Thiện Tu Hành,
- 379.
Tọa Thanh Lương,
- 380.
Vô Ưu Nhãn,
- 381.
Khử Cái Chướng,
- 382.
Tự Minh Tôn,
- 383.
Hòa Luân Điều,
- 384.
Tịnh Trừ Cấu,
- 385.
Khử Chư Nghiệp,
- 386.
Từ Nhân Tôn,
- 387.
Vô Tận Từ,
- 388.
Phiêu Xà Nộ,
- 389.
Na La Đạt,
- 390.
Hạnh Nguyện Trì,
- 391.
Thiên Nhãn Tôn,
- 392.
Vô Tận Trí,
- 393.
Biến Cụ Túc,
- 394.
Bảo Cái Tôn,
- 395.
Thần Thông Hóa,
- 396.
Tư Thiện Thức,
- 397.
Hỷ Tín Tịnh,
- 398.
Ma Ha Nam,
- 399.
Vô Lượng Quang,
- 400.
Kim Cang Huệ.
-
100 Vị Thứ Tư Của 500 La Hán xong.
-
401.
Chí tâm đảnh lễ Phục Hổ Đà Tôn Giả,
- Sau đây
mỗi vị mở đầu đều có "Chí tâm đảnh lễ" và "Tôn Giả" ở cuối:
- 402.
Huyễn Hóa Không,
- 403.
Kim Cang Minh,
- 404.
Liên Hoa Tịnh,
- 405.
Câu Na Ý,
- 406.
Hiền Thủ Tôn,
- 407.
Điều Định Tạng,
- 408.
Lợi Ích La,
- 409.
Vô Lượng Quang,
- 410.
Vô Cấu Xưng,
- 411.
Đại Âm Thanh,
- 412.
Đại Oai Quang,
- 413.
Tự Tại Vương,
- 414.
Minh Thế Quả,
- 415.
Tối Thượng Tôn,
- 416.
Kim Cang Tôn,
- 417.
Quyên Mạn Ý,
- 418.
Tối Vô Tỉ,
- 419.
Siêu Tuyệt Luân,
- 420.
Nguyệt Bồ Đề,
- 421.
Trì Thế Giới,
- 422.
Định Hoa Trí,
- 423.
Vô Biên Thắng,
- 424.
Tối Thắng Tràng,
- 425.
Khí Ác Pháp,
- 426.
Vô Ngại Hành,
- 427.
Phổ Trang Nghiêm,
- 428.
Vô Tận Từ,
- 429.
Thường Bi Mẫn,
- 430.
Đại Trần Chướng,
- 431.
Quang Diệm Minh,
- 432.
Trí Nhãn Minh,
- 433.
Kiên Cố Hạnh,
- 434.
Chú Vân Vũ,
- 435.
Bất Động La,
- 436.
Phổ Quang Minh,
- 437.
Tâm Quán Tịnh,
- 438.
Na La Đức,
- 439.
Pháp Thượng Tôn,
- 440.
Sư Tử Tôn,
- 441.
Tinh Tấn Biện,
- 442.
Nhạo Thuyết Quả,
- 443.
Quán Vô Biên,
- 444.
Phá Tà Kiến,
- 445.
Sư Tử Phan,
- 446.
Vô Ưu Đức,
- 447.
Hạnh Vô Biên,
- 448.
Huệ Kim Cang,
- 449.
Nghĩa Thành Tựu,
- 450.
Thiện Trụ Nghĩa,
- 451.
Tín Chứng Tôn,
- 452.
Hạnh Kính Đoan,
- 453.
Đức Phổ Hiệp,
- 454.
Sư Tử Tác,
- 455.
Hành Nhẫn Từ,
- 456.
Vô Tướng Không,
- 457.
Dũng Tinh Tấn,
- 458.
Thắng Thanh Tịnh,
- 459.
Hữu Tánh Không,
- 460.
Tịnh Na La,
- 461.
Pháp Tự Tại,
- 462.
Sư Tử Giáp,
- 463.
Đại Hiền Quang,
- 464.
Ma Ha La,
- 465.
Âm Điều Mẫn,
- 466.
Sư Tử Ức,
- 467.
Hoài Ma Quân,
- 468.
Phân Biệt Thân,
- 469.
Tịnh Giải Thoát,
- 470.
Chất Trực Hạnh,
- 471.
Trí Nhân Từ,
- 472.
Cụ Túc Nghi,
- 473.
Như Ý Tạp,
- 474.
Đại Thức Diệu,
- 475.
Kiếp Tân Na,
- 476.
Phổ Diệm Quang,
- 477.
Cao Viễn Hạnh,
- 478.
Đắc Phật Trí,
- 479.
Tịch Tịnh Hạnh,
- 480.
Ngộ Chân Thường,
- 481.
Phá Ma Tặc,
- 482.
Diệt Ác Thú,
- 483.
Tánh Hải Thông,
- 484.
Diệu Pháp Thông,
- 485.
Mẫn Bất Tức,
- 486.
Nhiếp Chúng Tâm,
- 487.
Đạo Đại Chúng,
- 488.
Thường Tùy Hành,
- 489.
Bồ Tát Từ,
- 490.
Bạt Chúng Khổ,
- 491.
Tầm Thanh Ứng,
- 492.
Số Kiếp Không,
- 493.
Chú Pháp Thủy,
- 494.
Đắc Pháp Không,
- 495.
Huệ Quảng Tăng,
- 496.
Lục Căn Tận,
- 497.
Bạt Đà La,
- 498.
Tư Tát Đỏa,
- 499.
Chú Trà Ca,
- 500.
Bát Lợi La.
-
100 Vị Thứ Năm Của 500 La Hán xong.
- Lạy
xong, tụng Bát Nhã, hồi hướng, phục nguyện, ba tự quy y.
Hương Đăng đốt nhang cầm sẵn nơi tay; Tri Khách hướng dẫn thí chủ lễ
tạ chư Tăng. Tiếp theo Duy Na cử tán:
- -
"Trên trời dưới thế không ai như Phật
- Mười
phương các cõi không ai bằng
- Những
gì chính mắt thấy ở thế gian
- Tất cả
không ai giống như Phật".
- Tiếp
niệm:
- -
"Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật", vừa đi nhiễu Phật 3 vòng rồi đứng
vào chỗ cũ. Tuyên đọc sớ xong, đốt sớ. Duy Na cử tán hồi hướng:
- - "Phúng
Kinh công đức…", phục nguyện, ba tự quy y.
- Chứng
nghĩa ghi theo Tam Tạng Pháp số rằng:
- Tiếng
Phạn A La Hán, Trung Hoa dịch là vô học, nghĩa là vị đã dứt sạch
sanh tử không còn pháp để học nữa; lại cũng gọi là vô sanh, tức là
đã đoạn sạch kiến hoặc và tư hoặc(5) không còn thọ sanh trở
lại trong 3 cõi; hay còn gọi là ứng cúng có nghĩa bậc thích hợp thọ
của nhân thiên cúng dường; lại còn gọi là sát tặc tức là vị có khả
năng giết giặc phiền não. Vì A La Hán đầy đủ ba minh, sáu thông và
vô lượng công đức, nên gọi là Đại. Vị A La Hán vâng lời Phật dạy
dùng lực thần thông diên trì thọ mạng lâu ở thế gian để duy trì ủng
hộ Chánh Pháp đến nay vẫn chưa nhập diệt. Nếu gặp trong đời thiết vô
giá hội cúng thí liền cùng với các quyến thuộc ẩn hình Thánh chung
sống cõi phàm phu ẩn mật tới thọ của cúng, làm cho thí chủ được lợi
ích thù thắng.
- Kinh
Pháp Hoa ghi rằng: "nay chúng ta đây chính là Thanh Văn, vì nghe
tiếng Phật Pháp hợp với tánh nghe. Nay chúng ta đây chính là Thanh
Văn ở trong các cõi trời, người, ma, phạm cùng khắp trong đó ứng hợp
thọ của cúng dường. Y cứ cúng dường La Hán đây được phước đức vô
lượng không thể nghĩ bàn".
- Xưa có
vị vô tướng chân thiền sư cúng dường La Hán bài tụng rằng:
- - "Chân
nhân ứng cúng mắt nhìn cao
- Nước
non qua lại chẳng nề lao
- Cũng
biết điềm lành tốt nơi nao
- Nhận
được thiên hoa trên áo bào
- Đá mát
vuông tròn đường chẳng ngại
- Trước
nhà níu chặt tay hái vào
- Năm
trăm tôn giả ai là chủ
- Trời
nước mây xanh vầng trăng cao".
- Sanh
mạng con gì bắt được cũng phải thả đi không nên giam nhốt, sợ bị hại
đến mạng sống chúng. Nên đặt bàn ngoài trời để làm lễ phóng sanh, có
nước tịnh, cành dương, thủ xích… Pháp sư, thí chủ làm lễ, đại chúng
đem mắt từ nhìn chúng khác loại, nghĩ thương xót cho kiếp sống trầm
luân trải qua nhiều lần đọa lạc. Lại nghĩ Tam Bảo có đại oai lực hay
bạt sạch sanh tử. Quán tưởng như thế xong, pháp sư cầm thủ lư lên
đọc:
- - "Chí
tâm phụng thỉnh trên hội quang minh Chư Phật, Bồ Tát, Mười
Phương Từ Phụ, Quán Thế Âm Bồ Tát quảng đại linh cảm, Thiên Long
thần kỳ tại đạo tràng này gia trì cho nước tịnh thủy này đủ công đức
dày rưới khô muôn loại, khiến thân tâm họ thanh tịnh, nhẫn nghe diệu
pháp.
- -
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát (3 lần)
- Chúng
hòa theo. Tiếp tụng Chú Đại Bi (3 biến), pháp sư cầm thủ lư
niệm hương:
- - "Ngưỡng
bạch Mưòi Phương Tam Bảo, Thích Ca Bổn Sư, Từ Phụ A Di Đà, Bảo
Thắng Như Lai, Quan Âm Bồ Tát, cha con trưởng giả Lưu
Thủy, Thiên Thai, Vĩnh Minh, các bậc đại sĩ v.v..Ngưỡng
nguyện Đức Từ Bi chứng tri hộ niệm, nay có các chúng sanh bị người
bắt nhốt sắp đưa vào cửa tử, may gặp được…(tên người phóng sanh) tu
hạnh Bồ Tát phát tâm từ bi, gieo nhân trường thọ tạo việc phóng sanh,
cứu thân mạng của những con… này thả chúng ung dung tự tại".
- Tỳ kheo…
bèn theo Kinh Đại Thừa Phương Đẳng truyền Tam Quy, niệm 10
hiệu Phật. Lại cũng vì các chúng sanh này mà nói pháp 12 nhân
duyên chỉ vì các chúng sanh này tội chướng sâu dày thần thức hôn mê.
Ngưỡng cầu Tam Bảo oai đức gia bị thương xót chở che. Pháp sư
đập thủ xích một cái, rồi cất tiếng thuyết 3 quy y:
- - "Hiện
giờ các chúng sanh quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Nói xong 3
lần, đại chúng cùng hòa theo:
- - "Quy
y Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tăng rồi; từ nay trở đi tôn Phật
làm thầy, không quy y tà ma ngoại đạo, tôn Pháp là thầy không quy y
kinh điển của ngoại đạo, tôn Tăng là thầy bèn không quy y bọn đảng
xấu ác. Này các Phật tử, đã quy y Tam Bảo rồi, nay tôi vì các
ngươi mà niệm:
- -
Nam Mô Bảo Thắng Như Lai, 10 hiệu công đức khiến các ngươi được
nghe như những con cá (bơi) chim (bay) tự do liền được sanh lên cõi
trời không khác.
- -
Nam Mô quá khứ Bảo Thắng Như Lai, ứng cúng, chánh biến tri, Minh
hạnh túc, Thiện Thệ, thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều Ngự trượng
phu, thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn.
- Pháp sư
đập thủ xích một cái rồi nói:
- - "Các
Phật tử, nay tôi vì các ngươi mà nói 12 nhân duyên
tướng sanh tướng diệt cho các ngươi hiểu pháp sanh diệt; ngộ bất
sanh diệt đồng như chư Phật chứng ngộ Niết Bàn. Bởi vì do vô minh
duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục
nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ,
thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử, buồn thương, khổ
não v.v.. vô minh diệt thời hành diệt, hành diệt thời thức diệt,
thức diệt thời danh sắc diệt, danh sắc diệt thời lục nhập diệt, lục
nhập diệt thời xúc diệt, xúc diệt thời thọ diệt, thọ diệt thời ái
diệt, ái diệt thời thủ diệt, thủ diệt thời hữu diệt, hữu diệt thời
sanh diệt, sanh diệt là lão tử, buồn thương, khổ não diệt".
- Nói
xong, pháp sư vỗ thủ xích một cái rồi nói:
- - "Này
chư Phật tử, nay tôi dựa Kinh Đại Thừa truyền cho các ngươi
3 quy y, 10 hiệu Phật, 12 nhân duyên đã xong. Nay vì các
ngươi đối trước Tam Bảo, phát lồ sám hối tội khiên cầu xin sám hối.
Mong cho nghiệp tội các ngươi hết thảy đều được tiêu trừ được sanh
vào xứ lành, gần Phật nghe pháp. Các ngươi phải chí tâm theo tôi mà
sám hối:
- - "Con
xưa lỡ tạo các ác nghiệp,
- Đều do
vô thỉ tham sân si
-
Từ thân miệng ý mà sanh ra,
-
Hết thảy con nay xin sám hối".
- Nam
Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).
- Bưng
chén nước chú nguyện rảy lên những con vật sắp được thả, rồi mở cửa
lồng cho chim (thú) bay ra. Pháp sư trở lại đọc:
- - "Ngưỡng
mong từ ngày được thả hôm nay trở về sau, hoàn toàn các ngươi không
gặp ác ma nhai nuốt, lưới sập bẩy giăng, mà thong dong tự tại mãi
mãi lâu dài. Nương lực Tam Bảo, Bảo Thắng Như Lai, từ lực bổn
nguyện mà sau khi chết được sanh cõi trời Đao Lợi, hoặc sanh làm
người, giữ giới tu hành, không tạo ác trở lại nữa. Tin tưởng niệm
Phật, tùy nguyện vãng sanh".
- Lại cầu
nguyện:
- - "Thí
chủ… hiện đời được như ý, qua đời khác báo ứng tùy tâm Bồ Đề hạnh
nguyện, niệm niệm càng sáng cứu khổ chúng sanh được như tâm nguyện.
Do nhân duyên đó được sanh cõi Cực Lạc thấy Phật A Di Đà
và chư Thánh chúng, chứng được vô sanh nhẫn. Phân thân vô số
độ khắp hữu tình đều thành chánh giác; Nay đại chúng đồng thanh niệm
Kinh Hoa Nghiêm phẩm 10 hồi hướng, thần chú vãng sanh Tịnh
Độ.
- Đọc
xong, duyệt chúng gõ mõ nhỏ, đại chúng đồng tụng:
- - "Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm phẩm 10 hồi hướng tùy thuận thiện
căn thật kiên cố, xin hồi hướng chư Phật tử… đại Bồ Tát làm đại quốc
vương, đối với pháp được tự tại, thực hành sâu rộng lời giáo huấn
làm dứt trừ nghiệp sát. Trong cõi Diêm Phù Đề(6) thành ấp,
xóm làng hết thảy kẻ sát sanh đều bị cấm ngăn. Chúng sanh không chân,
2 chân, 4 chân, nhiều chân, những loại sanh thân đều ban cho điều
không sợ sệt; không dục xâm chiếm tâm, rộng tu các hạnh Bồ Tát, nhân
từ lợi vật, không làm xâm tổn. Phát tâm trân quí để làm an ổn chúng
sanh ở các cõi Phật. Lập chí sâu bền thường tu 3 môn tịnh giới và
cũng làm cho chúng sanh an trụ như vậy. Các đại Bồ Tát khiến chúng
sanh tu giữ 5 giới trừ dứt hẳn nghiệp sát. Đem thiện căn này hồi
hướng cho hết thảy nghĩa là nguyện cho khắp mọi loài chúng sanh phát
tâm Bồ Đề đầy đủ trí huệ, bảo vệ thọ mạng lâu dài không chấm dứt.
Nguyện hết thảy chúng sanh trong vô lượng kiếp cùng với chư Phật
cùng khuyên nhau tu học, làm tăng thêm thọ mạng. Nguyện khắp chúng
sanh tu hành nghiêm túc xa lìa sanh tử, hết thảy hiểm nạn, không làm
hại đến thân mạng kẻ khác. Nguyện tất cả chúng sanh được thành tựu
mọi điều không bịnh, tổn hại thọ mạng tự tại đều được tùy tâm...
Nguyện hết thảy chúng sanh được thọ mạng không cùng tận tới kiếp vị
lai, nương hạnh Bồ Tát điều phục giáo hóa chúng sanh. Nguyện tất cả
chúng sanh vì việc thọ mạng, đầy đủ thiện căn trong 10 lực tăng
trưởng. Nguyện cho chúng sanh căn lành đầy đủ được thọ mạng vô tận
thành tựu đại nguyện. Nguyện hết thảy chúng sanh được thấy chư Phật
vâng phụng cúng dường tu tập thiện căn thọ mạng vô lượng. Nguyện cho
khắp hết chúng sanh ở cõi Phật khéo học những pháp cần học, đạt được
pháp an lạc thọ mạng vô cùng. Nguyện tất cả chúng sanh được không
bịnh, không già, thường trong mạng căn tinh tấn dũng mãnh, nhập Phật
trí tuệ. Đó là Bồ Tát ma ha tát trong 3 tụ tịnh giới dứt hẳn nghiệp
sát hồi hướng thiện căn để làm cho chúng sanh đạt được 10 lực của
Phật, trí tuệ viên mãn".
- Tiếp
tụng Chú Vãng Sanh (3 lần) và Duy Na đọc:
- - "Trở
lên công đức phóng sanh để đền đáp 4 ân, 3 cõi đều nhờ. Pháp giới
chúng sanh đều trọn thành chủng trí. Mười Phương ba đời Chư Phật,
hết thảy chư đại Bồ Tát, đạt đại bát nhã ba la mật".
- Tụng
hồi hướng, ba tự quy y. Bên trên là lược nghi thức phóng sanh xong.
Nếu lễ phóng sanh mà có thêm tụng kinh hoặc cúng dường trai phạn
v.v.. đều xem nghi thức trước, chỉ có phần hồi hướng và sớ văn thay
đổi theo việc cầu nguyện của thí chủ.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Nghi
phóng sanh đời Lương dịch từ Kinh Kim Cang Minh như thế. Nếu
căn cứ 2 bản dịch đời Tùy-Đường đều có lời chú Kinh Phạm Võng
cũng có nói việc phóng sanh. Ngoài ra, khảo cứu luật tạng, kẻ nữ sĩ
trước thọ tam quy, sau truyền 5 giới không cho vượt bực. Cho nên nay
phóng sanh nhưng chỉ nói Tam Quy mà không cần nói thêm 5 giới. Có
người hỏi Ngài Vân Thê Liên Trì rằng:
- - "Thuyết
pháp đối với người do người chưa tin nên khuyến khích phát tâm, súc
vật làm sao hiểu được?"
- Sư đáp
rằng:
- - "Tánh
nơi hàm linh không thể nghĩ bàn, đặt kỳ vọng nơi loại súc vật hoàn
toàn không biết được. Con linh (giống như chuồn chuồn mà không bay
xa được) sống trong bầu trời, chim đại bàng biết luật, con cọp vểnh
tai nấp đất nghe ngóng, con lân đổ nước mắt cảm tâm. Những loại như
thế so sánh ở đây đủ biết… Giá như nghiệp nó nặng không biết cũng là
một loài thiện ở vị lai. Ví như mùa đông trời lạnh xuống thấp, mùa
xuân ấm áp tự nhiên cây cối nẩy mầm. Chỉ lấy tâm từ hướng đến để nói,
hành giả tự có được phước, nên phải giáo hóa không phân người, súc
vật, cho chí phóng sanh cảm ứng đời sống bên trong rất nhiều".
- Nay
lược nêu ra một số điều rất cổ như Kinh Kim Quang Minh
quyển 4 nói về cha con trưởng giả Lưu Thủy trên đường đi thấy một ao
nước cạn có 10,000 con cá sắp chết, 4 bề vùng vẫy. Lúc đó trưởng giả
cho nước và thức ăn cho cá mà cứu được chúng rồi cá lội xuống ao.
Ông trưởng giả giảng cho cá pháp 12 nhân duyên và niệm “Nam Mô
Bảo Thắng Như Lai”. Về sau, 10,000 con cá ấy đều sanh lên trời
Đao Lợi, chúng biết đời trước mình là cá và được cha con ông trưởng
giả cho nước uống và thức ăn. Lại vì bọn chúng, ông giảng pháp 12
nhân duyên và niệm danh hiệu Phật Bảo Thắng Như Lai. Vì nhân
duyên đó khiến đời sau chúng được sanh cõi trời. Đây là cách báo ân,
mỗi con cá cầm một chuỗi trân châu anh lạc tới nhà ông trưởng giả
Lưu Thủy dâng ngọc báu, tán hoa. Ông trưởng giả Lưu Thủy lúc đó, nay
chính là Phật Thích Ca Mâu Ni; 10,000 con cá lúc đó nay là
10,000 thiên tử đều mong Phật truyền đạo Bồ Đề.
- Đời Tùy
Ngài Thiên Thai trí giả đại sư ở chùa Tu Thiền tại Đài Châu, lấy y
mặc khuyên người bán một sở đất làm ao phóng sanh; Ngài thường ở đó
giảng Kinh Kim Quang Minh, bổng một hôm thấy vô số chim hoàng
tước tới trước giảng đường tụ tập về đây trong nửa ngày, rồi kêu lên
tiếng buồn rồi bay đi. Đại sư thấy chim nói rằng:
- - “Đây
là cá sông hóa làm chim hoàng tước tới tạ ân Ta đó, nay là chùa Đại
Từ vậy.”
- Lại đời
Tùy, có Kế Vũ nhậm chức ở Đài Châu làm quận trưởng, thường mời Thiên
Thai trí giả giảng Kinh Kim Quang Minh phẩm Lưu Thủy
trên sông, ngư dân nghe pháp đều tôn trọng sanh mạng bỏ nghiệp sát
hại. Vũ sau trở lại kinh đô ngồi thiền thấy mình mắc tội bị hạ ngục.
Đương gặp lúc lâm nguy ấy bèn trực nhớ tới cầu đại sư, thân tới cứu
hộ. Đêm đó mộng thấy đàn cá thổi bọt tung nước. Sáng sớm hôm sau,
Vua ra lịnh bắt Kế Vũ hài tội. Căn cứ chuyện này lấy từ Kinh Kim
Quang Minh một đoạn chỗ trưởng giả Lưu Thủy mà phóng sanh là
việc điển hình sớm nhất. Cho nên Kinh Kim Quang Minh phẩm
phóng sanh là pháp quan trọng đáng tin mà về sau các bậc hiền phải
biết đó.
-
5.25 Phụ:
Qui Ước Chỗ Ở Loài Vật Có 15 Điều
- Phật
dạy:
- - "Tình
nhiều tưởng ít sanh vào hoạnh sanh, nên biết chúng nó khác loài.
Trước vì ngu si ám độn không tu chánh niệm nên đời này mang lông
cánh, vảy vi trong thân hình thấp kém, ở nước, trên cạn, bay trên
không, nhiều loài không phải một. Chúng ta phải tuân theo lời Phật
dạy nên tùy lực phóng sanh và cho đồ ăn uống mong những loài khác
hết báo thân này được sanh về cõi Tịnh Độ. Có quyền chăm sóc
các loại sanh linh, phát tâm thương tưởng mong chúng dứt hết kiến
chấp. Tùy nghi phóng thích phải có qui định rõ như liệt nêu sau đây:
- 1- Phàm
đem con vật phóng sanh có cần nói 3 quy y không? Nếu chưa nói, cần
đưa tới trước Phật, đốt nhang thuyết 3 pháp quy y, kệ phóng sanh:
loài chim bay thú chạy, loài dưới nước liền niệm Phật thả chúng bay
đi;
- 2- Trâu
dê, gà vịt đặc biệt là gà trống, mái không nhốt chung một chỗ.
- 3-
Những loại sanh đầu như gà trống là kê đầu, toàn quyền coi sóc chúng
cẩn thận, mỗi con phải đăng ký, sáng chiều kiểm điểm số lượng để giả
sử có chết phải cho tri khố, tri khách biết tới khám nghiệm, sau mới
đem chôn.
- 4- Chỗ
ở thường phải khô ráo sạch sẽ, không được để hôi hám xông mùi khó
chịu, làm cho loài vật thân, miệng dơ dáy.
- 5-
Những con vật mới để phóng sanh hẳn phải nhốt riêng một chỗ, đợi ban
đêm mới cho nhập bầy (đàn)
- 6- Thức
ăn mỗi ngày cho 2 lần sáng, chiều. Ăn xong nên thu dọn đồ đựng cất,
không được vung vãi bùn phân vấy vào bồn đựng đồ ăn.
- 7- Sanh
đầu: đánh loài súc vật bị thương, chiếu theo lớn nhỏ phạt tiền, đánh
chết bị phạt đuổi khỏi chùa. Chăm sóc thiếu cẩn thận bị các giống ác
thú làm hại hay bị kẻ xấu bắt trộm đem đi cũng căn cứ theo lớn nhỏ
mà phạt tiền. Thả trâu bò làm hại lúa mạ người chiếu số thiệt hại
đền tiền.
- 8- Lúa
thóc, hạt lúa mạch v.v… phàm ẩm ướt liền hong phơi hoặc sấy khô,
không được để sâu mọt đục khoét cắn phá.
- 9- Phàm
tặng thức ăn sống, tiền bạc không được dùng riêng.
- 10-
Trong ao không thả cá đen, câu cá, đâm vây, lươn vây cá v.v… sợ làm
hại những con cá khác; cũng như không thả ốc sên, cá xanh ăn bắt ốc
sên, nên lập ao riêng để thà.
- 11-
Không được dùng thuốc tẩy, dầu mỡ và các thứ võ đậu, trấu… bỏ vào
trong ao.
- 12- Cá
ăn rêu xanh nên chẳng cần cho ăn.
- 13-
Trong ao không được ngâm tre trúc, cật tre vàng v.v… hay tất cả
những vật tương tự.
- 14-
Nước ao không được khuấy động, nếu xử dụng nên lấy bình đựng cho êm
nhẹ.
- 15-
Phàm loài thủy lục mỗi loại sanh đầu đáng giá thường sinh sống theo
quy củ; không được riêng nói với thí chủ đòi lấy tiền bạc, người nào
trái lấy một, thường 2 để mua thức ăn sống cho loài vật.
- Ngày…
tháng…năm… Trụ Trì… sao lục.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Chỗ ở
có qui định mà bảo hộ sanh mạng là tu hạnh từ vậy.
- Kinh
Phạm Võng dạy rằng:
- - "Nếu
Phật tử đem tâm từ bi làm việc phóng sanh, xem hết thảy người nam là
cha ta, hết thảy người nữ là mẹ ta. Ta đời đời sanh ra hẳn từ đó mà
sanh nên 6 đường chúng sanh đều là cha mẹ ta, giết ăn thịt họ tức là
giết cha mẹ ta vậy. Lại phóng sanh là làm thiện thể hiện tâm từ
không giết hại. Đầy đủ các giới hạnh là chỉ thiện, chỉ tác 2 việc
hành trì đúng nghĩa hộ sanh".
- Có
người hỏi Sư Liên Trì rằng:
- - "Mặc
Tử với thuyết Kiêm Ái bác cho là dị đoan; còn Phật giáo làm sao
chúng sanh đều lấy đó quán làm cha mẹ ta được?"
- Sư đáp:
- - "Đạo
Nho chỉ luận đời này, đạo Phật bàn tới tiền thân (nhiều đời trước).
Con người thọ thân này đã trải qua nhiều đời, thác thai ắt sanh nơi
các loài. sáu đường chúng sanh đều là cha mẹ ta há chẳng hiển nhiên
hay sao?"
- Chỉ
theo dõi tích gần không cần luận xét duyên xa, so sánh với việc dị
đoan cũng đã vượt xa rất nhiều rồi vậy.
- Phép
vai choàng (kiệu) lọng báu, tràng phan v.v... những loại pháp khí
(7) đều giống như nghi thức này.
- Nghi
thức cúng pháp y không giống như nghi trên. Việc thọ pháp y nói đây
là hàng đệ tử nhận y ban từ vị pháp sư hoặc bậc trưởng thượng, đã
gia ân nơi chiếc y. Vì thế vị Trụ Trì tới phòng khách đích thân nhận
và đến đảnh lễ Phương Trượng. Đây là việc cúng pháp y tức thí chủ
cúng cho vị Trụ Trì.
-
Nghi thức đãi khách như mục cúng trai phạn chư tăng trên
có nêu rõ. Song Trụ Trì là chủ của một ngôi chùa, phàm thí chủ cúng
pháp y, đồ pháp khí đều phải đem bạch chúng để ghi sổ vạn niên của
chùa. giao y bát trang trọng, việc thâu nhận vật dụng về trù phòng
cũng phải ghi rõ ngày tháng năm…, tên thí chủ, không được lấy vật
cúng nhận làm của riêng, hẳn sai luật Phật dạy.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Thí chủ
cúng pháp y, nếu Trụ Trì biết trước phải hỏi thí chủ chi tiết không
được thêu Phật trên y. Sách Vân Thê Chánh Ngoa tập ghi rằng: gần đây
trên Ca Sa thêu đủ loại hình Phật gọi là y nghìn Phật. Đây là ngụy
dối vậy. Hình Phật chỉ nên đội trên đầu, mang vác trên vai, đeo quảy
bên hông đã là quá lắm rồi, huống gì còn khâu dính mặc nơi thân. Từ
lưng, đầu gối trở xuống đều có Phật, quả thật là lỗi quấy lắm lắm!
Vua Luân Vương có phước đức, nên tin chắc đó chẳng phải lời hư mà đã
thành sự thật lâu đời không tự hay biết. Mong minh phủ quán xét cẩn
thận đừng chấp chặc vào lời, như nói: “Y thiên Phật, quả có đúng hay
không?”
- Đáp:
- - "Có,
ngày nay là y 25 điều, là y tương truyền của Phật".
- Phật
dạy các thầy tỳ kheo rằng:
- - "Ta
có y Tăng Già lê này của chư Phật quá khứ, vị lai đều mặc mà được
giải thoát và lấy đó chứng minh. Hoặc thêu chữ Thọ gọi là vạn thọ y
cũng thuộc loại sai trái, hoặc thêu hoa hòe gọi là thiên hoa y cũng
không hợp. Lại, thiên hoa là phạm lỗi với ý nghĩa Thiên Hoa đài
thượng của đức Phật Lô Xá Na. Cũng sợ làm tổn mất phước vậy.
- Thông
tuệ là đốt sáng, nhen nhúm ý chí, thông tuệ là nói bửa tiểu thực. Lễ
thọ thông tuệ sáng hoặc Trụ Trì trở lại chùa Tổ; nhưng về lại Tổ
đình phải có người hầu cận. Vì phải lấy lễ xử Thầy như bậc tôn túc,
Thầy cũng phải lấy lễ đáp lại; kính chúng Tổ đình đã lập pháp thọ
thông tuệ này, có nghĩa là thiết trai mừng Thầy vậy. Thầy đến địa
điểm thọ trai, nhưng sai thị giả lễ thay, không dám làm động chúng.
Như hoặc lấy vai trên tiếp vai dưới hoặc dưới kính trên, hoặc tôn
trọng ngang vai hay kính trọng đặc biệt như tạ pháp, báo ân, đáp lễ,
phát tâm hoặc bị hành phạt mà đặt ra nghi này.
- Ở đây
lớn nhỏ tùy theo sức mình hoặc thiết cúng trai, cúng bánh, đãi trà…
đều gọi là nghi thọ thông tuệ sáng giống như nghi cúng trai phạn ở
trước.
- Đầu
tiên làm Trụ Trì ắt hẳn thông báo thư từ để không vong bản. Nếu thư
truyền pháp đến Trụ Trì phải thăng tòa thuyết pháp, tùy cơ mà nói,
bởi vì lập đàn pháp giáo hóa phải tương tục làm cho giáo pháp tồn
tại mãi. Nếu pháp sư nối dòng pháp (hoặc thầy thế độ hay y chỉ sư có
di thư đến lập tức đưa vào giảng đường đặt lên bàn, treo hình Thầy
lên để cúng giác linh. Trụ Trì xuất tiền sai thị giả mời vị đại diện
tới cúng, phải cho trang nghiêm thanh tịnh; cho 2 dãy (liêu) đại
chúng biết hoặc trong ngày hoặc cách đêm trước lên chánh điện cho
chúng hay (nghi thức thượng đường xem ở trước), nói pháp thương cảm
rồi xuống tòa đến bàn giác linh niệm hương, đọc lời buồn kể.
-
Lập đàn tụng Kinh, nhóm chúng để tụng niệm (tụng kinh gì,
ngày nào tùy ý quyết định). Ngày đầu cúng ngọ, phải quỳ dâng cúng sớ.
Xem chương tôn Tổ ở trước về phần lễ kỵ. Song tiếp di chúc thư đến,
nghi tiết cũng giống nghi này. Chỉ có điều nên lập long vị (nên đặt
nơi thật yên tịnh) không treo hình. Cúng đất đai không cần phải quỳ,
cũng không phải đắp y, không lạy (chỉ xá) mà chỉ tiến lùi với tâm
trạng lặng lẽ mà giữ vẽ bình tĩnh mong đợi. Muốn rõ hơn xem chương
khách đường có qui định.
- Phụ:
- Lời Sớ
Cúng Tiến Pháp Sư Giác Linh như
sau:
- - "Từng
nghe rằng, linh tánh vắng lặng, quán bào ảnh biết cuộc phù sanh chìm
nổi; sữa pháp lênh láng; tìm đạo phong mà suy gốc ngọn; giọng cáo
tang chợt đến; kính trải lòng thành, ngưỡng mong đức Thế Tôn điều
ngự chứng giám đức của tiên giác. Thiết nghĩ rằng: Tôn sư viên tịch
thượng A hạ B Hòa Thượng, tên đời… quê quán… tên chùa và ngày sanh,
ngày tịch… Thêm: hiện tướng sanh diệt như đài gương soi không đến đi,
hợp cơ Phật Tổ, như thổi lông đủ lung linh tác dụng, tiếp tục huệ
mạng nơi thâm viễn. Chấn chỉnh tông phong trong thời mạt pháp, làm
cho đèn Tổ rạng ngời ánh sáng chiếu soi việc Phật mới nên thành tựu.
Thương tiếc pháp tràng bỗng gãy đổ… tên người được phó chúc. May mắn
được thấm nhuần ân giáo hóa, đau đớn thay giờ này cô quả; tưởng áo
khăn còn đó hình ảnh khó phai mờ. Những bữa cơm văn vẻ đượm tình,
đặc biệt điển hình tụng Kinh Phạm Võng (thay…). Ngưỡng trông
từ lực để báo đáp ân sư".
- Lại
nguyện:
- - "Giác
linh thầy… Hòa Thượng đại vắng lặng trong ánh sáng sánh với tỳ lư
thọ dụng. Nhất chân pháp giới, lấy bảo tạng để trang nghiêm. Hồi
hướng mưa pháp nhuận khắp quần sanh khiến cho tòng lâm hưng thạnh,
mong cho đạo mạch được lưu thông. Cung thỉnh Tam Bảo chứng
minh phúng kinh văn sớ cung tiến thầy. Ngày …tháng… năm… môn đồ pháp
quyến đệ tử… chí thành dâng sớ".
- Ghi chú:
Trong sớ phải đọc thêm: bổn sư đức hạnh ở đây sợ rườm rà nên không
ghi ra hết. Cúng bổn sư thế độ, thầy giáo thọ, y chỉ sư tùy đó thay
đổi, theo như các nghi thường.
- Chứng
nghĩa trích Ngu Am Chích Cổ ghi rằng:
- Hòa
Thượng Chân Tịnh có lúc bảo thị giả:
- - “Đi
mời lão Hòa Thượng đến”.
- Thị giả
mời thiền sư Nam đến thật đúng lúc. Ngài Tịnh lấy tay sờ trán than
rằng:
- -
“Không phải lão Hòa Thượng đây đâu mà đến nổi như thế này!”.
- Hòa
Thượng Tiềm Am Nguyên mỗi lần thấy Nam thiền sư liền rơi lệ, than
rằng:
- - “Hai
người này có thể nói nghĩ tới hiếu không rời”, nên ghi thêm vào đây.
- Phàm
các tự viện 10 phương thiếu Trụ Trì, cần phải tinh tế tìm bậc cao
tăng đạo đức mới có thể thỉnh cử. Cần phải họp chúng luận bàn kỹ để
quyết định. Giám viện cũng phải biết rõ việc chùa, đất đai, tài sản
và lễ nghi tiếp rước… Mọi việc phải hoàn bị tức là mời 2, 3 ban có
Trưởng Ban điều động và tín đồ vài 3 người chuyên môn giúp việc. Tới
ngày dự định họp đến các liêu chúng cho hay, phòng khách chuẩn bị
sẵn sàng. Gióng đại hồng chung 3 hồi 3 tiếng nhóm chúng vân tập lên
chánh điện. Có khách đặc biệt tới chùa tiếp nơi phòng khách, dùng lễ
tiếp đãi, mời trà, chuyện vãn. Tri Khách trước bạch Hòa Thượng
Phương Trượng biết và cho nhà trù hay để lo liệu. Kế hỏi thăm khách
cho rõ, lễ phẩm dâng cúng đặt lên bàn, hướng dẫn khách lễ Phật. Tiếp
theo đưa khách đến gặp Phương Trượng Trụ Trì chào hỏi, ngồi lại dùng
trà, đàm đạo, trình bày lý do thỉnh tăng Trụ Trì. Nếu đường xa xôi
khách cần nghỉ lại, đưa khách tới phòng ngủ. Nếu nội trong ngày rồi
về, khỏi đưa khách tới phòng ngủ.
- Nếu lời
thỉnh không được đáp ứng thời viết thư từ chối, nhưng việc mời Trụ
Trì nên dò ý trước xem có được hay không. Chấp thuận mới tiến hành
thỉnh; không được thời ngưng; nếu thuận đích thân đến hoặc chuyển
qua Trưởng Ban lo. Như ta nhận sự cầu thỉnh, liền thông báo đến 2
dãy liêu cho chúng biết. Kế, sáng hôm sau, sau thời công phu, họp
chúng tại chánh điện, nói rõ lý do, thăng tòa nói đã nhận lời mời
thỉnh. Người có trách nhiệm được chùa phái đến mời Trụ Trì là duyên
may, liền thiết trai cúng dường. Người được thỉnh có một chỗ ngồi
đặc biệt, thết đãi như một chuyên viên.
- Thầy
Tân Trụ Trì liền chọn một số người thân tín cùng đi tới chùa mới với
người mời. Một buổi lễ bàn giao sổ sách, khế ước, giao kèo, long
trọng diễn ra. Tiền bạc, lúa thóc, vật dụng v.v.. nếu cam kết trên
giấy tờ không rõ ràng, không nhận, vì văn bản vĩnh viễn này rất là
quan trọng làm chứng từ pháp lý. Chọn ngày ấn định, tới ngày nhập tự,
tân Trụ Trì dùng điểm tâm xong, ra giữa chúng tác bạch từ giả, kế
lên chánh điện lễ Phật, lạy tạ Phương Trượng rồi chuẩn bị lên đường.
Chuông trống bát nhã, đại chúng vân tập trước chánh điện, đợi Trụ
Trì lễ Tổ xong, vào chánh điện lễ Phật 3 lạy; đại chúng đảnh lễ Trụ
Trì 3 lạy, Trụ Trì xá đáp lễ. Đại chúng đi trước ra cửa đứng 2 bên
đối diện trang nghiêm, chấp tay cung kính. Thầy Trụ Trì lễ Hộ Pháp
Vi Đà, Phật Di Lặc xong rồi chào từ giả đại chúng mà đi. Đại chúng
tiễn một đổi xa cho bóng người mất hút rồi mới trở lại.
- Nếu ban
thỉnh Sư ở lại chùa áp dụng giống các nghi trước. Người được phái
đến trước gặp Trụ Trì hành lễ xong, chấp tay bạch rằng:
- - “Vùng
đó … (tên), chùa A… không có Trụ Trì, nay đủ lễ nghi xin cung thỉnh
Đại Đức… vì chúng con nhận chức Trụ Trì. Ngưỡng mong trên Hòa Thượng
từ bi doãn nạp và mong được cung thỉnh Đại Đức … về trụ trì chùa…”
- Trụ Trì
đáp:
- - “Kính
vâng lời dạy của Hòa Thượng Phương Trượng, chúng tôi hoan hỷ đáp lời
thỉnh cầu của quý vị.”
- Nếu
người được thỉnh là môn nhơn, Hòa Thượng Phương Trượng trao pháp y,
kèm theo lời pháp ngữ dặn dò mọi điều cần thiết để hành giả thi hành
nhiệm vụ mới. Tân Trụ Trì chí tâm chấp tay lắng nghe Hòa Thượng nói
xong, đáp:
- - “Con
xin y giáo phụng hành” rồi lạy 3 lạy, bạch rằng:
- -
“Ngưỡng mong ân đức Tam Bảo và hồng ân Tổ đức gia hộ, sự
thỉnh cầu quá ân cần của Phật tử, thật cũng khó từ nan Phật sự chung,
con chỉ e không đáp ứng được nhu cầu trông đợi. Cúi xin, trên Tam
Bảo và Hòa Thượng chứng minh cho tâm nguyện của con.” Bạch xong,
xá 3 xá.
- Hòa
Thượng đáp:
- - “Đạo
đã qui định, rõ một tơ hào không lầm người nhân đức, Thầy chỉ mong
cho con chu toàn trách nhiệm”.
- Trụ Trì:
- - “Mô
Phật, con xin vâng hành.” Rồi đứng lên xá 3 xá.
- Đại
chúng ra trước đứng ngoài cửa sắp hàng đối diện 2 bên đợi để tiễn
chân tân Trụ Trì ra khỏi cửa.
-
Lời phụ:
-
Bạch thỉnh tân Trụ Trì.
- Phàm
bạch thỉnh tân Trụ Trì nên tùy theo mỗi hoàn cảnh mà làm, giá không
có ai làm nên dựa theo đây cũng thành nghi, chỉ sửa từ cho thích hợp
mà thôi.
- Từng
nghe rằng:
- - "Ngoái
xem bảo vật, Tây phương chư Thánh rộng mở mang. Vua mộng thấy người
vàng pháp truyền qua Đông Độ cho pháp luân thường chuyển. Trang
nghiêm vi diệu, hào quang chiếu khắp 3000 cõi, Phạm Âm diễn pháp Đại
Thừa, viên âm kết Mâu Ni 108 pháp. Nên biết, nguyên xưa Thánh giáo
do nhờ thiện duyên mà hưng thạnh. Riêng vì từ xưa tăng viên ắt do
người lập thành. Cung kính Hòa Thượng thượng A hạ B… tên vùng…tên
tăng… tên chùa… do phước đức đời trước, tham cầu diệu đế chân như,
niêm hoa mỉm cười mà ngộ đạo Bồ Đề vô thượng; dấu ấn còn in như
tuyết, một y một bát không ngăn đến nơi nào đều rủ ánh từ. Lục diệu,
6 thông để tùy thân mà ứng hóa. Nay làng của… tên chùa… thay thế
danh lam… gọi là cổ sát. Tàng kinh các còn đó, ảnh hưởng tới cả
nghìn sau, cơm Hương Tích thơm lừng, huệ mạng diên trường bao nhiêu
năm tháng. Từ ngày… bổn sư (tôn sư) quy tịch (hoặc lui về ẩn tu…
thay đổi cho thích hợp) do đó chùa không người trông coi. Tuy không
bị thiên ma quấy nhiễu mà con đường giác còn bị cách ngăn, nếu không
nhờ tích trượng gõ đầu thế ai biết được có bảo châu nơi trán. Do đó
hết sức nỗ lực, xin chẳng từ khó nhọc, cho chúng con phục hồi, làm
chốn Tổ rạng ngời để an ủi niệm hoài mong của con cháu; vì… cổ đại
thọ ban phát ân từ che chở. Từ nay trải vàng trên đất, mở rộng cam
lồ môn, trụ hội Linh Sơn, nghiễm nhiên còn mãi cho tới hôm nay. Đạo
tràng tuyển người làm Phật được hứa khả; cảnh quan này ngày càng
thêm sáng tỏ. Kính mấy lời tỏ bày ngắn ngủi, với tấm lòng thành
không phải dụng tâm, ngưỡng mong chứng giám. Những lời bày tỏ nêu
trên kính xin Hòa Thượng thượng A hạ B chứng minh liên tọa. Hộ pháp
(tên), thí chủ (tên);Trụ Trì (tên)… xin cúi đầu tác lễ".
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Việc
hưng suy của tòng lâm do nơi Trụ Trì cả. Trụ Trì không đủ tầm vóc (uy
tín) làm sao thỉnh cử đảm trách vai trò thường trụ. Biết mà vẫn nhất
định đề cử làm suy hoại Tam Bảo; cũng nhân đây mà người được cử gặp
họa, phúc, thăng trầm v.v... hết thảy đều do nhân duyên cả. Cho nên
đôi bên đều phải thật cẩn thận chọn lựa cân nhắc kỹ càng.
- Sơn Am
tạp lục ghi rằng:
- - "Dịch
Hưu Am người Dương Châu là khách thường lui tới cửa chùa Thiên Đồng,
mặc áo nạp, ngày ăn một bữa, đêm không ngủ; theo phong cách của cổ
đức. Lúc bấy giờ ở Phụng Hóa thượng chùa Tuyết Đậu thiếu Trụ Trì,
mọi người mời Dịch tới Trụ Trì; Dịch hân hoan cầm một chiếc nón lá
ra đi. Chưa đầy một năm thay đổi hết mọi việc trong chùa. Lại hủy bỏ
áo nạp, nay bị khinh miệt. Huống chi ăn ngày một bữa nay ví như cái
đảnh chứa thóc kho trước sau, sân giận nổi lên. Người phạm trai ngã
lăn xuống đất dùng quyền cước công kích, lòng ung dung tự nghĩ hết
bị buộc ràng Trụ Trì. Y bèn ra vùng ngoại ô mua nhà dân lập am mà ở,
hằng ngày lấy của riêng sinh hoạt. Tranh chấp nhà với Tăng chùa Trúc
Lâm, việc kiện tụng đưa ra pháp luật xử, đuối lý thua kiện đương sự
buồn bực mà chết. Ôi! Trụ Trì tệ hại như thế! Nhưng Dịch không Trụ
Trì nữa sao lại như thế được? Việc này đều do người thỉnh cử không
xét kỹ thật hư, chỉ tin người bề ngoài mà đưa tới sự việc rối rắm ấy.
Sốt sắng mời thỉnh Trụ Trì mà làm hại đến như thế! Lại nói rằng Đông
Nham năm 81 tuổi, người Giang Tây mà cả tăng tục đều tự nhiên mời
Trụ Trì chùa Thiên Đồng. Lúc đó chùa Thiên Đồng bỏ trống, Nham nghĩ
tuổi già nhận trọng trách này chẳng qua để được ở yên, bèn gọi tín
đồ Đông, Viên, Khánh, 3 người phân chia việc chùa. Chưa tới 5 năm mà
ổn định được trăm sự chùa bỏ hoang phế. Ngoài ra đáng kể, tài sản,
tôn tượng, ruộng đất để cung cấp cho Tam Bảo. Người Phật tử vui mừng,
người xuất gia yên ổn. Xem 2 việc trên để biết có sự khác biệt sâu
xa, thành bại xem hiển nhiên thời việc đề cử thỉnh mời rất quan
trọng không thể không cẩn thận, sáng suốt.
- Chọn
ngày đã quyết định phải kể đến chùa gần hay xa. Nếu gần, Thủ Tọa cho
chúng rước đến; nếu xa, 2 vị quản chúng 2 liêu sắp xếp đi sang chùa
mới trước. Người đại diện phải thưa bạch với tân Trụ Trì, nếu từ
chối liền thôi. Phàm nhập tự nên chuẩn bị các thứ bông hoa, trà quả,
đèn nhang… sẵn sàng. Tới ngày dự định tổ chức lễ đón Trụ Trì về chùa.
Thông báo ghi rõ: “ngày… tháng… lúc… giờ… toàn viện chư tăng đại
chúng nghe hiệu lệnh đắp y hậu chỉnh tề ra trước cửa chùa đón vị Tân
Trụ Trì nhập tự.”
-
Đúng ngày, thỉnh 3 hồi chuông trống Bát Nhã, đốt hương
đèn các bàn thờ tươm tất. Đại chúng ra cửa đón từ xa tới gần, đứng
2 hàng đối diện nhau chắp tay cung kính. Tân Trụ Trì vái chào, vào
bàn thờ Tổ lạy Tổ rồi bước ra. Chánh điện trước đặt tích trượng,
tràng phan, thủ lư, bát nhang, phất trần, thủ xích Như Ý để sẵn theo
thứ tự. Chúng đứng đối diện 2 bên, Tân Trụ Trì đứng giữa niệm hương,
lễ Tam Bảo. Tri Sự gìới thiệu với đại chúng, mời tân Trụ Trì
đăng tòa thuyết pháp. Trong lúc giới thiệu Thầy đến lễ Phật Di
Lặc, Quan Âm, Địa Tạng hay Phổ Hiền, Văn Thù Bồ Tát, bàn hộ
pháp Vi Đà. Duy Na cử tán:
- - "Vân
Lai Tập Bồ Tát ma ha tát" (3 lần).
- Đại
chúng hành lễ xong, Duyệt Chúng dẫn 3 hồi Khánh và 3 tiếng xướng
đảnh lễ Tam Bảo. Tụng nghi thức cầu an ngắn gọn xong. Đại
chúng làm lễ Tân Trụ Trì và mời Thầy ngồi vào pháp tòa ở trước đại
điện Phật, nói vài câu thăm hỏi, lý do tới Trụ Trì. Tân Trụ Trì chỉ
ngồi mà thuyết một vài câu sâu sắc ý nghĩa và chúc nguyện ngôi chùa
bền vững, tứ chúng an hòa. Kế quan chức (nếu có) niệm hương, thị giả
tiếp hương cắm vào lư. Chỉ người nối pháp kế thừa niệm hương, Trụ
Trì đáp tạ thâm ân giáo dưỡng Thầy Tổ, đại chúng chúc mừng, quan
chức bày tỏ niềm hân hoan. Kế đến người trong viện chúc mừng trước
tăng sau tục; tiếp theo là mời Thầy thăm nhà kho, viếng phòng khách,
lễ đường, nhà trù, các nhà phụ, liêu chúng… Khi nghe hiệu trống,
chúng trở lại chánh điện làm lễ cúng ngọ. Nếu bận rộn, cúng ngọ có
thể dời qua ngày hôm sau cũng được. Tân Trụ Trì nhất nhất niệm hương
đảnh lễ, và cúng ngọ xong tới trai đường thọ trai. Thọ trai hoàn tất
những vị cựu Trụ Trì, chuyên sứ, hộ pháp mời Tân Trụ Trì duyệt xem
lại kỹ tờ khế ước giao kèo, tất cả vật dụng và tiền bạc, gạo thóc
các mục xong, mọi người lui về. Tối chúng vào phòng Trụ Trì mời thầy
nói tiểu tham. Xem nghi tiểu tham có đề cập ở trước. Chừng 15, 20
phút xong, mời xuống trai đường uống trà và xem qua Nội Quy chùa.
Phàm đặc sứ và những người đi thỉnh sư nhất loạt đều mời cùng uống
trà chung, cho tới khi tiễn họ về phòng nghỉ. Sáng hôm sau công phu
xong, sau giờ điểm tâm, đại chúng công tác. Tới giờ cúng ngọ , theo
hiệu lệnh chúng vân tập làm lễ cúng ngọ trước chánh điện. Sau khi
thọ trai xong, Tri Khách hướng dẫn Tân Trụ Trì thăm lối xóm. Ngày
thứ 3, sau thời công phu sáng, vì tín chủ lập chùa nên hôm nay có
thời thuyết pháp. Khi điểm tâm xong, chúng công tác, chuẩn bị mọi
việc tươm tất đàn na đặt bàn và thiết đặt các đồ cúng. Tri Khách
bạch Duy Na mời 10 thầy cúng ngọ. Tân Trụ Trì châm trà cúng Phật,
cúng Tổ. Tân Trụ Trì đãi cơm chay cảm tạ người sứ và đền đáp công
lao đại chúng. Nếu đông người, nên dọn sang phòng khách cũng được.
Những người công quả, chấp lao phục dịch ở chùa đều nên đền công lao
bằng tiền. Mỗi người trả đồng nhau xem hôm nay như là ngày khai sơn
và cũng là ngày cúng Tháp chư Tổ, như nghi tảo tháp ở trước. Ở cách
xa nên chuẩn bị trước. Buổi lễ tối hoặc thông báo ban chức sự, Tân
Trụ Trì nên lưu lại dự, nếu không chấp thuận muốn lui về, nghỉ nên
để qua vài ngày sau, đợi cho Tân Trụ Trì hơi rãnh việc một chút rồi
hẳn tổ chức cúng lễ cũng không muộn.
- Chứng
nghĩa ghi:
- Có một
giấc mộng được kể rằng, trước đây chư sơn đường đầu (trụ trì) một
lần nhập tự nhậm chức có thu nhận của đàn na thí chủ cúng dường một
án hương, tức là lễ nhập phương trượng, nhưng phẩm vật lại đưa vào
kho chùa. Việc đơn giản cúng hương bằng tiền bạc, cúng dường đã
chuẩn bị sẵn như của khách nhưng thuộc Tam Bảo. Nếu của để dành lo
việc riêng thời chẳng nên nghĩ của thuộc về thường trụ, cho vật của
ta là vật của Tam Bảo. Dù là cúng hương cũng phải thuộc của thường
trụ. Nếu vạn bất đắc dĩ phải nhận dùng vào việc riêng, cũng nên tình
thật bạch chúng biết mà không được một mình tự tiện. Đây là bổn phận
của Trụ Trì theo đúng nghi cách.
- Xưa
Đông Sơn Không thiền sư trả lời tài năng của mình bằng cách mượn dấu
chân làm sách tóm lược như sau:
- - "Trong
sách bàn về dấu chân chẳng biết xuất xứ của thường trụ ư?"
- Không
Thượng Tọa hỏi:
- - “Nếu
xuất phát ở hư không, không cũng có gì?"
- Nếu
xuất phát của thường trụ là lấy của Tam Bảo làm của riêng. Một việc
liên hệ tư là ăn trộm, đâu biết trộm dùng của Tam Bảo chứ?.. v.v…
-
Lại như Sơn Am Tạp Lục ghi rằng: Vân Ngoại Hòa Thượng về
già trụ trì chùa Thiên Đồng, lấy Tam Bảo làm việc mình, trăm việc
hoang phế đều làm mới lại, không cao ngạo, chẳng tham tích trử,
không ăn riêng, được của cúng dường đem chia cho tăng thường trụ;
tiếp xử chúng rất cẩn trọng. Dù với kẻ hậu sanh cố chấp cũng bỏ qua
không để ý tới. Hai buổi cháo cơm vẫn mang bát tới trai đường dự bửa,
thân tuy thiếu thốn mà tài đức vẫn dồi dào. Cho tới khi viên tịch,
tơ hào không chứa làm của riêng. Giới học giả cảm mến đức độ hết lời
ca ngợi. Ôi, Trụ Trì như vậy mới kham làm được những việc lớn như
thế!
- Phàm
Trụ Trì có việc đi xa nên cho ở chùa biết trước một ngày và ra thông
báo cho chúng biết như sau: “ngày mai… lúc.. giờ Thầy Trụ Trì có
công tác Phật sự tại… trong vòng… ngày. Đại chúng khi nghe hiệu lệnh
vân tập lại tiễn Thầy lên đường Phật sự.”
-
Sau giờ ngọ trai, Thầy Trụ Trì bạch chúng tại trai đường;
giao phó việc chùa lại cho Giám Viện trông coi trong thời gian Thầy
đi vắng. Tới ngày đi, đại chúng tập trung lại đưa tiễn, Thầy vào lễ
Tổ, lạy Phật xong; đại chúng lễ Thầy và đưa ra tới cửa rồi mới trở
vào. Phàm Trụ Trì đi vắng vào những ngày Mồng Một, Rằm ở nhà vẫn lễ
bái như thường cho tới khi Thầy về. Thị giả trước tiên báo Tri Khách
biết ngày Thầy về, và đại chúng cũng rước mừng Thầy trở về như lúc
đi. Nếu vắng trong nửa tháng hoặc một tháng; còn như sáng đi chiều
về hoặc đi vài ba hôm chỉ cần cho Tri Khách, nhà trù biết là đủ, đại
chúng khỏi cần đưa đón. Lại nếu Thầy về mà đại chúng không hay để
chào hỏi liền sau thời Tịnh Độ xong, chúng lên phòng đảnh lễ,
thăm hỏi và xin lời pháp ngữ.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Việc ra
đi trở về của Thầy Trụ Trì, là theo qui định Phật sự xưa, có ngày đi
cũng như ngày về. Trụ Trì xưa lãnh chúng làm đạo, nếu không phải là
việc chung của Tam Bảo chưa hề dám ra khỏi chùa. Nay thì thân làm
Trụ Trì mà chẳng biết lãnh chúng luận đạo, suốt ngày kiếm cớ ra
ngoài du hí để cầu danh, mong lợi, họ làm mất đạo đức nguy thay!
Song lại có nơi dung túng trưởng dưỡng, cho là thư giản sự khổ nhọc.
Tuy gặp việc chung phải đi nhưng cũng để lại người xử lý, trái lại
là làm mất sự quân bình, tức là động chúng.
- Ngu Am
Chích Cổ ghi rằng:
- Xưa ở
Phụng Tân viện Huệ An, có Lâm Hồng Châu đạo Khổng, ở quận có Sư Chân
Tịnh chọn người làm chủ vì một nhóm đạo không chịu làm việc. Lúc đó
có Tuệ Uyên thủ tòa, ương ngạnh tự chuyên, dù đối với ông Chân Tịnh
đã có giấy giao kèo. Việc tranh chấp lâu ngày làm tức tối, người ta
không biết cho rằng, ỷ số đông không tuân mệnh lệnh, bèn thưa Sư
Chân Tịnh rằng:
- - "Tuệ
Uyên là người như thế nào?"
-
Tịnh nói:
- - "Y
có đi cũng được",
bèn đuổi luôn. Uyên được công nhận bèn bỏ đi. Trạm Đường hỏi:
- - "Công
Trụ Trì như thế nào? Uyên đáp:
- - "Tuệ
Uyên này vô phúc vác cái giỏ tre gõ phố cúng chúng.
- Trạm
Đường làm kệ tiễn chân. Đã ở Huệ An như chỗ đền bù, như thế suốt 30
năm, gió mưa không thay đổi; trăm việc hư hỏng đều sửa sang; chết ở
Viện Huệ An, thiêu xác được xá lợi, 6 căn không rả; có mùi hương lạ
thoảng nhiều ngày. Ôi, từ cổ chí kim thường đem “gõ phố cúng chúng”
làm trụ trì, chỉ có Sư là một người duy nhất mà thôi. Cho nên, chép
câu chuyện ra đây làm niềm vui để khuyến khích kẻ khác.
- Trụ Trì
hoặc nhận lời của chùa khác thỉnh, hoặc tuổi già hay do bịnh hoạn,
hoặc duyên đời không thuận… tự xét thấy phước mỏng liền biết điều
nên thoái chức. Âm thầm cho 2 trưởng chúng hay thương lượng để họ
tìm cách nói trước đại chúng, cho biết rõ lý do thoái chức.
- Phàm cử
vị khác thế phải cân nhắc cẩn thận, tìm người đạo đức hoặc biết tông
tích rõ ràng, hoặc thành tích trong sạch, đáp ứng được sự mong mỏi
của số đông mới có thể rước về trụ trì. Nếu có nhiều người kham nhận
nhưng cùng một lúc khó quyết định nên đối trước tượng hộ pháp Vi Đà
cầu nguyện. Nếu được chấp thuận, Trụ Trì là người hợp đạo lý đáng
tôn trọng, chùa viện được mở mang. Nhất định không thoả thuận riêng
với người làng, cùng các bô lão và người thôn trưởng. Nên biết họ
không lấy việc Tam Bảo làm trọng, e có bè nhóm riêng hợp tác sẽ rơi
vào tệ sang đoạt. Cần nhất phải thận trọng đó. Nếu việc mời thỉnh
Tăng đã hứa, liền đem của Tam Bảo như tiền bạc, lúa thóc, vật dụng
các thứ đăng ký lưu vào sổ, nhất nhất rõ ràng nên kê ra từng mục,
mỗi thứ 3 bản. Trụ Trì giữ một bản, cựu Trụ Trì giữ một bản và người
có trách nhiệm giữ một bản; dùng con dấu Tam Bảo đóng vào đó để lưu
chiếu về sau.
- Trụ Trì
trước một ngày tới giữa trai đường nói lời từ giả chúng. Sau đó lên
chánh điện nói lời thoái lui không nhận việc nữa và sang dãy nhà
đông chính thức mời một người có đức quán xuyến thay Trụ Trì. Đợi
sau khi Trụ Trì đến, cùng 2 lãnh chúng giao ước minh bạch. Tân Trụ
Trì nên rõ ràng tuần tự coi xét việc chùa vừa mới được giao phó. Nên
đối với từng việc rành mạch, giá như Trụ Trì trước có làm hư hỏng
hẳn phải lo tu bổ lại các thứ. Ban chức sự nếu có báo cáo điều gì
nên chờ cho tân, cựu Trụ Trì bàn giao việc rõ ràng, dứt khoát, nếu
không đợi tân Trụ Trì đến mà đi trước, thì Thầy Giám Tự chấp quyền
thay. Và đến dãy nhà Đông ôn tồn hỏi tân Trụ Trì để bàn giao việc.
- Chứng
nghĩa ghi:
- Việc
tòng lâm hưng suy do quan hệ việc nhận chức, thoái chức, giá như có
một dự định của Tam Bảo bị tổn thất, cho nên không thể không cẩn
thận. Đến như việc thoái chức, nếu người có đạo đức, biết sống lương
thiện đạm bạc, hẳn không quá tham quyền.
- Sách
Thiền Hoàn Bí Yếu ghi rằng:
- - "Có
vị thủ tọa tới tham vấn Long Môn Phật Nhãn thiền sư là Đổng Trăn
Nguyên Áo".
-
Phật Nhãn phái đến ở phân viện, Sư cố từ chối nói rằng:
- - “Đây
không phải là việc nhỏ, như kim châm vào mắt, nếu sai một tơ hào ắt
làm hỏng cả mắt. Nguyện đời đời ở học viện mà tôi luyện.”
- Phật
Nhãn nhân đó dùng kệ tán dương rằng:
-
- "Biết đạo
chỉ nhân lần nhượng bộ
- Khiêm
hòa do tự ngộ bản tâm
- Chẳng
biết mình đưa lên mây xanh
- Chỉ đem
thân ở chúng thực hành".
- Lại như
Phước Châu ở viện Chương Sơn làm am chủ, phạm hạnh không ai bằng,
chí tham cầu Tổ đạo. Nhà Nguyên Sa ở châu Dự (nay thuộc phía Nam
tỉnh Hà Nam) biết rõ việc này. Nguyên Sa ghi lại rằng:
- - "Thiền
tôi đã vượt ngoài quy tắc".
- Về sau,
sư cần một người hầu cũng không có. Từ đó Sư không cần qui tụ đồ
chúng, không nuôi trẻ nhỏ hầu mà ở ẩn tại một dãy núi nhỏ; chùa lớn
bề thế mà giống như thảo am chỉ cốt dung thân mà thôi.
- Tại
vùng Nam Đảng thuộc Hàng Châu có thiền sư Pháp Không hầu hạ Tử Tâm
đã lâu, sau được trao pháp muốn từ khước bỏ đi. Tử Tâm ấn ký rằng:
- - "Ông
phước mỏng, nên lấy đạo tự tu dưỡng".
- Sau
sống ở Nam Đảng, chưa đầy một tháng chùa bị cháy. Biết là không
người để di chúc Sư than rằng:
- - “ Ta
trái lời tiên sư nên gặp khổ nạn ngày nay.”
-
Ngoài ra Ngu Am Chích Cổ ghi rằng:
-
Cảm thiền sư ở Hoàng Long, thấy người kiểm lâm trong
quận lấy việc xâm hại rừng lấy làm trò cười, bèn làm kệ ném vào y,
rồi bỏ đi. Kệ rằng;
- - "Chùa
viện thuộc trong nước đại Tống
- Châu
thuộc châu cũng của đại Tống
- Trong
châu có viện chẳng nương sống
- Một bát
du phương rộng Ngũ Hồ…"
- Khiến
sứ giả đuổi theo thì đã sang bên kia sông rồi. Xem 4 việc này hẳn
thấy khí tiết đẹp của cổ nhân cũng có thể biết trách nhiệm của Trụ
Trì quan trọng ra sao. Không thể đề bạt người không phước đức hành
xử mà nên cử người xứng đáng đã lượng định cân nhắc kỹ càng trước.
-
5.33 Bản
Chẩn (Chẩn Bịnh)
- Phàm
Trụ Trì bịnh biết rằng bịnh nặng, Giám Viện phải bàn thảo với Thủ
chúng, người chấp việc đến phòng xem xét. Nếu có đông người nên đưa
vào phòng khác. Giám Viện thưa bạch:
- - "Bạch
Hòa Thượng hôm nay là ngày… tháng… năm … Trụ Trì bổn tự bỗng gặp
bịnh duyên, sợ gió máy không lường được phải dời sang dãy nhà Đông.
Nếu có vật tùy thân như y bát, mời thầy thư ký ghi chép để tiện việc
hậu sự. Mong đại chúng tri tường, kế mở các món đồ ra xem xét gồm
những thứ gì. Dưới đề ngày… tháng… năm… Thủ tọa ký; Giám Viện ký,
Duy Na, Tri Khách ký tên.
-
Cất giữ những món tùy thân đó, đợi khi nào hết bịnh mới
giao lại cho chủ nhân.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Từ xưa
Thánh hiền lâm chung, nếu có bị những bịnh hiểm nghèo đoanh vây bứt
ngặt không thể tránh khỏi được đó do nghiệp báo trước đã đến. Song
chẳng làm tổn hại tới tư cách của người bịnh. Nếu các thầy nhỏ trông
nom bịnh phải cẩn thận với hiếu tâm, chớ thấy bịnh nguy mà tỏ ra
khinh thường.
- Ngu Am
Chích Cổ ghi rằng:
- - Tử
Tâm Ký con của Nam Công, nằm mộng thấy thần mách bảo:
- - “Sư
đang bị chứng bịnh đầu phong (điên dại) hiểm nghèo, nghỉ việc chùa
lui về nơi tiểu am để dưỡng bịnh.”
- Sư Kỳ
nhờ tiểu nhắc Từ được gọi là Dương Kỳ Am chăm sóc bịnh, đi khất thực
trong làng, giữ hiếu tâm không chán nản. Sư Kỳ gọi Từ bảo rằng:
- - “ Ta
nối pháp Hoàng Long, vì việc hành đạo quá nặng không ngờ nửa đời cảm
ác báo thế này. Ta không gây nhân đó sao có ngày nay? Như bây giờ
buông bỏ hết không tu hoàn toàn được tự do.” Thét lên một tiếng rồi
tịch. Lễ trà tỳ có mùi thơm lạ, lưu lại nhiều xá lợi. Ngu Am có bài
tụng rằng:
- - "Đại
Thánh hiện oan khiên
- Cũng
đau nhói triền miên
- Nghiệp
sư Ta đáng trả
- Thần
nhân báo mộng liền".
- Tiểu sư
nghe câu chuyện xong liền đi tham vấn mới hiểu được, rồi trở về thấy
tâm định tĩnh: cổng nâu lá xanh cỏ xanh, vắng người, chim đậu. Đẩy
cửa cầm bát ra xóm khất thực, bịnh tăng, người mất.
- Giờ
viên tịch sắp đến, phàm người săn sóc bịnh nhân cần niệm Phật lớn
tiếng để trợ giúp vãng sanh. Sau khi viên tịch chờ tàn một cây nhang
mới sắp xếp tang lễ, hoặc đưa ra một số việc cần làm, nên chia đều
để tránh tranh cải nhau. Nếu y pháp cận bên nên liệm theo, để lại
tiểu sư không thể đắp được; vải gai khóc thống thiết. Thỉnh thủ tọa
chủ tang, những người khác túc trực ở phòng khách, nhà kho, nhà bếp
lo liệu công việc. Mọi Phật sự tùy nghi mà làm, đừng quên thể ông
tăng để không phí của Tam Bảo, không phiền lòng đại chúng. Nếu Trụ
Trì có công với Tam Bảo, tăng chúng nên niệm nghĩ ân đức, như y bát
chưa truyền đều nên tiến hậu thương tiếc.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Công
tích người lúc sanh tiền tới lúc lâm chung mới trắc nghiệm, không
hẳn là người có bịnh hay không bịnh, mà chỉ xem trước giờ ra đi có
nhẹ nhàng, tự tại hay không mới biết được mà thôi.
- Sách
Thiền Tông Bí Yếu ghi rằng:
- - "Thiền
sư Động Sơn Lương Giới lúc thị tịch, hỏi chúng rằng:
- - "Lìa
bỏ cái xác nhơ này hướng về đâu để chúng ta gặp nhau?
- Chúng
không trả lời. Theo lời Ngài dạy bảo: cạo tóc, tắm rửa thân thể sạch
sẽ, cho thỉnh đại hồng chung để Ngài từ biệt chúng. Ngài an nhiên
ngồi mà hóa, lúc đó đại chúng thương quá kêu lên, níu lại không cho
đi. Sư bỗng mở mắt bảo chúng rằng:
- - "Người
xuất gia tâm không tùy vật là tu hành đúng; tham sanh úy tử, thương
tiếc giá có ích gì!"
- Nhưng
chủ sự khiến bày thiết trai kéo dài 7 ngày, đồ ăn đầy đủ, Sư cũng
tùy chúng thọ trai xong, bèn nói:
- - "Nhà
tăng vô sự, đại hạn lâm hành đừng nên náo động".
- Nói
xong về lại phòng, ngồi ngay ngắn mà tịch.
- Lại như
thiền sư Thúy Nham Khả Chân lúc sắp lâm chung hiện bịnh rất ngặt
nghèo, nằm vật vả dưới đất, nghiêng qua một bên không cục cựa. Triết
khai thị tỏ lòng thương cảm nói rằng:
- - "Bình
sanh chê Phật mắng Tổ, nay làm gì thế kia?"
- Sư thấm
thía quát lên rằng:
- - "Ông
cũng làm vậy thấy giải không?"
- Liền
ngồi dậy kêu thị giả đốt hương khói xông lên rồi thị tịch. Hai bậc
cổ đức này lúc lâm chung đều có bịnh khổ nhưng đều tự do tự tại như
thế, há không nhờ tích lũy công huân tu tập hay sao!
-
Lại trong kinh ghi rằng, người lúc lâm chung muốn nghe
tiếng chuông, tiếng khánh làm tăng thêm chánh niệm cần thiết ngay
trước lúc hơi thở chưa dứt hẳn. Ngày nay thời đi thẳng, người mất
tắt thở chưa bao lâu đã tới lúc nhập quan, tụng Kinh, gõ khánh đã
không kịp nữa rồi. Tuy nhiên, đây là việc của người còn lại; nếu
người chết lúc sống tu hành tịnh nghiệp đến lúc này thời hẳn được
người khác trợ lực cũng như gấm có thêu hoa. Nếu người chết lúc sanh
tiền không tu tịnh nghiệp đến lúc này đây hoàn toàn trông vào tha
lực, chính là từ trước lúc tắt hơi thở trở đi niệm Phật ngay cho tới
khi nhập quan về sau. Tuy không mong được lợi ích, nhưng lợi ích có
thừa. Nhưng chắc chắn việc trợ niệm không thể thiếu được mà luận về
đạo có thể đem an lạc giúp đỡ chứ? Chỉ có lúc lâm chung mới qui tụ
được người đồng chí phân ban niệm Phật, giúp người mất được chánh
niệm vãng sanh. Nên niệm Phật là điều không thể thiếu được.
- Ngoài
ra, nên sắp xếp với nhân viên nhà thương hay nhà quàng không được
động tới thân xác trong vòng mấy tiếng đồng hồ. Trong thời gian đó
nên luân phiên niệm Phật không dứt. Sau đó mới tắm rửa, thay quần áo
và di chuyển thi hài đi nơi khác.
- Quan mà
có sách gọi là khám, là rất sai lầm. Có bàn rõ ở phần chứng nghĩa.
Phàm người bịnh nguy kịch, phải chuẩn bị cổ quan tài trước như kiểu,
vật liệu ra sao v.v… càng đơn giản bao nhiêu càng tiện việc thiêu
bấy nhiêu và cũng đỡ được một phần chi phí. Hơi thở người mất vừa
dứt là dẫn mõ theo tiếng niệm Phật cho tới lúc nhập quan. Mời các
thầy nhiều chùa tới làm lễ nhập quan. Vị chủ sám làm phép sái tịnh
trên – trong quan tài, đậy nắp xong, liền thuyết pháp ngữ. Nên quỳ
thuyết nếu người mất lớn tuổi hơn (sám chủ) đáng hàng hậu bối cần
phải chắp tay nghiêm chỉnh. Ban lời pháp ngữ xong, Duy Na bạch:
- - "Trở
lên công đức niệm tụng, phụng vì đại Hòa Thượng tân viên tịch (thay
đổi theo phẩm vị: Thượng Tọa, Đại Đức v.v…) của lễ nhập quan trang
nghiêm báo địa, 10 phương ba đời chư Phật, hết thảy chư đại Bồ Tát,
ma ha bát nhã ba la mật".
-
Tụng bát nhã, hồi hướng. Kim Quan đặt tại phòng khách
luân phiên tụng niệm 4 người một ban tụng Kinh A Di Đà, niệm
Phật, đêm ngày không gián đoạn cho tới khi di quan. Các khóa
lễ sáng, tối đại chúng đều đến trước Kim Quan tụng Kinh, tới giờ ngọ
cử 2 người cúng ngọ mỗi ngày và tiến giác linh:
-
- "Giác linh
đã tạo các nghiệp ác
- Đều do
vô thỉ tham sân si
- Từ thân
miệng ý mà sanh ra
- Hết
thảy gốc tội, đều xin sám hối".
- Ngưỡng
mong giác linh bất loạn, chánh niệm rõ ràng vãng sanh ngay về cõi an
lạc, diện kiến Phật Di Đà và các Thánh chúng, tu
hạnh 10 địa chứng Niết Bàn lạc. Mười Phương ba đời hết thảy chư Phật,
chư đại Bồ Tát chứng minh tiếp độ. Nếu giác linh có di chúc vật
gì nên tụng thêm Kinh Phạm Võng. Căn cứ qui tắc xưa nhập quan
vị tăng, phải giặt giụa quần áo cũ, ngoài mặc y 7 điều từ trên đảnh
cho tới dưới chân, chuỗi hạt đeo tay, tọa cụ đặt dưới chân, ếm trà 2
bên thân thể, đậy nắp quan dùng tro niêm kỹ. Dù người thân đến thăm
cũng không được mở nắp quan tài, không phô trương hiếu tâm, không
rộng nêu liên hệ đi điếu, không mặc đồ gai bố đội vải trắng, không
bày từ cáo phó, không chiêu nhóm thí chủ làm thân thuộc, không làm
đám theo thế tục, chỉ chú tâm tụng niệm mà thôi. Những vật dụng, y
bát hết thảy đem cúng cho chúng. Trụ Trì còn như thế, những vị khác
phải biết noi theo.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Gần đây
có một việc gọi là khám ngồi đã thành thói quen mà không biết là
trái lời Phật dạy. Căn cứ theo Kinh Niết Bàn quyển hạ, Đức
Thế Tôn ở thành Câu Thi Na giữa 2 cây song thọ, Ngài nằm võng
yên lặng thị tịch nhập quan mà hóa. Than ôi! Phật là bậc chí tôn của
3 cõi mà còn nằm như ngủ nhập quan, người tăng sĩ học Phật cũng phải
dùng quan tài rõ ràng. Vì thế Lục Tổ Đàn Kinh ghi rằng: "người
chết nằm không ngồi!". Chỉ một câu này cũng cho thấy đương thời
Lục Tổ mất cũng nằm trong quan tài. Việc nói về tọa khám hoàn
toàn do háo danh mà phát sanh, nếu quả thật bình thường thiền định
lực sâu có thể ngồi mà hóa thì tọa khám không có trở ngại. Nếu lúc
sanh tiền một đời lo việc ngoài không học tham thiền, lúc lâm chung
gượng ép ngồi khám, thật là phí khí lực. Vả lại thần thức chưa hoàn
toàn thoát hẳn cũng khó qua được nạn khổ.
- Ngu Am
Chích Cổ ghi rằng:
- - Hòa
Thượng Phổ Hóa ở Trấn Châu đời Đường Hàm Thông nguyên niên (năm đầu)
sắp thị tịch hướng sang mọi người xin một cái áo dài, có người cho
một áo ngủ hoặc đưa cho miếng vải tang. Ngài đều không nhận. Ngài
Lâm Tế sai người đưa tới một áo quan liền cười nhận ngay, rồi lên từ
biệt chúng mà rằng:
- - “Ngày
mai Phổ Hóa chết ở Đông môn”.
- Người
trong quận nghe đồn rủ nhau kéo ra xem, Sư bảo:
- - “Hôm
nay chôn không hợp quạ xanh, ngày mai đi ra Nam môn mà hóa”.
- Mọi
người cũng đi theo xem. Lại nói rằng:
- - “Ngày
mai ra Tây môn tốt hơn”. Mọi người ra đợi ở đó càng lúc càng đông,
đi ra rồi lại đi về, khiến ai nấy mỏi chán cho tới ngày thứ tư, Ngài
tự bưng quan tài đi ra cửa Bắc rồi thúc mõ nhập vào quan mà hóa. Đây
cũng là một chứng minh việc dùng quan tài của cổ đức vậy.
- Đã nhập
quan xong đặt quan tài nơi trượng thất chỉ cách ngăn treo màn trướng,
bày các đồ cúng như lúc sống. Giữa pháp tòa trên đặt chân dung và
long vị. Nhân tuần thất trần thiết phẩm vật cúng, ngoài ra, lư nhang,
bình hoa phải chăm sóc gọn gàng sạch sẽ, đốt nhang liên tục, 2 buổi
dâng trà, cơm, thức ăn cúng dường. Nếu chư sơn trưởng lão và quan
chức hàng tôn quí phúng viếng, môn đồ lạy đáp lễ cho phải phép. Ban
đêm kéo màn che quan tài lại, để quan tài tối đa 3 tuần rồi hỏa táng
nhập tháp. Tháp cao 6 mét, không nên phí quá nhiều công; gạch đá và
vùi xác vô ích. Như có múa hát, âm nhạc v.v.. các loại thảy đều
không nên dùng mà chỉ chư tăng niệm Phật dẫn đường mà thôi. Đám tang
Trụ Trì hết thảy phải thật qui mô và theo nghi cách xưa.
Tiếp đón các vị khách cho đủ lễ nghi không nên thiếu sót, thì
đám mới trang trọng; đồ đạc của họ không di dời chỗ khác. Phàm pháp
tử, giới tử, đệ tử thế độ (xuất gia) nhiếp tâm lo việc tang lễ mà
thôi. Lục Tổ Đàn Kinh ghi rằng:
- - “Sau
khi Ta diệt độ đừng theo thế tình thương khóc rơi lệ. Nhận người
điếu tang trên mình luôn mặc đồ tang.”
- Đó là
lời Tổ dạy nên tuân thủ, nếu không, chẳng phải là đệ tử Phật, cũng
chẳng theo đúng chánh pháp. Nếu 2 bên biết rõ bịnh nặng phải đưa tới
phòng khách chờ viên tịch, đặt quan tài trong 3 ngày. Phàm tịnh nhân
lâm trọng bịnh sau khi chết, nhập liệm hành lễ để chỉ một vài ngày
liền đem hỏa thiêu, không để lâu hơn, cũng như không thiết cúng đủ
các nghi.
- Chứng
nghĩa ghi, ngài Vân Thê Liên Trì nói rằng:
- Người
để tang chỉ buồn thương bên trong không nên để lộ bi thương sầu khổ.
Căn cứ theo Kinh Đại Niết Bàn, dù không dạy để tang song lúc Phật
lâm Niết Bàn, chúng vỗ về kêu khóc thống thiết đến đổi có người thổ
huyết. Nay đệ tử ta gặp tang há không buồn sao? Chỉ có điều không
nên giống người đời gào khóc, lăn lộn thôi. Lại như gần đây các vị
Trụ Trì viên tịch, hàng đệ tử lấy lụa viết chữ lên đó cầu chuyên gia
khắc vào tháp. Hẳn lúc còn sinh tiền cha mẹ thấy điềm lạ… sau khi
chết hỏa thiêu, lưu lại vô số xá lợi v.v… đâu phải không có điềm lạ
này là không thành bậc tôn túc đâu? Vả lại, do tông môn chúng ta tôn
trọng, chỉ lo giới-định-huệ mới thật chân tu, mới là thật đức; dù
thiền, giáo hay luật cũng thế, những việc khác đều là phụ không đáng
kể. Đến như việc hỏa thiêu mà hỏi có phần nào còn nguyên vẹn (các
căn bất hoại), lưu lại xá lợi… đều do bình nhựt người ấy có tu hành
nghiêm tịnh, cũng đâu phải dễ đạt lắm sao? Nói về áo quan có bài thơ
rằng:
-
- "Luận xét
cổ quan
- Quí giá
tự phân
- Như
muốn trọng sang
- Bị
người khinh thay!"
- Học đồ
làm một bài thơ chế giễu như trên, đều ghi nhận như thế để lưu lại
cho đời đám tang vị sư mà không được như trong nhà đạo.
- Ngu Am
Chích Cổ ghi rằng:
- - Thiền
sư Vân Môn Yển thuyết pháp như mây mưa hoàn toàn không còn ai ghi
chép, thấy có người ghi liền mắng rằng:
- - “Ông
ngày không tu, trái lại ghi lời tôi để dịp khác bán tôi chăng.”
- Nay
trong phòng có dịp bàn đều là rừng hương dùng giấy làm áo, theo chỗ
nghe sách mà đạt. Ôi! lời pháp ngữ còn chẳng vui ghi, huống gì là
lời hoa mỹ dối gian khác ư?
-
5.37 Lễ
Hỏa Táng - Thiêu Xác
- Phàm
việc tổ chức lễ hỏa táng phải dự định ngày giờ trước. Cung thỉnh ban
chức sự đâu đó xong rồi. Sáng hôm hành lễ tụng Kinh Di Đà,
thỉnh di ảnh đảnh lễ Tổ trước giờ di quan. Chủ sám tuyên pháp ngữ
trước Kim quan, sái tịnh, niệm Phật rước linh mô ra xe. Thủ chúng đi
trước hướng dẫn niệm Phật, chúng theo sau cùng niệm, mọi người đều
tỏ lòng thương cảm. Hiếu đồ đi theo xe Kim quan đi chậm tới lò thiêu.
Tới nơi, đưa Kim quan vào địa điểm, hành lễ theo thủ tục hành chánh:
chủ sám hoặc một vị tôn túc thuyết pháp cho người dự nghe và cũng
nói pháp ngữ nhắc giác linh nữa. Phát biểu cảm tưởng của quan khách,
điếu văn, đọc điện tín phân ưu, hiếu đồ cảm tạ… Chủ sám hành lễ, mọi
người đứng chấp tay nghiêm chỉnh theo lời xướng của chủ sám:
- - "Tân
viên tịch đại Hòa Thượng thượng A hạ B… đã thâu thần an nhiên thị
tịch, theo như pháp thiết lễ trà tỳ, Ngài hóa thân trăm năm hoằng
hóa, nhập Niết Bàn vắng lặng từ nay. Mong đại chúng thành tâm xưng
dương Phật hiệu.
- - "Ngưỡng
mong đuốc tuệ rạng soi
- Thân
phàm hoại thể, tánh giác vẫn hoài
- Hoa
giác ý tuần tự mở khai
- Biển
pháp tánh trải đầy
- Rưới
sạch bụi dày trần tâm
- Ba lượt
trà châm
-
Hương xông
một nén
- Phụng
tiễn Kim quan
- Tôn
linh chứng giám”.
- Ngưỡng
mong đại chúng tề thanh xưng dương Phật hiệu trợ niệm giác linh sớm
vãng sanh Tây phương Cực Lạc quốc.
- -
"Nam Mô A Di Đà Phật" (3 lần).
- Đại
chúng cùng niệm và màn vừa kéo lại. Mọi người cúi đầu chào tiễn biệt
rồi lên xe trở về chùa làm lễ an sàng.
- Chứng
nghĩa ghi rằng, Phật dạy:
- Tăng
viên tịch nên thiêu tán, làm cho lìa phần đoạn thân tạm thời đó mà
chứng pháp thân thường trụ. Người thế gian thấy việc này không theo
kịp, cho rằng thiêu xác là vô tình bất nhẫn. Ngày nay có một số vị
tăng sợ thiêu nên dặn dò đừng thiêu, thật là chí tệ thậm tệ. Lại có
ngộ nhận cho rằng, người truyền một đời Trụ Trì không cần thiêu,
cũng lầm vậy. Đúng như Lục Tổ phái Tào Khê đã chứng được pháp thân
bất hoại, xác lưu lại không hư rả, nếu chưa được bất hoại thiêu đã
cháy trọn.
- Xưa
thiền sư Sở Thạch thị tịch đời Hồng Võ năm thứ ba vào thời kỳ đó cấm
hỏa thiêu. Ngài di chúc lại là muốn tuân lời Phật dạy, vua Minh Thái
Tổ đặc biệt mở biệt lệ. Ôi, bậc Thánh minh còn đạt được vậy; huống
hạng ngu tăng nên tàm quí không có đất chôn! Có người hỏi Ngài Liên
Trì rằng:
- - "Ngài
muốn lâm chung thiêu xác được không?"
-
Sư đáp:
- - "Phép
thiêu xác Đại Thừa cho phép; Tiểu Thừa cấm ngăn".
- Đại
Thừa lòng bi sâu rộng, nhẫn lực hoàn bị nên nghe tối thiểu chấp nhận
được. Tiểu Thừa chỉ biết tự lợi, bi nguyện mỏng cạn, cộng thêm nhẫn
lực chưa cao, giá gặp lâm nguy mà mất mạng thì sự phương hại có thể
thắng được sao? Huống gì hoặc tham thân do cái danh gắn liền sau,
hoặc do nhất thời khích động không còn giữ chánh niệm phải chuốt lấy
quả khổ, nên Phật cấm vậy. Lại các pháp hữu vi, bị ma trói buộc lúc
sanh tiền ưa làm điều bất chánh, si mê, tà kiến, gần gũi cùng ác ma,
nhân đó bám riết theo. Tác động đầu tiên về ý niệm thiêu thân, kế
trở thành việc thiêu thân, lấy ma lực thêm vào. Ngồi ngay ngắn giữa
ngọn lửa dường như không thấy nóng, như không có gì cả? Ma lui tan
bị thảm hại đau khổ, không thể dùng lời gì dụ được. Trải qua trăm
kiếp ngàn đời, chết làm oan hồn thật là đáng thương xót. Cho nên
biết rằng chết mà không thiêu cũng như chưa chết mà thiêu đều chẳng
đúng luật Phât. Thời mạt pháp tăng đồ phải biết thích nghi mà làm
cho đúng. Lại vì tăng viên tịch mà thuyết pháp, chỗ hiểu đạo mình
chưa thông làm cho thần thức có chỗ bị trở ngại; thật tế là muốn
khai thông người mất. Phàm sau khi vị Trụ Trì viên tịch, phải thỉnh
một vị danh đức thuyết pháp là việc trước tiên trong các Phật sự.
Ngoài ra, những việc khác như đậy nắp quan, mở nắp quan v.v.. do chư
tăng. Duy Na và Thủ Tòa thưa hỏi Trụ Trì hoặc tự thuyết, hoặc nhờ vị
khác thay thuyết. Duy việc mồi lửa tức thiêu xác phải là Trụ Trì (vị
danh đức) đích thân đảm trách. Ngày nay cũng có nơi đặt Ban Thủ lo,
đã sai qui tắc xưa; thậm chí còn nhân danh này nọ để thuyết pháp.
Còn cổ đức một khi gặp đủ cơ duyên mới thuyết không câu nệ buộc ràng.
-
Sơn Am Tạp Lục ghi rằng:
-
- Vô Chuẩn trụ trì chùa Kính Sơn, vì xem Thượng Tọa hạ
lửa nói:
-
- “Quán sát biển cả khéo là nước, tận cùng của sóng chỉ
là bọt nước, bây giờ biển tan, bọt cũng mất; Quay đầu ngó lại nhà
mình chìm đáy nước!”
-
Đả danh thuyết pháp, từ đó trở đi nhân đó bắt chước gọi
theo, đến nay chốn tòng lâm dùng từ “đả danh” làm định thức lôi kéo
đâu có thích hợp, hoàn toàn không gốc gác mà cho là khai ngộ người
chết, kết quả là gì? Ngoài ra không vì tăng viên tịch thuyết pháp đả
danh, tức là kệ phú pháp; mà cũng có nhiều người nhân danh dựa cảnh
để nói, đã không hợp bản chất thật tế mà chỉ theo ngọn bàn thảo thật
khôi hài. Giả sử nói được 10 sự thật cũng thuộc lời trau chuốt mà
thôi chứ nào có ích gì đâu!
- Thiêu
xác xong tới ngày thứ nhì phải nhập tháp. Chuẩn bị mọi việc, thông
báo giờ giấc, cử hiệu lệnh… Đại chúng vân tập trước tháp, đưa linh
cốt nhập vào tháp. Nếu là đường xa, chỉ mời ban chấp sự chừng 20
người đến trước tháp, đứng trang nghiêm, niệm hương, xướng lễ, tán.
Duy Na bạch:
- - “Tân
viên tịch đường thượng Hòa Thượng thượng A hạ B; y như pháp đã trà
tỳ, còn xương cốt đem nhập tháp, lưu trăm năm cho đời; nhập vào
đường Niết Bàn. Ngưỡng mong đức chúng thành tâm trì tụng kinh chú,
niệm danh hiệu Phật trợ lực giác linh.”
- Bạch
xong, tụng Kinh Di Đà, chú vãng sanh (3 lần). Chờ cho một vị
tôn túc thuyết pháp xong. Vị đại diện bổn tự cảm tạ, đại chúng đồng
niệm:
- -
"Nam Mô A Di Đà Phật".
- Tri
Khách mở tháp cho hộp tro cốt nhập vô xong, đóng tháp lại. Duy Na
chấm dứt câu niệm Phật. Xướng tán Di Đà, phục nguyện. Duy Na bạch:
- - "Trở
lên việc tụng niệm để trợ lực giác linh vãng sanh Cực Lạc quốc.
Ngưỡng mong cỏ sạch trên chõm, hoa nở tốt tươi quanh tháp. Sáng tỏ
bên trong tướng vô kiến đảnh tròn đầy. Cõi Ta Bà ở thế gian, đầy
phiền não trần lao mong thoát khỏi. Chí thành 3 lạy, một nén tâm
hương, phụng tiễn đường mây, cúi xin chứng giám.
- - "Chí
tâm đảnh lễ Nam mô Từ Lâm Tế Chánh Tông… thế …Hòa
Thượng Giác Linh" (3 lạy).
- Chứng
nghĩa ghi:
- Cứ theo
lệ cổ chỉ có Tổ khai sơn và kế thừa có công lớn đối với Tam Bảo mới
tôn tạo tháp, những vị Trụ Trì bình thường khác nhập tháp phổ đồng,
tháp chung các đời Trụ Trì mà thôi. Chùa tạo tháp hoặc 3 tầng, 5
tầng hoặc 7 tầng hay 9 tầng khác nhau. Nếu xây 3 tháp, chính giữa
tháp Trụ Trì, bên tả chùa và là tháp chung của các tỳ kheo thập
phương, bên hữu bổn tự là tháp chung của các Sa Di thập phương. Nếu
tháp Ni đưa về chùa am Ni, không lập trong chùa tăng. Như dùng tháp
5 tầng, giữa thờ Trụ Trì, ở giữa bên trái phía trong chùa thờ các tỳ
kheo, bên phải phía trong thờ thập phương tỳ kheo, bên trái các Sa
Di, thêm Ưu Bà Tắc, bên phải 10 phương Sa Di cũng thêm Ưu Bà Tắc.
Hay tháp 7 tầng, 5 tầng giống như trên. Chỉ phân riêng Ưu Bà Tắc, Ưu
Bà Di đặt thành 2 tháp riêng. Gần đây bên tả chùa lại có thêm tháp
tỳ kheo ni, bên hữu chùa thêm tháp Sa Di Ni. Và tháp Ưu Bà Di thờ
chung thành ra tháp 9 tầng. Lại gần đây tháp Ni đại bộ phụ thuộc nơi
chùa Tăng, không hợp cúng tế, viếng thăm gây ra trăm điều phức tạp
nên không thể không xét lại.
- Sau lễ
nhập tháp, tại nhà kho, phòng hội, 2 dãy liêu chúng ban chức sự,
Giám Viện, Duy Na, Tri Khách, Trị Nhựt, Thủ Khố, đồ tắm giặt, y bát
v.v… đồ dùng của người mất. Trừ khi có dặn dò đem tặng cho người nào.
Mời Giám Viện, Duy Na đem mỗi món đấu giá, chiếu theo thời giá bớt
7%, Thư Ký ghi vào sổ sách, Tri Khách biên số, Trị Nhựt kiểm lại;
liệu để lại một vài món tạ công khó người chăm sóc bịnh. Phàm y cụ,
mùng mền v.v... có 4 góc nên để vào của thường trụ. Ngoài ra, đem
viết số hiệu, số mấy, món gì… giá bao nhiêu chẳng hạn buộc vào trên
món đồ chính, định giá đầy đủ chi tiết. Nếu là vị khác, phải bạch
Trụ Trì biết. Duy Na bạch rằng:
-
- "Mây bay
tan mà ảnh không còn
- Đèn tắt
lịm nên sáng tự mất
-
Lưu y làm
biểu tượng để tin
- Qui
cách khéo liệt Tổ phải gìn
- Dùng
pháp phá dứt sạch xan tham
- Vâng
mệnh trên làm gương quy phạm".
- Hôm nay
xướng đấu giá dùng theo giá bất thường, ngưỡng mong đại chúng niệm:
- - "Thanh
Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá
Na Phật".
- Nam
Mô Tỳ Lô Giá Na Phật
(108 hiệu) xong, hồi
khánh chấm dứt.
- Lại
bạch rằng:
- Hôm nay
bạch đại chúng, đấu pháp y theo giá thường định; cũ mới, dài ngắn
mời quý vị nên đấu theo món đồ giá biểu. Mỗi món có số ghi rõ, sau
khi nghe tiếng khánh dứt là ngã giá không kéo lui lại nữa.
- Bạch
xong, Giám Viện cầm món đồ giơ lên đấu giá từng món một. Duy Na gõ
dứt một hồi khánh, là món đó đấu xong. Thư Ký ghi số, món gì, thâu
tiền. Tri Khách, Trị Nhựt đối chiếu lại, hoặc cùng lúc tiền và vật
giao 2 món, phó Trụ Trì so lại đúng rồi nhận tiền. Tri Khách đưa đồ
cho khách. Hoặc hẹn ngày tới kho lấy đồ và giao tiền. Phàm quần áo
nên ủi thẳng nếp, định giá tiền; trường hợp Thầy viên tịch có để lại
tiền bạc cũng ghi vào sổ lưu. Nếu tài chánh dồi dào, chia thành 3
phần: 1 phần lo việc tang lễ các thứ, kể cả hương đèn, hoa quả…, một
phần cho vào quỹ Tam Bảo và một phần cúng dường công đức chư tăng dự
tang lễ. Nếu người mất thanh đạm, nghèo, phải lấy quỹ Tam Bảo lo
tang lễ. Các Thầy cũng phải thông cảm trường hợp này.
- Đấu giá
xong, niệm Phật, hồi hướng. Duy Na bạch rằng:
- - "Trở
lên công đức tụng Kinh, đấu giá, phụng vì kỳ nguyện Hòa Thượng tân
viên tịch thượng A hạ B được thập phần viên mãn. Ngưỡng mong thập
phương thường trụ chư Phật, Thánh hiền chứng minh tiếp độ giác linh
cao đăng Phật quốc".
- - “Nam
mô A Di Đà Phật”.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Việc
đấu giá có thể vì thấy rõ đạo tâm của người mất. Đạo tâm mới quan
trọng, của cải tự xem nhẹ; người xem của cải nặng, hẳn coi đạo tâm
mỏng cạn, đó là điều hiển nhiên vậy. Ngu Am Chích Cổ ghi rằng: xưa
có một vị tôn túc mà hàng hậu bối trong tông môn đều kính trọng. Vào
cuối đời bị chỉ định trụ trì một ngôi tự viện; chính vì được Vua ban
ẩn thưởng trọng hậu. Lúc lâm chung nhà vua rất tiếc thương ban cấp
tiền lo lễ tang. Quần thần tâu, tiền của vị tăng quá giàu nên có sự
tranh chấp làm cho trên không vui, Ngài liền ngủ trước khi mất. Ngài
Ngu Am có bài tụng rằng:
-
- "Bạn không
thấy trên núi Tuyết Sơn
- Có đồng
tử con vua Kim Luân (Phạm Vương)
- Bỏ
vương vị như bỏ giày rơm
- Trong 6
năm sống giữa tuyết sương
- Gần
kiệt sức còn da bọc xương
- Có gì
là đời một đế vương!"
- Lại nữa,
há không thấy Tổ Ca Diếp tu hạnh đầu đà(8) ngày ăn một bữa,
áo quần gai bố thô sơ đó sao!
-
- "Trăm vạn
tòng lâm đoạt gấm hoa
- Hai độ
tôn sư được thủ khoa
- Tôn túc
thân giáo sư
- Thuyết
pháp phải như hà (sông)
- Tôn túc
của các gia
- Trên
giận y bát quá đà…"
- Đến
tuần thất 5 đem bài vị thờ chung vào Tổ đường. Tới tuần thất thứ 7
cúng tuần chung thất. Mỗi tuần cúng thất hoặc vị kế thừa hoặc đệ tử
thọ giáo thiết lễ cúng hay chúng thường trụ cúng tiến. Lúc đặt bài
vị nên cúng ngọ tại Tổ đường.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Kinh
Phạm Võng quyển 39 phần giới khinh cho rằng: cha mẹ, anh em, Hòa
Thượng, A Xà Lê gặp ngày chết, tuần thất thứ 3, 5, 7 cho đến tuần 49
ngày cũng nên giảng Kinh luật Đại Thừa, làm lễ truy tiến. Phật đã
chỉ dạy đâu há quên sao? Chỉ nên làm sao thích hợp không tiêu phí
quá mức mà làm hao tốn của Tam Bảo.
- Sách
Tam Quy Chánh Phạm ghi:
- Sau khi Phật diệt độ,
dùng khắc, họa, nặn hình tượng Phật để lại cho đời. Đó là tượng Phật
còn để lại, về sau vì trụ trì Phật bảo là chỗ dựa hợp lý với niệm
tôn kính của ta; tượng ánh vàng sáng chói có thần sắc như sống động.
Nếu bị hư hại phải tự tu bổ sửa lại, chỉ e chùa nghèo không thể
quyên góp đủ tiền, hoặc có tín chủ phát tâm thành tu sửa cũng không
có gì trở ngại. Mong rằng không phải là mệnh lệnh cưỡng bức khiến
người không vui, làm cả đôi bên đều chẳng có lợi gì. Lại như ngày
nay nghe
tăng
đúc tượng Phật có hai tội:
-
Thứ nhất: Mượn cớ đúc tượng làm
nhân duyên quyên góp của tín thí cho vào túi riêng là chánh phạm.
Kinh Lăng Nghiêm quyển 3 nêu rõ lời dạy: Có tâm trộm là phạm lỗi lầm.
-
Thứ nhì: Đàn tín bỏ tiền đúc
tượng Phật mà vẫn dùng của Tam Bảo cũng phạm tội. Kinh Niết Bàn có
nêu rõ: ăn cắp vật của Phật mắc tội thuộc tội thứ hai này.
- Vì thế
phải răn dè cái tệ hại trộm của Tam Bảo này vậy. Ngu tăng chỉ tham
thấy lợi trước mắt chứ không sợ quả báo đau khổ về sau; bèn nói tăng
là Phật tử. Y thực đều nhờ ánh quang Phật nhưng phóng ý làm dối tự
cho là được, thật là đáng thương xót! Đến như tu tạo tuy không nhất
nhất cho đầy đủ tướng hảo, nhưng cũng phải giống một phần lớn chẳng
để đến độ bị nhầm lẫn. Nay tạo tượng Phật với tướng nhục kế(9)
, lông trắng giữa chặn mày, chữ vạn ba tướng ấy hoàn toàn mất
gốc tướng Phật. Căn cứ 32 tướng tốt của Phật, một tướng nhục kế phải
ở ngay đảnh có màu hồng nổi cao nên gọi là vô năng kiến đảnh. Nay đa
phần cho ra trước, lại chẳng nổi cao thật là sai lầm. Đến như 2
tướng bạch hào, tướng chữ vạn đều không thấy thợ tạo chi cả. Việc
đúc tượng của Tây Tạng, chỉ có nhục kế là đúng pháp, còn chữ vạn làm
cho có, đến như tướng bạch hào cũng lại không thấy. Ngoài ra, tượng
Phật miền Tây lưng nhỏ làm lệch hơn là đúng pháp; tượng các nước
phía Đông lưng thô không phải là tướng Phật. Đây chỉ là mới đề cập
một vài nơi có liên quan tới đại thể (việc chung). Vả lại, đề cập
việc tu tạo như thế cho người sau có tạo tượng Phật cần nên lưu ý.
Nội chỉ một tướng bạch hào thôi mà thợ nặn không biết tô lên một lớp
nước châu xương (đỏ) nơi giữa 2 hàng lông mi cũng tạm được, vì xem
đây là ngoại lệ. Tướng hảo phải thấy mà sức thợ có thể làm được. Vì
thế trích dẫn kinh để hoàn bị điêu khắc đúng pháp gần giống như Phật
thật.
- Phàm
đúc tượng Phật quan trọng là trong ngày khai công, trước nên cúng
ngọ, đọc sớ đầy đủ để cầu mọi sự tốt đẹp. Sớ rằng:
- - "Từng
chiêm ngắm thân sắc vàng tía của Phật là làm mô phạm cho toàn pháp
giới. Hiện tướng bạch hào sáng soi rọi khắp cõi Diêm Phù Đề này cảm
hóa lòng thành của sự ngưỡng phục, đặc biệt sắc vàng tử kim dùng cho
tượng gỗ, tượng đất; chừng biết có 14 trời hạ giới. Thành tâm niệm…
(xưng tên người niệm) không gặp đời tượng pháp, thương thân mắc tội
báo sâu dày. Tưởng nghĩ bóng từ dung, may nhờ thiện căn làm duyên
khởi. Nay cung tựu tại chùa… tạo lập tượng Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật, tượng tốt một pho, bên trái Tôn Giả Ca
Diếp, bên phải Ngài A Nan, khiến cho người người ngưỡng
vọng để sanh tâm kính lễ, chốn chốn theo gương tạo phước điền lương
hảo. Đặc biệt chọn giờ… ngày… tháng này, trước nghĩ tưởng hồng ân;
mong xin gia bị. Kể từ hôm nay lập mô hình bắt đầu cho tới ngày
tượng hoàn thành viên mãn. Mọi việc rắc rối phức tạp không bị ảnh
hưởng; mọi duyên hổ trợ được thuận chiều; nhờ oai thần che chở, công
tạo tượng được suốt thông. Đẹp tốt lạ thay nhờ kiệt xuất công phu
của tay người thợ khéo không thể sánh ví. Sáng soi các biểu tướng uy
nghi, y chánh báo viên thành; trăm ức cõi hàm mông gió hòa mưa thuận,
nước thịnh dân an, tín thí gội nhuần ân, tòng lâm hưng thạnh, long
thần hộ vệ đời, đạo mong nhờ. Lời bày tỏ bên trên, ngưỡng mong
Tam Bảo chứng minh gia hộ. Công trình khởi công tạo tượng Phật
văn sớ. Phật lịch 2550, ngày… tháng… năm…
Trụ Trì …. Chí thành dâng sớ".
- Nếu sửa
tượng Phật cũ, đợi giờ cúng ngọ Phật xong, sau đó người thợ mới che
tượng lại và sửa.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Hầu
cạnh bên Phật người đời cho là A Nan, Ca Diếp là theo cách nhìn của
thiền tông như Kinh, luật, luận đã đề cập. Người luôn theo hầu Phật
thật ra là Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên chứ không phải Ngài Ca
Diếp và A Nan. Căn cứ luận Tỳ Bà Sa quyển 135, Ưu Ba Cúc Đa tôn giả
tự vì chưa từng thấy dung nghi Phật khiến ma vương hiện hình. Nhờ
quán Phật tượng, ma phải phục; tức ma hóa hình làm Phật, bên phải là
Xá Lợi Phất, bên trái Đại Mục Kiền Liên. Con ma này bèn thân tới gặp
Phật, điều này đủ để trưng ra bằng chứng vậy. Nhưng theo thiền tông,
người hầu Phật là Ca Diếp và A Nan Tôn Giả. Giảng giải người hầu
Phật là Xá Lợi Phất và Đại Mục Kiền Liên tôn giả, nhưng Luật tông
suy luận phải là Ưu Bà Ly và Đại Ca Diếp Tôn Giả. Tùy theo các nhà
lập phái chủ trương mà tạo tượng thích hợp. Theo lý cũng đúng thôi,
vì pháp không nhất định vậy. Công đức tôn tạo Phật tượng như Kinh
Pháp Hoa ghi rõ: "nếu người nào vì Phật, tạo lập các hình tượng,
điêu khắc các biểu tướng Phật đều sẽ thành Phật. Hoặc dùng 7 món báu
tạo (hoặc), sắt gỗ và bùn đất, hoặc dùng vải sơn dầu vẽ tranh hình
Phật v.v... những người như thế đều sẽ thành Phật đạo".
- Kinh
Hoa Nghiêm, phẩm Hiền Thủ ghi rằng:
- Phật
lại phóng quang gọi là Hoan hỷ, ánh sáng làm cho hết thảy chúng sanh
giác ngộ, khiến cho họ yêu quí Phật, Bồ Tát mà phát tâm Bồ Đề nguyện
chứng đạo vô thượng. Tạo lập tượng Như Lai đại bi, các tướng tốt
trang nghiêm ngồi trên tòa sen, luôn hoan hỷ đủ công đức cao đẹp, vì
thế nên đạt được ánh quang minh này. Đầy đủ như các Kinh Lâu Các
chánh pháp, Kinh Cam Lồ cổ và Kinh Công Đức tạo tượng
v.v… đều có nói thân Phật đủ 32 tướng tốt.
-
Kinh
Phật thuyết bá phước Đại Thừa ghi rõ 32 tướng như:
- 1-
Bàn chân bên dưới bằng phẳng,
- 2-
Tay chân có màng thiên bức luân (như chân ngỗng),
- 3-
Các ngón tay, ngón chân thon dài,
- 4-
Tay chân đều mềm mại,
- 5-
Gót chân đầy đặn,
- 6-
Bàn tay, bàn chân ngón bao lớp màng mỏng,
- 7-
Mu bàn chân cao bằng phẳng,
- 8-
Bước dài như nai chúa,
- 9-
Đứng thẳng cân đối, tay thả xuống quá gối,
- 10- Âm
tàng ẩn kín,
- 11- Thân
cao lớn như cây Ni Câu Đà,
- 12- Mỗi
lỗ chân lông chỉ một lông mọc,
- 13- Trên
lông ngã theo một chiều sắc xanh mềm mại rợp về bên phải,
- 14- Thân
sắc vi diệu hơn cả vàng cõi Diêm Phù,
- 15- Thân
sáng tỏ một trượng ,
- 16- Da
láng mịn trơn không dính bụi,
- 17-
Hai vai tròn trịa,
- 18- Thân
to lớn nghiêm oai,
- 19-
Ngực như sư tử chúa,
- 20-
Hai nách dưới đầy đặn,
- 21-
Răng trắng lớn 2 răng cái
- 22- Có
42 răng
- 23- Răng
trắng khít đều mà chân sâu,
- 24- Bảy
chỗ đầy đủ (thất khiếu),
- 25- Trán
vuông như sư tử chúa,
- 26-
Trong cổ được chất thượng vị (nước miếng thơm),
- 27- Lưỡi
mềm nhuyễn có thể che tới mặt đến mí tóc,
- 28- Giọng
trầm sâu như chim Ca Lăng Già,
- 29- Mắt
như hoa Ưu Bát La,
- 30-
Tròng mắt như trâu chúa,
- 31-
Giữa 2 hàng lông mày có sợi lông trắng màu như tuyết bạch,
- 32- Trên
đầu có nhục kế (cục thịt mô lên như búi tóc).
- Và lại
có 80 vẻ đẹp tùy hình: bắt đầu từ nhục kế cao lộ lên tướng vô
kiến đảnh cho đến tóc dài không rối, bên phải trở lại xanh cam.
Ngoài ra 80 vẻ đẹp như Kinh tả rõ, ở đây không ghi ra hết, cộng lại
gồm có 192 tướng. Nếu tạo hình tượng Phật do mục đích thủ lợi
thì phạm tội như Kinh Lăng Nghiêm phần 3 quyết định khuyến
giáo giới rõ ràng. Kinh ghi rằng:
- - "Sáu
đường chúng sanh mà có tâm không trộm cắp thì không theo dòng sanh
tử. Tâm tham không trừ đọa trong sanh tử không có kỳ ra khỏi. Ta dạy
các Thầy Tỳ Kheo đi tới các miền để khất thực làm cho mình bỏ tâm
tham chứng đạo Bồ Đề. Này các Tỳ Kheo: không nên ăn đồ chín mà tàn
sát sanh mạng, qua lại 3 cõi chỉ một lần, đi rồi không trở lại nữa.
Nếu bọn tặc mượn y phục ta giả dạng thì sao? Buôn thần bán Phật, tạo
vô số nghiệp mà nói Phật pháp; phỉ báng xuất gia có đủ trong Tỳ Kheo,
là hạng Tiểu Thừa. Do vậy vô số chúng sanh nghi ngờ đọa vào địa ngục
vô gián (tra tấn liên tục không hề gián đoạn)".
- Tạo
hình Phật để thủ lợi cũng phạm tội như Kinh Niết Bàn
quyển sau phần trên ghi rằng:
- - "Nếu
sau Phật tịch diệt, kẻ thật tín tâm làm việc bố thí nên tạo hình
tượng Phật và y Phật, dùng 7 báu, phan lọng, nhang dầu, hoa quí để
cúng dường Phật. Trừ cúng dường Phật, không được dùng việc khác,
dùng vào việc khác ắt phạm tội trộm cắp đồ của Phật. Ôi, cúng dường
Phật mà còn chẳng xử dụng vào việc khác, huống gì tiền bạc đúc tượng
Phật, đâu có thể đem dùng vào việc khác sao? Nhân quả rõ ràng việc
thăng trầm đọa lạc đều do đây mà chuốt lấy. Tạo hình tượng Phật hoàn
thành viên mãn nên chọn ngày khai quang. Đúng ngày khai quang, đốt
hương đèn và các đồ cúng trang nghiêm, với 6 món đồ diệu cúng đều
bày biện đầy đủ. Trước mời những người đúc tượng, điểm đèn quang
minh. Chư tăng và trai chủ đảnh lễ Tam Bảo, trai chủ quỳ dâng hương,
đại chúng tán lư hương xong, Duy Na xướng lớn:
- -
"Nam Mô Thích Ca Như Lai"
- Đại
chúng hòa theo:
- - "Liên
tọa giáng lâm". (Các danh hiệu Phật, Bồ Tát khác cũng xướng như vậy).
- -
"Đại Ca Diếp Tôn Giả”,
- - “A
Nan Đà Tôn Giả."
- Đại
chúng hòa theo:
- - "Bồ
bặt liên tọa chứng minh",
xong chúng cùng tụng bài kệ:
- - "Diện
Phật sáng ngời như trăng sáng
- Như mặt
trời chiếu diệu thế gian
- Sáng
chiếu soi tỏ khắp mười phương
- Hỷ xả
từ bi đều sẵn sàng
- Như ở
hội này tạo Phật tòa
- Hết
thảy như thế trong trần gian
- Phật
thân không khứ cũng không lai
- Bao
nhiêu quốc độ thảy hiện ra".
- Điểm
chuông trống 1 hồi 3 tiếng, Duy Na đọc văn khai quang như sau:
- - "Từng
nghe rằng, mắt sáng rỡ thân vàng tía hiện thân 48 diệu tướng, lông
trắng giữa chặn mày, tướng chữ vạn phóng ra trăm ức tia sáng, tin
điềm lành ứng hiện ở ngay lúc này thật là mở đường vận thông".
- Lại
nguyện:
- - " Và
chúng con, mong khát khao được giáo pháp Thế Tôn diệu
dụng thanh tịnh. Ngưỡng mong Đức Đại Từ khai ngộ nơi tượng báo ở kim
thân quang tụ, đã trộn hòa đất vàng để hoàn thành bảo tướng. Hôm nay
chọn được ngày tốt khai quang điểm nhãn".
- Lại
nguyện:
- - "Phật
hiện tướng chân thật, phóng vô lượng ánh quang uy nghi đài sen, làm
nhân cho quần sanh đê đầu kính lễ . Rực rỡ ánh sáng kim thân chỉ cho
đệ tử chúng con cung chiêm lời dạy. Quy y Phật dứt sạch 3
đường ác, vâng theo lời dạy mà siêu lên 9 phẩm sen vàng. Nhất tâm
chí thành phụng thỉnh".
- Chúng
hòa:
- -
"Hương hoa
đăng phụng thỉnh", đệ tử … (tên Trụ Trì) chúng con nhất tâm phụng
thỉnh. Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
trăm ngàn ức hóa thân Thích Ca Mâu Ni Phật (những vị Phật, Bồ
Tát khác tùy thay đổi). Mong nguyện chẳng trái bổn thệ, thương xót
hữu tình phân thân hiện hình ở trên đài sen". Thỉnh 3 lần xá 3 xá.
Duy Na và sám chủ đều vận tâm thành thỉnh Phật Thích Ca theo
lời thỉnh mà đến, nghiễm nhiên đã ngồi trên đài bảo liên. Trai chủ
niệm hương, đại chúng đọc cúng bài kệ như sau:
- - "Tròn
đầy cõi pháp giới Phật thân
- Hiện ra
trước mắt mỗi chúng sanh
- Tùy
duyên ứng hiện khắp tướng không đồng
- Nhưng
luôn ngồi tòa Bồ Đề này".
- Án
chiên mộ già, Bát đầu ma, tốn nã lệ, đà la đà la nể, mạn nỗ lệ hồng
(3 lần).
- Xong
hồi trống 1 hồi 3 tiếng. Duy Na lại tuyên dương Đại Ca Diếp Tôn
Giả, văn khai quang như sau:
- - "Từng
nghe rằng, tánh linh trôi nổi nương gá, thiên thu nghĩ khó tròn huệ
mạng. Một phái diễn nối dõi mạch người của Long Hoa, phụng vì Tây
Thiên Sơ Tổ Ca Diếp Tôn Giả; tại hội Linh Sơn ngộ tâm ấn niêm
hoa trước tháp đa tử; đón gió mát linh reo, làm tiêu biểu cho cổ kim
truyền đăng, mở suối nguồn truyền pháp khắp Đông Tây; y bát lưu lại
đượm nhuần chốn nhơn thiên ngưỡng phục. Lại nghĩ: chúng con (thay
đổi) chìm đắm mê mờ nhiều đời nhiều kiếp, chớ nên thấy từ nhan mà
mĩm cười; vội yêu kính dung thánh. Đặc biệt giống tôn tượng của
Đại Ẩm Quang (Ca Diếp) kính chọn ngày lành khai quang điểm nhãn".
- Lại
nguyện:
- - "Ánh
sáng vàng kim rải khắp pháp giới làm cho rực rỡ, tâm từ mở rộng ân
che chở muôn loại quần sanh, khiến Tổ đạo được quang huy làm cho
chánh pháp trụ lâu dài".
- Duy Na
thỉnh:
- - "Một
lòng phụng thỉnh, đốt nhang thỉnh, đệ tử… (tên Trụ Trì), chúng hòa
theo: một lòng phụng thỉnh…
- - "Nam
Mô Đầu Đà Đệ Nhất Niêm Hoa Ngộ Chỉ Thiền Tông Sơ Tổ Đại Ca Diếp Tôn
Giả".
- Xin
nguyện chẳng trái bổn thệ, thương xót hữu tình, phân thân hiện tướng
vào ngồi liên tọa nơi đây.
- -
"Nam Mô Thiền Tông Sơ Tổ Ma Ha Ca Diếp Đại Tôn Giả"
-
Mong nguyện
Ngài theo Phật quang lâm đến đây thọ bổ tòa cúng dường này.
- - "Án
chiên mộ già, Bát đầu ma, tôn nã lê, đà la đà la nể, mạn nổ lệ hồng".
-
Tiếp tục Duy Na đọc văn khai quang tượng Ngài A Nan.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
-
Tiếng Phạn là Đại Ca Diếp, Trung Hoa dịch là Đại Ẩm Quang. Trong
số đệ tử Phật có thập lực Ca Diếp, Ưu Lầu Tần Loa Ca Diếp cùng họ
nên phải thêm chữ Đại để phân biệt với các vị khác. Gọi Tất Bát La ,Tàu
dịch là cây Bồ Đề, cha mẹ cầu thọ thần mà sanh Ngài nên theo cây đặt
tên; người nước La Duyệt Kỳ thuộc thành Vương Xá. Cha là Ca Tỳ La mà
đương thời xưng là đại phú trưởng giả. Ca Diếp nhân trong khi cùng
với một người đàn bà nghèo khổ đồng tạo tượng Phật Tỳ Bà Thi cúng
dường và họ thề cùng nhau thường làm vợ chồng. Thân sắc vàng thật
lấy thật, thân Ca Diếp có sắc vàng đủ 30 tướng. Người phụ nữ kia
cũng được kết quả thân sắc vàng như vầy. Tuy là chồng vợ nhưng tỏ rõ
không có oan trái, sau xuất gia được gặp Phật, nghe pháp liền đạt vô
lậu (dứt hết phiền não), Ngài sống lâu đến 130 tuổi. Người phụ nữ
kia cũng chứng 4 thánh quả. Ca Diếp tu hạnh khất thực, thực hành đầu
đà cho tới lúc tuổi già không thôi bỏ. Phật dạy:
- - "Ông
lúc về già các căn suy nhược có thể bỏ khất thực và nhận y cúng
dường".
-
Ca Diếp đáp:
- - "Con
phải suốt đời tu hạnh đầu đà".
-
Phật bảo:
- - "Lành
thay! Nếu Ca Diếp hành đầu đà mà thực hành suốt đời, pháp Ta hẳn trụ
lâu dài. Nơi hội Pháp Hoa Phật thọ ký cho trong đời vị lai được
thành Phật hiệu là Quang Minh Như Lai. Đến hội thuyết Kinh Niết Bàn,
Phật bảo các Tỳ Kheo rằng:
- - "Ta
nay có chánh pháp vô thượng đem phú chúc cho Ca Diếp, vì các ngươi
làm đại y chỉ".
-
Sau khi Phật diệt độ, có
cuộc kết tập tam tạng Kinh điển tại thành Vương Xá để hoằng dương
chánh pháp, và đến 20 năm sau mới đem giáo pháp phó chúc cho A Nan.
Ca Diếp nhận phó chúc tới núi Kê Túc (Trung Hoa) nhập định an trú,
đợi Phật Di Lặc xuất thế; giao phó pháp y xong mới nhập diệt bằng
nổi hỏa thiêu thân.
- Văn
khai quang tượng A Nan như sau:
- Từng
nghe rằng:
- Ngài là
Khánh Hỷ, xưa được di huấn Của Ẩm Kỳ Đồ, thân nghe pháp tạng, đón
nhận phó chúc tại hội Linh Sơn, cung kính A Nan Đà Tôn Giả
qua công lao kết tập, quán diệu nghĩa nơi thiên hoa. Ngài trí huệ đa
văn, truyền một giọt nước khác đồ chứa, cảm túc duyên cân bình. Nhận
tâm ấn nơi sư huynh Ca Diếp, lần theo giáo pháp, kham ngắm vóc thanh
như bạc, khát ngưỡng dung nghi. Đặc biệt tôn tượng thiếp vàng hoàn
tất, chọn lựa ngày lành khai quang điểm nhãn. Ngưỡng mong bậc Thánh
sư dũ lòng cảm cách.
- Lại
nguyện:
- - "Đèn
huệ sáng soi bằng vô lượng ánh sáng của mặt trời mặt trăng; sữa pháp
mênh mông như mạch nguồn của sông ngòi lưu chuyển. Cháu con không
ngừng nghỉ, Tổ đạo vững trường tồn. Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh".
- Đại
chúng hòa:
- - "Nhứt
tâm phụng thỉnh"
- -
"Nam Mô Đa Văn Đệ Nhất Thị Giả Phật, Tổ Thứ Nhì Của Thiền Tông, A
Nan Đà Tôn Giả
ngưỡng mong không trái
bổn thệ, thương xót hữu tình phân thân hiện tướng đến ngự nơi liên
tòa này". (Ba lần thỉnh xong xá 3 xá).
- Duy Na
niệm tưởng A Nan Tôn Giả theo lời thỉnh mà đến nghiễm nhiên
ngồi trên tòa bảo liên. Đại chúng tụng kệ dâng hiến tòa:
-
- "Nam Mô Thiền Tông Đệ Nhị Tổ, Kết Tập Tam Tạng A
Nan Tôn Giả" mong Ngài theo Phật quang lâm thọ bửu toà cúng
dường này.
- - "Án
chiên mộ già, bát đầu ma, tôn nã lê, đà la đà la nể, mạn nổ lệ hồng"
(3 lần).
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Tiếng
Phạn là A Nan Đà, Trung Hoa phiên âm là Khánh Hỷ. Vì sanh nhằm ngày
Phật thành đạo khiến tâm Vua hoan hỷ, toàn quốc hân hoan nên đặt tên
là Khánh Hỷ. Là em chú bác của Phật. Con Bạch Phạn Vương, là em ruột
Điều Đạt. A Nan mặt đầy đặn như trăng rằm, mắt như sen xanh, năm 8
tuổi xuất gia, 13 tuổi thị giả Phật, là đa văn số một. Nơi hội
thuyết Kinh Pháp Hoa được Phật thọ ký cho A Nan trong đời vị lai
thành Phật hiệu là Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai. Phật lại
bảo chư Bồ Tát rằng: Ta cùng A Nan thời Phật Không Vương cùng lúc
phát tâm Bồ Đề. A Nan thường ưa thích đa văn, còn Ta luôn tinh tấn,
do đó Ta được chứng quả Bồ Đề, còn A Nan hộ trì pháp Ta, cũng hộ trì
giáo pháp chư Phật trong tương lai nữa. Đến hội Niết Bàn, Phật khen
ngợi A Nan có 8 công đức khó thể nghĩ bàn và những việc thù thắng
khác. Lúc A Nan gặp nạn Ma Đăng Già, Phật sắc lịnh cho Văn Thù đem
chú hàng ma đưa A Nan về với Tăng đoàn. Theo như Kinh Đại Bát Niết
Bàn, sau khi Phật diệt độ, Ngài Đại Ca Diếp kết tập pháp tạng, đưa A
Nan lên ngồi tòa sư tử trùng tuyên lại các Kinh. Ca Diếp lúc sắp
nhập diệt đem pháp giao phó cho A Nan gìn giữ. A Nan đi khắp nơi
giáo hóa 20 năm, thường đến ngoài thành Vương Xá nơi tinh xá Trúc
Lâm, nghe các Tỳ Kheo tụng kệ rằng:
-
- "Nếu người
sống trăm tuổi
- Chẳng
thấy nước mưa cạn
- Không
bằng sống một ngày
- Mà được
thấy nước tràn…"
- A Nan
thương cảm nói rằng, đây không phải kệ của Phật nên nói, nên tiếp
theo:
-
- "Nếu người
sống trăm tuổi
- Chẳng
hiểu pháp sanh diệt
- Không
bằng sống một ngày
- Mà hiểu
được pháp này".
- Có vị
Tỳ Kheo hướng về các Sư thuyết, Sư nói:
-
- "A Nan cổ
lổ, nói không ai tin được"
- A Nan
sau khi nghe Tỳ Kheo kia nói thế, do đọc bài kệ trước liền tự nghĩ :
- - "Nay
các tỳ kheo không nhận lời dạy, tôi ở đời vô ích nên nhập Niết Bàn
là hơn".
- A Nan
liền đến cung Vua cáo biệt nhà Vua, từ giả Vua ra đi. Vua cho người
đuổi theo tới sông Hằng, A Nan lên thuyền ra giữa dòng, họ cúi đầu
bạch rằng:
- - “Ba
cõi cần đèn sáng mong Sư đừng nhập Niết Bàn”.
- Lúc bấy
giờ tại Tuyết Sơn có 500 tiên nhơn quán xem thấy A Nan muốn nhập
Niết Bàn, liền phi không mà đến cầu xin xuất gia. A Nan dùng thần
lực biến sông Hằng thành đất vàng, vì nhóm Mạt Điền Địa và các tiên
nhơn mà thuyết pháp được chứng đạt quả A La Hán. Lúc ấy Mạt Điền Địa
muốn nhập Niết Bàn trước, A Nan phó chúc rằng:
- - “Phật
thọ ký cho ông phải tới nước Kế Tân kiến lập Phật Pháp; nên xua tan
ý định nhập diệt, chờ đủ thời gian hẳn nhập diệt.”
- A Nan
phi thân lên hư không biến hóa 18 pháp thông đi như gió với Phấn Tấn
tam muội phân thân làm 4 phần: một phần cùng với Thích Đề Hoàn
Nhân(10) , một phần cùng với Bà Già Long Vương, một phần với Tỳ
Xá Ly tử và một phần cùng Vua A Xà Thế. Bốn nơi tại mỗi nơi đều khởi
sự xây tháp cúng dường xá lợi.
-
Duy Na bạch rằng:
- - "Trở
lên phụng thỉnh Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, nhị vị Đại
Tôn Giả Ca Diếp, A Nan. (Ngoài chư Phật, Bồ Tát khác tùy nghi
thay đổi), dùng thiên nhãn xa thấy, thiên nhỉ nghe rõ, tha tâm ắt
biết, thân thông suốt tự tại. Nhất niệm hay cảm hiển nhiên Thánh ứng,
thay tụng mật ngôn bao dung thấm rộng. Phật Như Lai có chân ngôn
phụng thỉnh ân cần nên trì tụng như sau:
- -
"Nam mô tam mãn đa mẫu đà nẫm. Án ô tá bát la đế, hạ đa đế, tát
phược đác đa nghiệt đa, cu xá mạo địa. Án sa lý giả một lý, bố la ca
dã tát ha"
- Duy Na
lắc linh tụng chậm rải 3 lần, nghĩ tưởng một vị tôn giả, hai vị tôn
giả ngồi trên liên tòa có ánh sáng giao thoa và bạch rằng:
- - "Mong
nhân bí mật sáng soi hào quang, trai chủ cùng đại chúng lạy 3 lạy".
Tụng chú Kiết Tường an vị Thánh tượng:
- - Đảnh
lễ Thế Tôn không ai trên, Ca Diếp, A Nan dũ lòng từ, con nay y giáo
an Thánh vị. Nguyện Đức Từ Bi xót thương nạp thọ, Ca Diếp Như Lai đủ
đại bi, trong các điềm lành kiết tường tối cao thượng, xin Phật hằng
đến nhập điện này, vì thế nơi đây rất an lành.
- - Câu
Na Mâu Ni thấy rõ ràng, trong các điềm lành kiết tường tối cao
thượng, Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây rất an lành.
- - Ca La
Cưu Đà như núi vàng, trong các điềm lành kiết tường tối cao thượng,
Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây rất an lành.
- - Tỳ Xá
Phù Phật sạch ba cấu, trong các điềm lành kiết tường tối cao thượng,
Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây rất an lành.
- - Thi
Khí Như Lai lìa phân biệt, trong các điềm lành kiết tường tối cao
thượng, Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây rất an lành.
- - Tỳ Bà
Thi Phật như trăng rằm, trong các điềm lành kiết tường tối cao
thượng, Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây rất an lành.
- - Phất
Sa Minh đạt đệ nhứt nghĩa, trong các điềm lành kiết tường tối cao
thượng, Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây rất an lành.
- - Đề Xá
Như Lai luận vô ngại, trong các điềm lành kiết tường tối cao thượng,
Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây rất an lành.
- - Ba
Đầu Ma Phật sạch vô cấu, trong các điềm lành kiết tường tối cao
thượng, Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây rất an lành.
- - Nhiên
Đăng Như Lai quang minh rực rỡ, trong các điềm lành kiết tường tối
cao thượng, Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây rất an
lành".
- Tụng kệ
xưng tán 10 vị Phật xong, tiếp cúng ngọ. Xem nghi cúng Phật đầy đủ
có nơi Thiền môn nhựt tụng nên ở đây không ghi hết.
-
Phần
phụ
-
Đọc
văn sớ như sau:
- - Từng
nghe rằng: "Phật ứng hiện thân tùy chúng sanh mà kết duyên hoan hỷ;
diệu tướng đoan nghiêm hằng bất động mà thăng điện quang minh, lúc
ấy có 14 trời hạ giới v.v…Nhiếp niệm: tên… vào ngày… phát tâm thành
tạo tượng Thích Ca Như Lai, Ca Diếp, A Nan, 3 bức Thánh
tượng. (các tượng Phật, Bồ Tát khác tùy đó thay đổi). Nay vào
ngày … đã thành tựu, tuân thừa quy tắc của chư Thánh, không như lăng
tẩm đời thường phi ánh sáng bị che bởi cây đạo thọ, nghiễm nhiên
thiền tọa tại Kỳ Viên cho người duyên phước quy y; hăm hở thắng lướt
mong lựa chọn giờ… ngày … tháng này an vị tòa sen viên thành pháp
tướng. (Nếu tụng kinh bái sám nên tiếp vào đây). Nguyện đem công đức
này, cẩn xin hồi hướng".
- Lại
nguyện:
- - "Bảo
tọa phân thân, ứng cơ độ khắp quần sanh hiện tướng bạch hào rộng mở
nhân duyên cõi pháp giới. Xin cúi đầu chắp tay cung kính gieo căn
lành. Như tâm niệm miệng xưng đều gội nhuần ân phước huệ, cầu chúc
nước nhà ổn cố, đạo pháp hưng long, tòng lâm yên tịnh; lớp lớp đệ tử
hiền thánh tới lui, chúng tăng hòa hợp, luôn luôn xứng đáng là con
của bậc long tượng. Bên trên văn sớ cung thỉnh Tam Bảo chứng minh,
tạo tượng viên mãn, sớ văn khai quang".
-
Đọc sớ xong, tụng Tiêu Tai Kiết Tường chú, đốt sớ,
trai chủ châm trà, đảnh lễ, tiếp đại chúng cùng đọc kệ chú này:
- - "Án
Sa ma la, sa ma la, di ma nẳng, tư cáp la ma, tư cáp la hồng"
(3 lần).
- - "Nguyện
ngày an lành, đêm an lành,
- Ngày
đêm 6 thời thường an lành,
- Hết
thảy các thời đều an lành,
- Nguyện
các thượng sư thương nhiếp thọ,
- Nguyện
ngày an lành, đêm an lành,
- Ngày
đêm 6 thời thường an lành,
- Hết
thảy các thời đều an lành,
- Nguyện
chư Tam Bảo thường ủng hộ
- Nguyện
ngày an lành,
- Đêm an
lành, ngày đêm 6 thời thường an lành,
- Hết
thảy các thời đều an lành,
- Nguyện
chư Hộ pháp thường ủng hộ".
- Tiếp
theo tụng Bát Nhã, sám văn, hồi hướng, phục nguyện, 3 tự quy y.
- Ngoài
ra, như tạo tượng Dược Sư, Di Đà, Văn Thù, Phổ Hiền v.v..
các thánh tượng khác lúc khởi công tạc tượng, khai quang, các nghi
đều giống nhau, chỉ khéo đổi văn kệ mà thôi. Kinh Hoa Nghiêm
10 Phật kiết tường kệ, chỉ liên quan tới Phật mới dùng; lập điện
Phật, lễ gác đòn dông, lễ khánh thành cũng có thể dùng được. Tới
ngày lễ, niệm Phật Thích Ca hoặc Phật khác hay Bồ Tát tùy theo tượng
tạo mà đổi xưng cho thích hợp.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Kệ
Kiết Tường trích Kinh Hoa Nghiêm quyển thứ 16, liên hệ Đức Thế
Tôn lần đầu tiên thăng lên đỉnh núi Tu Di, Vua trời Đế Thích trải
tòa ngồi cho Phật và thỉnh Phật an tọa; xong liền tụng bài kệ 10
Phật Kiết Tường này. Nay lễ khai quang cũng tụng bài kệ đó để an vị
tôn tượng Phật, vì tiêu biểu biểu tướng tượng Phật mới hoàn thành.
Đức Phật lúc giáng sanh cũng như thiên chủ thỉnh Phật an tọa, là
biểu tượng việc an lành này, để dứt trừ những việc bất tường.
- Lại căn
cứ theo Kinh Hoa Nghiêm, Phật lên các cõi trời Dạ Ma, Đâu
Suất, những vị thiên chủ ở đó thỉnh Phật vào tòa ngồi, trước cũng
tụng kệ thập Phật Kiết Tường này, huống gì người đời
đâu há lơ là ư? Theo ý tôi (người chứng nghĩa), phàm tạo tượng Phật
mới hoặc xây chánh điện nên in bài kệ 10 Phật Kiết Tường này nhiều
bản để tại điện Phật, nhờ Kinh này nói để ngăn ngừa được người tin
tà, do người đời tạo với ý như tin tử vi, giờ hoàng đạo…
- Sách
Tam Quy chánh phạm ghi rằng:
- Kinh
Lá Bối quyển vàng - ba tạng Thánh giáo - là Pháp bảo. Kinh điển
đã là trụ trì pháp bảo, là chỗ nương tựa, chân lý nên phải kính tôn,
khiến sửa sang tu bổ hoàn chỉnh theo thứ tự rõ ràng. Giả hoặc để lâu
ngày đóng bít trong phòng kinh bị sâu mọt, trùng đục khoét hư hao
hoặc trang chỉ sổ rớt, bộ pho hư hỏng mất mát v.v.. nên gấp lo tu bổ
lại. Hoặc quyên góp của thí chủ sửa lại cũng được; nhưng không được
dùng làm việc khác. Luận, Phật lấy pháp làm thầy, mà Tăng lại không
trọng pháp hay sao?
- Kinh
Phạm Võng giới thứ 24 nói về việc không cúng dường kinh điển có
ghi rằng:
- - “Là
Phật tử thường nên nhứt tâm thọ trì đọc tụng Kinh luật Đại
Thừa”; thậm chí ghi rằng:
- - “Nếu
không như pháp cúng dường, người ấy phạm khinh cấu tội.”
- Vì thế
ở tòng lâm đặt tri tạng hai người chuyên trách lo việc này. Phàm hàm
pho để ngay ngắn, sửa sang chỗ thiếu khuyết và những việc lấy sách
ra nhập vào v.v.. đều là nhiệm vụ của Tri Tạng trông coi, nhưng
tạng chủ phân chia 2 người chấp sự lo chăm sóc chu đáo. Phàm Kinh
sách không được đem ra khỏi chùa là quy tắc ấn định chung. Mùa hạ,
ít gió trời nắng ấm đem Kinh hong phơi, kiểm tra bộ số để trời mát
dịu lại đem bỏ vào hàm cất. Tăng chúng trong chùa có mượn xem phải
ghi sổ sách ngày… tháng.. năm…. Tên người mượn, tên cuốn kinh… hàm
số… lúc hoàn lại mới xóa sổ. Nếu có ai báo cáo lếu bằng nhiều cách
muốn lấy sách đi, trước phải kiểm tra lấy lại. Người để mất sách bị
phạt chép lại đền bồi xong, tẩn xuất ra khỏi viện. Nếu mất lúc kiểm
tra, Tri Tạng, Tạng chủ 2 người đều bị phạt chiếu theo số sách bồi
thường. Nếu mượn riêng hay người ngoài vô cớ làm mất cũng phạt. Nếu
trả sách nên gặp tại phòng khách, nhà kho hay phòng tri tạng, nhất
nhất nên kiểm tra lại rõ ràng. Giao công việc cho người mới đảm nhận
nên phải trước chúng rõ ràng. Nếu có kinh mới đặt vào chỗ phải cho
thích hợp nơi có ánh sáng. Nếu để gần nắng gió thì dễ bị rách, còn
đóng bít tối quá lại dễ bị hư mục… Giấy in mực đen, cho đến bìa sách,
đóng gáy v.v... đều lấy sạch sẽ, bền chắc làm đẹp; tuyệt đối không
nên tiếc của, uổng công làm lếu giống như khinh pháp vậy.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Tu sửa
bồi bổ kinh điển nên thể hiện với tâm tôn kính pháp bảo. Việc này hệ
trọng liên quan tới huệ mạng Phật pháp, nên đây cũng là trọng trách
của một ngôi chùa mà cần nhất là Trụ trì không tiếc chi tiền thời
việc tu chỉnh mới dễ dàng. Người trực tiếp điều hành cũng là nhân tố
quan trọng nên cần phải thận trọng. Ngay như ở tòng lâm việc khắc in
kinh lưu hành mà làm hưng long Phật pháp là quan trọng số một. Theo
ngu ý kinh điển khắc họa, biến chế in ấn càng nhiều càng được nhiều
lợi ích; không giống sách vàng trục đỏ nguyên gốc, chẳng phải là
kiệt tác lợi lạc nhiều người sau. Đây là việc chẳng mới mẻ gì như
ngày nay người xuất gia, tại gia đều có đầy đủ kinh điển để đọc tụng.
- Năm Gia
Hưng chùa Lăng Nghiêm khắc in lại Đại Tạng Kinh mới
lưu lại được bộ sách quí xưa. Nếu không có việc khắc in này Kinh
sách hẳn thiếu sót rất nhiều. Sách tiếng Phạn vốn đã khó mua, lại
bất tiện ngôn ngữ, đó há không phải là một khuyết điểm lớn của tăng
tục hay sao? Cho nên Trụ Trì tòng lâm phải có tâm hoằng pháp, nếu
được vậy tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng mới sáng lạn. Từ
đó có thể tùy cơ làm lợi cho người; giả như Trụ Trì nhiều việc không
có thì giờ, nhưng tùy sức biết Kinh điển quan trọng mà in số nhiều,
ấn tống rộng rãi, công đức vô lượng.
- Kinh
Hoa Nghiêm, phẩm Hiền Thủ ghi rằng:
- - "Lại
phóng quang gọi là pháp tự tại. Ánh quang này có thể làm tỉnh thức
hết thảy chúng sanh khiến đạt vô tận Đà La Ni (Ấn chú); hẳn nên giữ
gìn tất cả Phật pháp. Cung kính cúng dường người duy trì pháp, là
cung cấp, hầu hạ, giữ gìn chư Thánh hiền, đem pháp ban cho chúng
sanh, vì thế mà đạt được quang minh này. Ngoài ra, mỗi khi thấy tòng
lâm nơi nào Kinh tạng mà Trụ Trì bỏ bê chẳng quan tâm như không có
phận sự xem xét để mưa dột, ẩm ướt, côn trùng, sâu mọt, chuột đục,
dán nhấm v.v… phá hư không tu bổ, Trụ Trì như thế thời người chấp sự
phải biết định liệu. Người lơ là với Kinh điển như thế phạm lỗi lầm
có thể nói rất là nặng. Theo ngu ý, phàm nơi nào có Kinh tạng nên
cung thỉnh một hội đồng tăng dịch thuật làm cho Kinh điển được phiên
dịch, ngày càng được nhiều người đọc tụng, tức là thường chuyển pháp
luân, thật là một điều thiện lành của tòng lâm vậy. Lại còn làm lợi
ích cho người học đạo nữa. Giá như một ngày nào ra công làm mới kinh
điển là có thể kéo dài huệ mạng Phật pháp, đâu không đẹp thay! Đệ sợ
người đọc hữu danh vô thực, hoặc tư riêng mượn cớ để buôn bán đó;
việc này Trụ Trì phải tức thì điều tra là hay nhất".
- Ngu Am
Chích Cổ ghi rằng:
- - Thiền
sư Thê Hiền Thị, họ Cao, giữ giới luật nghiêm minh động thân không
trái pháp. Vào lúc cuối đời Ngài xem Đại Tạng 3 lần, cho rằng ngồi
đọc không cung kính nên đứng tụng, lúc đi mang theo. Việc này Cổ Am
có bài tụng rằng:
- - "Pho
bảo tạng chân xá lợi
- Trải
kiếp định huệ pháp thí sâu
- Chập
chờn xuôi ngược thuyền con
- Ra khơi
chẳng còn sợ gian nguy".
- Không
chỉ đứng tụng, đi tụng mà báo đền ân Phật được, nên biết hổ thẹn.
- Nói
theo xưa của tự viện nên dùng từ “tăng phường”. Sách Tam Quy
chánh phạm ghi rằng:
- - “Cạo
đầu, nhuộm áo nghiêm gìn luật nghi; hoằng dương Phật đạo hành trì
tăng bảo”.
- Nên
công cuộc hoằng hóa phải nương chỗ nơi mà thành tựu; tăng phường
chính là nơi đó vậy. Tiếng Phạn Tăng già, Trung Hoa dịch
là hòa hợp chúng, chỉ 5 chúng xuất gia. Tiếng Phạn Già Lam,
Trung Hoa dịch là chúng viên tức nơi tăng chúng cư trú.
Nay nói tăng phường là gồm chung cả tiếng Hoa - Phạn để gọi vậy.
- Nhưng
trong đó hàm ý là nơi phụng sự Phật pháp mà lấy tăng phường làm tên
gọi. Điện Phật, nhà giảng không đứng riêng biệt xa cách với tự viện.
- Kinh
Phạm Võng, giới không tu phước huệ ghi rằng:
- - "Nếu
Phật tử thường phải giáo hóa hết thảy chúng sanh, tạo lập tăng
phường, núi rừng, ruộng vườn, xây tháp Phật, an cư kiết hạ, kiết
đông, nơi chốn tọa thiền, hết thảy những nơi hành đạo đều phải kiến
tạo v.v..."
- Luận về
việc tạo dựng đạo tràng, là đề cập tới phí tổn xây cất không thể
thiếu được. Ở tòng lâm có vị tri ốc (nhà cửa) chuyên lo việc xây
dựng. Phàm các nơi xây nhà cửa vốn không có mà tạo dựng nên mới gọi
là kiến tạo; đã có nhà mà hoặc bị nghiêng đổ, hư hoại nên trùng tu
lại gọi là sửa sang. Phàm có sửa sang nên quyết định không thể do dự
được, nếu có tính dứt khoát mới làm xong được việc. Vì lợi ích của
đạo mà xuất gia chứ không phải vì tu chùa mà xuất gia. Việc tu tạo
hoặc tín chủ tại gia phát tâm làm cũng được, hoặc người xuất gia đã
dứt hết không còn oan trái đứng làm, nên biết hạ mình là việc cần
thiết. Đây là thành phần thượng thặng lập chí xuất gia; nếu như chí
không theo kịp, nhưng lập chùa là tạo được công đức. Tuy công đức về
phần tánh chẳng có, nhưng phần tướng trang nghiêm cũng không thể
thiếu. Phải biết không mê lầm nhân quả mà tin sâu tội phước, không
làm hao tổn của Tam Bảo, như ếm nhẹm của tín thí hoặc không tranh
đoạt lợi mà lại ham danh. Vì kiến tạo tòng lâm là làm quang huy đạo
pháp đưa lại mọi điều tốt đẹp. Sang đoạt, cưỡng lấy làm cho người
mất tín tâm mà vẫn dung nạp, tòng lâm chưa chắc đã hưng thịnh mà rốt
cục rồi bị vô vàn sự oán trách đưa lại. Lòng người như thế nên rõ
tâm Phật, giữ phận tăng khổ hạnh làm thiện mà vẫn chưa am tường luật
học! Phải biết giới không riêng tư ai, nhưng cứ giương đông kích tây,
nâng Giáp giúp Ất, hoặc chuộng Tý bỏ Sửu v.v… ưa thích người này
ghét bỏ người kia, là chiêu lấy ác báo. Nên có câu rằng: “thiên
đường chưa đạt tới, địa ngục trước đã thành”. Đâu không sợ sao?
- Lại có
Trụ Trì tuy không quyên góp bên ngoài, nhưng trong tăng mượn danh
kêu gọi riêng, nên ngoài chùa thông báo trên thư kêu gọi đề: bổn tự…
tu tạo… công trình. Nội tự tận lực tạo dựng, mong đón nhận sự phát
tâm cúng dường tùy hỷ của đàn việt, không có người nào ra ngoài
quyên góp v.v...
- Có 2
việc cần nên lưu ý:
- 1- Một
là miễn mượn danh nghĩa quyên góp mà tạo nghiệp phải tội đọa
- 2- Hai
là chưa ai phát hiện ra việc này càng thêm mánh mung để liên lụy đến
Tam Bảo không ít.
- Chứng
nghĩa ghi:
- Vân Thê
Pháp vựng có nêu rằng, kiến tạo tòng lâm vì chúng vốn là việc tốt.
Nhưng phải biết sự biết lý rồi sau mới làm. Nếu không vậy, như gặp
việc phiền toái liền bực chí, hoặc đắm trước các duyên, thậm chí có
người như suốt đời chưa đạt được ước vọng, có ngưòi đạt sở đắc nhưng
tới giữa đường bỏ phế. Tuy lao tâm tận lực tạo dựng mọi việc vẫn
canh cánh lo toan lại càng lao tâm nhọc trí, chính mình làm tổn hại
không ít, huống chi còn ra sức quyên góp của người ư? Như lời tôi
đúng thời tượng Phật hư hoại ai lo xây dựng lại? Tăng chết đói dọc
đường không được thức ăn, ai giúp đỡ họ?
- Mọi
người chỉ bàn sự mà để Tam Bảo hoang phế; đâu chẳng nghe ai tu huệ,
tu phước chi; La Hán ứng cúng mỏng cạn vậy hay sao?
- Đáp
rằng:
- -
“Không phải thế đâu. Chỉ nghĩ nhất thể Tam Bảo hoang phế thôi, còn
thế gian Tam Bảo nữa chứ!”
- Từ khi
Phật giáo du nhập vào Trung Quốc đến nay, việc đúc tượng, xây chùa,
trai tăng v.v.. thời nào chấm dứt đâu; nơi nơi đều mong muốn, cớ sao
lại lo lắng rồi đi kể lỗi vậy?
- Ngu Am
Chích Cổ ghi rằng:
- -
“Thiền sư Diên Ân Pháp An đến viện Như Ý ở Quảng Sơn, nhà hư nền
hỏng mà vẫn an trú được 10 năm; nhà lớn đổ nát hư hại, tâm ý chẳng
hề chán nản, chỉ lo lợi vật, giúp người. Về già, Ngài ở nhà tranh,
nằm chiếu đất, tại Diên Ân, dột nát ánh sáng dọi vào mà vẫn lấy đó
làm vui, làm cho Duẫn phú hào động lòng cho làm chùa mới lại. Ngài
Pháp An mỉm cười rằng:
- - "Pháp
đàn vốn để độ người, nay không người phát tâm mà cưỡng ép làm gọi là
tạo nghiệp chứ không phải là làm Phật sự".
- Mỗi lần
gọi người tới Ngài nói rằng:
- - "Vạn
sự tùy duyên là pháp an lạc".
- Ngu Am
ca tụng rằng:
-
- "Uy đó là
huệ hành
- Chẳng
đến từ tâm thành
- Lập đàn
độ thúc nhanh
- Khác
nào vàng tô phết
- Viện
Như Ý tu hành
- Vô tư
tòng lâm thạnh".
- Lúc về
già Ngài ở Diên Ân, chắn gió che mưa lấy cỏ lau làm vách, chỗ ở
người quân tử đâu có hạn hẹp. Cửa làm bằng cỏ, then bằng dâu, vui an
nhiên tự tại. Nhà đỗ sụp, tối ở núp dưới gốc cây. Sư già luôn ở nhà
tranh, trông nhìn lại xem ta như thế nào?
- Y cứ
theo Pháp Vựng Chích Cổ có 2 điều người sau nên khéo lãnh hội ý này:
- 1- Pháp
Vựng gọi người lập chí là người cầu học, việc học chưa xong, không
thể vì đó mà tự bỏ học; chẳng phải là hoang phí của Tam Bảo thế gian,
mà đặc biệt huệ mạng là trọng yếu.
- 2-
Chích Cổ gọi người đại tu hành tự không chịu an ở nhà rộng lớn,
chẳng cần Phật điện to mới nhận lãnh; cưỡng cầu quyên góp trái điều
Phật dạy, nên không làm vậy.
- Trụ Trì
ngày nay không được như vậy, cũng chưa từng lập chí tham học, trọn
ngày vì lợi dưỡng, chỉ lo cho mình no đủ an nhàn, không đoái hoài
đến Phật điện có hư hao đỗ nát cũng mặc; cố ngoảnh mặt làm ngơ, lại
còn cậy thế giả oai cưỡng cầu quyên góp; cũng có kẻ thật đáng thương
xót !
- Luận
rằng, tự mình đã chẳng trang nghiêm nhất thể Tam Bảo(11), quả
có trang nghiêm thế gian Tam Bảo cũng chỉ vớt vát được phân nửa; lời
pháp đơn sơ này chưa diễn được trọn hết ý. Dù mình ở lều tranh,
nhưng Tam Bảo đương nhiên phải là nơi trang trọng, ý này Chích Cổ
chưa nêu ra hết vậy.
- Hết
quyển năm.
- Ghi Chú
-
1- Thập phát phú: 10
bực phát thú của Bồ Tát: 1. xả tâm, 2. giới tâm, 3. nhẫn tâm, 4. tấn
tâm, 5. định tâm, 6. huệ tâm, 7. nguyện tâm, 8. hộ tâm, 9. hỉ tâm,
10. đảnh tâm.
- 2- Thập
trưởng dưỡng: 10 trưởng dưỡng Bồ Tát tâm, đó là 1. tâm từ, 2. tâm
bi, 3. tâm hỷ, 4. tâm xả, 5. tâm thí, 6. hảo ngữ tâm, 7. ích tâm, 8.
đồng tâm, 9. định tâm, 10. huệ tâm.
- 3- Thập
kim cang: 10 tâm như Kim cang của Bồ tát là: 1. tín tâm, 2. niệm
tâm, 3. hồi hướng tâm, 4. đạt tâm, 5. trực tâm, 6. bất thoái tâm, 7.
đại thừa tâm, 8. vô tướng tâm, 9. huệ tâm, 10. bất hoại tâm.
- 4- Thập
địa: 10 địa vị của Đại thừa Bồ tát như: Hoan hỷ địa, Ly cấu địa,
Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn
hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa.
- 5- Kiến
hoặc, tư hoặc: thấy sự vật một cách điên đảo sanh kiến giải sai lầm
gọi là kiến hoặc. Những sai lầm thuộc tư duy, lập luận gọi là tư
hoặc. chẳng hạn, nhìn thấy đúng, nhưng lại rút ra kết luận sai lầm,
do tư duy sai lầm.
- 6- Diêm
Phù Đề: một châu trong 4 châu lớn, còn gọi là Nam Thiệm Bộ châu ở
phía Nam núi Tu Di, tức là cõi chúng ta đang sống đây. Vì có nhiều
cây linh tên là Diêm phù (jumbud) rất quí nên gọi theo tên ấy.
- 7- Pháp
khí: có 2 nghĩa, chỉ đồ vật và chỉ người. Đồ sử dụng cho lễ nghi
trong chùa như chuông, bảng, trống, phách… gọi là pháp khí. Người
vượt trội, làm được việc mà người khác không làm được là bậc pháp
khí.
- 8- Đầu đà:
hạnh tu ép xác của các vị khổ luyện công phu mà người thường cũng
khó theo đuổi kịp. Chọn nơi rừng sâu núi thẳm, nghĩa địa, gốc cây…
làm chốn tu luyện định tâm, là cả một sự phấn đấu phi thường. Hành
giả còn chịu nhịn đói, nhịn khát, nằm tuyết phơi sương, hành xác
thân thể v.v…
- 9- Nhục
kế: là một trong 32 tướng tốt của Đức Phật, có chỏm thịt nhô lên
trên đỉnh đầu đỏ au như búi tóc xoắn trông rất trang nghiêm.
- 10- Thích
đề hoàn nhân: vua trời Đế Thích đứng đầu cõi trời Đao Lợi, cũng gọi
là trời thứ ba mươi ba.
- 11- Nhất
thể tam bảo, thế gian tam bảo: Tam bảo là ba ngôi báu Phật, Pháp,
Tăng. Tăng truyền thừa giáo pháp Phật dạy mặc dù hình thức là 3
ngôi, nhưng về lý tánh chỉ một: nhất thể. Nói theo thông thường 3
ngôi báu ở trong đời, cho nên nói thế gian Tam Bảo.