LUẬT TẠNG

QUYỂN NĂM
 
Trụ Trì
(Tiếp Theo)
---o0o---
            5.23  Cúng La Hán
            Tiếp đãi trai chủ giống như cúng trai phạn tăng, dự định ngày viết thông báo dán tại thiền đường phòng khách. Thông báo rằng:
            - “Ngày mai sau khi điểm tâm sáng, đại chúng chuẩn bị cúng La Hán, ban hương đăng coi sóc trên chánh điện, 10 thầy cúng ngọ liệt danh sách như sau: Đại Đức A, B, C, …"
            Chuẩn bị nhang đèn, chân đèn, lư hương, chén bát, đũa muổng, tách trà, cơm nước, bánh trái… lo cho hơn 500 người dự. Người phụ trách trai soạn sắp xếp các Ban nấu nướng, để cung cấp 500 phần ăn.  Ngày hôm sau 5 vị phụ trách hương đăng tới nhà kho lấy nước, lấy chén, đèn nhỏ 500 cây, chân đèn 250 đôi, lư hương. Mỗi người coi sóc 100 vị La Hán, trước mỗi vị đặt một tách trà, một đôi đũa, một dĩa quả, một cây đèn. Lư hương 2 vị chung một lư. Nước trà, cơm, bông trái, đèn đặt cúng quanh tượng, rồi mới lên nhang đèn; kế pha trà, hiến thức ăn. Lại mặt tiền chính giữa thiền đường, đặt một bàn vuông lớn, 2 chiếc bàn nhỏ có thể để 16 vị La Hán. Chưng bông trái, nhang đèn, thức ăn đầy đủ. Mỗi vị có một bài vị, một tách trà, một đôi đũa, một chén cơm. Ở phía mặt tiền để chừa ra 3 mét, đặt 3 chiếc bàn dài trên để bì sớ 13 vị nhìn trên dưới, chính giữa; cũng đặt hương đèn và cúng 10 bộ La Hán, mỗi bộ dùng kinh che kín, 10 cái thủ lư đều chuẩn bị sẵn. Tới giờ cúng, vị Tri khách mời 10 Thầy cúng ngọ đắp y hậu tới chỗ thờ A La Hán, kế mời trai chủ niệm hương. Các Thầy đảnh lễ Tam Bảo. Trai chủ lần lượt đến bàn giữa niệm hương, rồi các bàn khác cũng vậy. Duy Na cử tán:
            - "Lư hương vừa ngún, cõi pháp được xông
            Khói trầm ngào ngạt một lòng kính dâng
            Khắp hòa vũ trụ xa gần
            Hoa sen rực rỡ đơm bông cúng dường
            Chư Phật, Bồ Tát giáng phàm
            Hiện hình La Hán trên vòm Thiên Thai
            Vào đời thọ cúng hôm mai…"
            Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát.
            Duy Na xướng: (Tất cả cung kính, Chúng cầm hương xướng hoà):
            "Chí tâm đảnh lễ Thập Phương Pháp Giới Thường Trụ Tam Bảo”.
            Duy Na nhập khánh đọc:
            Lại nguyện:
            - "Người chia thành phương tiện từ Gia Hạnh đến vị Đình Tâm, vị như 4 sa môn, do vô học cầu nơi kiến đạo, đó đều biết khổ, đoạn tập, thọ đạo tạo nhân là gốc quyền của tích pháp, hội ngộ lý KHÔNG của con người. Đến như chứng bực Biện địa, vào Đại Thừa môn, chỗ học họ đồng Bát Nhã. Vì thế cùng với Bồ Tát trong giữ kỹ hạnh mật, ngoài nghe âm thanh Phật đạo, đều được gọi là thánh hiền tăng, nên đáng thọ của nhân thiên cúng. Chỉ mong sao kham thọ Phật phó chúc, ở phương này đủ duyên làm hưng long giáo pháp, đáng cho phàm tình nhận đàn na cúng dường hôm nay. Tuệ chiếu hồi tinh mật, bao bọc bởi lòng thương, cứu khắp chốn mê tình đưa lên miền Cực Lạc".
            Đại chúng đọc hòa theo:
            - "Cho nên con nhất tâm kiền thành phụng thỉnh."
            Tất cả đồng lạy 1 lạy:
            - Nhất tâm phụng thỉnh Tận Hư Không Biến Pháp Giới Thập Phương Thường Trú Chư Phật, Pháp, Tăng.
            - Nhất tâm phụng thỉnh Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật
            - Nhất tâm phụng thỉnh Tận Hư Không Biến Pháp Giới Thập Phương Thường Trụ Chư Thanh Văn Tăng cùng chư quyến thuộc
            Từ đây trở xuống 9 lạy mỗi lạy đều xướng:
            - "Nhất tâm phụng thỉnh", và phần cuối thêm "Cùng chư quyến thuộc." ...Thường tùy tùng theo Phật, 1250 đại A La Hán, Lộc Uyển trước độ 5 vị tỳ kheo, sau cùng độ Tu Bạt Đà La các vị A La Hán… Đại đệ tử Thế Tôn Ca Diếp, A Nan Đà cùng 10 đại đệ tử… nghe pháp tại Linh Sơn chúng đại tỳ kheo một vạn 2 nghìn đại A La Hán… tại hội Linh Sơn được thọ ký học, vô học chư đại Thanh Văn chúng… Năm thời nghe pháp học, vô học các vị chúng đại Thanh Văn… sau khi Thế Tôn tịch diệt kết tập 3 tạng A Nan Đà và chư vị A La Hán… Hiện thế 16 vị đại A La Hán, 16,900 chúng đệ tử cùng các quyến thuộc. Trú xã…huyện… tỉnh… tên chùa… hiện tại 500 vị A La Hán cùng các quyến thuộc".
            Lại nguyện:
            - "Không trái bổn thệ, thương xót hữu tình, giờ này hôm nay quang lâm đạo tràng, chứng minh công đức".
            Thỉnh xong, xá một xá. (Trong lúc thỉnh, Duy Na nghĩ tất cả A La Hán đều dùng thiên nhãn soi sáng, thiên nhỉ thấy nghe, tha tâm biết được, oai nghi nghiêm túc từ hư không mà đến đây).
            Ngoài ra, bốn mặt thêm huệ cho đầy đủ thông giáo hai vị, như trên biệt xuất 10 vị nhưng không cần thêm. Thỉnh xong xướng kệ tán thán:
            - "Lần đầu độ 5 người thành Tăng Bảo
            Cao Đệ Đức Thế Tôn đạo ẩm quang
            Linh Sơn một hội thật huy hoàng
            Chúng vô học một vạn 2 nghìn
            Tu Bạt Đà La độ sau cùng
            Năm thời nghe pháp số chúng đông
            Hàng Thanh Văn Niết Bàn chứng thông
            Ba tạng lưu truyền nhờ công kết tập
            Mười sáu vị chân nhân được phó chúc
            Đời vị lai làm bực phước điền sư
            Là thường trụ thánh hiền tăng mười phương
            Đều được tôn phụng cúng dường nơi đây".
            Tán xong, Duyệt chúng gõ mõ nhỏ đại chúng cùng đọc:      
            - "Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật".
            Chư tăng, thí chủ đều hướng về Phật điện từ từ bước tới tiến về phía bàn thờ La Hán đi kinh hành một vòng. Xong, đứng tại chỗ ngưng niệm Phật. Đại chúng quỳ và cùng đọc:
            - Nam Mô Thường Trụ Phật, Pháp, Tăng,
            - Nam Mô Bồn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
            - Nam Mô Khắp Hư Không Biến Pháp Giới, 10 phương Thường Trú Chư Thanh Văn Tăng,
            - Nam Mô Thường Tùy Theo Phật 1250 Vị Đại A La Hán,
            - Kính lễ Lộc Uyển Trước Phật độ 5 tỳ kheo, sau cùng độ Tu Bạt Đà La các bậc A La Hán,.
            - Kính lễ Hàng Cao Đệ Đức Thế Tôn Đại Ca Diếp, A Nan  v.v.. Đại A La Hán,
            - Kính lễ Chúng Đại Tỳ Kheo nghe pháp tại hội Linh Sơn một vạn 2 nghìn Đại A La Hán
            - Kính lễ các Đại Thanh Văn được thọ ký học, vô học tại hội Linh Sơn
            - Kính lễ Chúng Đại Thanh Văn đạt học, vô học nghe 5 thời thuyết giáo
            - Kính lễ A Nan Tôn Giả, chư vị A La Hán kết tập 3 tạng sau Phật diệt độ
            - Kính lễ Lịch Đại Tổ Sư, chư vị A La Hán trong thời chánh pháp, tượng pháp sau Phật diệt độ
            - Kính lễ 16 vị Đại A La Hán cùng 16,900 đệ tử A La Hán
            - Kính lễ Hiện Trụ 500 vị Đại A La Hán đang thờ tại Bổn Tự.
            Lạy xong, tiếp theo đọc Chú Biến Thực (21 lần),  Chú Cam Lồ (7 lần), Phổ Cúng Dường (7 lần), rồi tiếp:
            - "Nam Mô Thập Phương Thường Trú Tam Bảo." (3 lần).
            Duy Na quỳ đọc sớ như sau:
            - "Lại nghe rằng: Tại rừng chiên đàn mùi thơm phảng phất, nơi hang sư tử đều nghe tiếng gầm vang dội. Dám mong thành khẩn ngưỡng Đức Từ Bi. Nay tại Úc Đại Lợi, Sydney thành phố, chùa… phụng Phật thiết lễ cúng dường La Hán, mong ân gia hộ đệ tử… pháp danh… tuổi, đầu thành đảnh lễ nhất tâm thượng kính; trung thiên chí thánh Mâu Ni Thế Tôn thường tùy Thánh chúng các vị Đại A La Hán trên đài Kim Liên chứng giám cho lòng thành tỏ bày của chúng con".
            Lại nghĩ:
            - "Trí siêu vô lậu, đạo hợp chân không, thần thông thông tỏ trong thoáng chốc ở thiên thượng nhân gian. Bí hiện u thâm, quên hết nổi ưu lo Thanh Văn, Đại thừa; phấn khởi gặp được thắng duyên thấy thánh tướng nơi điện tiền, dâng khiết hương bày tỏ, nghinh phan báu mà cúng phó, mong dũ soi huệ nhãn, doãn nạp tấc lòng thành. Do vậy, nhân nay ngày… tháng… năm… đệ tử cung kính đến chùa… thực tỏ lòng thanh tịnh, nương nhờ đức chúng trai giới nghiêm minh thật tu thiền tịnh. Trên cúng Phật, Pháp, Tăng thường trụ Tam Bảo tại bảo điện bổn tự cúng 500 La Hán hóa thân đại sĩ, các bậc tôn giả Thánh hiền, với chút hương hoa này cúng dường cùng khắp tất cả".
            Lại nguyện:
            - "Pháp môn nổi bật đèn Tổ thêm rạng soi; đàn na tịnh lạc, hải chúng an hòa, mong thương phàm tình toàn nương nhờ từ lực. Chí thành dâng sớ, cung kính thỉnh Tam Bảo chứng minh, cúng dường La Hán. Ngày… tháng… năm…"
            Đọc sớ xong, tán rằng:
            - "Phước đức cúng dường,
            Hạnh cả mênh mông;
            Trong mật ngoài hiển
            Mãi mãi lưu phương.
            Thay Phật rộng tuyên dương,
            Thọ lịnh khó quên;
            Vào đời làm chiếc thuyền nang".
            Nam Mô Chư Đại A La Hán Tôn Giả
            Đại chúng về chỗ của mình. Tri Khách mời trai chủ đến phòng khách dùng trà. Chúng hương đăng thu dọn ngay đồ cúng đem xuống nhà trù để sửa soạn cúng dường đại chúng. Những đồ vật khác cất vô kho chờ dịp cúng khác. Hiến cúng đại chúng, ngoài nghi cúng xem thêm nghi thức cúng trai phạn như trên. Sau khi điểm tâm sáng, 10 Thầy đã được phân phiên lên chánh điện cúng ngọ; tới bàn thờ La Hán lễ A La Hán:  Lễ lạy La Hán chia nhiều thời, mỗi thời 100 lạy từ số 1 tới số 12 như trên. (Xem phần trước có đầy đủ). 
            Kế:
            Lạy 16 vị La Hán Hiện Thế.
            - Chí thành đảnh lễ Tân Đầu Lô Bạt La Đọa Xà Tôn Giả,
            Sau mỗi vị đều đọc "Chí thành đảnh lễ":
            - Ca Nặc Ca Phạ Tha Tôn Giả,
            - Ca Nặc Ca Bạt Triền Đọa Xà Tôn Giả,
            - Tô Tần Tha Tôn Giả,
            - Nặc Cự La Tôn Giả,
            - Bạt Đà La Tôn Giả,
            - Ca Lý Ca Tôn Giả,
            - Phạt Xà La Phất Đa La Tôn Giả,
            - Mậu Bác Ca Tôn Giả,
            - Bán Thác Ca Tôn Giả,
            - La Hổ La Tôn Giả,
            - Na Già Bỉnh Na Tôn Giả,
            - Nhân Kiệt Đà Tôn Giả,
            - Phạt Na Bà Tư Tôn Giả,
            - A Thị Đa Tôn Giả,
            - Chú Trà Bán Thác Ca Tôn Giả,
            Trăm thứ nhất của 500 La Hán
            1. Chí tâm đảnh lễ A Nhã Kiều Trần Như Tôn Giả,
            Sau đây mỗi vị mở đầu đều có "Chí tâm đảnh lễ""Tôn Giả" ở cuối:
            2. A Nê Lâu,
            3. Hữu Hiền Vô Cấu,
            4. Tu Bạt Đà La,
            5. Ca Lưu Đà Di,
            6. Văn Thanh Đắc quả,
            7. Chiên Đàn Tạng Vương,
            8. Thí Tràng Vô Cấu,
            9. Kiều Phạm Bàn Đề,
            10. Nhân Xà Đắc Huệ,
            11. Ca Na Hành Na,
            12. Bà Tô Bàn Đậu,
            13. Pháp Giới Tứ Lạc,
            14. Ưu Lầu Tần Loa,
            15. Phật Đà Mật Đa,
            16. Na Đề Ca Diếp,
            17. Na La Diên Mục,
            18. Phật Đà Nan Đề,
            19. Mạt Điền Để Ca,
            20. Nan Đà Đa Hóa,
            21. Ưu Bà Cúc Đa,
            22. Tăng Ca Na Xá,
            23. Giáo Thuyết Thường Trụ,
            24. Thương Na Hòa Tu,
            25. Đạt Ma Ba La,
            26. Ca Na Ca Diếp,
            27. Định Quả Đắc Nghiệp,
            28. Trang Nghiêm Vô Ưu,
            29. Ức Thị Nhân Duyên,
            30. Ca Na Đề Bà,
            31. Phá Tà Thần Thông,
            32. Kiên Trì Tam Tự,
            33. A Niểu Lâu Đà,
            34. Cưu Ma La Đa,
            35. Độc Long Quy Y,
            36. Đồng Thanh Khể Thủ,
            37. Tì La Thị Tử,
            38. Phật Tô Mật Đa,
            39. Xà Đề Thư Na,
            40. Tăng Như Da Xá,
            41. Từ Mẫn Thế Gian,
            42. Hiến Hoa Đề Ký,
            43. Nhãn Quang Định Lực,
            44. Dà Da Xá Na,
            45. Sa Để Bí Sô,
            46. Bà Xà Đề Bà,
            47. Giải Không Vô Cấu,
            48. Phục Đà Mật Đa,
            49. Phú Na Dạ Xa,
            50. Ca Da Thiên Nhãn,
            51. Bất Trước Thế Gian,
            52. Giải Không Đệ Nhứt,
            53. La Độ Vô Tận,
            54. Kim Cang Phá Ma,
            55. Nguyện Hộ Thế Gian,
            56. Vô Ưu Thiền Định,
            57. Vô Tác Huệ Thiện,
            58. Thập Kiếp Huệ Thiện,
            59. Chiên Đàn Đắc Hương,
            60. Kim Sơn Giác Ý,
            61. Vô Nghiệp Tố Tịnh,
            62. Ma Ha Sát Lợi,
            63. Vô lượng Bổn Hạnh,
            64. Nhứt Niệm Giải Không,
            65. Quán Thân Vô Thường,
            66. Thiên Kiếp Bi Nguyện,
            67. Cù La Na Xá,
            68. Giải Không Định Không,
            69. Thành Tựu Nhân Duyên,
            70. Kiên Thông Tinh Tấn,
            71. Tát Đà Ba Luân,
            72. Càng Đà Ha Lợi,
            73. Giải Không Tự Tại,
            74. Ma Ha Chú Na,
            75. Kiến Nhơn Phi Đằng,
            76. Bất Không Bất Hữu,
            77. Châu Lợi Bàn Đặc,
            78. Cù Sa Tỳ Kheo,
            79. Sư Tử Tỳ Kheo,
            80. Tu Hành Bất Trước,
            81. Tất Lăng Già Sai,
            82. Ma Lợi Bất Động,
            83. Tam Muội Cam Lộ,
            84. Giải Không Vô Danh,
            85. Thất Phật Nan Đề,
            86. Kim Cang Tinh Tấn,
            87. Phương Tiện Pháp Tạng,
            88. Quán Hành Luân Nguyệt,
            89. A Na Phần Đề.
            90. Phất Trần Tam MuộI,
            91. Ma Ha Cụ Di,
            92. Bích Chi Chuyển Trí,
            93. Sơn Đảnh Long Chúng,
            94. La Võng Tư Duy,
            95. Kiếp Tân Phú Tạng,
            96. Thần Thông Ức Đán,
            97. Cụ Thọ Câu Đề,
            98.    Pháp Vương Bồ Đề,
            99.   Pháp Tạng Vĩnh Kiếp,
            100. Thiện Vãng.
            100 Vị A La Hán trong số 500 xong.
            101.  Chí tâm đảnh lễ Trừ Ưu Tôn Giả,
            Sau đây mỗi vị mở đầu đều có "Chí tâm đảnh lễ" và "Tôn Giả" ở cuối:
            102.  Đại Nhẫn,
            103.  Vô Biên Tự Tại,
            104.  Diệu Cù Nghiêm Độ,
            105.  Kim Cát,
            106.  Lôi Đức,
            107.  Lôi Âm,
            108.  Hương Tượng,
            109.  Mã Đầu,
            110. Minh Thủ,
            111.  Kim Thủ,
            112.  Kính Thủ,
            113.  Chúng Thủ,
            114.  Biện Đức,
            115.  Bình Đề,
            116.  Ngộ Đạt,
            117.  Pháp Tăng,
            118.  Ly Cấu,
            119.  Cảnh giới,
            120.  Mã Thắng,
            121.  Thiên Vương,
            122.  Vô Thắng,
            123.  Nguyệt Tịnh,
            124.  Bất Động,
            125.  Hưu Tức,
            126.  Điều Đạt,
            127.  Phổ Quang,
            128.  Trí Tích,
            129.  Bảo Tràng,
            130.  Thiện Huệ,
            131.  Thiện Nhãn,
            132.  Bảo Dũng,
            133.  Bảo Kiến,
            134.  Huệ Tích,
            135.  Huệ Trì,
            136.  Bảo Thắng,
            137.  Đạo Tiên,
            138.  Đế Võng,
            139.  Minh Võng,
            140.  Bảo Quang,
            141.  Thiện Điều,
            142.  Phấn Tấn,
            143.  Tu Đạo,
            144.  Đại Tướng,
            145.  Tôn Vãng,
            146.  Trì Thế,
            147.  Quang Âm,
            148.  Quyền Giáo,
            149.  Thiện Tư,
            150.  Pháp Nhãn,
            151.  Phạm Thắng,
            152.  Quang Diệu,
            153.  Trực Ý,
            154.  Ma Đế,
            155.  Huệ Khoan,
            156.  Vô Thắng,
            157.  Đàm Ma,
            158.  Hoan Hỷ,
            159.  Du Hý,
            160.  Đạo Thế,
            161.  Minh Chiếu,
            162.  Phổ Đẳng,
            163.  Huệ Tác,
            164.  Trợ Hoan,
            165.  Nan Thắng,
            166.  Thiện Đức,
            167.  Bảo Nhai,
            168.  Quán Thân,
            169.  Hoa Vương,
            170.  Đức Thủ,
            171.  Hỷ Kiến,
            172.  Thiện Túc,
            173.  Thiện Ý,
            174.  Ái Quang,
            175.  Hoa Quang,
            176.  Thiện Kiến,
            177.  Thiện Căn,
            178.  Đức Đảnh,
            179.  Diệu Tý,
            180.  Long Mãnh,
            181.  Phất Sa,
            182.  Đức Quang,
            183.  Tán Kết,
            184.  Tịnh Chánh,
            185.  Thiện Quán,
            186.  Đại Lực,
            187.  Lôi Quang,
            188.  Bảo Phục,
            189.  Thiện Tinh,
            190.  La Tuần,
            191.  Từ Địa,
            192.  Khánh Hữu,
            193.  Thế Hữu,
            194.  Mãn Túc,
            195.  Xiển Đà,
            196.  Nguyệt Tịnh,
            197.  Đại Thiên,
            198.  Tịnh Tạng,
            199.  Tịnh Nhãn,
            200.  Phục Long Vương.
            100 Vị Thứ Hai Của 500  La Hán xong.
            Trăm Thứ Ba Của 500 A La Hán
            201.  Chí tâm đảnh lễ Ba La Mật Tôn Giả,
            Sau đây mỗi vị mở đầu đều có "Chí tâm đảnh lễ" và "Tôn Giả" ở cuối:
            202.  Câu Na Xá,       
            203.  Muội Thanh,
            204.  Bồ Tát Thanh,
            205.  Kiết Tường Chú,
            206.  Bát Đa La,
            207.  Vô Biên Thân,
            208.  Hiền Kiếp Thủ,
            209.  Kim Cang Vị,
            210.  Thừa Vị,
            211.  Bà Tư Tra,
            212.  Tâm Bình Đẳng,
            213.  Bất Khả Tỉ,
            214.  Nhạo Phú Tạng,
            215.  Hỏa Diệm Thân,
            216.  Phả La Đọa,
            217.  Đoạn Phiền Não,
            218.  Bạc Cù La,
            219.  Lợi Bà Đa,
            220.  Hộ Diệu Pháp,
            221.  Tối Thắng Ý,
            222.  Tu Di Đăng,
            223.  Một Đặc Già,
            224.  Di Sa Cơ,            
            225.  Thiện Viên Mãn,
            226.  Ba Đầu Ma,
            227.  Trí Huệ Đăng,
            228.  Chiên Đàn Tạng,
            229.  Ca Nan Lưu,
            230.  Hương Diệm Tràng,
            231.  A Thấp Tì,
            232.  Ma Ni Bảo,
            233.  Phước Thủ,
            234.  Lợi Bà Di,
            235.  Xá Già Độc,
            236.  Đoạn Nghiệp,
            237.  Hoan Hỷ Trí,
            238.  Càng Đà La,
            239.  Sa Già Đà,
            240.  Tu Di Vọng,
            241.  Tri Thiện Pháp,
            242.  Đề Đa Ca,
            243.  Thủy Triều Thanh,
            244.  Trí Huệ Hải,
            245.  Chúng Cụ Đức,
            246.  Bất Tư Nghì,
            247.  Di Già Sơn,
            248.  Ni Đà Già,
            249.  Thủ Chánh Niệm,
            250.  Tịnh Cư Đề,
            251.  Phạm Âm Thiên,
            252.  Nhân Địa Quả,
            253.  Giác Tánh Giải,
            254.  Tính Tấn Sơn,
            255.  Vô Lượng Quang,
            256.  Bất Động Ý,
            257.  Tu Thiện Nghiệp,
            258.  A Dật Đa,
            259.  Tôn Đà La,
            260.  Thánh Phong Huệ,
            261.  Mạn Thù Hạnh,
            262.  A Lợi Đa,
            263.  Pháp Luân Sơn,
            264.  Chúng Hòa Hợp,
            265.  Pháp Vô Trụ,
            266.  Thiên Cổ Thanh,
            267.  Như Ý Luân,
            268.  Thủ Quang Diệm,
            269.  Vô Tỉ Hiệu,
            270.  Đa Gia Lâu,
            271.  Lợi Bà Đa,
            272.  Phổ Hiền Hạnh,
            273.  Trì Tam Muội,
            274.  Oai Đức Thanh,
            275.  Lợi Bà,
            276.  Danh Vô Tận,
            277.  A Na Tất,
            278.  Phổ Giải Sơn,
            279.  Biện Tài Độ,
            280.  Hành Hóa Quốc,
            281.  Thanh Long Chủng,
            282.  Thệ Nam Sơn,
            283.  Phú Già Da,
            284.  Hành Truyền Pháp,
            285.  Hương Kim Thủ,
            286.  Ma Nỗ La,
            287.  Quang Phổ Hiện,
            288.  Huệ Y Chánh,
            289.  Hàng Ma Quân,
            290.  Thủ Diệm Quang,
            291.  Trì Đại Y,
            292.  Tạng Luật Hạnh,
            293.  Phục Long Vương,
            294.  Đức Tự Lại,
            295.  Xà Dạ Đa,
            296.  Tần Ma Lợi,
            297.  Nghĩa Pháp Thắng,
            298.  Thí Bà La,
            299.  Xiển Đề Ma,
            300.  Vương Trụ Đạo.
            100 Vị Thứ Ba Của 500  La Hán xong.
            301.  Chí tâm đảnh lễ Vô Cấu Hạnh Tôn Giả,
            Sau đây mỗi vị mở đầu đều có "Chí tâm đảnh lễ""Tôn Giả" ở cuối:
            302.  Khả Ba La,
            303.  Thanh Quy Y,
            304.  Thiền Định Quả,
            305.  Bát Thoái Pháp,
            306.  Tăng Già Da,
            307.  Đạt Ma Chân,
            308.  Trì Thiện Pháp,
            309.  Thọ Thắng Quả,
            310.  Tâm Thắng Tu,
            311.  Hội Pháp Tạng,
            312.  Thường Hoan Hỷ,
            313.  Oai Nghi Đa,
            314.  Đầu Đà Tăng,
            315.  Nghị Tẩy Trường,
            316.  Đức Tịnh Ngộ,
            317.  Vô Cấu Tạng,
            318.  Hàng Phục Ma,
            319.  A Tăng Già,
            320.  Kim Phú Lạc,
            321.  Đốn Ngộ,
            322.  Châu Đà Bà,
            323.  Trụ Thế Gian,
            324.  Đăng Đạo Thủ,
            325.  Cam Lộ Pháp,
            326.  Tự Tại Vương,
            327.  Tu Đạt Ma,
            328.  Siêu Pháp Vũ,
            329.  Đức Diệu Pháp,
            330.  Sĩ Ứng Chân,
            331.  Kiên Cố Tâm,
            332.  Thanh Hưởng Ứng,
            333.  Ứng Phó Cúng,
            334.  Trần Kiếp Không,
            335.  Quang Minh Đăng,
            336.  Chấp Bảo Cự,
            337.  Công Đức Tướng,
            338.  Nhẫn Sanh Tâm,
            339.  A Thị Đa,
            340.  Bạch Hương Tượng,
            341.  Thức Mục Sanh,
            342.  Tán Thán Nguyện,
            343.  Định Phất La,
            344.  Thanh Dẫn Chúng,
            345.  Ly Tránh Ngữ,
            346.  Cưu Xá tôn,
            347.  Uất Đa La,
            348.  Phước Nghiệp Trừ,
            349.  La Dư Tập,
            350.  Đại Dược Tôn,
            351. Thắng Giải Không,
            352.  Tu Vô Đức,
            353.  Hỷ Vô Trước,
            354.  Khốt Cái Tôn,   
            355.  Chiên Đàn La,
            356.  Tâm Định Luận,
            357.  Am La Mãn,
            358.  Đảnh Sanh Tôn,
            359.  Tát Hòa Đàn,
            360.  Chân Phước Đức,
            361.  Tu Na Lợi,
            362.  Hỷ Kiến Tôn,
            363.  Vi Lam Vương,
            364.  Đề Bà Trường,
            365.  Thành Đại Lợi,
            366.  Pháp Thủ,
            367.  Tô Đốn Xà,
            368.  Chúng Đức Thủ,
            369.  Kim Cang Tạng,
            370.  Cù Già Lợi,
            371.  Nhựt Chiếu Minh,
            372.  Vô Cấu Tạng,      
            373.  Trừ Nghi Võng,
            374.  Vô Lượng Minh,
            375.  Trừ Chúng Ưu,
            376.  Vô Cấu Đức,
            377.  Quang Minh Võng,
            378.  Thiện Tu Hành,
            379.  Tọa Thanh Lương,
            380.  Vô Ưu Nhãn,
            381.  Khử Cái Chướng,
            382.  Tự Minh Tôn,
            383.  Hòa Luân Điều,
            384.  Tịnh Trừ Cấu,
            385.  Khử Chư Nghiệp,
            386.  Từ Nhân Tôn,
            387.  Vô Tận Từ,
            388.  Phiêu Xà Nộ,
            389.  Na La Đạt,
            390.  Hạnh Nguyện Trì,
            391.  Thiên Nhãn Tôn,
            392.  Vô Tận Trí,
            393.  Biến Cụ Túc,
            394.  Bảo Cái Tôn,
            395.  Thần Thông Hóa,
            396.  Tư Thiện Thức,
            397.  Hỷ Tín Tịnh,
            398.  Ma Ha Nam,
            399.  Vô Lượng Quang,
            400.  Kim Cang Huệ.
            100 Vị Thứ Tư Của 500  La Hán xong.
            401.  Chí tâm đảnh lễ Phục Hổ Đà Tôn Giả,
            Sau đây mỗi vị mở đầu đều có "Chí tâm đảnh lễ" và "Tôn Giả" ở cuối:
            402.  Huyễn Hóa Không,
            403.  Kim Cang Minh,
            404.  Liên Hoa Tịnh,
            405.  Câu Na Ý,
            406.  Hiền Thủ Tôn,
            407.  Điều Định Tạng,
            408.  Lợi Ích La,
            409.  Vô Lượng Quang,
            410.  Vô Cấu Xưng,
            411.  Đại Âm Thanh,
            412.  Đại Oai Quang,
            413.  Tự Tại Vương,
            414.  Minh Thế Quả,
            415.  Tối Thượng Tôn,
            416.  Kim Cang Tôn,
            417.  Quyên Mạn Ý,
            418.  Tối Vô Tỉ,
            419.  Siêu Tuyệt Luân,
            420.  Nguyệt Bồ Đề,
            421.  Trì Thế Giới,
            422.  Định Hoa Trí,
            423.  Vô Biên Thắng,
            424.  Tối Thắng Tràng,
            425.  Khí Ác Pháp,
            426.  Vô Ngại Hành,
            427.  Phổ Trang Nghiêm,
            428.  Vô Tận Từ,
            429.  Thường Bi Mẫn,
            430.  Đại Trần Chướng,
            431.  Quang Diệm Minh,
            432.  Trí Nhãn Minh,
            433.  Kiên Cố Hạnh,
            434.  Chú Vân Vũ,
            435.  Bất Động La,
            436.  Phổ Quang Minh,
            437.  Tâm Quán Tịnh,
            438.  Na La Đức,
            439.  Pháp Thượng Tôn,
            440.  Sư Tử Tôn,
            441.  Tinh Tấn Biện,
            442.  Nhạo Thuyết Quả,
            443.  Quán Vô Biên,
            444.  Phá Tà Kiến,
            445.  Sư Tử Phan,
            446.  Vô Ưu Đức,
            447.  Hạnh Vô Biên,
            448.  Huệ Kim Cang,
            449.  Nghĩa Thành Tựu,
            450.  Thiện Trụ Nghĩa,
            451.  Tín Chứng Tôn,
            452.  Hạnh Kính Đoan,
            453.  Đức Phổ Hiệp,
            454.  Sư Tử Tác,
            455.  Hành Nhẫn Từ,
            456.  Vô Tướng Không,
            457.  Dũng Tinh Tấn,
            458.  Thắng Thanh Tịnh,
            459.  Hữu Tánh Không,
            460.  Tịnh Na La,
            461.  Pháp Tự Tại,
            462.  Sư Tử Giáp,
            463.  Đại Hiền Quang,
            464.  Ma Ha La,
            465.  Âm Điều Mẫn,
            466.  Sư Tử Ức,
            467.  Hoài Ma Quân,
            468.  Phân Biệt Thân,
            469.  Tịnh Giải Thoát,
            470.  Chất Trực Hạnh,
            471.  Trí Nhân Từ,
            472.  Cụ Túc Nghi,
            473.  Như Ý Tạp,
            474.  Đại Thức Diệu,
            475.  Kiếp Tân Na,
            476.  Phổ Diệm Quang,
            477.  Cao Viễn Hạnh,
            478.  Đắc Phật Trí,
            479.  Tịch Tịnh Hạnh,
            480.  Ngộ Chân Thường,
            481.  Phá Ma Tặc,
            482.  Diệt Ác Thú,
            483.  Tánh Hải Thông,
            484.  Diệu Pháp Thông,
            485.  Mẫn Bất Tức,
            486.  Nhiếp Chúng Tâm,
            487.  Đạo Đại Chúng,
            488.  Thường Tùy Hành,
            489.  Bồ Tát Từ,
            490.  Bạt Chúng Khổ,
            491.  Tầm Thanh Ứng,
            492.  Số Kiếp Không,
            493.  Chú Pháp Thủy,
            494.  Đắc Pháp Không,
            495.  Huệ Quảng Tăng,
            496.  Lục Căn Tận,
            497.  Bạt Đà La,
            498.  Tư Tát Đỏa,
            499.  Chú Trà Ca,
            500.  Bát Lợi La.
            100 Vị Thứ Năm Của 500  La Hán xong.
            Lạy xong, tụng Bát Nhã, hồi hướng, phục nguyện, ba tự quy y. Hương Đăng đốt nhang cầm sẵn nơi tay; Tri Khách hướng dẫn thí chủ lễ tạ chư Tăng. Tiếp theo Duy Na cử tán:
            - "Trên trời dưới thế không ai như Phật
            Mười phương các cõi không ai bằng
            Những gì chính mắt thấy ở thế gian
            Tất cả không ai giống như Phật".
            Tiếp niệm:
            - "Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật", vừa đi nhiễu Phật 3 vòng rồi đứng vào chỗ cũ.   Tuyên đọc sớ xong, đốt sớ. Duy Na cử tán hồi hướng:
            - "Phúng Kinh công đức…", phục nguyện, ba tự quy y.
            Chứng nghĩa ghi theo Tam Tạng Pháp số rằng:
            Tiếng Phạn A La Hán, Trung Hoa dịch là vô học, nghĩa là vị đã dứt sạch sanh tử không còn pháp để học nữa; lại cũng gọi là vô sanh, tức là đã đoạn sạch kiến hoặc và tư hoặc(5) không còn thọ sanh trở lại trong 3 cõi; hay còn gọi là ứng cúng có nghĩa bậc thích hợp thọ của nhân thiên cúng dường; lại còn gọi là sát tặc tức là vị có khả năng giết giặc phiền não. Vì A La Hán đầy đủ ba minh, sáu thông và vô lượng công đức, nên gọi là Đại. Vị A La Hán vâng lời Phật dạy dùng lực thần thông diên trì thọ mạng lâu ở thế gian để duy trì ủng hộ Chánh Pháp đến nay vẫn chưa nhập diệt. Nếu gặp trong đời thiết vô giá hội cúng thí liền cùng với các quyến thuộc ẩn hình Thánh chung sống cõi phàm phu ẩn mật tới thọ của cúng, làm cho thí chủ được lợi ích thù thắng.
            Kinh Pháp Hoa ghi rằng: "nay chúng ta đây chính là Thanh Văn, vì nghe tiếng Phật Pháp hợp với tánh nghe. Nay chúng ta đây chính là Thanh Văn ở trong các cõi trời, người, ma, phạm cùng khắp trong đó ứng hợp thọ của cúng dường. Y cứ cúng dường La Hán đây được phước đức vô lượng không thể nghĩ bàn".
            Xưa có vị vô tướng chân thiền sư cúng dường La Hán bài tụng rằng:
            - "Chân nhân ứng cúng mắt nhìn cao
            Nước non qua lại chẳng nề lao
            Cũng biết điềm lành tốt nơi nao
            Nhận được thiên hoa trên áo bào
            Đá mát vuông tròn đường chẳng ngại
            Trước nhà níu chặt tay hái vào
            Năm trăm tôn giả ai là chủ
            Trời nước mây xanh vầng trăng cao".
            Sanh mạng con gì bắt được cũng phải thả đi không nên giam nhốt, sợ bị hại đến mạng sống chúng. Nên đặt bàn ngoài trời để làm lễ phóng sanh, có nước tịnh, cành dương, thủ xích… Pháp sư, thí chủ làm lễ, đại chúng đem mắt từ nhìn chúng khác loại, nghĩ thương xót cho kiếp sống trầm luân trải qua nhiều lần đọa lạc. Lại nghĩ Tam Bảo có đại oai lực hay bạt sạch sanh tử. Quán tưởng như thế xong, pháp sư cầm thủ lư lên đọc:
            - "Chí tâm phụng thỉnh trên hội quang minh Chư Phật, Bồ Tát, Mười Phương Từ Phụ, Quán Thế Âm Bồ Tát quảng đại linh cảm, Thiên Long thần kỳ tại đạo tràng này gia trì cho nước tịnh thủy này đủ công đức dày rưới khô muôn loại, khiến thân tâm họ thanh tịnh, nhẫn nghe diệu pháp.
            - Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát (3 lần)
            Chúng hòa theo. Tiếp tụng Chú Đại Bi (3 biến), pháp sư cầm thủ lư niệm hương:
            - "Ngưỡng bạch Mưòi Phương Tam Bảo, Thích Ca Bổn Sư, Từ Phụ A Di Đà, Bảo Thắng Như Lai, Quan Âm Bồ Tát, cha con trưởng giả Lưu Thủy, Thiên Thai, Vĩnh Minh, các bậc đại sĩ v.v..Ngưỡng nguyện Đức Từ Bi chứng tri hộ niệm, nay có các chúng sanh bị người bắt nhốt sắp đưa vào cửa tử, may gặp được…(tên người phóng sanh) tu hạnh Bồ Tát phát tâm từ bi, gieo nhân trường thọ tạo việc phóng sanh, cứu thân mạng của những con… này thả chúng ung dung tự tại".
            Tỳ kheo… bèn theo Kinh Đại Thừa Phương Đẳng truyền Tam Quy, niệm 10 hiệu Phật. Lại cũng vì các chúng sanh này mà nói pháp 12 nhân duyên chỉ vì các chúng sanh này tội chướng sâu dày thần thức hôn mê. Ngưỡng cầu Tam Bảo oai đức gia bị thương xót chở che. Pháp sư đập thủ xích một cái, rồi cất tiếng thuyết 3 quy y:
            - "Hiện giờ các chúng sanh quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Nói xong 3 lần, đại chúng cùng hòa theo:
            - "Quy y Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tăng rồi; từ nay trở đi tôn Phật làm thầy, không quy y tà ma ngoại đạo, tôn Pháp là thầy không quy y kinh điển của ngoại đạo, tôn Tăng là thầy bèn không quy y bọn đảng xấu ác. Này các Phật tử, đã quy y Tam Bảo rồi, nay tôi vì các ngươi mà niệm:
            - Nam Mô Bảo Thắng Như Lai, 10 hiệu công đức khiến các ngươi được nghe như những con cá (bơi) chim (bay) tự do liền được sanh lên cõi trời không khác.
            - Nam Mô quá khứ Bảo Thắng Như Lai, ứng cúng, chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện Thệ, thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều Ngự trượng phu, thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn.
            Pháp sư đập thủ xích một cái rồi nói:
            - "Các Phật tử, nay tôi vì các ngươi mà nói 12 nhân duyên tướng sanh tướng diệt cho các ngươi hiểu pháp sanh diệt; ngộ bất sanh diệt đồng như chư Phật chứng ngộ Niết Bàn. Bởi vì do vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử, buồn thương, khổ não v.v.. vô minh diệt thời hành diệt, hành diệt thời thức diệt, thức diệt thời danh sắc diệt, danh sắc diệt thời lục nhập diệt, lục nhập diệt thời xúc diệt, xúc diệt thời thọ diệt, thọ diệt thời ái diệt, ái diệt thời thủ diệt, thủ diệt thời hữu diệt, hữu diệt thời sanh diệt, sanh diệt là lão tử, buồn thương, khổ não diệt".
            Nói xong, pháp sư vỗ thủ xích một cái rồi nói:
            - "Này chư Phật tử, nay tôi dựa Kinh Đại Thừa truyền cho các ngươi 3 quy y, 10 hiệu Phật, 12 nhân duyên đã xong. Nay vì các ngươi đối trước Tam Bảo, phát lồ sám hối tội khiên cầu xin sám hối. Mong cho nghiệp tội các ngươi hết thảy đều được tiêu trừ được sanh vào xứ lành, gần Phật nghe pháp. Các ngươi phải chí tâm theo tôi mà sám hối:
            - "Con xưa lỡ tạo các ác nghiệp,
            Đều do vô thỉ tham sân si
            Từ thân miệng ý mà sanh ra,
            Hết thảy con nay xin sám hối".
            Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).
            Bưng chén nước chú nguyện rảy lên những con vật sắp được thả, rồi mở cửa lồng cho chim (thú) bay ra. Pháp sư trở lại đọc:
            - "Ngưỡng mong từ ngày được thả hôm nay trở về sau, hoàn toàn các ngươi không gặp ác ma nhai nuốt, lưới sập bẩy giăng, mà thong dong tự tại mãi mãi lâu dài. Nương lực Tam Bảo, Bảo Thắng Như Lai, từ lực bổn nguyện mà sau khi chết được sanh cõi trời Đao Lợi, hoặc sanh làm người, giữ giới tu hành, không tạo ác trở lại nữa. Tin tưởng niệm Phật, tùy nguyện vãng sanh".
            Lại cầu nguyện:
            - "Thí chủ… hiện đời được như ý, qua đời khác báo ứng tùy tâm Bồ Đề hạnh nguyện, niệm niệm càng sáng cứu khổ chúng sanh được như tâm nguyện. Do nhân duyên đó được sanh cõi Cực Lạc thấy Phật A Di Đàchư Thánh chúng, chứng được vô sanh nhẫn. Phân thân vô số độ khắp hữu tình đều thành chánh giác; Nay đại chúng đồng thanh niệm Kinh Hoa Nghiêm phẩm 10 hồi hướng, thần chú vãng sanh Tịnh Độ.
            Đọc xong, duyệt chúng gõ mõ nhỏ, đại chúng đồng tụng:
            - "Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm phẩm 10 hồi hướng tùy thuận thiện căn thật kiên cố, xin hồi hướng chư Phật tử… đại Bồ Tát làm đại quốc vương, đối với pháp được tự tại, thực hành sâu rộng lời giáo huấn làm dứt trừ nghiệp sát. Trong cõi Diêm Phù Đề(6) thành ấp, xóm làng hết thảy kẻ sát sanh đều bị cấm ngăn. Chúng sanh không chân, 2 chân, 4 chân, nhiều chân, những loại sanh thân đều ban cho điều không sợ sệt; không dục xâm chiếm tâm, rộng tu các hạnh Bồ Tát, nhân từ lợi vật, không làm xâm tổn. Phát tâm trân quí để làm an ổn chúng sanh ở các cõi Phật. Lập chí sâu bền thường tu 3 môn tịnh giới và cũng làm cho chúng sanh an trụ như vậy. Các đại Bồ Tát khiến chúng sanh tu giữ 5 giới trừ dứt hẳn nghiệp sát. Đem thiện căn này hồi hướng cho hết thảy nghĩa là nguyện cho khắp mọi loài chúng sanh phát tâm Bồ Đề đầy đủ trí huệ, bảo vệ thọ mạng lâu dài không chấm dứt. Nguyện hết thảy chúng sanh trong vô lượng kiếp cùng với chư Phật cùng khuyên nhau tu học, làm tăng thêm thọ mạng. Nguyện khắp chúng sanh tu hành nghiêm túc xa lìa sanh tử, hết thảy hiểm nạn, không làm hại đến thân mạng kẻ khác. Nguyện tất cả chúng sanh được thành tựu mọi điều không bịnh, tổn hại thọ mạng tự tại đều được tùy tâm... Nguyện hết thảy chúng sanh được thọ mạng không cùng tận tới kiếp vị lai, nương hạnh Bồ Tát điều phục giáo hóa chúng sanh. Nguyện tất cả chúng sanh vì việc thọ mạng, đầy đủ thiện căn trong 10 lực tăng trưởng. Nguyện cho chúng sanh căn lành đầy đủ được thọ mạng vô tận thành tựu đại nguyện. Nguyện hết thảy chúng sanh được thấy chư Phật vâng phụng cúng dường tu tập thiện căn thọ mạng vô lượng. Nguyện cho khắp hết chúng sanh ở cõi Phật khéo học những pháp cần học, đạt được pháp an lạc thọ mạng vô cùng. Nguyện tất cả chúng sanh được không bịnh, không già, thường trong mạng căn tinh tấn dũng mãnh, nhập Phật trí tuệ. Đó là Bồ Tát ma ha tát trong 3 tụ tịnh giới dứt hẳn nghiệp sát hồi hướng thiện căn để làm cho chúng sanh đạt được 10 lực của Phật, trí tuệ viên mãn".
            Tiếp tụng Chú Vãng Sanh (3 lần) và Duy Na đọc:
            - "Trở lên công đức phóng sanh để đền đáp 4 ân, 3 cõi đều nhờ. Pháp giới chúng sanh đều trọn thành chủng trí. Mười Phương ba đời Chư Phật, hết thảy chư đại Bồ Tát, đạt đại bát nhã ba la mật".
            Tụng hồi hướng, ba tự quy y. Bên trên là lược nghi thức phóng sanh xong. Nếu lễ phóng sanh mà có thêm tụng kinh hoặc cúng dường trai phạn v.v.. đều xem nghi thức trước, chỉ có phần hồi hướng và sớ văn thay đổi theo việc cầu nguyện của thí chủ.
            Chứng nghĩa ghi rằng:
            Nghi phóng sanh đời Lương dịch từ Kinh Kim Cang Minh như thế. Nếu căn cứ 2 bản dịch đời Tùy-Đường đều có lời chú Kinh Phạm Võng cũng có nói việc phóng sanh. Ngoài ra, khảo cứu luật tạng, kẻ nữ sĩ trước thọ tam quy, sau truyền 5 giới không cho vượt bực. Cho nên nay phóng sanh nhưng chỉ nói Tam Quy mà không cần nói thêm 5 giới. Có người hỏi Ngài Vân Thê Liên Trì rằng:
            - "Thuyết pháp đối với người do người chưa tin nên khuyến khích phát tâm, súc vật làm sao hiểu được?"
            Sư đáp rằng:
            - "Tánh nơi hàm linh không thể nghĩ bàn, đặt kỳ vọng nơi loại súc vật hoàn toàn không biết được. Con linh (giống như chuồn chuồn mà không bay xa được) sống trong bầu trời, chim đại bàng biết luật, con cọp vểnh tai nấp đất nghe ngóng, con lân đổ nước mắt cảm tâm. Những loại như thế so sánh ở đây đủ biết… Giá như nghiệp nó nặng không biết cũng là một loài thiện ở vị lai. Ví như mùa đông trời lạnh xuống thấp, mùa xuân ấm áp tự nhiên cây cối nẩy mầm. Chỉ lấy tâm từ hướng đến để nói, hành giả tự có được phước, nên phải giáo hóa không phân người, súc vật, cho chí phóng sanh cảm ứng đời sống bên trong rất nhiều".
            Nay lược nêu ra một số điều rất cổ như Kinh Kim Quang Minh quyển 4 nói về cha con trưởng giả Lưu Thủy trên đường đi thấy một ao nước cạn có 10,000 con cá sắp chết, 4 bề vùng vẫy. Lúc đó trưởng giả cho nước và thức ăn cho cá mà cứu được chúng rồi cá lội xuống ao.  Ông trưởng giả giảng cho cá pháp 12 nhân duyên và niệm “Nam Mô Bảo Thắng Như Lai”. Về sau, 10,000 con cá ấy đều sanh lên trời Đao Lợi, chúng biết đời trước mình là cá và được cha con ông trưởng giả cho nước uống và thức ăn. Lại vì bọn chúng, ông giảng pháp 12 nhân duyên và niệm danh hiệu Phật Bảo Thắng Như Lai. Vì nhân duyên đó khiến đời sau chúng được sanh cõi trời. Đây là cách báo ân, mỗi con cá cầm một chuỗi trân châu anh lạc tới nhà ông trưởng giả Lưu Thủy dâng ngọc báu, tán hoa. Ông trưởng giả Lưu Thủy lúc đó, nay chính là Phật Thích Ca Mâu Ni; 10,000 con cá lúc đó nay là 10,000 thiên tử đều mong Phật truyền đạo Bồ Đề.
            Đời Tùy Ngài Thiên Thai trí giả đại sư ở chùa Tu Thiền tại Đài Châu, lấy y mặc khuyên người bán một sở đất làm ao phóng sanh; Ngài thường ở đó giảng Kinh Kim Quang Minh, bổng một hôm thấy vô số chim hoàng tước tới trước giảng đường tụ tập về đây trong nửa ngày, rồi kêu lên tiếng buồn rồi bay đi. Đại sư thấy chim nói rằng:
            - “Đây là cá sông hóa làm chim hoàng tước tới tạ ân Ta đó, nay là chùa Đại Từ vậy.”
            Lại đời Tùy, có Kế Vũ nhậm chức ở Đài Châu làm quận trưởng, thường mời Thiên Thai trí giả giảng Kinh Kim Quang Minh phẩm Lưu Thủy trên sông, ngư dân nghe pháp đều tôn trọng sanh mạng bỏ nghiệp sát hại. Vũ sau trở lại kinh đô ngồi thiền thấy mình mắc tội bị hạ ngục.  Đương gặp lúc lâm nguy ấy bèn trực nhớ tới cầu đại sư, thân tới cứu hộ. Đêm đó mộng thấy đàn cá thổi bọt tung nước. Sáng sớm hôm sau, Vua ra lịnh bắt Kế Vũ hài tội. Căn cứ chuyện này lấy từ Kinh Kim Quang Minh một đoạn chỗ trưởng giả Lưu Thủy mà phóng sanh là việc điển hình sớm nhất. Cho nên Kinh Kim Quang Minh phẩm phóng sanh là pháp quan trọng đáng tin mà về sau các bậc hiền phải biết đó.
            5.25  Phụ: Qui Ước Chỗ Ở Loài Vật Có 15 Điều
            Phật dạy:
            - "Tình nhiều tưởng ít sanh vào hoạnh sanh, nên biết chúng nó khác loài. Trước vì ngu si ám độn không tu chánh niệm nên đời này mang lông cánh, vảy vi trong thân hình thấp kém, ở nước, trên cạn, bay trên không, nhiều loài không phải một. Chúng ta phải tuân theo lời Phật dạy nên tùy lực phóng sanh và cho đồ ăn uống mong những loài khác hết báo thân này được sanh về cõi Tịnh Độ. Có quyền chăm sóc các loại sanh linh, phát tâm thương tưởng mong chúng dứt hết kiến chấp. Tùy nghi phóng thích phải có qui định rõ như liệt nêu sau đây:
            1- Phàm đem con vật phóng sanh có cần nói 3 quy y không? Nếu chưa nói, cần đưa tới trước Phật, đốt nhang thuyết 3 pháp quy y, kệ phóng sanh: loài chim bay thú chạy, loài dưới nước liền niệm Phật thả chúng bay đi;
            2- Trâu dê, gà vịt đặc biệt là gà trống, mái không nhốt chung một chỗ.
            3- Những loại sanh đầu như gà trống là kê đầu, toàn quyền coi sóc chúng cẩn thận, mỗi con phải đăng ký, sáng chiều kiểm điểm số lượng để giả sử có chết phải cho tri khố, tri khách biết tới khám nghiệm, sau mới đem chôn.
            4- Chỗ ở thường phải khô ráo sạch sẽ, không được để hôi hám xông mùi khó chịu, làm cho loài vật thân, miệng dơ dáy.
            5- Những con vật mới để phóng sanh hẳn phải nhốt riêng một chỗ, đợi ban đêm mới cho nhập bầy (đàn)
            6- Thức ăn mỗi ngày cho 2 lần sáng, chiều. Ăn xong nên thu dọn đồ đựng cất, không được vung vãi bùn phân vấy vào bồn đựng đồ ăn.
            7- Sanh đầu: đánh loài súc vật bị thương, chiếu theo lớn nhỏ phạt tiền, đánh chết bị phạt đuổi khỏi chùa. Chăm sóc thiếu cẩn thận bị các giống ác thú làm hại hay bị kẻ xấu bắt trộm đem đi cũng căn cứ theo lớn nhỏ mà phạt tiền. Thả trâu bò làm hại lúa mạ người chiếu số thiệt hại đền tiền.
            8- Lúa thóc, hạt lúa mạch v.v… phàm ẩm ướt liền hong phơi hoặc sấy khô, không được để sâu mọt đục khoét cắn phá.
            9- Phàm tặng thức ăn sống, tiền bạc không được dùng riêng.
            10- Trong ao không thả cá đen, câu cá, đâm vây, lươn vây cá v.v… sợ làm hại những con cá khác; cũng như không thả ốc sên, cá xanh ăn bắt ốc sên, nên lập ao riêng để thà.
            11- Không được dùng thuốc tẩy, dầu mỡ và các thứ võ đậu, trấu… bỏ vào trong ao.
            12- Cá ăn rêu xanh nên chẳng cần cho ăn.
            13- Trong ao không được ngâm tre trúc, cật tre vàng v.v… hay tất cả những vật tương tự.
            14- Nước ao không được khuấy động, nếu xử dụng nên lấy bình đựng cho êm nhẹ.
            15- Phàm loài thủy lục mỗi loại sanh đầu đáng giá thường sinh sống theo quy củ; không được riêng nói với thí chủ đòi lấy tiền bạc, người nào trái lấy một, thường 2 để mua thức ăn sống cho loài vật.
            Ngày… tháng…năm… Trụ Trì… sao lục.
            Chứng nghĩa ghi rằng:
            Chỗ ở có qui định mà bảo hộ sanh mạng là tu hạnh từ vậy.
            Kinh Phạm Võng dạy rằng:
            - "Nếu Phật tử đem tâm từ bi làm việc phóng sanh, xem hết thảy người nam là cha ta, hết thảy người nữ là mẹ ta. Ta đời đời sanh ra hẳn từ đó mà sanh nên 6 đường chúng sanh đều là cha mẹ ta, giết ăn thịt họ tức là giết cha mẹ ta vậy. Lại phóng sanh là làm thiện thể hiện tâm từ không giết hại. Đầy đủ các giới hạnh là chỉ thiện, chỉ tác 2 việc hành trì đúng nghĩa hộ sanh".
            Có người hỏi Sư Liên Trì rằng:
            - "Mặc Tử với thuyết Kiêm Ái bác cho là dị đoan; còn Phật giáo làm sao chúng sanh đều lấy đó quán làm cha mẹ ta được?"
            Sư đáp:
            - "Đạo Nho chỉ luận đời này, đạo Phật bàn tới tiền thân (nhiều đời trước). Con người thọ thân này đã trải qua nhiều đời, thác thai ắt sanh nơi các loài. sáu đường chúng sanh đều là cha mẹ ta há chẳng hiển nhiên hay sao?"
            Chỉ theo dõi tích gần không cần luận xét duyên xa, so sánh với việc dị đoan cũng đã vượt xa rất nhiều rồi vậy.
            Phép vai choàng (kiệu) lọng báu, tràng phan v.v... những loại pháp khí (7) đều giống như nghi thức này.
            Nghi thức cúng pháp y không giống như nghi trên. Việc thọ pháp y nói đây là hàng đệ tử nhận y ban từ vị pháp sư hoặc bậc trưởng thượng, đã gia ân nơi chiếc y. Vì thế vị Trụ Trì tới phòng khách đích thân nhận và đến đảnh lễ Phương Trượng. Đây là việc cúng pháp y tức thí chủ cúng cho vị Trụ Trì.
            Nghi thức đãi khách như mục cúng trai phạn chư tăng trên có nêu rõ. Song Trụ Trì là chủ của một ngôi chùa, phàm thí chủ cúng pháp y, đồ pháp khí đều phải đem bạch chúng để ghi sổ vạn niên của chùa. giao y bát trang trọng, việc thâu nhận vật dụng về trù phòng cũng phải ghi rõ ngày tháng năm…, tên thí chủ, không được lấy vật cúng nhận làm của riêng, hẳn sai luật Phật dạy.
            Chứng nghĩa ghi rằng:
            Thí chủ cúng pháp y, nếu Trụ Trì biết trước phải hỏi thí chủ chi tiết không được thêu Phật trên y. Sách Vân Thê Chánh Ngoa tập ghi rằng: gần đây trên Ca Sa thêu đủ loại hình Phật gọi là y nghìn Phật. Đây là ngụy dối vậy. Hình Phật chỉ nên đội trên đầu, mang vác trên vai, đeo quảy bên hông đã là quá lắm rồi, huống gì còn khâu dính mặc nơi thân. Từ lưng, đầu gối trở xuống đều có Phật, quả thật là lỗi quấy lắm lắm! Vua Luân Vương có phước đức, nên tin chắc đó chẳng phải lời hư mà đã thành sự thật lâu đời không tự hay biết. Mong minh phủ quán xét cẩn thận đừng chấp chặc vào lời, như nói: “Y thiên Phật, quả có đúng hay không?”
            Đáp:
            - "Có, ngày nay là y 25 điều, là y tương truyền của Phật".
            Phật dạy các thầy tỳ kheo rằng:
            - "Ta có y Tăng Già lê này của chư Phật quá khứ, vị lai đều mặc mà được giải thoát và lấy đó chứng minh. Hoặc thêu chữ Thọ gọi là vạn thọ y cũng thuộc loại sai trái, hoặc thêu hoa hòe gọi là thiên hoa y cũng không hợp. Lại, thiên hoa là phạm lỗi với ý nghĩa Thiên Hoa đài thượng của đức Phật Lô Xá Na. Cũng sợ làm tổn mất phước vậy.
            Thông tuệ là đốt sáng, nhen nhúm ý chí, thông tuệ là nói bửa tiểu thực. Lễ thọ thông tuệ sáng hoặc Trụ Trì trở lại chùa Tổ; nhưng về lại Tổ đình phải có người hầu cận. Vì phải lấy lễ xử Thầy như bậc tôn túc, Thầy cũng phải lấy lễ đáp lại; kính chúng Tổ đình đã lập pháp thọ thông tuệ này, có nghĩa là thiết trai mừng Thầy vậy. Thầy đến địa điểm thọ trai, nhưng sai thị giả lễ thay, không dám làm động chúng. Như hoặc lấy vai trên tiếp vai dưới hoặc dưới kính trên, hoặc tôn trọng ngang vai hay kính trọng đặc biệt như tạ pháp, báo ân, đáp lễ, phát tâm hoặc bị hành phạt mà đặt ra nghi này.
            Ở đây lớn nhỏ tùy theo sức mình hoặc thiết cúng trai, cúng bánh, đãi trà… đều gọi là nghi thọ thông tuệ sáng giống như nghi cúng trai phạn ở trước.
            Đầu tiên làm Trụ Trì ắt hẳn thông báo thư từ để không vong bản. Nếu thư truyền pháp đến Trụ Trì phải thăng tòa thuyết pháp, tùy cơ mà nói, bởi vì lập đàn pháp giáo hóa phải tương tục làm cho giáo pháp tồn tại mãi. Nếu pháp sư nối dòng pháp (hoặc thầy thế độ hay y chỉ sư có di thư đến lập tức đưa vào giảng đường đặt lên bàn, treo hình Thầy lên để cúng giác linh. Trụ Trì xuất tiền sai thị giả mời vị đại diện tới cúng, phải cho trang nghiêm thanh tịnh; cho 2 dãy (liêu) đại chúng biết hoặc trong ngày hoặc cách đêm trước lên chánh điện cho chúng hay (nghi thức thượng đường xem ở trước), nói pháp thương cảm rồi xuống tòa đến bàn giác linh niệm hương, đọc lời buồn kể.
            Lập đàn tụng Kinh, nhóm chúng để tụng niệm (tụng kinh gì, ngày nào tùy ý quyết định). Ngày đầu cúng ngọ, phải quỳ dâng cúng sớ. Xem chương tôn Tổ ở trước về phần lễ kỵ. Song tiếp di chúc thư đến, nghi tiết cũng giống nghi này. Chỉ có điều nên lập long vị (nên đặt nơi thật yên tịnh) không treo hình. Cúng đất đai không cần phải quỳ, cũng không phải đắp y, không lạy (chỉ xá) mà chỉ tiến lùi với tâm trạng lặng lẽ mà giữ vẽ bình tĩnh mong đợi. Muốn rõ hơn xem chương khách đường có qui định.
            Phụ:
            Lời Sớ Cúng Tiến Pháp Sư Giác Linh như sau:
            - "Từng nghe rằng, linh tánh vắng lặng, quán bào ảnh biết cuộc phù sanh chìm nổi; sữa pháp lênh láng; tìm đạo phong mà suy gốc ngọn; giọng cáo tang chợt đến; kính trải lòng thành, ngưỡng mong đức Thế Tôn điều ngự chứng giám đức của tiên giác. Thiết nghĩ rằng: Tôn sư viên tịch thượng A hạ B Hòa Thượng, tên đời… quê quán… tên chùa và ngày sanh, ngày tịch… Thêm: hiện tướng sanh diệt như đài gương soi không đến đi, hợp cơ Phật Tổ, như thổi lông đủ lung linh tác dụng, tiếp tục huệ mạng nơi thâm viễn. Chấn chỉnh tông phong trong thời mạt pháp, làm cho đèn Tổ rạng ngời ánh sáng chiếu soi việc Phật mới nên thành tựu. Thương tiếc pháp tràng bỗng gãy đổ… tên người được phó chúc. May mắn được thấm nhuần ân giáo hóa, đau đớn thay giờ này cô quả; tưởng áo khăn còn đó hình ảnh khó phai mờ. Những bữa cơm văn vẻ đượm tình, đặc biệt điển hình tụng Kinh Phạm Võng (thay…). Ngưỡng trông từ lực để báo đáp ân sư".
            Lại nguyện:
            - "Giác linh thầy… Hòa Thượng đại vắng lặng trong ánh sáng sánh với tỳ lư thọ dụng. Nhất chân pháp giới, lấy bảo tạng để trang nghiêm. Hồi hướng mưa pháp nhuận khắp quần sanh khiến cho tòng lâm hưng thạnh, mong cho đạo mạch được lưu thông. Cung thỉnh Tam Bảo chứng minh phúng kinh văn sớ cung tiến thầy. Ngày …tháng… năm… môn đồ pháp quyến đệ tử… chí thành dâng sớ".
            Ghi chú: Trong sớ phải đọc thêm: bổn sư đức hạnh ở đây sợ rườm rà nên không ghi ra hết. Cúng bổn sư thế độ, thầy giáo thọ, y chỉ sư tùy đó thay đổi, theo như các nghi thường.
            Chứng nghĩa trích Ngu Am Chích Cổ ghi rằng:
            Hòa Thượng Chân Tịnh có lúc bảo thị giả:
            - “Đi mời lão Hòa Thượng đến”.
            Thị giả mời thiền sư Nam đến thật đúng lúc. Ngài Tịnh lấy tay sờ trán than rằng:
            - “Không phải lão Hòa Thượng đây đâu mà đến nổi như thế này!”.
            Hòa Thượng Tiềm Am Nguyên mỗi lần thấy Nam thiền sư liền rơi lệ, than rằng:
            - “Hai người này có thể nói nghĩ tới hiếu không rời”, nên ghi thêm vào đây.
            Phàm các tự viện 10 phương thiếu Trụ Trì, cần phải tinh tế tìm bậc cao tăng đạo đức mới có thể thỉnh cử.  Cần phải họp chúng luận bàn kỹ để quyết định. Giám viện cũng phải biết rõ việc chùa, đất đai, tài sản và lễ nghi tiếp rước… Mọi việc phải hoàn bị tức là mời 2, 3 ban có Trưởng Ban điều động và tín đồ vài 3 người chuyên môn giúp việc. Tới ngày dự định họp đến các liêu chúng cho hay, phòng khách chuẩn bị sẵn sàng. Gióng đại hồng chung 3 hồi 3 tiếng nhóm chúng vân tập lên chánh điện. Có khách đặc biệt tới chùa tiếp nơi phòng khách, dùng lễ tiếp đãi, mời trà, chuyện vãn. Tri Khách trước bạch Hòa Thượng Phương Trượng biết và cho nhà trù hay để lo liệu. Kế hỏi thăm khách cho rõ, lễ phẩm dâng cúng đặt lên bàn, hướng dẫn khách lễ Phật. Tiếp theo đưa khách đến gặp Phương Trượng Trụ Trì chào hỏi, ngồi lại dùng trà, đàm đạo, trình bày lý do thỉnh tăng Trụ Trì. Nếu đường xa xôi khách cần nghỉ lại, đưa khách tới phòng ngủ. Nếu nội trong ngày rồi về, khỏi đưa khách tới phòng ngủ.
            Nếu lời thỉnh không được đáp ứng thời viết thư từ chối, nhưng việc mời Trụ Trì nên dò ý trước xem có được hay không. Chấp thuận mới tiến hành thỉnh; không được thời ngưng; nếu thuận đích thân đến hoặc chuyển qua Trưởng Ban lo. Như ta nhận sự cầu thỉnh, liền thông báo đến 2 dãy liêu cho chúng biết. Kế, sáng hôm sau, sau thời công phu, họp chúng tại chánh điện, nói rõ lý do, thăng tòa nói đã nhận lời mời thỉnh. Người có trách nhiệm được chùa phái đến mời Trụ Trì là duyên may, liền thiết trai cúng dường.  Người được thỉnh có một chỗ ngồi đặc biệt, thết đãi như một chuyên viên.
            Thầy Tân Trụ Trì liền chọn một số người thân tín cùng đi tới chùa mới với người mời. Một buổi lễ bàn giao sổ sách, khế ước, giao kèo, long trọng diễn ra. Tiền bạc, lúa thóc, vật dụng v.v.. nếu cam kết trên giấy tờ không rõ ràng, không nhận, vì văn bản vĩnh viễn này rất là quan trọng làm chứng từ pháp lý. Chọn ngày ấn định, tới ngày nhập tự, tân Trụ Trì dùng điểm tâm xong, ra giữa chúng tác bạch từ giả, kế lên chánh điện lễ Phật, lạy tạ Phương Trượng rồi chuẩn bị lên đường. Chuông trống bát nhã, đại chúng vân tập trước chánh điện, đợi Trụ Trì lễ Tổ xong, vào chánh điện lễ Phật 3 lạy; đại chúng đảnh lễ Trụ Trì 3 lạy, Trụ Trì xá đáp lễ. Đại chúng đi trước ra cửa đứng 2 bên đối diện trang nghiêm, chấp tay cung kính. Thầy Trụ Trì lễ Hộ Pháp Vi Đà, Phật Di Lặc xong rồi chào từ giả đại chúng mà đi. Đại chúng tiễn một đổi xa cho bóng người mất hút rồi mới trở lại.
            Nếu ban thỉnh Sư ở lại chùa áp dụng giống các nghi trước. Người được phái đến trước gặp Trụ Trì hành lễ xong, chấp tay bạch rằng:
            - “Vùng đó … (tên), chùa A… không có Trụ Trì, nay đủ lễ nghi xin cung thỉnh Đại Đức… vì chúng con nhận chức Trụ Trì. Ngưỡng mong trên Hòa Thượng từ bi doãn nạp và mong được cung thỉnh Đại Đức … về trụ trì chùa…”
            Trụ Trì đáp:
            - “Kính vâng lời dạy của Hòa Thượng Phương Trượng, chúng tôi hoan hỷ đáp lời thỉnh cầu của quý vị.”
            Nếu người được thỉnh là môn nhơn, Hòa Thượng Phương Trượng trao pháp y, kèm theo lời pháp ngữ dặn dò mọi điều cần thiết để hành giả thi hành nhiệm vụ mới. Tân Trụ Trì chí tâm chấp tay lắng nghe Hòa Thượng nói xong, đáp:
            - “Con xin y giáo phụng hành” rồi lạy 3 lạy, bạch rằng:        
            - “Ngưỡng mong ân đức Tam Bảo và hồng ân Tổ đức gia hộ, sự thỉnh cầu quá ân cần của Phật tử, thật cũng khó từ nan Phật sự chung, con chỉ e không đáp ứng được nhu cầu trông đợi. Cúi xin, trên Tam Bảo và Hòa Thượng chứng minh cho tâm nguyện của con.” Bạch xong, xá 3 xá.
            Hòa Thượng đáp:
            - “Đạo đã qui định, rõ một tơ hào không lầm người nhân đức, Thầy chỉ mong cho con chu toàn trách nhiệm”.
            Trụ Trì:
            - “Mô Phật, con xin vâng hành.” Rồi đứng lên xá 3 xá.
            Đại chúng ra trước đứng ngoài cửa sắp hàng đối diện 2 bên đợi để tiễn chân tân Trụ Trì ra khỏi cửa.
            Lời phụ:
            Bạch thỉnh tân Trụ Trì.
            Phàm bạch thỉnh tân Trụ Trì nên tùy theo mỗi hoàn cảnh mà làm, giá không có ai làm nên dựa theo đây cũng thành nghi, chỉ sửa từ cho thích hợp mà thôi.
            Từng nghe rằng:
            - "Ngoái xem bảo vật, Tây phương chư Thánh rộng mở mang. Vua mộng thấy người vàng pháp truyền qua Đông Độ cho pháp luân thường chuyển. Trang nghiêm vi diệu, hào quang chiếu khắp 3000 cõi, Phạm Âm diễn pháp Đại Thừa, viên âm kết Mâu Ni 108 pháp. Nên biết, nguyên xưa Thánh giáo do nhờ thiện duyên mà hưng thạnh. Riêng vì từ xưa tăng viên ắt do người lập thành. Cung kính Hòa Thượng thượng A hạ B… tên vùng…tên tăng… tên chùa… do phước đức đời trước, tham cầu diệu đế chân như, niêm hoa mỉm cười mà ngộ đạo Bồ Đề vô thượng; dấu ấn còn in như tuyết, một y một bát không ngăn đến nơi nào đều rủ ánh từ. Lục diệu, 6 thông để tùy thân mà ứng hóa. Nay làng của… tên chùa… thay thế danh lam… gọi là cổ sát. Tàng kinh các còn đó, ảnh hưởng tới cả nghìn sau, cơm Hương Tích thơm lừng, huệ mạng diên trường bao nhiêu năm tháng. Từ ngày… bổn sư (tôn sư) quy tịch (hoặc lui về ẩn tu… thay đổi cho thích hợp) do đó chùa không người trông coi. Tuy không bị thiên ma quấy nhiễu mà con đường giác còn bị cách ngăn, nếu không nhờ tích trượng gõ đầu thế ai biết được có bảo châu nơi trán. Do đó hết sức nỗ lực, xin chẳng từ khó nhọc, cho chúng con phục hồi, làm chốn Tổ rạng ngời để an ủi niệm hoài mong của con cháu; vì… cổ đại thọ ban phát ân từ che chở. Từ nay trải vàng trên đất, mở rộng cam lồ môn, trụ hội Linh Sơn, nghiễm nhiên còn mãi cho tới hôm nay.  Đạo tràng tuyển người làm Phật được hứa khả; cảnh quan này ngày càng thêm sáng tỏ. Kính mấy lời tỏ bày ngắn ngủi, với tấm lòng thành không phải dụng tâm, ngưỡng mong chứng giám. Những lời bày tỏ nêu trên kính xin Hòa Thượng thượng A hạ B chứng minh liên tọa. Hộ pháp (tên), thí chủ (tên);Trụ Trì (tên)… xin cúi đầu tác lễ".
            Chứng nghĩa ghi rằng:
            Việc hưng suy của tòng lâm do nơi Trụ Trì cả. Trụ Trì không đủ tầm vóc (uy tín) làm sao thỉnh cử đảm trách vai trò thường trụ. Biết mà vẫn nhất định đề cử làm suy hoại Tam Bảo; cũng nhân đây mà người được cử gặp họa, phúc, thăng trầm v.v... hết thảy đều do nhân duyên cả. Cho nên đôi bên đều phải thật cẩn thận chọn lựa cân nhắc kỹ càng.
            Sơn Am tạp lục ghi rằng:
            - "Dịch Hưu Am người Dương Châu là khách thường lui tới cửa chùa Thiên Đồng, mặc áo nạp, ngày ăn một bữa, đêm không ngủ; theo phong cách của cổ đức. Lúc bấy giờ ở Phụng Hóa thượng chùa Tuyết Đậu thiếu Trụ Trì, mọi người mời Dịch tới Trụ Trì; Dịch hân hoan cầm một chiếc nón lá ra đi. Chưa đầy một năm thay đổi hết mọi việc trong chùa. Lại hủy bỏ áo nạp, nay bị khinh miệt. Huống chi ăn ngày một bữa nay ví như cái đảnh chứa thóc kho trước sau, sân giận nổi lên. Người phạm trai ngã lăn xuống đất dùng quyền cước công kích, lòng ung dung tự nghĩ hết bị buộc ràng Trụ Trì. Y bèn ra vùng ngoại ô mua nhà dân lập am mà ở, hằng ngày lấy của riêng sinh hoạt. Tranh chấp nhà với Tăng chùa Trúc Lâm, việc kiện tụng đưa ra pháp luật xử, đuối lý thua kiện đương sự buồn bực mà chết. Ôi! Trụ Trì tệ hại như thế! Nhưng Dịch không Trụ Trì nữa sao lại như thế được? Việc này đều do người thỉnh cử không xét kỹ thật hư, chỉ tin người bề ngoài mà đưa tới sự việc rối rắm ấy. Sốt sắng mời thỉnh Trụ Trì mà làm hại đến như thế! Lại nói rằng Đông Nham năm 81 tuổi, người Giang Tây mà cả tăng tục đều tự nhiên mời Trụ Trì chùa Thiên Đồng. Lúc đó chùa Thiên Đồng bỏ trống, Nham nghĩ tuổi già nhận trọng trách này chẳng qua để được ở yên, bèn gọi tín đồ Đông, Viên, Khánh, 3 người phân chia việc chùa. Chưa tới 5 năm mà ổn định được trăm sự chùa bỏ hoang phế. Ngoài ra đáng kể, tài sản, tôn tượng, ruộng đất để cung cấp cho Tam Bảo. Người Phật tử vui mừng, người xuất gia yên ổn. Xem 2 việc trên để biết có sự khác biệt sâu xa, thành bại xem hiển nhiên thời việc đề cử thỉnh mời rất quan trọng không thể không cẩn thận, sáng suốt.
            Chọn ngày đã quyết định phải kể đến chùa gần hay xa. Nếu gần, Thủ Tọa cho chúng rước đến; nếu xa, 2 vị quản chúng 2 liêu sắp xếp đi sang chùa mới trước. Người đại diện phải thưa bạch với tân Trụ Trì, nếu từ chối liền thôi. Phàm nhập tự nên chuẩn bị các thứ bông hoa, trà quả, đèn nhang… sẵn sàng. Tới ngày dự định tổ chức lễ đón Trụ Trì về chùa. Thông báo ghi rõ: “ngày… tháng… lúc… giờ… toàn viện chư tăng đại chúng nghe hiệu lệnh đắp y hậu chỉnh tề ra trước cửa chùa đón vị Tân Trụ Trì nhập tự.”
            Đúng ngày, thỉnh 3 hồi chuông trống Bát Nhã, đốt hương đèn các bàn thờ tươm tất.  Đại chúng ra cửa đón từ xa tới gần, đứng 2 hàng đối diện nhau chắp tay cung kính. Tân Trụ Trì vái chào, vào bàn thờ Tổ lạy Tổ rồi bước ra. Chánh điện trước đặt tích trượng, tràng phan, thủ lư, bát nhang, phất trần, thủ xích Như Ý để sẵn theo thứ tự. Chúng đứng đối diện 2 bên, Tân Trụ Trì đứng giữa niệm hương, lễ Tam Bảo. Tri Sự gìới thiệu với đại chúng, mời tân Trụ Trì đăng tòa thuyết pháp. Trong lúc giới thiệu Thầy đến lễ Phật Di Lặc, Quan Âm, Địa Tạng hay Phổ Hiền, Văn Thù Bồ Tát, bàn hộ pháp Vi Đà. Duy Na cử tán:
            - "Vân Lai Tập Bồ Tát ma ha tát" (3 lần).
            Đại chúng hành lễ xong, Duyệt Chúng dẫn 3 hồi Khánh và 3 tiếng xướng đảnh lễ Tam Bảo. Tụng nghi thức cầu an ngắn gọn xong. Đại chúng làm lễ Tân Trụ Trì và mời Thầy ngồi vào pháp tòa ở trước đại điện Phật, nói vài câu thăm hỏi, lý do tới Trụ Trì. Tân Trụ Trì chỉ ngồi mà thuyết một vài câu sâu sắc ý nghĩa và chúc nguyện ngôi chùa bền vững, tứ chúng an hòa. Kế quan chức (nếu có) niệm hương, thị giả tiếp hương cắm vào lư. Chỉ người nối pháp kế thừa niệm hương, Trụ Trì đáp tạ thâm ân giáo dưỡng Thầy Tổ, đại chúng chúc mừng, quan chức bày tỏ niềm hân hoan. Kế đến người trong viện chúc mừng trước tăng sau tục; tiếp theo là mời Thầy thăm nhà kho, viếng phòng khách, lễ đường, nhà trù, các nhà phụ, liêu chúng… Khi nghe hiệu trống, chúng trở lại chánh điện làm lễ cúng ngọ. Nếu bận rộn, cúng ngọ có thể dời qua ngày hôm sau cũng được. Tân Trụ Trì nhất nhất niệm hương đảnh lễ, và cúng ngọ xong tới trai đường thọ trai. Thọ trai hoàn tất những vị cựu Trụ Trì, chuyên sứ, hộ pháp mời Tân Trụ Trì duyệt xem lại kỹ tờ khế ước giao kèo, tất cả vật dụng và tiền bạc, gạo thóc các mục xong, mọi người lui về. Tối chúng vào phòng Trụ Trì mời thầy nói tiểu tham. Xem nghi tiểu tham có đề cập ở trước. Chừng 15, 20 phút xong, mời xuống trai đường uống trà và xem qua Nội Quy chùa. Phàm đặc sứ và những người đi thỉnh sư nhất loạt đều mời cùng uống trà chung, cho tới khi tiễn họ về phòng nghỉ. Sáng hôm sau công phu xong, sau giờ điểm tâm, đại chúng công tác. Tới giờ cúng ngọ , theo hiệu lệnh chúng vân tập làm lễ cúng ngọ trước chánh điện. Sau khi thọ trai xong, Tri Khách hướng dẫn Tân Trụ Trì thăm lối xóm. Ngày thứ 3, sau thời công phu sáng, vì tín chủ lập chùa nên hôm nay có thời thuyết pháp. Khi điểm tâm xong, chúng công tác, chuẩn bị mọi việc tươm tất đàn na đặt bàn và thiết đặt các đồ cúng. Tri Khách bạch Duy Na mời 10 thầy cúng ngọ. Tân Trụ Trì châm trà cúng Phật, cúng Tổ. Tân Trụ Trì đãi cơm chay cảm tạ người sứ và đền đáp công lao đại chúng. Nếu đông người, nên dọn sang phòng khách cũng được. Những người công quả, chấp lao phục dịch ở chùa đều nên đền công lao bằng tiền. Mỗi người trả đồng nhau xem hôm nay như là ngày khai sơn và cũng là ngày cúng Tháp chư Tổ, như nghi tảo tháp ở trước. Ở cách xa nên chuẩn bị trước. Buổi lễ tối hoặc thông báo ban chức sự, Tân Trụ Trì nên lưu lại dự, nếu không chấp thuận muốn lui về, nghỉ nên để qua vài ngày sau, đợi cho Tân Trụ Trì hơi rãnh việc một chút rồi hẳn tổ chức cúng lễ cũng không muộn.
            Chứng nghĩa ghi:
            Có một giấc mộng được kể rằng, trước đây chư sơn đường đầu (trụ trì) một lần nhập tự nhậm chức có thu nhận của đàn na thí chủ cúng dường một án hương, tức là lễ nhập phương trượng, nhưng phẩm vật lại đưa vào kho chùa. Việc đơn giản cúng hương bằng tiền bạc, cúng dường đã chuẩn bị sẵn như của khách nhưng thuộc Tam Bảo. Nếu của để dành lo việc riêng thời chẳng nên nghĩ của thuộc về thường trụ, cho vật của ta là vật của Tam Bảo. Dù là cúng hương cũng phải thuộc của thường trụ. Nếu vạn bất đắc dĩ phải nhận dùng vào việc riêng, cũng nên tình thật bạch chúng biết mà không được một mình tự tiện. Đây là bổn phận của Trụ Trì theo đúng nghi cách.
            Xưa Đông Sơn Không thiền sư trả lời tài năng của mình bằng cách mượn dấu chân làm sách tóm lược như sau:
            - "Trong sách bàn về dấu chân chẳng biết xuất xứ của thường trụ ư?"
            Không Thượng Tọa hỏi:
            - “Nếu xuất phát ở hư không, không cũng có gì?"
            Nếu xuất phát của thường trụ là lấy của Tam Bảo làm của riêng. Một việc liên hệ tư là ăn trộm, đâu biết trộm dùng của Tam Bảo chứ?.. v.v…
            Lại như Sơn Am Tạp Lục ghi rằng: Vân Ngoại Hòa Thượng về già trụ trì chùa Thiên Đồng, lấy Tam Bảo làm việc mình, trăm việc hoang phế đều làm mới lại, không cao ngạo, chẳng tham tích trử, không ăn riêng, được của cúng dường đem chia cho tăng thường trụ; tiếp xử chúng rất cẩn trọng. Dù với kẻ hậu sanh cố chấp cũng bỏ qua không để ý tới. Hai buổi cháo cơm vẫn mang bát tới trai đường dự bửa, thân tuy thiếu thốn mà tài đức vẫn dồi dào. Cho tới khi viên tịch, tơ hào không chứa làm của riêng. Giới học giả cảm mến đức độ hết lời ca ngợi. Ôi, Trụ Trì như vậy mới kham làm được những việc lớn như thế!
            Phàm Trụ Trì có việc đi xa nên cho ở chùa biết trước một ngày và ra thông báo cho chúng biết như sau: “ngày mai… lúc.. giờ Thầy Trụ Trì có công tác Phật sự tại… trong vòng… ngày. Đại chúng khi nghe hiệu lệnh vân tập lại tiễn Thầy lên đường Phật sự.”
            Sau giờ ngọ trai, Thầy Trụ Trì bạch chúng tại trai đường; giao phó việc chùa lại cho Giám Viện trông coi trong thời gian Thầy đi vắng. Tới ngày đi, đại chúng tập trung lại đưa tiễn, Thầy vào lễ Tổ, lạy Phật xong; đại chúng lễ Thầy và đưa ra tới cửa rồi mới trở vào. Phàm Trụ Trì đi vắng vào những ngày Mồng Một, Rằm ở nhà vẫn lễ bái như thường cho tới khi Thầy về. Thị giả trước tiên báo Tri Khách biết ngày Thầy về, và đại chúng cũng rước mừng Thầy trở về như lúc đi. Nếu vắng trong nửa tháng hoặc một tháng; còn như sáng đi chiều về hoặc đi vài ba hôm chỉ cần cho Tri Khách, nhà trù biết là đủ, đại chúng khỏi cần đưa đón. Lại nếu Thầy về mà đại chúng không hay để chào hỏi liền sau thời Tịnh Độ xong, chúng lên phòng đảnh lễ, thăm hỏi và xin lời pháp ngữ.
            Chứng nghĩa ghi rằng:
            Việc ra đi trở về của Thầy Trụ Trì, là theo qui định Phật sự xưa, có ngày đi cũng như ngày về. Trụ Trì xưa lãnh chúng làm đạo, nếu không phải là việc chung của Tam Bảo chưa hề dám ra khỏi chùa. Nay thì thân làm Trụ Trì mà chẳng biết lãnh chúng luận đạo, suốt ngày kiếm cớ ra ngoài du hí để cầu danh, mong lợi, họ làm mất đạo đức nguy thay! Song lại có nơi dung túng trưởng dưỡng, cho là thư giản sự khổ nhọc. Tuy gặp việc chung phải đi nhưng cũng để lại người xử lý, trái lại là làm mất sự quân bình, tức là động chúng.
            Ngu Am Chích Cổ ghi rằng:
            Xưa ở Phụng Tân viện Huệ An, có Lâm Hồng Châu đạo Khổng, ở quận có Sư Chân Tịnh chọn người làm chủ vì một nhóm đạo không chịu làm việc. Lúc đó có Tuệ Uyên thủ tòa, ương ngạnh tự chuyên, dù đối với ông Chân Tịnh đã có giấy giao kèo. Việc tranh chấp lâu ngày làm tức tối, người ta không biết cho rằng, ỷ số đông không tuân mệnh lệnh, bèn thưa Sư Chân Tịnh rằng:
            - "Tuệ Uyên là người như thế nào?"
            Tịnh nói:
            - "Y có đi cũng được", bèn đuổi luôn. Uyên được công nhận bèn bỏ đi. Trạm Đường hỏi:
            - "Công Trụ Trì như thế nào? Uyên đáp:
            - "Tuệ Uyên này vô phúc vác cái giỏ tre gõ phố cúng chúng.
            Trạm Đường làm kệ tiễn chân. Đã ở Huệ An như chỗ đền bù, như thế suốt 30 năm, gió mưa không thay đổi; trăm việc hư hỏng đều sửa sang; chết ở Viện Huệ An, thiêu xác được xá lợi, 6 căn không rả; có mùi hương lạ thoảng nhiều ngày. Ôi, từ cổ chí kim thường đem “gõ phố cúng chúng” làm trụ trì, chỉ có Sư là một người duy nhất mà thôi. Cho nên, chép câu chuyện ra đây làm niềm vui để khuyến khích kẻ khác.
            Trụ Trì hoặc nhận lời của chùa khác thỉnh, hoặc tuổi già hay do bịnh hoạn, hoặc duyên đời không thuận… tự xét thấy phước mỏng liền biết điều nên thoái chức. Âm thầm cho 2 trưởng chúng hay thương lượng để họ tìm cách nói trước đại chúng, cho biết rõ lý do thoái chức.
            Phàm cử vị khác thế phải cân nhắc cẩn thận, tìm người đạo đức hoặc biết tông tích rõ ràng, hoặc thành tích trong sạch, đáp ứng được sự mong mỏi của số đông mới có thể rước về trụ trì. Nếu có nhiều người kham nhận nhưng cùng một lúc khó quyết định nên đối trước tượng hộ pháp Vi Đà cầu nguyện. Nếu được chấp thuận, Trụ Trì là người hợp đạo lý đáng tôn trọng, chùa viện được mở mang. Nhất định không thoả thuận riêng với người làng, cùng các bô lão và người thôn trưởng. Nên biết họ không lấy việc Tam Bảo làm trọng, e có bè nhóm riêng hợp tác sẽ rơi vào tệ sang đoạt. Cần nhất phải thận trọng đó. Nếu việc mời thỉnh Tăng đã hứa, liền đem của Tam Bảo như tiền bạc, lúa thóc, vật dụng các thứ đăng ký lưu vào sổ, nhất nhất rõ ràng nên kê ra từng mục, mỗi thứ 3 bản. Trụ Trì giữ một bản, cựu Trụ Trì giữ một bản và người có trách nhiệm giữ một bản; dùng con dấu Tam Bảo đóng vào đó để lưu chiếu về sau.
            Trụ Trì trước một ngày tới giữa trai đường nói lời từ giả chúng. Sau đó lên chánh điện nói lời thoái lui không nhận việc nữa và sang dãy nhà đông chính thức mời một người có đức quán xuyến thay Trụ Trì. Đợi sau khi Trụ Trì đến, cùng 2 lãnh chúng giao ước minh bạch. Tân Trụ Trì nên rõ ràng tuần tự coi xét việc chùa vừa mới được giao phó. Nên đối với từng việc rành mạch, giá như Trụ Trì trước có làm hư hỏng hẳn phải lo tu bổ lại các thứ. Ban chức sự nếu có báo cáo điều gì nên chờ cho tân, cựu Trụ Trì bàn giao việc rõ ràng, dứt khoát, nếu không đợi tân Trụ Trì đến mà đi trước, thì Thầy Giám Tự chấp quyền thay. Và đến dãy nhà Đông ôn tồn hỏi tân Trụ Trì để bàn giao việc.
            Chứng nghĩa ghi:
            Việc tòng lâm hưng suy do quan hệ việc nhận chức, thoái chức, giá như có một dự định của Tam Bảo bị tổn thất, cho nên không thể không cẩn thận. Đến như việc thoái chức, nếu người có đạo đức, biết sống lương thiện đạm bạc, hẳn không quá tham quyền.
            Sách Thiền Hoàn Bí Yếu ghi rằng:
            - "Có vị thủ tọa tới tham vấn Long Môn Phật Nhãn thiền sư là Đổng Trăn Nguyên Áo".
                 Phật Nhãn phái đến ở phân viện, Sư cố từ chối nói rằng:     
            - “Đây không phải là việc nhỏ, như kim châm vào mắt, nếu sai một tơ hào ắt làm hỏng cả mắt. Nguyện đời đời ở học viện mà tôi luyện.”
            Phật Nhãn nhân đó dùng kệ tán dương rằng:
            - "Biết đạo chỉ nhân lần nhượng bộ
            Khiêm hòa do tự ngộ bản tâm
            Chẳng biết mình đưa lên mây xanh
            Chỉ đem thân ở chúng thực hành".
            Lại như Phước Châu ở viện Chương Sơn làm am chủ, phạm hạnh không ai bằng, chí tham cầu Tổ đạo. Nhà Nguyên Sa ở châu Dự (nay thuộc phía Nam tỉnh Hà Nam) biết rõ việc này. Nguyên Sa ghi lại rằng:
            - "Thiền tôi đã vượt ngoài quy tắc".
            Về sau, sư cần một người hầu cũng không có. Từ đó Sư không cần qui tụ đồ chúng, không nuôi trẻ nhỏ hầu mà ở ẩn tại một dãy núi nhỏ; chùa lớn bề thế mà giống như thảo am chỉ cốt dung thân mà thôi.
            Tại vùng Nam Đảng thuộc Hàng Châu có thiền sư Pháp Không hầu hạ Tử Tâm đã lâu, sau được trao pháp muốn từ khước bỏ đi. Tử Tâm ấn ký rằng:
            - "Ông phước mỏng, nên lấy đạo tự tu dưỡng".
            Sau sống ở Nam Đảng, chưa đầy một tháng chùa bị cháy. Biết là không người để di chúc Sư than rằng:
            - “ Ta trái lời tiên sư nên gặp khổ nạn ngày nay.”
            Ngoài ra Ngu Am Chích Cổ ghi rằng:
            Cảm thiền sư ở Hoàng Long, thấy người kiểm lâm trong quận lấy việc xâm hại rừng lấy làm trò cười, bèn làm kệ ném vào y, rồi bỏ đi. Kệ rằng;
            - "Chùa viện thuộc trong nước đại Tống
            Châu thuộc châu cũng của đại Tống
            Trong châu có viện chẳng nương sống
            Một bát du phương rộng Ngũ Hồ…"
            Khiến sứ giả đuổi theo thì đã sang bên kia sông rồi. Xem 4 việc này hẳn thấy khí tiết đẹp của cổ nhân cũng có thể biết trách nhiệm của Trụ Trì quan trọng ra sao. Không thể đề bạt người không phước đức hành xử mà nên cử người xứng đáng đã lượng định cân nhắc kỹ càng trước.
            5.33  Bản Chẩn (Chẩn Bịnh)
            Phàm Trụ Trì bịnh biết rằng bịnh nặng, Giám Viện phải bàn thảo với Thủ chúng, người chấp việc đến phòng xem xét. Nếu có đông người nên đưa vào phòng khác. Giám Viện thưa bạch:
            - "Bạch Hòa Thượng hôm nay là ngày… tháng… năm … Trụ Trì bổn tự bỗng gặp bịnh duyên, sợ gió máy không lường được phải dời sang dãy nhà Đông. Nếu có vật tùy thân như y bát, mời thầy thư ký ghi chép để tiện việc hậu sự. Mong đại chúng tri tường, kế mở các món đồ ra xem xét gồm những thứ gì. Dưới đề ngày… tháng… năm… Thủ tọa ký; Giám Viện ký, Duy Na, Tri Khách ký tên.
            Cất giữ những món tùy thân đó, đợi khi nào hết bịnh mới giao lại cho chủ nhân.
            Chứng nghĩa ghi rằng:
            Từ xưa Thánh hiền lâm chung, nếu có bị những bịnh hiểm nghèo đoanh vây bứt ngặt không thể tránh khỏi được đó do nghiệp báo trước đã đến. Song chẳng làm tổn hại tới tư cách của người bịnh. Nếu các thầy nhỏ trông nom bịnh phải cẩn thận với hiếu tâm, chớ thấy bịnh nguy mà tỏ ra khinh thường.
            Ngu Am Chích Cổ ghi rằng:
            - Tử Tâm Ký con của Nam Công, nằm mộng thấy thần mách bảo:
            - “Sư đang bị chứng bịnh đầu phong (điên dại) hiểm nghèo, nghỉ việc chùa lui về nơi tiểu am để dưỡng bịnh.”
            Sư Kỳ nhờ tiểu nhắc Từ được gọi là Dương Kỳ Am chăm sóc bịnh, đi khất thực trong làng, giữ hiếu tâm không chán nản. Sư Kỳ gọi Từ bảo rằng:
            - “ Ta nối pháp Hoàng Long, vì việc hành đạo quá nặng không ngờ nửa đời cảm ác báo thế này. Ta không gây nhân đó sao có ngày nay? Như bây giờ buông bỏ hết không tu hoàn toàn được tự do.” Thét lên một tiếng rồi tịch. Lễ trà tỳ có mùi thơm lạ, lưu lại nhiều xá lợi. Ngu Am có bài tụng rằng:
            - "Đại Thánh hiện oan khiên
            Cũng đau nhói triền miên
            Nghiệp sư Ta đáng trả
            Thần nhân báo mộng liền".
            Tiểu sư nghe câu chuyện xong liền đi tham vấn mới hiểu được, rồi trở về thấy tâm định tĩnh: cổng nâu lá xanh cỏ xanh, vắng người, chim đậu. Đẩy cửa cầm bát ra xóm khất thực, bịnh tăng, người mất.
            Giờ viên tịch sắp đến, phàm người săn sóc bịnh nhân cần niệm Phật lớn tiếng để trợ giúp vãng sanh. Sau khi viên tịch chờ tàn một cây nhang mới sắp xếp tang lễ, hoặc đưa ra một số việc cần làm, nên chia đều để tránh tranh cải nhau. Nếu y pháp cận bên nên liệm theo, để lại tiểu sư không thể đắp được; vải gai khóc thống thiết. Thỉnh thủ tọa chủ tang, những người khác túc trực ở phòng khách, nhà kho, nhà bếp lo liệu công việc. Mọi Phật sự tùy nghi mà làm, đừng quên thể ông tăng để không phí của Tam Bảo, không phiền lòng đại chúng. Nếu Trụ Trì có công với Tam Bảo, tăng chúng nên niệm nghĩ ân đức, như y bát chưa truyền đều nên tiến hậu thương tiếc.
            Chứng nghĩa ghi rằng:
            Công tích người lúc sanh tiền tới lúc lâm chung mới trắc nghiệm, không hẳn là người có bịnh hay không bịnh, mà chỉ xem trước giờ ra đi có nhẹ nhàng, tự tại hay không mới biết được mà thôi.
            Sách Thiền Tông Bí Yếu ghi rằng:
            - "Thiền sư Động Sơn Lương Giới lúc thị tịch, hỏi chúng rằng:
            - "Lìa bỏ cái xác nhơ này hướng về đâu để chúng ta gặp nhau?
            Chúng không trả lời. Theo lời Ngài dạy bảo: cạo tóc, tắm rửa thân thể sạch sẽ, cho thỉnh đại hồng chung để Ngài từ biệt chúng. Ngài an nhiên ngồi mà hóa, lúc đó đại chúng thương quá kêu lên, níu lại không cho đi. Sư bỗng mở mắt bảo chúng rằng:
            - "Người xuất gia tâm không tùy vật là tu hành đúng; tham sanh úy tử, thương tiếc giá có ích gì!"
            Nhưng chủ sự khiến bày thiết trai kéo dài 7 ngày, đồ ăn đầy đủ, Sư cũng tùy chúng thọ trai xong, bèn nói:
            - "Nhà tăng vô sự, đại hạn lâm hành đừng nên náo động".
            Nói xong về lại phòng, ngồi ngay ngắn mà tịch.
            Lại như thiền sư Thúy Nham Khả Chân lúc sắp lâm chung hiện bịnh rất ngặt nghèo, nằm vật vả dưới đất, nghiêng qua một bên không cục cựa. Triết khai thị tỏ lòng thương cảm nói rằng:
            - "Bình sanh chê Phật mắng Tổ, nay làm gì thế kia?"
            Sư thấm thía quát lên rằng:
            - "Ông cũng làm vậy thấy giải không?"
            Liền ngồi dậy kêu thị giả đốt hương khói xông lên rồi thị tịch. Hai bậc cổ đức này lúc lâm chung đều có bịnh khổ nhưng đều tự do tự tại như thế, há không nhờ tích lũy công huân tu tập hay sao!
            Lại trong kinh ghi rằng, người lúc lâm chung muốn nghe tiếng chuông, tiếng khánh làm tăng thêm chánh niệm cần thiết ngay trước lúc hơi thở chưa dứt hẳn. Ngày nay thời đi thẳng, người mất tắt thở chưa bao lâu đã tới lúc nhập quan, tụng Kinh, gõ khánh đã không kịp nữa rồi. Tuy nhiên, đây là việc của người còn lại; nếu người chết lúc sống tu hành tịnh nghiệp đến lúc này thời hẳn được người khác trợ lực cũng như gấm có thêu hoa. Nếu người chết lúc sanh tiền không tu tịnh nghiệp đến lúc này đây hoàn toàn trông vào tha lực, chính là từ trước lúc tắt hơi thở trở đi niệm Phật ngay cho tới khi nhập quan về sau. Tuy không mong được lợi ích, nhưng lợi ích có thừa. Nhưng chắc chắn việc trợ niệm không thể thiếu được mà luận về đạo có thể đem an lạc giúp đỡ chứ? Chỉ có lúc lâm chung mới qui tụ được người đồng chí phân ban niệm Phật, giúp người mất được chánh niệm vãng sanh. Nên niệm Phật là điều không thể thiếu được.
            Ngoài ra, nên sắp xếp với nhân viên nhà thương hay nhà quàng không được động tới thân xác trong vòng mấy tiếng đồng hồ. Trong thời gian đó nên luân phiên niệm Phật không dứt. Sau đó mới tắm rửa, thay quần áo và di chuyển thi hài đi nơi khác.
            Quan mà có sách gọi là khám, là rất sai lầm. Có bàn rõ ở phần chứng nghĩa. Phàm người bịnh nguy kịch, phải chuẩn bị cổ quan tài trước như kiểu, vật liệu ra sao v.v… càng đơn giản bao nhiêu càng tiện việc thiêu bấy nhiêu và cũng đỡ được một phần chi phí. Hơi thở người mất vừa dứt là dẫn mõ theo tiếng niệm Phật cho tới lúc nhập quan. Mời các thầy nhiều chùa tới làm lễ nhập quan. Vị chủ sám làm phép sái tịnh trên – trong quan tài, đậy nắp xong, liền thuyết pháp ngữ. Nên quỳ thuyết nếu người mất lớn tuổi hơn (sám chủ) đáng hàng hậu bối cần phải chắp tay nghiêm chỉnh. Ban lời pháp ngữ xong, Duy Na bạch:
            - "Trở lên công đức niệm tụng, phụng vì đại Hòa Thượng tân viên tịch (thay đổi theo phẩm vị: Thượng Tọa, Đại Đức v.v…) của lễ nhập quan trang nghiêm báo địa, 10 phương ba đời chư Phật, hết thảy chư đại Bồ Tát, ma ha bát nhã ba la mật".
               Tụng bát nhã, hồi hướng. Kim Quan đặt tại phòng khách luân phiên tụng niệm 4 người một ban tụng Kinh A Di Đà, niệm Phật, đêm ngày không gián đoạn cho tới khi di quan. Các khóa lễ sáng, tối đại chúng đều đến trước Kim Quan tụng Kinh, tới giờ ngọ cử 2 người cúng ngọ mỗi ngày và tiến giác linh:
            - "Giác linh đã tạo các nghiệp ác
            Đều do vô thỉ tham sân si
            Từ thân miệng ý mà sanh ra
            Hết thảy gốc tội, đều xin sám hối".
            Ngưỡng mong giác linh bất loạn, chánh niệm rõ ràng vãng sanh ngay về cõi an lạc, diện kiến Phật Di Đà và các Thánh chúng, tu hạnh 10 địa chứng Niết Bàn lạc. Mười Phương ba đời hết thảy chư Phật, chư đại Bồ Tát chứng minh tiếp độ. Nếu giác linh có di chúc vật gì nên tụng thêm Kinh Phạm Võng. Căn cứ qui tắc xưa nhập quan vị tăng, phải giặt giụa quần áo cũ, ngoài mặc y 7 điều từ trên đảnh cho tới dưới chân, chuỗi hạt đeo tay, tọa cụ đặt dưới chân, ếm trà 2 bên thân thể, đậy nắp quan dùng tro niêm kỹ. Dù người thân đến thăm cũng không được mở nắp quan tài, không phô trương hiếu tâm, không rộng nêu liên hệ đi điếu, không mặc đồ gai bố đội vải trắng, không bày từ cáo phó, không chiêu nhóm thí chủ làm thân thuộc, không làm đám theo thế tục, chỉ chú tâm tụng niệm mà thôi. Những vật dụng, y bát hết thảy đem cúng cho chúng. Trụ Trì còn như thế, những vị khác phải biết noi theo.
            Chứng nghĩa ghi rằng:
            Gần đây có một việc gọi là khám ngồi đã thành thói quen mà không biết là trái lời Phật dạy. Căn cứ theo Kinh Niết Bàn quyển hạ, Đức Thế Tôn ở thành Câu Thi Na giữa 2 cây song thọ, Ngài nằm võng yên lặng thị tịch nhập quan mà hóa. Than ôi! Phật là bậc chí tôn của 3 cõi mà còn nằm như ngủ nhập quan, người tăng sĩ học Phật cũng phải dùng quan tài rõ ràng. Vì thế Lục Tổ Đàn Kinh ghi rằng: "người chết nằm không ngồi!". Chỉ một câu này cũng cho thấy đương thời Lục Tổ mất cũng nằm trong quan tài. Việc nói về tọa khám hoàn toàn do háo danh mà phát sanh, nếu quả thật bình thường thiền định lực sâu có thể ngồi mà hóa thì tọa khám không có trở ngại. Nếu lúc sanh tiền một đời lo việc ngoài không học tham thiền, lúc lâm chung gượng ép ngồi khám, thật là phí khí lực. Vả lại thần thức chưa hoàn toàn thoát hẳn cũng khó qua được nạn khổ.
            Ngu Am Chích Cổ ghi rằng:
            - Hòa Thượng Phổ Hóa ở Trấn Châu đời Đường Hàm Thông nguyên niên (năm đầu) sắp thị tịch hướng sang mọi người xin một cái áo dài, có người cho một áo ngủ hoặc đưa cho miếng vải tang. Ngài đều không nhận. Ngài Lâm Tế sai người đưa tới một áo quan liền cười nhận ngay, rồi lên từ biệt chúng mà rằng:
            - “Ngày mai Phổ Hóa chết ở Đông môn”. 
            Người trong quận nghe đồn rủ nhau kéo ra xem, Sư bảo:     
            - “Hôm nay chôn không hợp quạ xanh, ngày mai đi ra Nam môn mà hóa”.
            Mọi người cũng đi theo xem. Lại nói rằng:
            - “Ngày mai ra Tây môn tốt hơn”. Mọi người ra đợi ở đó càng lúc càng đông, đi ra rồi lại đi về, khiến ai nấy mỏi chán cho tới ngày thứ tư, Ngài tự bưng quan tài đi ra cửa Bắc rồi thúc mõ nhập vào quan mà hóa. Đây cũng là một chứng minh việc dùng quan tài của cổ đức vậy.
            Đã nhập quan xong đặt quan tài nơi trượng thất chỉ cách ngăn treo màn trướng, bày các đồ cúng như lúc sống. Giữa pháp tòa trên đặt chân dung và long vị. Nhân tuần thất trần thiết phẩm vật cúng, ngoài ra, lư nhang, bình hoa phải chăm sóc gọn gàng sạch sẽ, đốt nhang liên tục, 2 buổi dâng trà, cơm, thức ăn cúng dường. Nếu chư sơn trưởng lão và quan chức hàng tôn quí phúng viếng, môn đồ lạy đáp lễ cho phải phép. Ban đêm kéo màn che quan tài lại, để quan tài tối đa 3 tuần rồi hỏa táng nhập tháp. Tháp cao 6 mét, không nên phí quá nhiều công; gạch đá và vùi xác vô ích. Như có múa hát, âm nhạc v.v.. các loại thảy đều không nên dùng mà chỉ chư tăng niệm Phật dẫn đường mà thôi. Đám tang Trụ Trì hết thảy phải thật qui mô và theo nghi cách xưa. Tiếp đón các vị khách cho đủ lễ nghi không nên thiếu sót,  thì đám mới trang trọng; đồ đạc của họ không di dời chỗ khác. Phàm pháp tử, giới tử, đệ tử thế độ (xuất gia) nhiếp tâm lo việc tang lễ mà thôi. Lục Tổ Đàn Kinh ghi rằng:
            - “Sau khi Ta diệt độ đừng theo thế tình thương khóc rơi lệ. Nhận người điếu tang trên mình luôn mặc đồ tang.”
            Đó là lời Tổ dạy nên tuân thủ, nếu không, chẳng phải là đệ tử Phật, cũng chẳng theo đúng chánh pháp. Nếu 2 bên biết rõ bịnh nặng phải đưa tới phòng khách chờ viên tịch, đặt quan tài trong 3 ngày. Phàm tịnh nhân lâm trọng bịnh sau khi chết, nhập liệm hành lễ để chỉ một vài ngày liền đem hỏa thiêu, không để lâu hơn, cũng như không thiết cúng đủ các nghi.
            Chứng nghĩa ghi, ngài Vân Thê Liên Trì nói rằng:
            Người để tang chỉ buồn thương bên trong không nên để lộ bi thương sầu khổ. Căn cứ theo Kinh Đại Niết Bàn, dù không dạy để tang song lúc Phật lâm Niết Bàn, chúng vỗ về kêu khóc thống thiết đến đổi có người thổ huyết. Nay đệ tử ta gặp tang há không buồn sao? Chỉ có điều không nên giống người đời gào khóc, lăn lộn thôi. Lại như gần đây các vị Trụ Trì viên tịch, hàng đệ tử lấy lụa viết chữ lên đó cầu chuyên gia khắc vào tháp. Hẳn lúc còn sinh tiền cha mẹ thấy điềm lạ… sau khi chết hỏa thiêu, lưu lại vô số xá lợi v.v… đâu phải không có điềm lạ này là không thành bậc tôn túc đâu? Vả lại, do tông môn chúng ta tôn trọng, chỉ lo giới-định-huệ mới thật chân tu, mới là thật đức; dù thiền, giáo hay luật cũng thế, những việc khác đều là phụ không đáng kể. Đến như việc hỏa thiêu mà hỏi có phần nào còn nguyên vẹn (các căn bất hoại), lưu lại xá lợi… đều do bình nhựt người ấy có tu hành nghiêm tịnh, cũng đâu phải dễ đạt lắm sao? Nói về áo quan có bài thơ rằng:
            - "Luận xét cổ quan
            Quí giá tự phân
            Như muốn trọng sang
            Bị người khinh thay!"
            Học đồ làm một bài thơ chế giễu như trên, đều ghi nhận như thế để lưu lại cho đời đám tang vị sư mà không được như trong nhà đạo.
            Ngu Am Chích Cổ ghi rằng:
            - Thiền sư Vân Môn Yển thuyết pháp như mây mưa hoàn toàn không còn ai ghi chép, thấy có người ghi liền mắng rằng:     
            - “Ông ngày không tu, trái lại ghi lời tôi để dịp khác bán tôi chăng.”
            Nay trong phòng có dịp bàn đều là rừng hương dùng giấy làm áo, theo chỗ nghe sách mà đạt. Ôi! lời pháp ngữ còn chẳng vui ghi, huống gì là lời hoa mỹ dối gian khác ư?
                        5.37  Lễ Hỏa Táng - Thiêu Xác
            Phàm việc tổ chức lễ hỏa táng phải dự định ngày giờ trước. Cung thỉnh ban chức sự đâu đó xong rồi. Sáng hôm hành lễ tụng Kinh Di Đà, thỉnh di ảnh đảnh lễ Tổ trước giờ di quan. Chủ sám tuyên pháp ngữ trước Kim quan, sái tịnh, niệm Phật rước linh mô ra xe. Thủ chúng đi trước hướng dẫn niệm Phật, chúng theo sau cùng niệm, mọi người đều tỏ lòng thương cảm. Hiếu đồ đi theo xe Kim quan đi chậm tới lò thiêu. Tới nơi, đưa Kim quan vào địa điểm, hành lễ theo thủ tục hành chánh: chủ sám hoặc một vị tôn túc thuyết pháp cho người dự nghe và cũng nói pháp ngữ nhắc giác linh nữa. Phát biểu cảm tưởng của quan khách, điếu văn, đọc điện tín phân ưu, hiếu đồ cảm tạ… Chủ sám hành lễ, mọi người đứng chấp tay nghiêm chỉnh theo lời xướng của chủ sám:
            - "Tân viên tịch đại Hòa Thượng thượng A hạ B… đã thâu thần an nhiên thị tịch, theo như pháp thiết lễ trà tỳ, Ngài hóa thân trăm năm hoằng hóa, nhập Niết Bàn vắng lặng từ nay. Mong đại chúng thành tâm xưng dương Phật hiệu.
            - "Ngưỡng mong đuốc tuệ rạng soi
            Thân phàm hoại thể, tánh giác vẫn hoài
            Hoa giác ý tuần tự mở khai
            Biển pháp tánh trải đầy
            Rưới sạch bụi dày trần tâm
            Ba lượt trà châm
            Hương xông một nén
            Phụng tiễn Kim quan
            Tôn linh chứng giám”.
            Ngưỡng mong đại chúng tề thanh xưng dương Phật hiệu trợ niệm giác linh sớm vãng sanh Tây phương Cực Lạc quốc.
            - "Nam Mô A Di Đà Phật" (3 lần).
            Đại chúng cùng niệm và màn vừa kéo lại. Mọi người cúi đầu chào tiễn biệt rồi lên xe trở về chùa làm lễ an sàng.
            Chứng nghĩa ghi rằng, Phật dạy:
            Tăng viên tịch nên thiêu tán, làm cho lìa phần đoạn thân tạm thời đó mà chứng pháp thân thường trụ. Người thế gian thấy việc này không theo kịp, cho rằng thiêu xác là vô tình bất nhẫn. Ngày nay có một số vị tăng sợ thiêu nên dặn dò đừng thiêu, thật là chí tệ thậm tệ. Lại có ngộ nhận cho rằng, người truyền một đời Trụ Trì không cần thiêu, cũng lầm vậy. Đúng như Lục Tổ phái Tào Khê đã chứng được pháp thân bất hoại, xác lưu lại không hư rả, nếu chưa được bất hoại thiêu đã cháy trọn.
            Xưa thiền sư Sở Thạch thị tịch đời Hồng Võ năm thứ ba vào thời kỳ đó cấm hỏa thiêu. Ngài di chúc lại là muốn tuân lời Phật dạy, vua Minh Thái Tổ đặc biệt mở biệt lệ. Ôi, bậc Thánh minh còn đạt được vậy; huống hạng ngu tăng nên tàm quí không có đất chôn! Có người hỏi Ngài Liên Trì rằng:
            - "Ngài muốn lâm chung thiêu xác được không?"
            Sư đáp:
            - "Phép thiêu xác Đại Thừa cho phép; Tiểu Thừa cấm ngăn".
            Đại Thừa lòng bi sâu rộng, nhẫn lực hoàn bị nên nghe tối thiểu chấp nhận được. Tiểu Thừa chỉ biết tự lợi, bi nguyện mỏng cạn, cộng thêm nhẫn lực chưa cao, giá gặp lâm nguy mà mất mạng thì sự phương hại có thể thắng được sao? Huống gì hoặc tham thân do cái danh gắn liền sau, hoặc do nhất thời khích động không còn giữ chánh niệm phải chuốt lấy quả khổ, nên Phật cấm vậy. Lại các pháp hữu vi, bị ma trói buộc lúc sanh tiền ưa làm điều bất chánh, si mê, tà kiến, gần gũi cùng ác ma, nhân đó bám riết theo. Tác động đầu tiên về ý niệm thiêu thân, kế trở thành việc thiêu thân, lấy ma lực thêm vào. Ngồi ngay ngắn giữa ngọn lửa dường như không thấy nóng, như không có gì cả? Ma lui tan bị thảm hại đau khổ, không thể dùng lời gì dụ được. Trải qua trăm kiếp ngàn đời, chết làm oan hồn thật là đáng thương xót. Cho nên biết rằng chết mà không thiêu cũng như chưa chết mà thiêu đều chẳng đúng luật Phât. Thời mạt pháp tăng đồ phải biết thích nghi mà làm cho đúng.  Lại vì tăng viên tịch mà thuyết pháp, chỗ hiểu đạo mình chưa thông làm cho thần thức có chỗ bị trở ngại; thật tế là muốn khai thông người mất. Phàm sau khi vị Trụ Trì viên tịch, phải thỉnh một vị danh đức thuyết pháp là việc trước tiên trong các Phật sự. Ngoài ra, những việc khác như đậy nắp quan, mở nắp quan v.v.. do chư tăng. Duy Na và Thủ Tòa thưa hỏi Trụ Trì hoặc tự thuyết, hoặc nhờ vị khác thay thuyết. Duy việc mồi lửa tức thiêu xác phải là Trụ Trì (vị danh đức) đích thân đảm trách. Ngày nay cũng có nơi đặt Ban Thủ lo, đã sai qui tắc xưa; thậm chí còn nhân danh này nọ để thuyết pháp. Còn cổ đức một khi gặp đủ cơ duyên mới thuyết không câu nệ buộc ràng.
            Sơn Am Tạp Lục ghi rằng:
            - Vô Chuẩn trụ trì chùa Kính Sơn, vì xem Thượng Tọa hạ lửa nói:
            - “Quán sát biển cả khéo là nước, tận cùng của sóng chỉ là bọt nước, bây giờ biển tan, bọt cũng mất; Quay đầu ngó lại nhà mình chìm đáy nước!” 
            Đả danh thuyết pháp, từ đó trở đi nhân đó bắt chước gọi theo, đến nay chốn tòng lâm dùng từ “đả danh” làm định thức lôi kéo đâu có thích hợp, hoàn toàn không gốc gác mà cho là khai ngộ người chết, kết quả là gì? Ngoài ra không vì tăng viên tịch thuyết pháp đả danh, tức là kệ phú pháp; mà cũng có nhiều người nhân danh dựa cảnh để nói, đã không hợp bản chất thật tế mà chỉ theo ngọn bàn thảo thật khôi hài. Giả sử nói được 10 sự thật cũng thuộc lời trau chuốt mà thôi chứ nào có ích gì đâu!
            Thiêu xác xong tới ngày thứ nhì phải nhập tháp. Chuẩn bị mọi việc, thông báo giờ giấc, cử hiệu lệnh… Đại chúng vân tập trước tháp, đưa linh cốt nhập vào tháp. Nếu là đường xa, chỉ mời ban chấp sự chừng 20 người đến trước tháp, đứng trang  nghiêm, niệm hương, xướng lễ, tán. Duy Na bạch:
            - “Tân viên tịch đường thượng Hòa Thượng thượng A hạ B; y như pháp đã trà tỳ, còn xương cốt đem nhập tháp, lưu trăm năm cho đời; nhập vào đường Niết Bàn. Ngưỡng mong đức chúng thành tâm trì tụng kinh chú, niệm danh hiệu Phật trợ lực giác linh.”
            Bạch xong, tụng Kinh Di Đà, chú vãng sanh (3 lần). Chờ cho một vị tôn túc thuyết pháp xong. Vị đại diện bổn tự cảm tạ, đại chúng đồng niệm:
            - "Nam Mô A Di Đà Phật".
            Tri Khách mở tháp cho hộp tro cốt nhập vô xong, đóng tháp lại. Duy Na chấm dứt câu niệm Phật. Xướng tán Di Đà, phục nguyện. Duy Na bạch:
            - "Trở lên việc tụng niệm để trợ lực giác linh vãng sanh Cực Lạc quốc. Ngưỡng mong cỏ sạch trên chõm, hoa nở tốt tươi quanh tháp. Sáng tỏ bên trong tướng vô kiến đảnh tròn đầy. Cõi Ta Bà ở thế gian, đầy phiền não trần lao mong thoát khỏi. Chí thành 3 lạy, một nén tâm hương, phụng tiễn đường mây, cúi xin chứng giám.
            - "Chí tâm đảnh lễ Nam mô Từ Lâm Tế Chánh Tông… thế …Hòa Thượng Giác Linh"  (3 lạy).
            Chứng nghĩa ghi:
            Cứ theo lệ cổ chỉ có Tổ khai sơn và kế thừa có công lớn đối với Tam Bảo mới tôn tạo tháp, những vị Trụ Trì bình thường khác nhập tháp phổ đồng, tháp chung các đời Trụ Trì mà thôi. Chùa tạo tháp hoặc 3 tầng, 5 tầng hoặc 7 tầng hay 9 tầng khác nhau. Nếu xây 3 tháp, chính giữa tháp Trụ Trì, bên tả chùa và là tháp chung của các tỳ kheo thập phương, bên hữu bổn tự là tháp chung của các Sa Di thập phương. Nếu tháp Ni đưa về chùa am Ni, không lập trong chùa tăng. Như dùng tháp 5 tầng, giữa thờ Trụ Trì, ở giữa bên trái phía trong chùa thờ các tỳ kheo, bên phải phía trong thờ thập phương tỳ kheo, bên trái các Sa Di, thêm Ưu Bà Tắc, bên phải 10 phương Sa Di cũng thêm Ưu Bà Tắc. Hay tháp 7 tầng, 5 tầng giống như trên. Chỉ phân riêng Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di đặt thành 2 tháp riêng. Gần đây bên tả chùa lại có thêm tháp tỳ kheo ni, bên hữu chùa thêm tháp Sa Di Ni. Và tháp Ưu Bà Di thờ chung thành ra tháp 9 tầng. Lại gần đây tháp Ni đại bộ phụ thuộc nơi chùa Tăng, không hợp cúng tế, viếng thăm gây ra trăm điều phức tạp nên không thể không xét lại.
            Sau lễ nhập tháp, tại nhà kho, phòng hội, 2 dãy liêu chúng ban chức sự, Giám Viện, Duy Na, Tri Khách, Trị Nhựt, Thủ Khố, đồ tắm giặt, y bát v.v… đồ dùng của người mất. Trừ khi có dặn dò đem tặng cho người nào. Mời Giám Viện, Duy Na đem mỗi món đấu giá, chiếu theo thời giá bớt 7%, Thư Ký ghi vào sổ sách, Tri Khách biên số, Trị Nhựt kiểm lại; liệu để lại một vài món tạ công khó người chăm sóc bịnh. Phàm y cụ, mùng mền v.v... có 4 góc nên để vào của thường trụ. Ngoài ra, đem viết số hiệu, số mấy, món gì… giá bao nhiêu chẳng hạn buộc vào trên món đồ chính, định giá đầy đủ chi tiết. Nếu là vị khác, phải bạch Trụ Trì biết. Duy Na bạch rằng:
            - "Mây bay tan mà ảnh không còn
            Đèn tắt lịm nên sáng tự mất
            Lưu y làm biểu tượng để tin
            Qui cách khéo liệt Tổ phải gìn
            Dùng pháp phá dứt sạch xan tham
            Vâng mệnh trên làm gương quy phạm".
            Hôm nay xướng đấu giá dùng theo giá bất thường, ngưỡng mong đại chúng niệm:
            - "Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật".
            Nam Mô Tỳ Lô Giá Na Phật (108 hiệu) xong, hồi khánh chấm dứt.
            Lại bạch rằng:
            Hôm nay bạch đại chúng, đấu pháp y theo giá thường định; cũ mới, dài ngắn mời quý vị nên đấu theo món đồ giá biểu. Mỗi món có số ghi rõ, sau khi nghe tiếng khánh dứt là ngã giá không kéo lui lại nữa.
            Bạch xong, Giám Viện cầm món đồ giơ lên đấu giá từng món một. Duy Na gõ dứt một hồi khánh, là món đó đấu xong. Thư Ký ghi số, món gì, thâu tiền. Tri Khách, Trị Nhựt đối chiếu lại, hoặc cùng lúc tiền và vật giao 2 món, phó Trụ Trì so lại đúng rồi nhận tiền. Tri Khách đưa đồ cho khách. Hoặc hẹn ngày tới kho lấy đồ và giao tiền. Phàm quần áo nên ủi thẳng nếp, định giá tiền; trường hợp Thầy viên tịch có để lại tiền bạc cũng ghi vào sổ lưu. Nếu tài chánh dồi dào, chia thành 3 phần: 1 phần lo việc tang lễ các thứ, kể cả hương đèn, hoa quả…, một phần cho vào quỹ Tam Bảo và một phần cúng dường công đức chư tăng dự tang lễ. Nếu người mất thanh đạm, nghèo, phải lấy quỹ Tam Bảo lo tang lễ. Các Thầy cũng phải thông cảm trường hợp này.
            Đấu giá xong, niệm Phật, hồi hướng. Duy Na bạch rằng:
            - "Trở lên công đức tụng Kinh, đấu giá, phụng vì kỳ nguyện Hòa Thượng tân viên tịch thượng A hạ B được thập phần viên mãn. Ngưỡng mong thập phương thường trụ chư Phật, Thánh hiền chứng minh tiếp độ giác linh cao đăng Phật quốc".        
            - “Nam mô A Di Đà Phật”.
            Chứng nghĩa ghi rằng:
            Việc đấu giá có thể vì thấy rõ đạo tâm của người mất. Đạo tâm mới quan trọng, của cải tự xem nhẹ; người xem của cải nặng, hẳn coi đạo tâm mỏng cạn, đó là điều hiển nhiên vậy. Ngu Am Chích Cổ ghi rằng: xưa có một vị tôn túc mà hàng hậu bối trong tông môn đều kính trọng. Vào cuối đời bị chỉ định trụ trì một ngôi tự viện; chính vì được Vua ban ẩn thưởng trọng hậu. Lúc lâm chung nhà vua rất tiếc thương ban cấp tiền lo lễ tang. Quần thần tâu, tiền của vị tăng quá giàu nên có sự tranh chấp làm cho trên không vui, Ngài liền ngủ trước khi mất. Ngài Ngu Am có bài tụng rằng:
            - "Bạn không thấy trên núi Tuyết Sơn
            Có đồng tử con vua Kim Luân (Phạm Vương)
            Bỏ vương vị như bỏ giày rơm
            Trong 6 năm sống giữa tuyết sương
            Gần kiệt sức còn da bọc xương
            Có gì là đời một đế vương!"
            Lại nữa, há không thấy Tổ Ca Diếp tu hạnh đầu đà(8) ngày ăn một bữa, áo quần gai bố thô sơ đó sao!
            - "Trăm vạn tòng lâm đoạt gấm hoa
            Hai độ tôn sư được thủ khoa
            Tôn túc thân giáo sư
            Thuyết pháp phải như hà (sông)
            Tôn túc của các gia
            Trên giận y bát quá đà…"
            Đến tuần thất 5 đem bài vị thờ chung vào Tổ đường. Tới tuần thất thứ 7 cúng tuần chung thất. Mỗi tuần cúng thất hoặc vị kế thừa hoặc đệ tử thọ giáo thiết lễ cúng hay chúng thường trụ cúng tiến. Lúc đặt bài vị nên cúng ngọ tại Tổ đường.
            Chứng nghĩa ghi rằng:
            Kinh Phạm Võng quyển 39 phần giới khinh cho rằng: cha mẹ, anh em, Hòa Thượng, A Xà Lê gặp ngày chết, tuần thất thứ 3, 5, 7 cho đến tuần 49 ngày cũng nên giảng Kinh luật Đại Thừa, làm lễ truy tiến. Phật đã chỉ dạy đâu há quên sao? Chỉ nên làm sao thích hợp không tiêu phí quá mức mà làm hao tốn của Tam Bảo.
            Sách Tam Quy Chánh Phạm ghi:
            Sau khi Phật diệt độ, dùng khắc, họa, nặn hình tượng Phật để lại cho đời. Đó là tượng Phật còn để lại, về sau vì trụ trì Phật bảo là chỗ dựa hợp lý với niệm tôn kính của ta; tượng ánh vàng sáng chói có thần sắc như sống động. Nếu bị hư hại phải tự tu bổ sửa lại, chỉ e chùa nghèo không thể quyên góp đủ tiền, hoặc có tín chủ phát tâm thành tu sửa cũng không có gì trở ngại. Mong rằng không phải là mệnh lệnh cưỡng bức khiến người không vui, làm cả đôi bên đều chẳng có lợi gì. Lại như ngày nay nghe tăng đúc tượng Phật có hai tội:
            Thứ nhất: Mượn cớ đúc tượng làm nhân duyên quyên góp của tín thí cho vào túi riêng là chánh phạm. Kinh Lăng Nghiêm quyển 3 nêu rõ lời dạy: Có tâm trộm là phạm lỗi lầm.
            Thứ nhì: Đàn tín bỏ tiền đúc tượng Phật mà vẫn dùng của Tam Bảo cũng phạm tội. Kinh Niết Bàn có nêu rõ: ăn cắp vật của Phật mắc tội thuộc tội thứ hai này.
            Vì thế phải răn dè cái tệ hại trộm của Tam Bảo này vậy. Ngu tăng chỉ tham thấy lợi trước mắt chứ không sợ quả báo đau khổ về sau; bèn nói tăng là Phật tử. Y thực đều nhờ ánh quang Phật nhưng phóng ý làm dối tự cho là được, thật là đáng thương xót! Đến như tu tạo tuy không nhất nhất cho đầy đủ tướng hảo, nhưng cũng phải giống một phần lớn chẳng để đến độ bị nhầm lẫn. Nay tạo tượng Phật với tướng nhục kế(9) , lông trắng giữa chặn mày, chữ vạn ba tướng ấy hoàn toàn mất gốc tướng Phật. Căn cứ 32 tướng tốt của Phật, một tướng nhục kế phải ở ngay đảnh có màu hồng nổi cao nên gọi là vô năng kiến đảnh. Nay đa phần cho ra trước, lại chẳng nổi cao thật là sai lầm. Đến như 2 tướng bạch hào, tướng chữ vạn đều không thấy thợ tạo chi cả. Việc đúc tượng của Tây Tạng, chỉ có nhục kế là đúng pháp, còn chữ vạn làm cho có, đến như tướng bạch hào cũng lại không thấy. Ngoài ra, tượng Phật miền Tây lưng nhỏ làm lệch hơn là đúng pháp; tượng các nước phía Đông lưng thô không phải là tướng Phật. Đây chỉ là mới đề cập một vài nơi có liên quan tới đại thể (việc chung). Vả lại, đề cập việc tu tạo như thế cho người sau có tạo tượng Phật cần nên lưu ý. Nội chỉ một tướng bạch hào thôi mà thợ nặn không biết tô lên một lớp nước châu xương (đỏ) nơi giữa 2 hàng lông mi cũng tạm được, vì xem đây là ngoại lệ. Tướng hảo phải thấy mà sức thợ có thể làm được. Vì thế trích dẫn kinh để hoàn bị điêu khắc đúng pháp gần giống như Phật thật.
            Phàm đúc tượng Phật quan trọng là trong ngày khai công, trước nên cúng ngọ, đọc sớ đầy đủ để cầu mọi sự tốt đẹp. Sớ rằng:
            - "Từng chiêm ngắm thân sắc vàng tía của Phật là làm mô phạm cho toàn pháp giới. Hiện tướng bạch hào sáng soi rọi khắp cõi Diêm Phù Đề này cảm hóa lòng thành của sự ngưỡng phục, đặc biệt sắc vàng tử kim dùng cho tượng gỗ, tượng đất; chừng biết có 14 trời hạ giới. Thành tâm niệm… (xưng tên người niệm) không gặp đời tượng pháp, thương thân mắc tội báo sâu dày. Tưởng nghĩ bóng từ dung, may nhờ thiện căn làm duyên khởi. Nay cung tựu tại chùa… tạo lập tượng Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, tượng tốt một pho, bên trái Tôn Giả Ca Diếp, bên phải Ngài A Nan, khiến cho người người ngưỡng vọng để sanh tâm kính lễ, chốn chốn theo gương tạo phước điền lương hảo. Đặc biệt chọn giờ… ngày… tháng này, trước nghĩ tưởng hồng ân; mong xin gia bị. Kể từ hôm nay lập mô hình bắt đầu cho tới ngày tượng hoàn thành viên mãn. Mọi việc rắc rối phức tạp không bị ảnh hưởng; mọi duyên hổ trợ được thuận chiều; nhờ oai thần che chở, công tạo tượng được suốt thông. Đẹp tốt lạ thay nhờ kiệt xuất công phu của tay người thợ khéo không thể sánh ví. Sáng soi các biểu tướng uy nghi, y chánh báo viên thành; trăm ức cõi hàm mông gió hòa mưa thuận, nước thịnh dân an, tín thí gội nhuần ân, tòng lâm hưng thạnh, long thần hộ vệ đời, đạo mong nhờ. Lời bày tỏ bên trên, ngưỡng mong Tam Bảo chứng minh gia hộ. Công trình khởi công tạo tượng Phật văn sớ. Phật lịch 2550, ngày… tháng… năm… Trụ Trì …. Chí thành dâng sớ".
            Nếu sửa tượng Phật cũ, đợi giờ cúng ngọ Phật xong, sau đó người thợ mới che tượng lại và sửa.
            Chứng nghĩa ghi rằng:
            Hầu cạnh bên Phật người đời cho là A Nan, Ca Diếp là theo cách nhìn của thiền tông như Kinh, luật, luận đã đề cập. Người luôn theo hầu Phật thật ra là Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên chứ không phải Ngài Ca Diếp và A Nan. Căn cứ luận Tỳ Bà Sa quyển 135, Ưu Ba Cúc Đa tôn giả tự vì chưa từng thấy dung nghi Phật khiến ma vương hiện hình. Nhờ quán Phật tượng, ma phải phục; tức ma hóa hình làm Phật, bên phải là Xá Lợi Phất, bên trái Đại Mục Kiền Liên. Con ma này bèn thân tới gặp Phật, điều này đủ để trưng ra bằng chứng vậy. Nhưng theo thiền tông, người hầu Phật là Ca Diếp và A Nan Tôn Giả. Giảng giải người hầu Phật là Xá Lợi Phất và Đại Mục Kiền Liên tôn giả, nhưng Luật tông suy luận phải là Ưu Bà Ly và Đại Ca Diếp Tôn Giả. Tùy theo các nhà lập phái chủ trương mà tạo tượng thích hợp. Theo lý cũng đúng thôi, vì pháp không nhất định vậy. Công đức tôn tạo Phật tượng như Kinh Pháp Hoa ghi rõ:  "nếu người nào vì Phật, tạo lập các hình tượng, điêu khắc các biểu tướng Phật đều sẽ thành Phật. Hoặc dùng 7 món báu tạo (hoặc), sắt gỗ và bùn đất, hoặc dùng vải sơn dầu vẽ tranh hình Phật v.v... những người như thế đều sẽ thành Phật đạo".
            Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Hiền Thủ ghi rằng:
            Phật lại phóng quang gọi là Hoan hỷ, ánh sáng làm cho hết thảy chúng sanh giác ngộ, khiến cho họ yêu quí Phật, Bồ Tát mà phát tâm Bồ Đề nguyện chứng đạo vô thượng. Tạo lập tượng Như Lai đại bi, các tướng tốt trang nghiêm ngồi trên tòa sen, luôn hoan hỷ đủ công đức cao đẹp, vì thế nên đạt được ánh quang minh này. Đầy đủ như các Kinh Lâu Các chánh pháp, Kinh Cam Lồ cổKinh Công Đức tạo tượng v.v… đều có nói thân Phật đủ 32 tướng tốt.
            Kinh Phật thuyết bá phước Đại Thừa ghi rõ 32 tướng như:
            1-    Bàn chân bên dưới bằng phẳng,
            2-    Tay chân có màng thiên bức luân (như chân ngỗng),
            3-    Các ngón tay, ngón chân thon dài,
            4-    Tay chân đều mềm mại,
            5-    Gót chân đầy đặn,
            6-    Bàn tay, bàn chân ngón bao lớp màng mỏng,
            7-    Mu bàn chân cao bằng phẳng,
            8-    Bước dài như nai chúa,
            9-    Đứng thẳng cân đối, tay thả xuống quá gối,
            10-  Âm tàng ẩn kín,
            11-  Thân cao lớn như cây Ni Câu Đà,
            12-  Mỗi lỗ chân lông chỉ một lông mọc,
            13-  Trên lông ngã theo một chiều sắc xanh mềm mại rợp về bên phải,
            14-  Thân sắc vi diệu hơn cả vàng cõi Diêm Phù,
            15-  Thân sáng tỏ một trượng ,
            16-  Da láng mịn trơn không dính bụi,
            17-  Hai vai tròn trịa,
            18-  Thân to lớn nghiêm oai,
            19-  Ngực như sư tử chúa,
            20-  Hai nách dưới đầy đặn,
            21-  Răng trắng lớn 2 răng cái
            22-  Có 42 răng
            23-  Răng trắng khít đều mà chân sâu,
            24-  Bảy chỗ đầy đủ (thất khiếu),
            25-  Trán vuông như sư tử chúa,
            26-  Trong cổ được chất thượng vị (nước miếng thơm),
            27-  Lưỡi mềm nhuyễn có thể che tới mặt đến mí tóc,
            28-  Giọng trầm sâu như chim Ca Lăng Già,
            29-  Mắt như hoa Ưu Bát La,
            30-  Tròng mắt như trâu chúa,
            31- Giữa 2 hàng lông mày có sợi lông trắng màu như tuyết bạch,
            32-  Trên đầu có nhục kế (cục thịt mô lên như búi tóc).
            Và lại có 80 vẻ đẹp tùy hình: bắt đầu từ nhục kế cao lộ lên tướng vô kiến đảnh cho đến tóc dài không rối, bên phải trở lại xanh cam. Ngoài ra 80 vẻ đẹp như Kinh tả rõ, ở đây không ghi ra hết, cộng lại gồm có 192 tướng. Nếu tạo hình tượng Phật do mục đích thủ lợi thì phạm tội như Kinh Lăng Nghiêm phần 3 quyết định khuyến giáo giới rõ ràng. Kinh ghi rằng:
            - "Sáu đường chúng sanh mà có tâm không trộm cắp thì không theo dòng sanh tử. Tâm tham không trừ đọa trong sanh tử không có kỳ ra khỏi. Ta dạy các Thầy Tỳ Kheo đi tới các miền để khất thực làm cho mình bỏ tâm tham chứng đạo Bồ Đề. Này các Tỳ Kheo: không nên ăn đồ chín mà tàn sát sanh mạng, qua lại 3 cõi chỉ một lần, đi rồi không trở lại nữa. Nếu bọn tặc mượn y phục ta giả dạng thì sao? Buôn thần bán Phật, tạo vô số nghiệp mà nói Phật pháp; phỉ báng xuất gia có đủ trong Tỳ Kheo, là hạng Tiểu Thừa. Do vậy vô số chúng sanh nghi ngờ đọa vào địa ngục vô gián (tra tấn liên tục không hề gián đoạn)".
            Tạo hình Phật để thủ lợi cũng phạm tội như Kinh Niết Bàn quyển sau phần trên ghi rằng:
            - "Nếu sau Phật tịch diệt, kẻ thật tín tâm làm việc bố thí nên tạo hình tượng Phật và y Phật, dùng 7 báu, phan lọng, nhang dầu, hoa quí để cúng dường Phật. Trừ cúng dường Phật, không được dùng việc khác, dùng vào việc khác ắt phạm tội trộm cắp đồ của Phật. Ôi, cúng dường Phật mà còn chẳng xử dụng vào việc khác, huống gì tiền bạc đúc tượng Phật, đâu có thể đem dùng vào việc khác sao? Nhân quả rõ ràng việc thăng trầm đọa lạc đều do đây mà chuốt lấy. Tạo hình tượng Phật hoàn thành viên mãn nên chọn ngày khai quang. Đúng ngày khai quang, đốt hương đèn và các đồ cúng trang nghiêm, với 6 món đồ diệu cúng đều bày biện đầy đủ. Trước mời những người đúc tượng, điểm đèn quang minh. Chư tăng và trai chủ đảnh lễ Tam Bảo, trai chủ quỳ dâng hương, đại chúng tán lư hương xong, Duy Na xướng lớn:
            - "Nam Mô Thích Ca Như Lai"
            Đại chúng hòa theo:
            - "Liên tọa giáng lâm". (Các danh hiệu Phật, Bồ Tát khác cũng xướng như vậy).
            - "Đại Ca Diếp Tôn Giả”,
            - “A Nan Đà Tôn Giả."
            Đại chúng hòa theo:
            - "Bồ bặt liên tọa chứng minh", xong chúng cùng tụng bài kệ:
            - "Diện Phật sáng ngời như trăng sáng
            Như mặt trời chiếu diệu thế gian
            Sáng chiếu soi tỏ khắp mười phương
            Hỷ xả từ bi đều sẵn sàng
            Như ở hội này tạo Phật tòa
            Hết thảy như thế trong trần gian
            Phật thân không khứ cũng không lai
            Bao nhiêu quốc độ thảy hiện ra".
            Điểm chuông trống 1 hồi 3 tiếng, Duy Na đọc văn khai quang như sau:
            - "Từng nghe rằng, mắt sáng rỡ thân vàng tía hiện thân 48 diệu tướng, lông trắng giữa chặn mày, tướng chữ vạn phóng ra trăm ức tia sáng, tin điềm lành ứng hiện ở ngay lúc này thật là mở đường vận thông".
            Lại nguyện:
            - " Và chúng con, mong khát khao được giáo pháp Thế Tôn diệu dụng thanh tịnh. Ngưỡng mong Đức Đại Từ khai ngộ nơi tượng báo ở kim thân quang tụ, đã trộn hòa đất vàng để hoàn thành bảo tướng. Hôm nay chọn được ngày tốt khai quang điểm nhãn".
            Lại nguyện:
            - "Phật hiện tướng chân thật, phóng vô lượng ánh quang uy nghi đài sen, làm nhân cho quần sanh đê đầu kính lễ . Rực rỡ ánh sáng kim thân chỉ cho đệ tử chúng con cung chiêm lời dạy. Quy y Phật dứt sạch 3 đường ác, vâng theo lời dạy mà siêu lên 9 phẩm sen vàng. Nhất tâm chí thành phụng thỉnh".
            Chúng hòa:
            - "Hương hoa đăng phụng thỉnh", đệ tử … (tên Trụ Trì) chúng con nhất tâm phụng thỉnh. Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, trăm ngàn ức hóa thân Thích Ca Mâu Ni Phật (những vị Phật, Bồ Tát khác tùy thay đổi). Mong nguyện chẳng trái bổn thệ, thương xót hữu tình phân thân hiện hình ở trên đài sen". Thỉnh 3 lần xá 3 xá. Duy Na và sám chủ đều vận tâm thành thỉnh Phật Thích Ca theo lời thỉnh mà đến, nghiễm nhiên đã ngồi trên đài bảo liên. Trai chủ niệm hương, đại chúng đọc cúng bài kệ như sau:
            - "Tròn đầy cõi pháp giới Phật thân
            Hiện ra trước mắt mỗi chúng sanh
            Tùy duyên ứng hiện khắp tướng không đồng
            Nhưng luôn ngồi tòa Bồ Đề này".
            Án chiên mộ già, Bát đầu ma, tốn nã lệ, đà la đà la nể, mạn nỗ lệ hồng (3 lần).
            Xong hồi trống 1 hồi 3 tiếng. Duy Na lại tuyên dương Đại Ca Diếp Tôn Giả, văn khai quang như sau:
            - "Từng nghe rằng, tánh linh trôi nổi nương gá, thiên thu nghĩ khó tròn huệ mạng. Một phái diễn nối dõi mạch người của Long Hoa, phụng vì Tây Thiên Sơ Tổ Ca Diếp Tôn Giả; tại hội Linh Sơn ngộ tâm ấn niêm hoa trước tháp đa tử; đón gió mát linh reo, làm tiêu biểu cho cổ kim truyền đăng, mở suối nguồn truyền pháp khắp Đông Tây; y bát lưu lại đượm nhuần chốn nhơn thiên ngưỡng phục. Lại nghĩ: chúng con (thay đổi) chìm đắm mê mờ nhiều đời nhiều kiếp, chớ nên thấy từ nhan mà mĩm cười; vội yêu kính dung thánh. Đặc biệt giống tôn tượng của Đại Ẩm Quang (Ca Diếp) kính chọn ngày lành khai quang điểm nhãn".
            Lại nguyện:
            - "Ánh sáng vàng kim rải khắp pháp giới làm cho rực rỡ, tâm từ mở rộng ân che chở muôn loại quần sanh, khiến Tổ đạo được quang huy làm cho chánh pháp trụ lâu dài".
            Duy Na thỉnh:
            - "Một lòng phụng thỉnh, đốt nhang thỉnh, đệ tử… (tên Trụ Trì), chúng hòa theo: một lòng phụng thỉnh…
            - "Nam Mô Đầu Đà Đệ Nhất Niêm Hoa Ngộ Chỉ Thiền Tông Sơ Tổ Đại Ca Diếp Tôn Giả".
            Xin nguyện chẳng trái bổn thệ, thương xót hữu tình, phân thân hiện tướng vào ngồi liên tọa nơi đây.
            - "Nam Mô Thiền Tông Sơ Tổ Ma Ha Ca Diếp Đại Tôn Giả"
            Mong nguyện Ngài theo Phật quang lâm đến đây thọ bổ tòa cúng dường này.
            - "Án chiên mộ già, Bát đầu ma, tôn nã lê, đà la đà la nể, mạn nổ lệ hồng".
            Tiếp tục Duy Na đọc văn khai quang tượng Ngài A Nan.
            Chứng nghĩa ghi rằng:
            Tiếng Phạn là Đại Ca Diếp, Trung Hoa dịch là Đại Ẩm Quang. Trong số đệ tử Phật có thập lực Ca Diếp, Ưu Lầu Tần Loa Ca Diếp cùng họ nên phải thêm chữ Đại để phân biệt với các vị khác. Gọi Tất Bát La ,Tàu dịch là cây Bồ Đề, cha mẹ cầu thọ thần mà sanh Ngài nên theo cây đặt tên; người nước La Duyệt Kỳ thuộc thành Vương Xá. Cha là Ca Tỳ La mà đương thời xưng là đại phú trưởng giả. Ca Diếp nhân trong khi cùng với một người đàn bà nghèo khổ đồng tạo tượng Phật Tỳ Bà Thi cúng dường và họ thề cùng nhau thường làm vợ chồng. Thân sắc vàng thật lấy thật, thân Ca Diếp có sắc vàng đủ 30 tướng. Người phụ nữ kia cũng được kết quả thân sắc vàng như vầy. Tuy là chồng vợ nhưng tỏ rõ không có oan trái, sau xuất gia được gặp Phật, nghe pháp liền đạt vô lậu (dứt hết phiền não), Ngài sống lâu đến 130 tuổi. Người phụ nữ kia cũng chứng 4 thánh quả. Ca Diếp tu hạnh khất thực, thực hành đầu đà cho tới lúc tuổi già không thôi bỏ. Phật dạy:
            - "Ông lúc về già các căn suy nhược có thể bỏ khất thực và nhận y cúng dường".
            Ca Diếp đáp:
            - "Con phải suốt đời tu hạnh đầu đà".
            Phật bảo:
            - "Lành thay! Nếu Ca Diếp hành đầu đà mà thực hành suốt đời, pháp Ta hẳn trụ lâu dài. Nơi hội Pháp Hoa Phật thọ ký cho trong đời vị lai được thành Phật hiệu là Quang Minh Như Lai. Đến hội thuyết Kinh Niết Bàn, Phật bảo các Tỳ Kheo rằng:
            - "Ta nay có chánh pháp vô thượng đem phú chúc cho Ca Diếp, vì các ngươi làm đại y chỉ".
            Sau khi Phật diệt độ, có cuộc kết tập tam tạng Kinh điển tại thành Vương Xá để hoằng dương chánh pháp, và đến 20 năm sau mới đem giáo pháp phó chúc cho A Nan. Ca Diếp nhận phó chúc tới núi Kê Túc (Trung Hoa) nhập định an trú, đợi Phật Di Lặc xuất thế; giao phó pháp y xong mới nhập diệt bằng nổi hỏa thiêu thân.
            Văn khai quang tượng A Nan như sau:
            Từng nghe rằng:
            Ngài là Khánh Hỷ, xưa được di huấn Của Ẩm Kỳ Đồ, thân nghe pháp tạng, đón nhận phó chúc tại hội Linh Sơn, cung kính A Nan Đà Tôn Giả qua công lao kết tập, quán diệu nghĩa nơi thiên hoa. Ngài trí huệ đa văn, truyền một giọt nước khác đồ chứa, cảm túc duyên cân bình. Nhận tâm ấn nơi sư huynh Ca Diếp, lần theo giáo pháp, kham ngắm vóc thanh như bạc, khát ngưỡng dung nghi. Đặc biệt tôn tượng thiếp vàng hoàn tất, chọn lựa ngày lành khai quang điểm nhãn. Ngưỡng mong bậc Thánh sư dũ lòng cảm cách.
            Lại nguyện:
            - "Đèn huệ sáng soi bằng vô lượng ánh sáng của mặt trời mặt trăng; sữa pháp mênh mông như mạch nguồn của sông ngòi lưu chuyển. Cháu con không ngừng nghỉ, Tổ đạo vững trường tồn. Hương hoa thỉnh, hương hoa thỉnh".
            Đại chúng hòa:
            - "Nhứt tâm phụng thỉnh"
            - "Nam Mô Đa Văn Đệ Nhất Thị Giả Phật, Tổ Thứ Nhì Của Thiền Tông, A Nan Đà Tôn Giả ngưỡng mong không trái bổn thệ, thương xót hữu tình phân thân hiện tướng đến ngự nơi liên tòa này". (Ba lần thỉnh xong xá 3 xá).
            Duy Na niệm tưởng A Nan Tôn Giả theo lời thỉnh mà đến nghiễm nhiên ngồi trên tòa bảo liên. Đại chúng tụng kệ dâng hiến tòa:
            - "Nam Mô Thiền Tông Đệ Nhị Tổ, Kết Tập Tam Tạng A Nan Tôn Giả" mong Ngài theo Phật quang lâm thọ bửu toà cúng dường này.
            - "Án chiên mộ già, bát đầu ma, tôn nã lê, đà la đà la nể, mạn nổ lệ hồng" (3 lần).
            Chứng nghĩa ghi rằng:
            Tiếng Phạn là A Nan Đà, Trung Hoa phiên âm là Khánh Hỷ. Vì sanh nhằm ngày Phật thành đạo khiến tâm Vua hoan hỷ, toàn quốc hân hoan nên đặt tên là Khánh Hỷ. Là em chú bác của Phật. Con Bạch Phạn Vương, là em ruột Điều Đạt. A Nan mặt đầy đặn như trăng rằm, mắt như sen xanh, năm 8 tuổi xuất gia, 13 tuổi thị giả Phật, là đa văn số một. Nơi hội thuyết Kinh Pháp Hoa được Phật thọ ký cho A Nan trong đời vị lai thành Phật hiệu là Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai. Phật lại bảo chư Bồ Tát rằng: Ta cùng A Nan thời Phật Không Vương cùng lúc phát tâm Bồ Đề. A Nan thường ưa thích đa văn, còn Ta luôn tinh tấn, do đó Ta được chứng quả Bồ Đề, còn A Nan hộ trì pháp Ta, cũng hộ trì giáo pháp chư Phật trong tương lai nữa. Đến hội Niết Bàn, Phật khen ngợi A Nan có 8 công đức khó thể nghĩ bàn và những việc thù thắng khác. Lúc A Nan gặp nạn Ma Đăng Già, Phật sắc lịnh cho Văn Thù đem chú hàng ma đưa A Nan về với Tăng đoàn. Theo như Kinh Đại Bát Niết Bàn, sau khi Phật diệt độ, Ngài Đại Ca Diếp kết tập pháp tạng, đưa A Nan lên ngồi tòa sư tử trùng tuyên lại các Kinh. Ca Diếp lúc sắp nhập diệt đem pháp giao phó cho A Nan gìn giữ. A Nan đi khắp nơi giáo hóa 20 năm, thường đến ngoài thành Vương Xá nơi tinh xá Trúc Lâm, nghe các Tỳ Kheo tụng kệ rằng:
            - "Nếu người sống trăm tuổi
            Chẳng thấy nước mưa cạn
            Không bằng sống một ngày
            Mà được thấy nước tràn…"
            A Nan thương cảm nói rằng, đây không phải kệ của Phật nên nói, nên tiếp theo:
            - "Nếu người sống trăm tuổi
            Chẳng hiểu pháp sanh diệt
            Không bằng sống một ngày
            Mà hiểu được pháp này".
            Có vị Tỳ Kheo hướng về các Sư thuyết, Sư nói:
            - "A Nan cổ lổ, nói không ai tin được"
            A Nan sau khi nghe Tỳ Kheo kia nói thế, do đọc bài kệ trước liền tự nghĩ :
            - "Nay các tỳ kheo không nhận lời dạy, tôi ở đời vô ích nên nhập Niết Bàn là hơn".
            A Nan liền đến cung Vua cáo biệt nhà Vua, từ giả Vua ra đi. Vua cho người đuổi theo tới sông Hằng, A Nan lên thuyền ra giữa dòng, họ cúi đầu bạch rằng:
            - “Ba cõi cần đèn sáng mong Sư đừng nhập Niết Bàn”.        
            Lúc bấy giờ tại Tuyết Sơn có 500 tiên nhơn quán xem thấy A Nan muốn nhập Niết Bàn, liền phi không mà đến cầu xin xuất gia. A Nan dùng thần lực biến sông Hằng thành đất vàng, vì nhóm Mạt Điền Địa và các tiên nhơn mà thuyết pháp được chứng đạt quả A La Hán. Lúc ấy Mạt Điền Địa muốn nhập Niết Bàn trước, A Nan phó chúc rằng:
            - “Phật thọ ký cho ông phải tới nước Kế Tân kiến lập Phật Pháp; nên xua tan ý định nhập diệt, chờ đủ thời gian hẳn nhập diệt.”
            A Nan phi thân lên hư không biến hóa 18 pháp thông đi như gió với Phấn Tấn tam muội phân thân làm 4 phần: một phần cùng với Thích Đề Hoàn Nhân(10) , một phần cùng với Bà Già Long Vương, một phần với Tỳ Xá Ly tử và một phần cùng Vua A Xà Thế. Bốn nơi tại mỗi nơi đều khởi sự xây tháp cúng dường xá lợi.
            Duy Na bạch rằng:
            - "Trở lên phụng thỉnh Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, nhị vị Đại Tôn Giả Ca Diếp, A Nan. (Ngoài chư Phật, Bồ Tát khác tùy nghi thay đổi), dùng thiên nhãn xa thấy, thiên nhỉ nghe rõ, tha tâm ắt biết, thân thông suốt tự tại. Nhất niệm hay cảm hiển nhiên Thánh ứng, thay tụng mật ngôn bao dung thấm rộng. Phật Như Lai có chân ngôn phụng thỉnh ân cần nên trì tụng như sau:
            - "Nam mô tam mãn đa mẫu đà nẫm. Án ô tá bát la đế, hạ đa đế, tát phược đác đa nghiệt đa, cu xá mạo địa. Án sa lý giả một lý, bố la ca dã tát ha"
            Duy Na lắc linh tụng chậm rải 3 lần, nghĩ tưởng một vị tôn giả, hai vị tôn giả ngồi trên liên tòa có ánh sáng giao thoa và bạch rằng:
            - "Mong nhân bí mật sáng soi hào quang, trai chủ cùng đại chúng lạy 3 lạy". Tụng chú Kiết Tường an vị Thánh tượng:
            - Đảnh lễ Thế Tôn không ai trên, Ca Diếp, A Nan dũ lòng từ, con nay y giáo an Thánh vị. Nguyện Đức Từ Bi xót thương nạp thọ, Ca Diếp Như Lai đủ đại bi, trong các điềm lành kiết tường tối cao thượng, xin Phật hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây rất an lành.
            - Câu Na Mâu Ni thấy rõ ràng, trong các điềm lành kiết tường tối cao thượng, Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây rất an lành.
            - Ca La Cưu Đà như núi vàng, trong các điềm lành kiết tường tối cao thượng, Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây rất an lành.
            - Tỳ Xá Phù Phật sạch ba cấu, trong các điềm lành kiết tường tối cao thượng, Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây rất an lành.
            - Thi Khí Như Lai lìa phân biệt, trong các điềm lành kiết tường tối cao thượng, Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây rất an lành.
            - Tỳ Bà Thi Phật như trăng rằm, trong các điềm lành kiết tường tối cao thượng, Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây rất an lành.
            - Phất Sa Minh đạt đệ nhứt nghĩa, trong các điềm lành kiết tường tối cao thượng, Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây rất an lành.
            - Đề Xá Như Lai luận vô ngại, trong các điềm lành kiết tường tối cao thượng, Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây rất an lành.
            - Ba Đầu Ma Phật sạch vô cấu, trong các điềm lành kiết tường tối cao thượng, Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây rất an lành.
            - Nhiên Đăng Như Lai quang minh rực rỡ, trong các điềm lành kiết tường tối cao thượng, Phật Ngài hằng đến nhập điện này, vì thế nơi đây rất an lành".
            Tụng kệ xưng tán 10 vị Phật xong, tiếp cúng ngọ. Xem nghi cúng Phật đầy đủ có nơi Thiền môn nhựt tụng nên ở đây không ghi hết.
            Phần phụ
            Đọc văn sớ như sau:
            - Từng nghe rằng: "Phật ứng hiện thân tùy chúng sanh mà kết duyên hoan hỷ; diệu tướng đoan nghiêm hằng bất động mà thăng điện quang minh, lúc ấy có 14 trời hạ giới v.v…Nhiếp niệm: tên… vào ngày… phát tâm thành tạo tượng Thích Ca Như Lai, Ca Diếp, A Nan, 3 bức Thánh tượng. (các tượng Phật, Bồ Tát khác tùy đó thay đổi). Nay vào ngày … đã thành tựu, tuân thừa quy tắc của chư Thánh, không như lăng tẩm đời thường phi ánh sáng bị che bởi cây đạo thọ, nghiễm nhiên thiền tọa tại Kỳ Viên cho người duyên phước quy y; hăm hở thắng lướt mong lựa chọn giờ… ngày … tháng này an vị tòa sen viên thành pháp tướng. (Nếu tụng kinh bái sám nên tiếp vào đây). Nguyện đem công đức này, cẩn xin hồi hướng".
            Lại nguyện:
            - "Bảo tọa phân thân, ứng cơ độ khắp quần sanh hiện tướng bạch hào rộng mở nhân duyên cõi pháp giới. Xin cúi đầu chắp tay cung kính gieo căn lành. Như tâm niệm miệng xưng đều gội nhuần ân phước huệ, cầu chúc nước nhà ổn cố, đạo pháp hưng long, tòng lâm yên tịnh; lớp lớp đệ tử hiền thánh tới lui, chúng tăng hòa hợp, luôn luôn xứng đáng là con của bậc long tượng. Bên trên văn sớ cung thỉnh Tam Bảo chứng minh, tạo tượng viên mãn, sớ văn khai quang".
            Đọc sớ xong, tụng Tiêu Tai Kiết Tường chú, đốt sớ, trai chủ châm trà, đảnh lễ, tiếp đại chúng cùng đọc kệ chú này:
            - "Án Sa ma la, sa ma la, di ma nẳng, tư cáp la ma, tư cáp la hồng" (3 lần).
            - "Nguyện ngày an lành, đêm an lành,
            Ngày đêm 6 thời thường an lành,
            Hết thảy các thời đều an lành,
            Nguyện các thượng sư thương nhiếp thọ,
            Nguyện ngày an lành, đêm an lành,
            Ngày đêm 6 thời thường an lành,
            Hết thảy các thời đều an lành,
            Nguyện chư Tam Bảo thường ủng hộ
            Nguyện ngày an lành,
            Đêm an lành, ngày đêm 6 thời thường an lành,
            Hết thảy các thời đều an lành,
            Nguyện chư Hộ pháp thường ủng hộ".
            Tiếp theo tụng Bát Nhã, sám văn, hồi hướng, phục nguyện, 3 tự quy y.
            Ngoài ra, như tạo tượng Dược Sư, Di Đà, Văn Thù, Phổ Hiền v.v.. các thánh tượng khác lúc khởi công tạc tượng, khai quang, các nghi đều giống nhau, chỉ khéo đổi văn kệ mà thôi. Kinh Hoa Nghiêm 10 Phật kiết tường kệ, chỉ liên quan tới Phật mới dùng; lập điện Phật, lễ gác đòn dông, lễ khánh thành cũng có thể dùng được. Tới ngày lễ, niệm Phật Thích Ca hoặc Phật khác hay Bồ Tát tùy theo tượng tạo mà đổi xưng cho thích hợp.
            Chứng nghĩa ghi rằng:
            Kệ Kiết Tường trích Kinh Hoa Nghiêm quyển thứ 16, liên hệ Đức Thế Tôn lần đầu tiên thăng lên đỉnh núi Tu Di, Vua trời Đế Thích trải tòa ngồi cho Phật và thỉnh Phật an tọa; xong liền tụng bài kệ 10 Phật Kiết Tường này. Nay lễ khai quang cũng tụng bài kệ đó để an vị tôn tượng Phật, vì tiêu biểu biểu tướng tượng Phật mới hoàn thành. Đức Phật lúc giáng sanh cũng như thiên chủ thỉnh Phật an tọa, là biểu tượng việc an lành này, để dứt trừ những việc bất tường.
            Lại căn cứ theo Kinh Hoa Nghiêm, Phật lên các cõi trời Dạ Ma, Đâu Suất, những vị thiên chủ ở đó thỉnh Phật vào tòa ngồi, trước cũng tụng kệ thập Phật Kiết Tường này, huống gì người đời đâu há lơ là ư? Theo ý tôi (người chứng nghĩa), phàm tạo tượng Phật mới hoặc xây chánh điện nên in bài kệ 10 Phật Kiết Tường này nhiều bản để tại điện Phật, nhờ Kinh này nói để ngăn ngừa được người tin tà, do người đời tạo với ý như tin tử vi, giờ hoàng đạo…
            Sách Tam Quy chánh phạm ghi rằng:
            Kinh Lá Bối quyển vàng - ba tạng Thánh giáo - là Pháp bảo. Kinh điển đã là trụ trì pháp bảo, là chỗ nương tựa, chân lý nên phải kính tôn, khiến sửa sang tu bổ hoàn chỉnh theo thứ tự rõ ràng. Giả hoặc để lâu ngày đóng bít trong phòng kinh bị sâu mọt, trùng đục khoét hư hao hoặc trang chỉ sổ rớt, bộ pho hư hỏng mất mát v.v.. nên gấp lo tu bổ lại. Hoặc quyên góp của thí chủ sửa lại cũng được; nhưng không được dùng làm việc khác. Luận, Phật lấy pháp làm thầy, mà Tăng lại không trọng pháp hay sao?
            Kinh Phạm Võng giới thứ 24 nói về việc không cúng dường kinh điển có ghi rằng:
            - “Là Phật tử thường nên nhứt tâm thọ trì đọc tụng Kinh luật Đại Thừa”; thậm chí ghi rằng:
            - “Nếu không như pháp cúng dường, người ấy phạm khinh cấu tội.”
            Vì thế ở tòng lâm đặt tri tạng hai người chuyên trách lo việc này. Phàm hàm pho để ngay ngắn, sửa sang chỗ thiếu khuyết và những việc lấy sách ra nhập vào v.v.. đều là nhiệm vụ  của Tri Tạng trông coi, nhưng tạng chủ phân chia 2 người chấp sự lo chăm sóc chu đáo. Phàm Kinh sách không được đem ra khỏi chùa là quy tắc ấn định chung. Mùa hạ, ít gió trời nắng ấm đem Kinh hong phơi, kiểm tra bộ số để trời mát dịu lại đem bỏ vào hàm cất. Tăng chúng trong chùa có mượn xem phải ghi sổ sách ngày… tháng.. năm…. Tên người mượn, tên cuốn kinh… hàm số… lúc hoàn lại mới xóa sổ. Nếu có ai báo cáo lếu bằng nhiều cách muốn lấy sách đi, trước phải kiểm tra lấy lại. Người để mất sách bị phạt chép lại đền bồi xong, tẩn xuất ra khỏi viện.  Nếu mất lúc kiểm tra, Tri Tạng, Tạng chủ 2 người đều bị phạt chiếu theo số sách bồi thường.  Nếu mượn riêng hay người ngoài vô cớ làm mất cũng phạt. Nếu trả sách nên gặp tại phòng khách, nhà kho hay phòng tri tạng, nhất nhất nên kiểm tra lại rõ ràng. Giao công việc cho người mới đảm nhận nên phải trước chúng rõ ràng. Nếu có kinh mới đặt vào chỗ phải cho thích hợp nơi có ánh sáng. Nếu để gần nắng gió thì dễ bị rách, còn đóng bít tối quá lại dễ bị hư mục… Giấy in mực đen, cho đến bìa sách, đóng gáy v.v... đều lấy sạch sẽ, bền chắc làm đẹp; tuyệt đối không nên  tiếc của, uổng công làm lếu giống như khinh pháp vậy.
            Chứng nghĩa ghi rằng:
            Tu sửa bồi bổ kinh điển nên thể hiện với tâm tôn kính pháp bảo. Việc này hệ trọng liên quan tới huệ mạng Phật pháp, nên đây cũng là trọng trách của một ngôi chùa mà cần nhất là Trụ trì không tiếc chi tiền thời việc tu chỉnh mới dễ dàng. Người trực tiếp điều hành cũng là nhân tố quan trọng nên cần phải thận trọng. Ngay như ở tòng lâm việc khắc in kinh lưu hành mà làm hưng long Phật pháp là quan trọng số một. Theo ngu ý kinh điển khắc họa, biến chế in ấn càng nhiều càng được nhiều lợi ích; không giống sách vàng trục đỏ nguyên gốc, chẳng phải là kiệt tác lợi lạc nhiều người sau. Đây là việc chẳng mới mẻ gì như ngày nay người xuất gia, tại gia đều có đầy đủ kinh điển để đọc tụng.
            Năm Gia Hưng chùa Lăng Nghiêm khắc in lại Đại Tạng Kinh mới lưu lại được bộ sách quí xưa. Nếu không có việc khắc in này Kinh sách hẳn thiếu sót rất nhiều. Sách tiếng Phạn vốn đã khó mua, lại bất tiện ngôn ngữ, đó há không phải là một khuyết điểm lớn của tăng tục hay sao? Cho nên Trụ Trì tòng lâm phải có tâm hoằng pháp, nếu được vậy tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng mới sáng lạn. Từ đó có thể tùy cơ làm lợi cho người; giả như Trụ Trì nhiều việc không có thì giờ, nhưng tùy sức biết Kinh điển quan trọng mà in số nhiều, ấn tống rộng rãi, công đức vô lượng.
            Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Hiền Thủ ghi rằng:
            - "Lại phóng quang gọi là pháp tự tại. Ánh quang này có thể làm tỉnh thức hết thảy chúng sanh khiến đạt vô tận Đà La Ni (Ấn chú); hẳn nên giữ gìn tất cả Phật pháp. Cung kính cúng dường người duy trì pháp, là cung cấp, hầu hạ, giữ gìn chư Thánh hiền, đem pháp ban cho chúng sanh, vì thế mà đạt được quang minh này. Ngoài ra, mỗi khi thấy tòng lâm nơi nào Kinh tạng mà Trụ Trì bỏ bê chẳng quan tâm như không có phận sự xem xét để mưa dột, ẩm ướt, côn trùng, sâu mọt, chuột đục, dán nhấm v.v… phá hư không tu bổ, Trụ Trì như thế thời người chấp sự phải biết định liệu. Người lơ là với Kinh điển như thế phạm lỗi lầm có thể nói rất là nặng. Theo ngu ý, phàm nơi nào có Kinh tạng nên cung thỉnh một hội đồng tăng dịch thuật làm cho Kinh điển được phiên dịch, ngày càng được nhiều người đọc tụng, tức là thường chuyển pháp luân, thật là một điều thiện lành của tòng lâm vậy. Lại còn làm lợi ích cho người học đạo nữa. Giá như một ngày nào ra công làm mới kinh điển là có thể kéo dài huệ mạng Phật pháp, đâu không đẹp thay! Đệ sợ người đọc hữu danh vô thực, hoặc tư riêng mượn cớ để buôn bán đó; việc này Trụ Trì phải tức thì điều tra là hay nhất".
            Ngu Am Chích Cổ ghi rằng:
            - Thiền sư Thê Hiền Thị, họ Cao, giữ giới luật nghiêm minh động thân không trái pháp. Vào lúc cuối đời Ngài xem Đại Tạng 3 lần, cho rằng ngồi đọc không cung kính nên đứng tụng, lúc đi mang theo. Việc này Cổ Am có bài tụng rằng:
            - "Pho bảo tạng chân xá lợi
            Trải kiếp định huệ pháp thí sâu
            Chập chờn xuôi ngược thuyền con
            Ra khơi chẳng còn sợ gian nguy".
            Không chỉ đứng tụng, đi tụng mà báo đền ân Phật được, nên biết hổ thẹn.
            Nói theo xưa của tự viện nên dùng từ “tăng phường”. Sách Tam Quy chánh phạm ghi rằng:
            - “Cạo đầu, nhuộm áo nghiêm gìn luật nghi; hoằng dương Phật đạo hành trì tăng bảo”.
            Nên công cuộc hoằng hóa phải nương chỗ nơi mà thành tựu; tăng phường chính là nơi đó vậy. Tiếng Phạn Tăng già, Trung Hoa dịch là hòa hợp chúng, chỉ 5 chúng xuất gia. Tiếng Phạn Già Lam, Trung Hoa dịch là chúng viên tức nơi tăng chúng cư trú. Nay nói tăng phường là gồm chung cả tiếng Hoa - Phạn để gọi vậy.
            Nhưng trong đó hàm ý là nơi phụng sự Phật pháp mà lấy tăng phường làm tên gọi. Điện Phật, nhà giảng không đứng riêng biệt xa cách với tự viện.
            Kinh Phạm Võng, giới không tu phước huệ ghi rằng:
            - "Nếu Phật tử thường phải giáo hóa hết thảy chúng sanh, tạo lập tăng phường, núi rừng, ruộng vườn, xây tháp Phật, an cư kiết hạ, kiết đông, nơi chốn tọa thiền, hết thảy những nơi hành đạo đều phải kiến tạo v.v..."
            Luận về việc tạo dựng đạo tràng, là đề cập tới phí tổn xây cất không thể thiếu được. Ở tòng lâm có vị tri ốc (nhà cửa) chuyên lo việc xây dựng. Phàm các nơi xây nhà cửa vốn không có mà tạo dựng nên mới gọi là kiến tạo; đã có nhà mà hoặc bị nghiêng đổ, hư hoại nên trùng tu lại gọi là sửa sang. Phàm có sửa sang nên quyết định không thể do dự được, nếu có tính dứt khoát mới làm xong được việc. Vì lợi ích của đạo mà xuất gia chứ không phải vì tu chùa mà xuất gia. Việc tu tạo hoặc tín chủ tại gia phát tâm làm cũng được, hoặc người xuất gia đã dứt hết không còn oan trái đứng làm, nên biết hạ mình là việc cần thiết. Đây là thành phần thượng thặng lập chí xuất gia; nếu như chí không theo kịp, nhưng lập chùa là tạo được công đức. Tuy công đức về phần tánh chẳng có, nhưng phần tướng trang nghiêm cũng không thể thiếu. Phải biết không mê lầm nhân quả mà tin sâu tội phước, không làm hao tổn của Tam Bảo, như ếm nhẹm của tín thí hoặc không tranh đoạt lợi mà lại ham danh. Vì kiến tạo tòng lâm là làm quang huy đạo pháp đưa lại mọi điều tốt đẹp. Sang đoạt, cưỡng lấy làm cho người mất tín tâm mà vẫn dung nạp, tòng lâm chưa chắc đã hưng thịnh mà rốt cục rồi bị vô vàn sự oán trách đưa lại. Lòng người như thế nên rõ tâm Phật, giữ phận tăng khổ hạnh làm thiện mà vẫn chưa am tường luật học! Phải biết giới không riêng tư ai, nhưng cứ giương đông kích tây, nâng Giáp giúp Ất, hoặc chuộng Tý bỏ Sửu v.v… ưa thích người này ghét bỏ người kia, là chiêu lấy ác báo. Nên có câu rằng: “thiên đường chưa đạt tới, địa ngục trước đã thành”. Đâu không sợ sao?
            Lại có Trụ Trì tuy không quyên góp bên ngoài, nhưng trong tăng mượn danh kêu gọi riêng, nên ngoài chùa thông báo trên thư kêu gọi đề: bổn tự… tu tạo… công trình. Nội tự tận lực tạo dựng, mong đón nhận sự phát tâm cúng dường tùy hỷ của đàn việt, không có người nào ra ngoài quyên góp v.v...
            Có 2 việc cần nên lưu ý:
            1-  Một là miễn mượn danh nghĩa quyên góp mà tạo nghiệp phải tội đọa
            2-  Hai là chưa ai phát hiện ra việc này càng thêm mánh mung để liên lụy đến Tam Bảo không ít.
            Chứng nghĩa ghi:
            Vân Thê Pháp vựng có nêu rằng, kiến tạo tòng lâm vì chúng vốn là việc tốt. Nhưng phải biết sự biết lý rồi sau mới làm. Nếu không vậy, như gặp việc phiền toái liền bực chí, hoặc đắm trước các duyên, thậm chí có người như suốt đời chưa đạt được ước vọng, có ngưòi đạt sở đắc nhưng tới giữa đường bỏ phế. Tuy lao tâm tận lực tạo dựng mọi việc vẫn canh cánh lo toan lại càng lao tâm nhọc trí, chính mình làm tổn hại không ít, huống chi còn ra sức quyên góp của người ư? Như lời tôi đúng thời tượng Phật hư hoại ai lo xây dựng lại? Tăng chết đói dọc đường không được thức ăn, ai giúp đỡ họ?
            Mọi người chỉ bàn sự mà để Tam Bảo hoang phế; đâu chẳng nghe ai tu huệ, tu phước chi; La Hán ứng cúng mỏng cạn vậy hay sao?            
            Đáp rằng:
            - “Không phải thế đâu. Chỉ nghĩ nhất thể Tam Bảo hoang phế thôi, còn thế gian Tam Bảo nữa chứ!”
            Từ khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc đến nay, việc đúc tượng, xây chùa, trai tăng v.v.. thời nào chấm dứt đâu; nơi nơi đều mong muốn, cớ sao lại lo lắng rồi đi kể lỗi vậy?
            Ngu Am Chích Cổ ghi rằng:
            - “Thiền sư Diên Ân Pháp An đến viện Như Ý ở Quảng Sơn, nhà hư nền hỏng mà vẫn an trú được 10 năm; nhà lớn đổ nát hư hại, tâm ý chẳng hề chán nản, chỉ lo lợi vật, giúp người. Về già, Ngài ở nhà tranh, nằm chiếu đất, tại Diên Ân, dột nát ánh sáng dọi vào mà vẫn lấy đó làm vui, làm cho Duẫn phú hào động lòng cho làm chùa mới lại. Ngài Pháp An mỉm cười rằng:          
            - "Pháp đàn vốn để độ người, nay không người phát tâm mà cưỡng ép làm gọi là tạo nghiệp chứ không phải là làm Phật sự".
            Mỗi lần gọi người tới Ngài nói rằng:
            - "Vạn sự tùy duyên là pháp an lạc".
            Ngu Am ca tụng rằng:
            - "Uy đó là huệ hành
            Chẳng đến từ tâm thành
            Lập đàn độ thúc nhanh
            Khác nào vàng tô phết
            Viện Như Ý tu hành
            Vô tư tòng lâm thạnh".
            Lúc về già Ngài ở Diên Ân, chắn gió che mưa lấy cỏ lau làm vách, chỗ ở người quân tử đâu có hạn hẹp. Cửa làm bằng cỏ, then bằng dâu, vui an nhiên tự tại. Nhà đỗ sụp, tối ở núp dưới gốc cây. Sư già luôn ở nhà tranh, trông nhìn lại xem ta như thế nào?
            Y cứ theo Pháp Vựng Chích Cổ có 2 điều người sau nên khéo lãnh hội ý này:
            1- Pháp Vựng gọi người lập chí là người cầu học, việc học chưa xong, không thể vì đó mà tự bỏ học; chẳng phải là hoang phí của Tam Bảo thế gian, mà đặc biệt huệ mạng là trọng yếu.
            2- Chích Cổ gọi người đại tu hành tự không chịu an ở nhà rộng lớn, chẳng cần Phật điện to mới nhận lãnh; cưỡng cầu quyên góp trái điều Phật dạy, nên không làm vậy.
            Trụ Trì ngày nay không được như vậy, cũng chưa từng lập chí tham học, trọn ngày vì lợi dưỡng, chỉ lo cho mình no đủ an nhàn, không đoái hoài đến Phật điện có hư hao đỗ nát cũng mặc; cố ngoảnh mặt làm ngơ, lại còn cậy thế giả oai cưỡng cầu quyên góp; cũng có kẻ thật đáng thương xót !
            Luận rằng, tự mình đã chẳng trang nghiêm nhất thể Tam Bảo(11), quả có trang nghiêm thế gian Tam Bảo cũng chỉ vớt vát được phân nửa; lời pháp đơn sơ này chưa diễn được trọn hết ý. Dù mình ở lều tranh, nhưng Tam Bảo đương nhiên phải là nơi trang trọng, ý này Chích Cổ chưa nêu ra hết vậy.
            Hết quyển năm.
            Ghi Chú
            1- Thập phát phú: 10 bực phát thú của Bồ Tát: 1. xả tâm, 2. giới tâm, 3. nhẫn tâm, 4. tấn tâm, 5. định tâm, 6. huệ tâm, 7. nguyện tâm, 8. hộ tâm, 9. hỉ tâm, 10. đảnh tâm.
            2- Thập trưởng dưỡng: 10 trưởng dưỡng Bồ Tát tâm, đó là 1. tâm từ, 2. tâm bi, 3. tâm hỷ, 4. tâm xả, 5. tâm thí, 6. hảo ngữ tâm, 7. ích tâm, 8. đồng tâm, 9. định tâm, 10. huệ tâm.
            3- Thập kim cang: 10 tâm như Kim cang của Bồ tát là: 1. tín tâm, 2. niệm tâm, 3. hồi hướng tâm, 4. đạt tâm, 5. trực tâm, 6. bất thoái tâm, 7. đại thừa tâm, 8. vô tướng tâm, 9. huệ tâm, 10. bất hoại tâm.
            4- Thập địa: 10 địa vị của Đại thừa Bồ tát như: Hoan hỷ địa, Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Cực nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa, Pháp vân địa.
            5- Kiến hoặc, tư hoặc: thấy sự vật một cách điên đảo sanh kiến giải sai lầm gọi là kiến hoặc. Những sai lầm thuộc tư duy, lập luận gọi là tư hoặc. chẳng hạn, nhìn thấy đúng, nhưng lại rút ra kết luận sai lầm, do tư duy sai lầm.
            6- Diêm Phù Đề: một châu trong 4 châu lớn, còn gọi là Nam Thiệm Bộ châu ở phía Nam núi Tu Di, tức là cõi chúng ta đang sống đây. Vì có nhiều cây linh tên là Diêm phù (jumbud) rất quí nên gọi theo tên ấy.
            7- Pháp khí: có 2 nghĩa, chỉ đồ vật và chỉ người. Đồ sử dụng cho lễ nghi trong chùa như chuông, bảng, trống, phách… gọi là pháp khí. Người vượt trội, làm được việc mà người khác không làm được là bậc pháp khí.
            8- Đầu đà: hạnh tu ép xác của các vị khổ luyện công phu mà người thường cũng khó theo đuổi kịp. Chọn nơi rừng sâu núi thẳm, nghĩa địa, gốc cây… làm chốn tu luyện định tâm, là cả một sự phấn đấu phi thường. Hành giả còn chịu nhịn đói, nhịn khát, nằm tuyết phơi sương, hành xác thân thể v.v…  
            9- Nhục kế: là một trong 32 tướng tốt của Đức Phật, có chỏm thịt nhô lên trên đỉnh đầu đỏ au như búi tóc xoắn trông rất trang nghiêm.
            10- Thích đề hoàn nhân: vua trời Đế Thích đứng đầu cõi trời Đao Lợi, cũng gọi là trời thứ ba mươi ba.
            11- Nhất thể tam bảo, thế gian tam bảo: Tam bảo là ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng. Tăng truyền thừa giáo pháp Phật dạy mặc dù hình thức là 3 ngôi, nhưng về lý tánh chỉ một: nhất thể. Nói theo thông thường 3 ngôi báu ở trong đời, cho nên nói thế gian Tam Bảo.
--o0o--