-
QUYỂN
TÁM
-
-
CHƯƠNG TÁM
-
---o0o---
-
Tuổi Đạo
-
Lời thuật ghi rằng, vị
tăng không tính theo tuổi mà tính hạ lạp để phân biệt với thế tục. Ở
Ấn Độ năm có ba mùa, lấy một mùa làm an cư từ 15 tháng 5 đến 15
tháng 9 là khoảng thời gian cấm túc, đình chỉ mọi việc ra vào. Những
việc tọa thiền, tụng kinh, thiền hành đều y cứ năm thọ giới trước
sau thứ tự mà chế lấy 9 tuần (3 tháng) để tấn tu đạo nghiệp; dùng 3
tuần để bồi dưỡng thân thể (cộng chung lại là 4 tháng), làm cho
trưởng dưỡng thân tâm trong an định để thúc liễm chuyên tu không
luống phí thời gian, tiếc giữ sinh mạng, tịnh tu nhẫn cần, tuân lời
Thánh huấn. Đời đời tôn trọng Qui chế nên mỗi năm nơi Trúc Lâm rộng
lớn nóng lạnh, gió mưa… thời tiết không đều vẫn có mùa an cư. Cho
nên an cư lấy ba thời điểm: tháng tư, tháng năm, tháng 12, song đều
bắt đầu chọn ngày 14, 15 hoặc 16 nhân duyên tùy lúc; chỉ cần thích
hợp hòa hài để sắp xếp công việc.
-
An cư cũng gọi là nhập hạ,
tọa hạ có nghĩa là giới lạp hay tăng lạp khởi đầu từ đây. Ngày nay
Tòng Lâm kiết hạ chọn rằm tháng 4, kiết giới và giải hạ nhằm rằm
tháng bảy, đây là ba tháng an cư. Lại kiết đông lấy ngày 15 tháng 10
và giải đông vào ngày 15 tháng 1, dùng ba tháng này chuyên tu thiền
định đã trở thành qui củ lâu đời. Việc giáo hóa phải tùy nghi từ hơn
1200 năm nay qui củ được duy trì, xem quí ngôi của bậc long tượng,
chủ khách xướng họa mà lần lượt được nghe tiếng gầm của sư tử; tốt
đẹp vậy thay, hưng thạnh thay!
-
An cư cũng gọi là kiết hạ
hay còn gọi là kết chế. Trước hết dự bị, kế là tác pháp an cư.
-
Y luật chế an cư là việc
hiển nhiên của tăng. Ngày nay tạm quyền thay đổi lấy 16 tháng 4 âm
lịch kiết hạ; phải niêm yết ngày an cư kiết hạ tại nhà khách. Thông
tư ghi rõ an cư, ngày 15 các ban Tri khách, Tri sự, Duy Na và ban
Hành Đường, ẩm thực, ghi rõ giới lạp… đầy đủ để tiện làm bản phương
danh. Lại phái ban Duyệt chúng lập thẻ, phát thẻ, người nghinh tiếp,
sắp đặt những người có trách nhiệm để đến lúc hành lễ không bị lộn
xộn. Phải cho người chuẩn bị các thứ bàn, tọa cụ, hoa quả, hương
đèn… đầy đủ trước.
-
Sáng ngày 16, sau khi điểm
tâm xong, Tri Khách thỉnh 3 hồi đại hồng chung, đại chúng đắp y
chỉnh tề vào chánh điện. Duy Na, Duyệt chúng thỉnh Hòa Thượng Phương
Trượng đến trước niêm hương bạch Phật, thị giả cắm hương lên lư,
đảnh lễ 3 lạy. Duy Na xướng lễ, đại chúng lạy Phật 3 lạy, đứng thành
2 hàng đối diện nhau xá một xá rồi ngồi xuống tọa cụ. Thỉnh Phương
Trượng khai thị, Hòa Thượng nói: thưa đại chúng, theo luật chế, hôm
nay là ngày tác pháp kiết giới an cư, đại chúng phải nhiếp niệm lắng
lòng cho thân tâm thanh tịnh để giới châu tròn sáng và thân thể
tráng kiện trong mùa kiết giới này. Đại chúng đồng đáp: chúng con
xin vâng.
-
Duy Na đứng lên lạy 3 lạy,
quì gối chấp tay lấy một thẻ lớn 2 tay nâng 2 đầu và đọc lớn như:
"Úc
châu quốc, ngày… tháng… năm…ba
tháng hạ an cư tập chúng.
- - "Nam
mô Trung Thiên
Giáo Chủ Bổn Sư Thích
Ca Mâu Ni Phật chứng minh..."
- Thẻ
thứ nhất đọc xong để trên mâm đứng xá một xá. Người thâu thẻ lấy mâm
không để thẻ ấy lên mâm lạy Phật 3 lạy, tiến lên và quỳ gối 2 tay
nhận thẻ đặt vào mâm trống. Sau đó bưng mâm đi tới từng người phân
thẻ tả hữu hai bên, từ Hòa Thượng Phương Trượng xuống đi theo thứ
tự. Người nhận thẻ phải cúi mình nhận thẻ rồi để vào mâm trống. Theo
thứ tự đi giáp lượt như thế xong. Duy Na để thẻ trên mâm bước tới 3
bước, 2 tay bưng một thẻ lớn đọc lớn tiếng rằng:
"Úc
châu quốc, ngày… tháng… năm…Hôm nay tập hợp chúng trong 3 tháng hạ
an cư, ngưỡng mong Hộ Pháp Vi Đà Tôn Thiên từ bi gia
hộ..."
Lấy thẻ sau cùng lên đọc
xong rồi để trên bàn. Lại tiến tới, người thu thẻ lấy mâm để thẻ
trên mâm. Người thâu thẻ đều tới trước tượng Vi Đà, bất kể số
người là bao nhiêu. Nói về gởi dục, cho biết có bao nhiêu người cũng
phải báo cáo rõ ràng. Duy Na đọc lớn rằng:
"Ngày… tháng… năm,
hôm nay chư Tăng tập trung về đạo tràng… tại thành phố… an cư kiết
hạ 3 tháng, con Tỳ kheo… kiểm trong đây có… vị tỳ kheo, Sa di… người".
Kiểm chúng xong,
Duy Na lại nói:
- - "Con
vì chúng mà bạch như thế, xin đại tăng chứng minh".
-
Hòa Thượng đáp:
- - "Được
tốt lắm".
-
Duy Na:
- - "Dạ
vâng".
-
Hòa Thượng nói:
- - "Đại
chúng cùng ở chung đã biết nơi đây mùa hạ này có… người như thế an
cư. Về sau trong kỳ tụng giới không cần đi thẻ nữa, mỗi người tự
nhiếp thân tâm trong 9 tuần (mỗi tuần 10 ngày), nỗ lực làm đạo. Nhận
thẻ (bản tên) xong, tụng hồi hướng, ba tự quy y xong. Tất cả đồng
đứng lên lạy 3 lạy rồi lui về chỗ".
Chúng tụng giới,
tùy theo tháng có trăng hay không trăng theo nghi thông thường. Duy
Na bắt tán lư hương xong, quỳ đọc rằng:
- - "Thích
Ca Như Lai"
(3 lần)
- - "Kiết
hạ an cư"
(đại chúng hòa theo).
-
Duy Na chấp tay tác bạch:
- - "Cấm
túc an cư là qui tắc của Đức
Như Lai để thức tâm đạt bổn, là hạnh môn của con giòng họ Thích. Đạo
do người hành, công phu do mỗi ngày mà tiến, nay là ngày 16 tháng tư
lễ kiết hạ an cư, chúng tăng vân tập tề chỉnh tại chánh điện, trì
tụng kinh chú, khởi sự kỳ kiết giới. Từ đây trở đi phát 10 nguyện
khởi 3 tâm, trí tánh sáng tỏ, báo đáp bốn ân, nhổ sạch 6 đường, tiêu
trừ các chướng. Thường niệm hiệu Phật, nghĩ tưởng các bậc Thánh,
không được đi vào nơi mạo hiểm giết hại sanh mạng. Thọ 7 tụ giới,
sạch như sương tuyết, giữ gìn ba luật nghi sáng không tì vết. Nước
định lắng trong, trăng tuệ soi chiếu, trong hợp nguồn chân, ngoài
tròn phạm hạnh. Nuôi lớn mầm linh Bát Nhã thành diệu quả Bồ Đề; do
pháp môn đây hưng thịnh thời hải chúng an hòa. Trời rồng ủng hộ, vua
quan tôn trọng, Phật pháp rộng truyền. Đại đức một lòng thương xót
con Tỳ kheo… nay nương… Tự viện Tăng già lam nội giới kiết giới an
cư ba tháng".
-
Mỗi người tự bạch lời kiết
giới như thế xong. Tất cả đồng tụng bài:
-
- "Chúng sanh không số
lượng,
- Thệ
nguyện đều độ khắp
- Phiền não
không cùng tận,
- Thệ
nguyện đều dứt sạch
- Pháp môn
không kể xiết,
- Thệ
nguyện đều tu học
- Phật đạo
không gì hơn,
- Thệ
nguyện được viên thành".
-
Tiếp tán bài:
- - "An cư
kiết giới
- Đạo thể
thành hình
- Phát
nguyện chân thành
- Cần tu
giới hạnh
- Đáng làm
mô phạm
- Giới luật
nghiêm minh
- Mau chứng
pháp thân
-
Như Lai pháp vương".
- - "Hoan
Hỷ
Địa
Bồ Tát Ma ha tát"
(3 lần).
-
Tụng hồi
hướng, phục nguyện, ba tự quy y…
-
Chứng nghĩa ghi rằng:
- Kiết
hạ an cư từ khi Phật chế về sau, không luận tông phái chưa hề có
việc không tuân hành. Gần đây tông môn đặt định đi ra ngoài cũng
đáng buồn thay.
-
Như sách Liệt Tổ đề cương
đăng tải pháp ngữ của mùa kiết hạ thiền tông 90 điều (tắc) sáng sủa
đáng xem. Nay chỉ nêu lên một số điều để thấy rõ đại ý.
-
Ngài Bạch Vân Đoan nói
rằng:
- - "Khởi
đầu của an cư gọi là cấm túc. Nghĩa cấm túc chỉ lấy ý ở chỗ tu tiến
đạo mà hộ trì sanh mạng".
-
Ngài Chân Tịnh Văn nói
rằng:
- - "Chư
tăng mười phương qui tụ lại 3 tháng kết giới dứt tâm cuồng vọng, trừ
khổ não bức bách, đạt được thanh lương, chứng Niết Bàn an lạc, đến
bờ đại giải thoát, ra khỏi vòng sanh tử. Vì đây là Thánh chế nên
không hư dối. Ngài lại nói: nay là ngày đầu hạ, thời giờ chúng tăng
kiết giới, Tỳ kheo khắc chế cùng đại chúng thanh tịnh. Xưa Bồ Tát
thừa tu hạnh vắng lặng lấy đại viên giác làm già lam, thân tâm an ổn
bình đẳng giao tiếp là tự tánh Niết Bàn không bị ràng buộc. Nay Ta
cung thỉnh không theo Thanh Văn, nên cùng
Mười Phương
Như Lai và các vị Đại Bồ Tát. Ba tháng an cư là đại nhân duyên tu Bồ
tát vô thượng diệu giác. Lìa sạch cấu nhiễm, giới hạnh thanh tịnh,
nếu được như vậy tựa như hoa sen không dính nước, tâm thanh tịnh
thắng hơn kia vậy".
-
Ngũ Tổ Diễn nói rằng:
-
- "Hạ này ở Bạch Vân,
- Ngẫu nhiên
gặp Thiền tăng,
- Ba tháng
chín tuần chẳn,
- Tôn ti tự
định phân,
- Cháo cơm,
trà dùng chung,
- Ngon dỡ
vẫn âm thầm,
- Thành ý
học kinh thư,
- Tự tại
quán thiền cơ.
- Đây kia
trẻ xuất gia,
- Phóng giáo
bụng dày da,
- Nhà đá
ngọc quí đa.
- Hôm nay
rằm tháng tư,
- Chư tăng
đi khất thực
- Nghĩ trên
đầu không tóc,
- Chân mang
giày cỏ sướt,
- Quần áo
lộng gió thu phong,
- Gậy chống
ngao du đây đó,
- Cò trắng
mến tiếc ao không,
- Phượng
hoàng đâu ngại gai gốc.
- Bình sanh
can đảm hơn người,
- Biết nhau
cũng như không biết thôi!".
-
Ôi! Thuyết pháp như thế,
há không phải làm qui phạm thiền tông hay sao, ngày nay không được
như vậy.
-
An Cư Kiết Hạ là muốn trau
dồi thiền định, nhưng theo thông thường nên tọa thiền, nếu không
ngồi được, cũng phải lấy niệm Phật làm công khóa. Trong thời gian đó
mỗi ngày khóa công phu sáng như thường lệ, đại chúng vào chánh điện
tụng Kinh Lăng Nghiêm, chương Thế Chí Viên Thông, chú Đại Bi và
mười bài chú ngắn,
Tâm
Kinh
Bát Nhã, niệm Phật, Sám
Thập
nguyện Phổ Hiền
(một là kính lễ chư
Phật cho đến mười đều..)
nguyện hồi
hướng, phục nguyện, ba tự quy.
- -
Sau khi điểm tâm xong đọc:
Kinh 16
phép Quán
Chương
Quán
Tạp
Tưởng,
chú Vãng
Sanh
(3
lần),
niệm Phật (càng nhiều càng tốt), lạy 12 nguyện Phật A Di
Đà, lạy Bồ Tát Quán Thế
Âm,
Đại Thế Chí, Địa Tạng Vương
(mỗi
vị một lạy),
hồi hướng ba tự quy y.
-
Cúng ngọ; giờ ngọ trai,
cúng quá đường xong, đi kinh hành niệm Phật, đọc sám nguyện, niệm
Phật, ba tự quy y, đại chúng về liêu:
- -
Buổi chiều, tụng
Kinh
Di Đà,
Mông
sơn thí thực và
Hồng Danh (nếu có thì giờ).
- -
Buổi tối đọc kinh 16
Phép
Quán,
chương thượng phẩm thượng sanh, chú
Vãng
Sanh
(ba
biến),
niệm Phật, lạy Phật A Di Đà, các vị Bồ Tát
(mỗi
vị 3 lạy),
hồi hướng, ba tự quy y.
- -
Trước giờ chỉ tịnh có thời
tọa thiền, hoặc niệm Phật 30 phút.
- -
10:30
giờ tối kiểng chỉ tịnh, đại chúng lên giường ngủ, nhất là mùa an cư,
nghiêm ngặt cấm bàn tạp, cũng như không được vô ra sái phép. Người
nào trái phạm cấm không được ở chung; người phạm trọng giới y luật
trị.
-
Phàm tại thiền đường và
chánh điện chư Tăng vui vẻ học tập nhất là Kinh luật, lắng nghe hiệu
lệnh chung bảng (kiền chùy).
-
- "Hễ hiệu lệnh cùng
luân phiên nhau phụ trách
- Phải cùng
giúp nhau học tập Kinh,
- Luật, Luận
cho tinh thông
- Ai không
theo chúng chiếu Nội Qui phạt".
-
Chúng muốn nghe giảng kinh
gì, Duy Na bạch Trụ Trì biết để mời Thầy giảng kinh Lăng Nghiêm
hay kinh khác cũng được.
-
Chứng nghĩa ghi rằng:
- Việc
kiết hạ an cư có nguồn gốc từ lúc Phật còn tại thế. Kinh Phạm Võng
ghi rằng, mùa đông, mùa hạ tọa thiền nên mới thiết lập Thanh Quy.
Lấy An Cư, mãn hạ, kết đông, giải đông làm bốn mùa vậy.
-
Gần đây Thiền Tông chỉ kết
đông mà không kết hạ, đã sai lời Phật dạy rồi. Luận việc quan trọng
của tu hành là không sai lầm hai pháp Thiền Tịnh. Ngày nay đã chọn
kết đông cho việc tọa thiền, tức là có thể lấy kiết hạ giảng kinh,
học luật đều là việc tu tập, nhưng lấy niệm Phật làm chính.
-
Giảng Kinh mùa hạ, hay
Luật, Luận đều thích hợp trong thời gian này. Sắp giảng kinh nào nên
cho đại chúng biết. Trước hết để đầy đủ lễ nghi, phải thưa thỉnh
Thầy Phương Trượng, Thầy có thể cử người khác giảng thay thế, tức là
đổi thỉnh vị khác theo cách thỉnh sư. Người thỉnh sư phải đắp y, cầm
tọa cụ tới trước mời Thầy ấy khai giảng kinh (phần này có Nội qui
giảng đường xem ở sau). Ngày đầu khai giảng, buổi sáng sau khi đại
chúng dùng điểm tâm xong, trên chánh điện nên chuẩn bị hương đèn,
thiết trí pháp tòa giảng kinh. Trước bục kinh để một tượng Phật và
hai bên đặt ghế thính giả nghe kinh. Nếu không có chánh điện, có thể
tại trai đường, sau giờ điểm tâm xong mới thiết trí. Sau điểm tâm,
nghe hiệu lệnh chuông đại chúng đắp y, cầm tọa cụ vào chánh điện
đứng hai bên. Thầy Trụ Trì sai thị giả 3 người: một lo về giờ giấc,
một lo kinh và một lo nhang đèn chánh điện hay trai đường.
-
Ba hồi chuông trống Bát
Nhã thỉnh sư, thị giả tới thỉnh Phương Trượng pháp sư đăng tòa,
khánh dẫn đầu, chúng theo sau. Giám Viện cầm hương đứng sau. Hòa
Thượng Phương Trượng tới, đại chúng đứng hai bên đối diện, thị giả
và Duy Na mời pháp sư đăng tòa. Giám viện tiến ra dâng hương, trải
tọa cụ ngay ngắn xong, lễ ba lạy nhưng theo nhịp khánh trước. Giám
Viện cầm hương đứng sau đại chúng, pháp sư cũng đứng sau, thị giả
theo hầu tại chánh điện. Duy Na hầu pháp sư tới ngay chính giữa dừng
lại nhịp một hồi khánh. Chuông trống trổi lên nhịp điệu theo bài kệ
như sau:
-
- "Hàng phục oán thế
lực ma
- Trừ dứt
sạch không còn thừa
- Nghe âm
thanh vi diệu xa
- Hết thảy
nên vân tập (nhóm lại) cả".
-
Nam mô Vân
Lai
Tập
Bồ Tát Ma ha tát
(3 lần).
-
Thỉnh pháp sư niêm hương,
đảnh lễ Tam bảo xong, mời đăng pháp tòa xong rồi, Duy Na xướng,
chúng đảnh lễ ba lạy, mỗi người về chỗ ngồi, tọa thiền một vài phút
xong, Duy Na nhịp 3 hồi khánh lại 3 tiếng. Nhập khánh xướng rằng:
- - "Tiếng
chuông vang thấu cõi ba ngàn
- Phật pháp
hoằng dương vạn ức phương
- Công lao
ân đức bậc quân vương
- Lợi ích vô
cùng thật khó lường…"
- Tiếp
theo đọc:
-
- “Kệ
khai kinh:…”
-
Nam mô Thập
Phương
Thường
Trú
Tam Bảo (3
lần).
-
Sau đó buổi giảng bắt đầu.
Pháp sư tùy nghi giảng hợp căn cơ, trình độ của đại chúng, cho tới
trước khi bài giảng chấm dứt, dành 5, 10 phút cho chúng nêu câu hỏi:
đáp xong. Cuối cùng, pháp sư niệm hồi hướng như:
- - "Công
đức giảng kinh
- Hữu tình,
vô tình
- Lợi lạc
khó lường
- Đồng thành
chủng trí".
-
Tụng xong, thỉnh ba hồi
chuông trống Bát Nhã, pháp sư xuống tòa, tới lễ Phật và lui ra. Đại
chúng đứng ngay ngắn hai bên thỉnh pháp sư hồi phương trượng xong,
xoay vô lạy Phật ba lạy rồi lui về liêu phòng. Nếu pháp sư bảo khỏi
tiễn đưa, liền ngưng, không cần phải theo thường lệ.
-
Từ đây về sau các lễ nghi
có phần hơi khác là không thỉnh chuông trống, cũng chẳng có Giám
Viện rước thỉnh. Người dự nghe cũng không lên phòng Phương Trượng
mời mà chỉ đứng tại chánh điện hầu đợi. Tới giờ, thỉnh đại hồng
chung ba hồi ba tiếng nhóm chúng. Duy Na, Duyệt Chúng phải là hai
người trực, một người lo pháp tòa, một người bưng khay lễ tới phòng
Phương Trượng để thỉnh pháp sư. Nếu lãnh chúng giảng thay, tức thì
mời ngay tại phòng. Sau khi pháp sư đăng tòa xong, nên có một người
trực niêm hương thỉnh, đại chúng đều chấp tay đứng. Ngoài ra, mùa hạ
trời oi bức khỏi đắp y, đại chúng lễ pháp sư một lễ rồi cùng ngồi
xuống nghe giảng.
-
Ngày đầu giảng và ngày
viên mãn nên làm lễ cúng ngọ như nghi thường lệ. Chỉ có tờ sớ hơi
khác, lời phải thích hợp ý nghĩa giảng kinh, nên ở đây không nêu đủ.
-
Chứng nghĩa ghi rằng:
- Trong
uật nói năm hạ về trước chuyên học giới Luật, năm hạ về sau mới học
giáo pháp, tham thiền. Cho nên Đức Thế Tôn giảng rộng nhiều kinh
luật cũng qui về niêm hoa. Đến khi giáo pháp truyền sang Đông độ
trước tiên cũng là Kinh Luật rồi kế tiếp đến Thiền Tông, cho nên
Kinh Luật và Thiền Tông đều quan trọng, làm mẫu mực ở đời vậy. Sỡ dĩ
mùa đông tham thiền, mùa hạ học tập nên bổ túc cho nhau mà không
trái nhau. Thiền tông ngày nay đối với Kinh Luật là hai, như chẳng
lưu ý hẳn lầm.
-
Do vậy, người học Kinh
luật phải biết rõ 5 điều quan trọng này:
1)
Tin có cảnh giới
chư Phật: mỗi người đều có niềm tin vốn không sai biệt, chẳng sanh
tâm khiếp sợ,
2)
Điều quan trọng thứ
hai là quy tụ về mình (tự lo tu tập), chẳng bàn ăn uống, của báu,
3)
Tâm trống rỗng ưa
thiện, kém biện tài lại muốn làm thầy người. Nên phải chọn người
lành mà theo, không nên kết bạn mình chẳng biết,
4)Thương
xót hết tất cả, hễ kham được ý này mới khuyên nhắc nhau mà chẳng
tiếc lời thống thiết,
5)
Tha thứ người tự
trách mình, người không như pháp; phát tâm lân mẫn, chớ thấy lỗi
người.
-
Nếu ta phóng túng ôm lòng
kiêu mạn thời không thành thật. Mỗi khi thấy người đời muốn học kinh
luật, nhập bọn theo kẻ phóng túng nên gây ra bao nhiêu chướng nạn.
Quí vị gặp được duyên lành, trái lại tríu mến phù hư chẳng tiếc
thay! Ngoài ra phàm người giảng kinh phải hiểu ý Phật Tổ, đừng chỉ y
theo văn mà giải nghĩa làm chướng ngại kiến thức người có học. Nên
biết thay Phật tuyên dương pháp làm tai mắt cho trời người không thể
sơ sót được.
-
Căn cứ
Kinh
Chánh Pháp Niệm Xứ
ghi rằng:
- Phàm
người đời giảng kinh, thọ giới, tu tập, chứng quả… kể cả ra làm việc
Phật là đền đáp địa thần đến không thần. Như vậy lần lượt trên đền
đáp ba cõi, nhẫn đến chư Phật.
-
Sách Thiền Tông Mật Yếu
ghi rằng:
- Pháp
sư Tùy Du giảng Kinh Duy Ma Cật, có dẫn Lý lục sự sau khi
chết thành quỉ dựa vào người cùng nói tiếng người.
-
Sư hỏi:
- - "Nay
giảng Kinh này người nào nghe được?"
-
-
"Từ đầu người trở
lên là quỉ thần, các cõi trên và chư thiên kính trọng rất mực. Song
chư thiên thấy nghe pháp sư xông mùi rượu đều quay mặt bỏ đi không
nghe".
-
Pháp sư Dư liền sám hối
lỗi lầm không uống rượu nữa.
-
Quỉ lại nói:
- - "Không
phải chỉ hội này riêng cảm đến chư thiên mà bất cứ nơi nào có pháp
sự đều có chúng tôi giá lâm. Y cứ theo kinh điển, phàm làm việc pháp
sự phải chú tâm thành kính"
-
Luận Thiền và Giáo chẳng
hai.
Giáo nằm trong Thiền,
Thiền không rời Giáo. Chấp văn mà giữ cả nghĩa lý, Thiền cũng là
Giáo, lìa nghĩa văn mà hợp tâm, Giáo cũng là Thiền. Hành nghi phản
ảnh chân như, nương mô phạm mà thành diệu đạo.
-
Thiện Tài Đồng Tử đi tham
bái (học) khắp pháp giới, Đức Thế Tôn chỉ do học mà thành giác ngộ.
Nêu gương cho người học hỏi, để làm thềm bậc cho kẻ đến sau. Nên
biết rằng do tin hiểu để tu chứng, nhân khai thị mà ngộ đạo, bậc mô
phạm quan trọng đến như vậy đó!
-
Không có qui tắc không do
đâu mà duy trì đạo. Mong mõi mỗi người nên tuân theo, và trân trọng
12 điều như sau:
-
1-
Trong hội giảng
kinh, nếu có người phạm giới căn bổn,: uống rượu la lối, tranh cãi
nhân ngã, thị phi, hủy báng việc giảng pháp, kể cả giảng sư và những
người cùng học. Hễ ai phạm một việc như trên, đều bị đuổi khỏi viện,
-
2-
Mượn cớ ngoại đạo
nhàn du hợp theo kinh điển họ cho ra khỏi chùa,
-
3-
Không tuân theo
chúng bị phạt,
-
4-
Ra vào áo mũ (giày
dép) không đúng, phạt,
-
5-
Mỗi ngày sau khi
điểm tâm sáng vào lớp nghe kinh, nếu không, đắp y lên chánh điện
tụng một biến kinh hay một thời lễ sám cầu cho tiêu trừ nghiệp
chướng, để gia tăng trí tuệ,
-
6-
Mỗi ngày sau buổi
ăn sáng thỉnh giáo thọ giảng kinh, chúng đều đến giảng đường nghe
giảng. Pháp sư đến an tọa, niệm hồng danh Phật ba lần xong mà đến
trể, không được vào lớp,
-
7-
Những sách nhãm
nhí khác không được xem, ai phạm bị phạt,
-
8-
Giảng kinh gì nên
thông báo chi tiết rõ ràng, để lúc nghe giảng chúng dễ lãnh hội. Có
điểm chỗ nào không hiểu, ghi chú, chờ sau thời giảng hỏi riêng pháp
sư. Nếu lười biếng không nghe hoặc trong lúc giảng sư giảng ngủ gật
bê bối, cho ra khỏi lớp,
-
9-
Nghe kinh phải
hiểu nghĩa mới mong tỏ ngộ; chỉ đồ lại bả văn mà không rõ nghĩa lý
ắt không ngộ lý. Nếu tin văn cũng không hiểu trình tự rõ ràng, hư
cấu dựng chuyện cho ra khỏi lớp,
10-
Trước giờ giảng
kinh có 3 hồi chuông báo chúng, trong ngoài đều tới lớp. Giá như
ngồi sai chỗ, nói cười thô tháo, nghênh ngang tự cao trong lớp,
không chịu nghe pháp bị phạt,
11-
Người giảng quen thuộc lên phòng Phương Trượng báo cáo chỗ ngồi;
nhẫn đến ra trước đại chúng, báo cáo có bao nhiêu người. Đại chúng
đồng đứng, phải có một người trực cầm dâng hương. Pháp sư hướng về
Tam Bảo lạy Phật, đến giảng cho tới lúc hoàn mãn,
-
12-
Mỗi ngày ngoài việc luân phiên tiểu tọa, rút thẻ chọn tiểu tọa để
biết ngày kế tiếp, trừ kẻ thật tối dạ mới không biết.
-
Trở lên bên trên là những
điều qui định, mỗi người nên tuân thủ. Người nào bịnh hoạn hoặc có
khách quí thăm, tùy hỷ tới nghe không bó buộc theo Nội Qui.
-
Ngày… tháng… năm,
Trụ trì… kính ghi
lại.
-
Luận Nội Quy giảng đường
để học người, học việc. Riêng về Tọa Chủ cũng phải giữ qui tắc trên
hẳn mới có ý nghĩa. Lấy một việc giảng kinh thôi bèn thay Phật tuyên
dương pháp, trời người các cõi đều lắng nghe; lý nên tôn kính.
-
A Nan kết tập kinh tạng
cầm bút thăng tòa ngồi tỏa tướng tốt như Phật, kết tập kinh, giảng
kinh cùng một nghĩa. Tọa chủ bỏ các lỗi thị phi, há vạn nhất chẳng
xứng hay sao? Nên nêu lên 9 qui tắc của tọa chủ để tiêu biểu oai
nghi, cho sự thành kính:
-
1-
Phải đầy đủ đức từ bi dạy người không mệt mỏi, thuyết pháp bình đẳng
không có phân biệt sang hèn; không lựa kẻ oán người thân, không kể
sự cúng dường khu biệt,
-
2-
Nên đắp y thanh tịnh sạch trong sạch ngoài. Không được mặc y bẩn
thăng tòa, dù trời nóng nực cũng phải đắp y. Kham chịu nhẫn nhục, và
không được do ngồi lâu mà bỏ y ra,
-
3-
Lắng lòng soi chiếu quán sát mọi pháp đều không. Phạm hạnh lan xa,
trời người chung nhóm, nên xem hình vóc là giả dối. Quán không chẳng
không, xem giả chẳng giả nên hình thể ở trung gian. Mượn sự qui lý
mới nhập sâu diệu lý,
-
4-
Ngồi phải ngay ngắn trang nghiêm, không được nghiêng mình xoạc cẳng,
nói cười thô tháo,
-
5-
Không được để lại phần chánh không giảng mà phần nhiều chỉ nói chi
tiết ngoài lề. Nếu muốn phát huy yếu chỉ nên đưa thí dụ chính xác,
dù ngôn ngữ thế đế nhưng không trái ngược (chân đế, chân lý) đạo,
-
6-
Phàm giảng kinh nên nêu ra điểm chính làm móc cho người nghe dễ nhận
nghĩa lý, song phải quên văn. Muốn vậy cần phải có nội lực công phu.
Không hiểu nghĩa mà lược văn khiến người hiểu cạn cợt, mơ hồ, không
sáng tỏ,
-
7-
Với quan điểm riêng không nên chấp đúng mà bài bác các ý khác; hoặc
cưỡng kinh cho rằng của mình gây lầm lỗi cho người sau. Nếu gặp
trường hợp nầy nên nói thẳng là không biết, không nên gượng cho là
biết,
-
8-
Không được dẫn dụ sự tích mà lạm bàn thú dâm dục mua vui đem pháp
làm trò đùa. Nếu có Ni cô dự nghe phải nên thận trọng,
-
9-
Không nên sợ phiền lánh an, phô diễn sự hiểu việc.
-
Trở lên là những điều làm
sáng tỏ pháp sư hiểu nghĩa kinh để dự phòng trường hợp lỗi lầm. Như
tự lượng sức mình không hiểu nghĩa kinh thời pháp tòa này đâu có dễ
lên ngồi bày ra cho nhơn thiên xem đâu. Nhân quả phân minh mỗi người
nên cẩn thận vậy.
-
Chứng nghĩa ghi rằng:
- Việc
thiên thần nghe kinh đã có giải thích ở trước. Ngoài ra, phàm ở tòng
lâm bàn kháo, nói thiên địa cũng đều có quỉ thần tới nghe quan sát.
-
Sách Chích Cổ ghi rằng:
- Vào
đời Tống Quang Hiếu có sư An chùa Thanh Thái không thích làm việc
theo chúng. Ban ngày chỉ ngồi không tự nhiên nhập định, trong định
bỗng thấy 2 vị tăng dựa lan can nói chuyện, trước có thiên thần ủng
hộ lắng nghe, nghe hồi lâu bỏ đi, chốc lát ác quỉ mắng nhiếc, chà
đạp dấu chân. An bèn xuất định hỏi thần vì sao? Thần cho hay bởi lúc
đầu bàn Phật pháp, kế nói sang việc đời, bàn về tư dưỡng. Sư An nghe
hai vị Tăng nói, từ đó khắc phục tôi luyện suốt đời chưa từng đề cập
chuyện thế gian. Sau khi Sư viên tịch hỏa thiêu toàn thân cháy hết
chỉ lưỡi còn nguyên vẹn mềm mại như cánh sen hồng. Sách Vân Thê Sùng
Hành Lục cũng có ghi lại sự tích này. Ôi ! dựa lan can bàn kháo mà
thần còn nghe được, huống gì đăng tòa giảng kinh há không thận trọng
sao!
-
Rằm tháng 7 âm lịch thiết
cúng lễ Vu Lan. Chuẩn bị thông báo, đọc trên đài, đăng báo, dán nơi
cửa chùa, trai đường, giảng đường, đại ý như:
"Lễ
Vu Lan Thắng Hội. Tới ngày lễ, như thường lệ khóa lễ công phu khuya,
chúc tán thù ân xong (cách thiết trí lễ đàn tưởng không cần thiết
ghi ra đây). Chúng điểm tâm sáng, kiểm điểm lại địa điểm hành lễ.
Đến giờ nghe hiệu lệnh đại chúng đắp y đi vào đàn tràng thành 2
hàng, cầm phan đi trước hương án (bàn thờ), niệm hương xong, thị giả
cắm hương lên lư, Duy Na cử tán bài
"Tịnh đàn Vu Lan":
-
- "Mục Liên bạch thưa,
- Thế Tôn
tuyên dương
- Bát cơm
hòa la
- Lợi kẻ tồn
vong (còn, mất)
- Thoát sanh
thiên đường
- Vi diệu
thật không lường
- Hiếu hạnh
mãi xưng dương".
-
Nam mô Hương Vân Cái Bồ
Tát Ma Ha
Tát.
-
Phương Trượng lạy Phật
xong rồi 2 tay bưng thủ lư đưa lên đọc:
- - "Nam
mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát"
(3 lần)
-
Duy Na bưng chung nước
tịnh đưa lên ngang trán đọc:
-
- "Bồ Tát với nước mát
nhành dương,
- Rảy một
giọt, biến khắp mười phương
- Tanh nhơ
hết thảy tẩy sạch không
- Gia trì
đàn tràng đẹp thanh lương".
-
Lời Phật mật ngôn kính xin
trì tụng. Tụng chú Đại Bi (Đại chúng). Duy Na đi nhiễu đàn 3
vòng và sái tịnh (rảy nước tịnh).
-
Phương Trượng chấp tay
xưng tán rằng:
- - "Chúng
con cùng chí hiếu tu hành chánh nhân Tịnh Độ, sám trừ 3 tội
chướng, báo đáp ân đức song thân. Người còn phước thọ, kẻ mất được
siêu thăng, vãng sanh cõi Cực Lạc, độ hết kẻ oán, người thân.
- -
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu
Ni Phật
- -
Nam mô Đại
Trí
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
- -
Nam mô Đại Hạnh Phổ Hiền
Bồ Tát
- -
Nam mô Đương Lai Hạ Sanh
Di Lặc Bồ Tát
- -
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm
Bồ Tát
- -
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát
- -
Nam mô Thập Phương Thường
Trú Tam Bảo
- -
Nam mô Vu Lan
Khải
Giáo
Đại Mục Liên Tôn
Giả.
-
Tụng Bát Nhã, niệm
Phật, sám nguyện, hồi hướng, phục nguyện, ba tự quy y, lễ 3 lạy rồi
lui ra.
-
Đại chúng cùng tán bài
Hội Vu Lan sau:
-
- "Vừa khai lễ hội cúng Vu
Lan
-
Thỉnh Tam Bảo thân đến
đàn tràng
-
Xin an tọa trên vòm đài
sen
-
Ngưỡng mong thương xót
chứng trai diên".
- - Nam
mô Mỹ Hương
Trai
Bồ Tát Ma
Ha
Tát
(3 lần).
-
Duy Na đứng giữa niệm
hương xong, lạy 3 lạy, qùy gối chấp tay bạch:
“Cung
kính nghe rằng:
- Pháp thân
vắng lặng,
- Vốn không
đến cũng không đi
- Diệu trí
viên dung,
- Thật phi
không phi sắc;
- Rỗng rang
dứt bặt mọi đối đãi
- Biển giác
khó lường,
- Che trùm
khắp chúng sanh mê mờ,
- Soi hào
quang chiếu diệu.
-
Hôm nay chính là ngày chư
Phật hoan hỷ".
-
Chúng Tăng tự tứ (giải
hạ). Con vì bảy đời cha mẹ mà sắm sửa trăm vị thơm ngon, tuân theo
gương hiếu người xưa, bắt chước Mục Kiền Liên, dâng cơm với mùi thơm
nhẹ. Cung kính lễ đấng Pháp Vương, mong rọi từ quang thọ nhận cúng
dường".
-
Đứng dậy đọc tiếp:
- - "Ba
thân Như Lai (chúng cùng hòa theo). Hiến cúng Vu Lan dâng lên Tam
Bảo, hai tay nâng thủ lư bưng đưa lên bạch thỉnh:
- - "Đấng
Đại hùng xuất thế cũng chứng trai tại thành Xá Vệ mà Chánh pháp lưu
hành, cũng dự cúng dường nơi cung nội của Vua Ba Tư Nặc. Phật tùy cơ
mà hiện tướng độ khắp hết quần sanh. Hôm nay chúng con cung kính
thiết lễ Vu Lan, tâm thành đảnh lễ tỏ bày hiến cúng. Trên đài sen
nghìn cánh lung linh, trăm báu sáng ngời. Đức Năng Nhân (Phật)
32 tướng tốt, 80 vẽ đẹp tuyệt vời nghiêm thân. Bậc Đại Giác
khắp ở mười phương pháp giới; quá, hiện, vị lai vô lượng Phật bảo.
Ngưỡng mong bất xả từ bi, thọ phẩm vật cúng dường này".
-
Tiếp theo trổi chuông
trống, phách, chụp chã… cúng dường kệ tán dương Phật:
-
- "Kính lễ đấng Đại
giác nơi liên đài (sen)
- Oai đức
rực rỡ không ai sánh cùng
- Ngưỡng
mong Phật bảo đại hùng
- Từ bi nạp
thọ lễ mừng Vu Lan".
-
Nam mô
Hương
Thủy
Hải
Hoa
Tạng
Giới
Lan Bồn
Cúng
Hiến
Chân
Như
Phật Đà
Da.
-
Duy Na cầm 3 nén hương
bạch thỉnh:
- - "Hôm
nay đệ tử chúng con cung kính thiết lễ Vu Lan, tâm thành kính lễ một
lòng phụng hiến: Nước Tây Thiên Trúc, kinh điển liễu nghĩa thượng
thừa tu đa la (Kinh), truyền qua chùa Bạch Mã 12 bộ chân kinh diệu
điển; khắp mười phương vô biên pháp giới quá, hiện, vị lai vô lượng
pháp bảo. Ngưỡng nguyện bất xả từ bi thọ pháp cúng dường này".
-
Chuông trống, phách đổ
hồi, Duy Na tiếp:
-
- "Nam mô Pháp Tối Thắng
Tương Ưng
-
Thành tựu quả Bồ Đề
Niết Bàn
-
Ngưỡng nguyện pháp bảo
đại từ bi
-
Thọ nhận cúng dường Vu
Lan hội".
-
Nam mô Hương Thủy
Hải,
Hoa
Tạng
Giới,
Lan Bồn Cúng
Hiến
Hải
Tạng
Đạt Ma
Da.
-
Chuông trống, phách đổ
hồi, Duy Na bạch tiếp:
- - "Hôm
nay đệ tử chúng con thiết lễ Vu Lan chí tâm kính lễ chuyên vì phụng
hiến: Ba minh, tám giải, năm nhãn, sáu thông, phân thân nơi cõi này
và các cõi khác, ứng hiện tại nhân gian, trên cõi trời khắp 10
phương cùng tận pháp giới trong quá khứ, hiện tại, vị lại vô lượng
Tăng Bảo, ngưỡng mong bất xả từ bi thọ nhận cúng dường này".
-
Chuông trống, phách đổ
hồi, xướng tiếp:
-
- "Nam mô Tự Tại Chúng
Trung Tôn
- Giữa rừng
chiên đàn kẻ nhiếp tâm
- Ngưỡng
mong Tăng Bảo đại từ bi
- Thọ cúng
dường Vu Lan hội thí".
-
Nam mô Hương Thủy
Hải,
Hoa
Tạng
Giới,
Lan Bồn Cúng
Hiến
Phước
Điền
Tăng Già
Da.
-
Đại chúng đồng tụng hòa
hưởn như sau:
- -
Nam mô Thường
Trụ
Mười
Phương
Phật
- -
Nam mô Thường
Trụ
Mười
Phương
Pháp
- -
Nam mô Thường
Trụ
Mười
Phương
Tăng
- -
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu
Ni Phật
- -
Nam mô Dược Sư Lưu Ly
Quang Vương Phật
- - Nam
mô Quá Khứ Giác Hoa Định Tự Tại Vương Phật
- -
Nam mô Thanh Tịnh Liên Hoa
Mục Phật
- -
Nam mô Đa Bảo Như Lai
- -
Nam mô Bảo Thắng Như Lai
- -
Nam mô Diệu Sắc Thân Như
Lai
- -
Nam mô Quảng Bác Thân Như
Lai
- -
Nam mô Ly Bố Úy Như Lai
- -
Nam mô Cam Lồ Vương Như
Lai
- -
Nam mô A Di Đà Như Lai
- - Nam
mô Thế Gian Quảng Đại Oai Đức Tự Tại Quang Minh Như Lai
- -
Nam mô Phật Thuyết Vu Lan
Bồn Kinh
- -
Nam mô Đại Từ Địa Tạng
Vương Bồ Tát
- -
Nam mô Đại Bi Quan Thế Âm
Bồ Tát
- -
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát
- -
Nam mô Hộ
Pháp
Chư
Thiên
Bồ Tát
- -
Nam mô Già Lam
Thánh
Chúng
Bồ Tát
- -
Nam mô Lịch
Đại
Tổ Sư
Bồ Tát
- -
Nam mô Vu Lan Hội
Thượng
Phật, Bồ Tát
- -
Nam mô Cổ
Vãng
Tự
Tứ
Duyên Giác, Thanh Văn Tăng
- -
Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền
Liên Tôn
Giả
- -
Nam mô
Ba
Cõi
Thánh Phàm
Ẩn
Hiển
Tôn Thần.
-
Tiếp theo tụng
Chú
Biến
Thực
Biến
Thủy
(21
lần),
Cam
Lồ
Thủy,
Phổ
Cúng
Dường
(mỗi câu 7 lần).
- - "Nam
mô Thập
Phương
Thường
Trụ
Tam Bảo"
(3 lần)
-
Và đọc sớ văn như sau:
"Lại
vì, tụng điển chương, thế thường tình rỗng, thật khó lưu giữ, tham
chiếu yếu chỉ, Thánh điển Vu Lan Bồn, cảm niệm tu hành hướng thuyền
từ cứu độ, bèn tỏ tấc lòng thành…(tên tự viện) tại…trụ trì…Chúng con
nhiếp niệm sớm cắt duyên trần, từ bỏ tình thân, hoặc cha hiền mất
sớm, thiếu hẳn tình nồng. Hoặc cha mẹ còn sống mãi trái với tâm hiếu
kính không làm lợi mình, lợi người, lại còn ngồi không, thọ của
người thí, ngước lên xấu hổ, cúi xuống thẹn thùng. Dám mong hoài
niệm về cội nguồn. Có được thân này đã nương nhờ ân đức thân sanh
dạy dỗ nên người, nhờ bậc thầy sáng dẫn dắt. Gốc nguồn vô tận lưu
giữ nghìn thu, giòng dõi, thành tâm độ khắp siêu ngoài pháp giới hữu
tình; nương mượn thuyền con, gánh nước, hái hoa dâng cúng, kính
nương theo Pháp Bảo. Giao hòa thiên địa để lưu ân đức, nhổ tận gốc
khổ để bước lên bờ giác. Do vậy, chúng con chọn ngày này trong tháng
khởi sự cho tới ngày… chấm dứt. Kính xin vân tập chúng tăng lên
chánh điện, tụng kinh Vu Lan lễ Phật sám pháp".
-
Lại nguyện:
- - "Anh
hào quang chiếu diệu cõi Ta Bà, chẳng nơi nào không sáng tỏ. Biển
pháp mênh mông, hữu tình chúng sanh trong vũ trụ đều được gội nhuần
ân đức. Cha mẹ nhiều đời của chúng con, vô lượng kiếp đầy đủ nhân
duyên, đồng thời sư trưởng và bà con quyến thuộc; được gia tăng
phước huệ, kẻ mất chứng phẩm sen vàng, khắp thấm nhuần thiện nhân
lợi lạc hằng sa cõi khổ".
-
Lại nguyện:
- - "Sơn
môn thanh tịnh, chúng lý an hòa, có bị ngăn chướng, mọi việc mong
được như ý. Văn sớ bên trên, cung thỉnh Tam Bảo chứng minh gia hộ."
(có thể biên tên của Phật tử vào đây để đọc cầu nguyện…) Lại nữa,
pháp hội Vu Lan rành rõ thành Xá Vệ thơm hương còn in dấu, công đức
vượt cõi nhân thiên. Hiếu hạnh Mục Liên mãi nhắc tên. Muốn
cho bảy đời cha mẹ sanh lên phẩm sen, nên lễ 3 thân Phật tại đài
sen. Chúng con chạnh nghĩ,
xướng vị viên âm theo mỗi cõi chúng sanh thảy đều nhập pháp hội bình
đẳng. Diễn hiếu tâm của bao đời hoặc thiện nam hay tín nữ thảy tuân
theo di huấn của Phật. Ngưỡng mong thương xót bao dung, cứu thoát
khỏi khổ bị treo ngược. Do đó, bổn tự chọn ngày… tháng này, cung
kính về chùa… dâng cúng Vu Lan thắng hội, cầu siêu độ khắp tất cả
hàm sanh. Chúng con sa nơi tội lỗi, ít gặp nhân lành, rạp mình nơi
pháp hội, ngưỡng mong thương xót! Do đã chuẩn bị sẵn sàng pháp diên,
biểu tỏ tâm thành dâng cúng. Nương nhờ oai đức Tỳ kheo Hòa thượng,
mong hồng ân Tam bảo cầu siêu độ các tiên linh hiện được gội nhuần
ân phước".
-
Lại nguyện:
- - "Tâm
từ cảm cách, Thánh nhãn tùy cơ, rải một cơn mưa thảy thấm nhuần, cõi
đại thiên mong mỏi nhờ ân. Tứ thân phụ mẫu của chúng con, cùng nhiều
đời thân thuộc đồng thừa phước lực này mà thoát khỏi cảnh khổ của 3
đường ác, vãng sanh về cõi Tịnh Độ lạc an. Cha mẹ còn hiện
đời an khang khỏe mạnh, năm phước gia tăng,
tam
tai(1)
biến mất. Như có cầu mong
đều được như ý nguyện."
- Đại chúng
cùng tán bài sau đây:
-
- "Năm loại quả trăm
mùi vị
- Sắc màu
tươi mới sạch thơm
- Hội tự tứ
hiến cúng Năng Nhơn
- Nguyện
đấng thân thoát trầm luân
- Cứu độ
khắp cõi u minh
- Pháp giới
chan hòa nắng xuân".
-
Nam mô Phổ
Cúng
Dường
Bồ Tát Ma
Ha
Tát
(3 lần).
-
Tiếp theo tụng Bát Nhã,
sám nguyện, hồi hướng, phục nguyện, ba tự quy y:
- - "Nguyện
đem công đức cúng Vu Lan
- Báo đáp mẹ
cha sanh dưỡng ân
- Người còn
thọ phước sống an khang
- Kẻ mất
thoát khổ siêu lạc bang
- Chúng sanh
chín cõi các hàm thức
- Giải khổ
tám nạn và ba đàng
- Mỗi mỗi tự
hối tẩy tội vương
- Ngưỡng
mông thương cứu dứt trầm luân".
- Tất cả
đồng lạy Phật 3 lạy và lui về hậu liêu.
-
Sau khi cúng ngọ xong,
Duyệt chúng sắp đặt phẩm vật cúng Tự tứ (vật của tín chủ dâng cúng
như khăn tay, xà phòng, dầu cảm mạo, giày dép v.v…
để yên một chỗ. Ngày lễ Tứ Tứ bày ra trước bàn kim đài (trai đường)
để cúng chúng và khách Tăng. Phẩm vật cúng chia đều (phổ đồng) bất
luận tăng ở chùa hay khách tăng có mặt tại trai đường; Mọi việc đều
chuẩn bị sẵn sàng, khi nghe hiệu lệnh (bảng), đại chúng đắp y mang
bình bát tới trai đường ngồi vào chỗ sẵn sàng. Trai chủ tác bạch
cúng dường, Hòa Thượng đáp từ xong, trai chủ lễ 3 lạy. Tất cả nâng
bát cúng dường và đọc: "Cúng
dường thanh tịnh… tới chỗ đương nguyện chúng sanh, đổi lại đọc là...cha
mẹ quá khứ bảy đời siêu thăng; song thân hiện đời luôn được không
bịnh, không lo buồn. Ta và người đều lợi lạc, người còn, kẻ mất thảy
được nhờ hồng ân, lìa hẳn ác đạo, rốt ráo thọ lạc an thân".
-
Thị giả cúng xuất sanh,
xướng tăng bạt, đại chúng quán tưởng 5 phép quán:
-
1-
Kể công nhiều ít so
của người đem tới
-
2-
Xét đức hạnh mình
đủ thiếu để thọ nhận
-
3-
Ngăn ngừa tâm tội
lỗi, tham là gốc
-
4-
Xem thức ăn như
thuốc hay trị bịnh gầy thân thể
-
5-
Muốn thành đạo nghiệp mới thọ thức ăn này.
-
Cử vài ba vị đem phẩm vật
cúng dường tới dâng Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức v.v… cho tới
người cuối cùng xong. Kết trai, phục nguyện và đại chúng kinh hành
niệm Phật.
-
Chứng nghĩa ghi rằng:
-
Vu Lan đại trai - làm chay
cúng lớn - Phật dạy cử hành lúc giải hạ, vì mùa hạ an cư 90 ngày (9
tuần, mỗi tuần 10 ngày) chư tăng gia hạnh tu tập không cứ là 4 quả
cũng nỗ lực huân tu. Ngày giải hạ thiết đại trai cúng, việc làm ấy
phước đức rất lớn. Mỗi năm cúng một lần bởi cha mẹ thương yêu niệm
niệm không rời nhau; người con hiếu muốn báo ân nên hằng năm tiếp
nối lễ cúng dường này.
-
Ngoài ra, ý kinh là để trừ
dứt khổ mà báo ân là chính yếu, việc này có khác thế tục. Hiếu của
người đời là thuận theo tình, điều đó cũng có nghĩa là thuận theo
tánh tình của cha mẹ nữa. Hiếu ở đời chỉ chuộng nơi hình thức. Còn ở
đây (đạo) hiếu kiêm luôn cả tinh thần, người đời không biết nên
không tin, bèn cho rằng họ Thích không có quân - thân (vua và đấng
thân) cũng chỉ vì chưa khảo cứu sâu rộng.
-
Luận về đạo,
thuận tánh nuôi thần có điểm khó sáng tỏ, nhưng giữa hình thức và
tình cảm cũng đâu có xa với con người chứ? Như Đức Thế Tôn thuyết
pháp cho mẫu thân cõi trời Đao Lợi, tiễn biệt phụ thân mà khiêng
quan tài, như thế không hiếu sao? Kinh Phạm Võng cho
"Hiếu
là giới",
và ghi rằng:
- - "Hiếu
thuận là pháp chí đạo. Kinh 42 chương ghi,
phàm sự của người, trời, quỉ thần… không gì bằng hiếu hai đấng thân,
song thân là thần tối cao đó".
-
Trong Luật dạy,
người không vâng lời cha mẹ, không cho xuất gia. Kinh Phật Quán Vô
Lượng Thọ mở đầu rằng:
- - "Hiếu
dưỡng cha mẹ là chánh nhơn thành Phật".
-
Kinh Đại Báo
Ân,
Tâm Địa Quán đều nói rộng thâm ân cha mẹ và pháp báo hiếu. Nguyên
một cuốn Kinh
Cảnh Tử nêu rõ hiếu sự. Ngài Địa Tạng vì hiếu với mẹ mà lập thệ
nguyện độ sanh. Đến như Đức Bổn Sư chúng ta dạy khuyên đệ tử rằng
"cha
mẹ như Bồ Tát bổ xứ".
Ngài bảo với đệ tử nên giảm mặc, bớt ăn để nuôi dưỡng cha mẹ. Cha mẹ
có tin chân chánh (đúng) mới phát tâm ban phát rộng rãi. Nếu không
có chánh tín ít hay ban cho, nếu không ban cho khó mong chuyển hóa.
-
Kinh tạng có những ngôn từ
khuyên về hiếu ta từng thấy xuất hiện vô số, há chẳng lấy hiếu làm
đầu sao? Đặc biệt kinh dạy gồm có thuận tánh, dưỡng thần nên thế
pháp không làm sao theo kịp. Nay Qui tắc này hoàn toàn tuân lời Phật
dạy tụng kinh bái sám, dâng phẩm vật cúng, bố thí siêu độ cầu cho 7
đời hương linh cha mẹ thoát khỏi u minh, dứt lìa mọi sự trói buộc.
Thoát khỏi sự trừng phạt ở địa ngục, nơi nghiệp khổ không thể buộc
được.
-
Pháp cúng Vu Lan lợi lạc
phi thường, đâu phải chỉ làm phong phú dồi dào năm đỉnh trong 3 lần
hiến cúng với hiếu tâm ân cần như vậy mà được. Nên biết tôn chỉ hiếu
chỉ có Phật dạy là sâu sắc nhất.
-
Trở lên là pháp giản đơn
thực hành chỉ trong một ngày, nếu 7 ngày hoặc 5 ngày nên dựa theo
phần sau để thực hiện.
-
Ta từng nghe giai tiết lễ
Vu Lan là dịp đại bố thí rộng khắp, trông mong vào lực lượng đại đàn
tràng, thiết cúng vô giá cam lồ pháp vị. Pháp hỷ biến khắp mà thiền
duyệt Phật, Tăng gội nhuần cả Thánh phàm. Thực hiện hai việc bố thí
vật thực (thức ăn) và pháp thí đời sau được đầy đủ hai môn phước và
huệ. Những qui ước chuẩn mực được nêu theo thứ tự sau:
-
1-
Mỗi năm đến Rằm tháng bảy người biết chữ đến liêu Tạng chủ nhận lãnh
chú thích, in ấn Kinh Vu Lan. Tạng chủ hỏi danh tánh cho ghi
vào sổ. Đến ngày mồng 6 hoặc bắt đầu tu Phật thất, nếu không tổ chức
chỉ chú trọng mỗi ngày giảng Kinh Vu Lan một thời cũng
được. Dán thông báo tại phòng khách, cổng chùa, giảng đường nêu rõ
thời giảng kinh và tên giảng sư vào ngày giờ nào… cho đăng báo, đọc
tin trên đài, thí chủ cúng tiền, trai phạn, cúng dường trai tăng,
truy tiến hương linh
hết thảy đều nên cho đại chúng biết rõ để tâm
mọi người độ lượng (mở rộng) mới hợp lời Phật dạy.
-
2-
Hội cúng này không luận tăng, tục ai cũng tham dự được trong việc
niệm Phật nghe kinh, chỉ không cho các ni cô nhỏ tuổi vào đàn, vì sợ
mất uy danh đạo tràng.
-
3-
Qui định cũ dùng trước chánh điện thiết lập đàn tràng cúng lễ, phía
trên có che tấm bạc (lều) dưới lấy gỗ làm cọc cho chắc chắn để tránh
gió mưa. Tùy số người tham dự và đồ cúng nếu đông; còn như ít có thể
thiết trí trong chánh điện cũng được.
-
4-
Lời bạch đều do Duy Na và Trụ Trì lo chuẩn bị trước đọc nhuần
nhuyễn. Đến ngày cúng, bận rộn, thiếu thực tập, khó mà đọc trôi
chảy, cho nên đứng nơi lễ đàn chỗ bục cầm giấy đọc rõ ràng khúc
chiết. Chỉ Kinh Vu Lan hầu như mọi người đều nên thuộc.
-
5-
Mâm bát cũ có thể dùng được nên dùng. Nếu không chuẩn bị kịp một mâm
lớn lấy gỗ làm cũng được, hình thức như tháp hương dưới rộng như
chậu, giữa phân làm 4 từng, mỗi từng đặt thức ăn 6 vị, chồng 4 lớp
thành 24 vị, đồ ăn đều nấu chín. Mâm lớn rộng 3m bên dưới có giá:
lại lấy một bát lớn chứa gạo đổ vào trong để cúng.
-
6-
Phàm cúng lễ chỉ cốt do tâm thành kính, không cần phải ngụy trang
dồi dào; cũng không nên tiếc tiền của mà giản tiện quá mức. Tùy
người nghèo giàu dụng tâm thành mà sắm sửa.
-
7-
Dâng cúng đồ dựa theo Kinh
Vu Lan nên chọn
đủ 5 loại trái cây, thức ăn 100 vị: quả khô 10, canh nóng 10, quả
nước 10, dưa đậu 10, bánh bột 10, bánh ngọt 10 loại, dầu ăn 10, đồ
xào khô 10, đậu 10 loại, tương 10 thứ. (Việc sắm sửa trên không
tuyệt đối, tùy địa phương mà châm chế cũng được).
-
Ngoài ra, cúng cơm, nước
trà và nói chung là thức ăn chay đều cúng được. Cúng xong dọn đãi
cho Phật tử. Cúng dường trai tăng dọn mâm riêng. Đã là việc Phật tùy
nghi theo từng trường hợp, nếu người của nhiều thời sắm đủ trăm vị,
cúng 1000 vị tăng, tụng kinh, sám pháp đều làm cho thêm phần lợi
ích. Như người nghèo ít của chỉ cần 3 loại quả, 6 vị thức ăn, thậm
chí cúng 10 vị tăng cũng đủ, gọi là phú la thiên hạ kỳ trân (những
vật trân quí bày trong thiên hạ). Nghèo mà tận lực, cốt ở chỗ tấm
lòng thành mà thôi.
-
8-
Hội cúng Vu Lan giống như cúng Thủy Lục, đàn nội cúng Phật, đàn
ngoài nên tụng Kinh
Hoa Ngiêm,
phẩm Phổ Hiền
Hạnh Nguyện, quyển 24, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa 12 bộ,
Kinh Địa Tạng 12 bộ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật 12 bộ,
Kinh Kim Cang 24 bộ, Kinh Dược Sư 24 bộ,
Kinh Kim Quang Minh 12 bộ, Kinh A Di Đà 108 lần,
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà La Ni 24 bộ, Kinh Vu
Lan Bồn 7 ngày cũng được.
-
9-
Hội Vu Lan tuy cúng tiến cha mẹ tôn thân, nhưng gồm độ luôn 6 cõi
phàm hay 6 đạo luân hồi chuyên chú tâm tới các quyến thuộc. Phàm phu
không biết, Phật dạy phóng sanh để trợ lực công đức, nên khuyên rộng
mọi người tới ngày hoàn mãn mua chim cá để thả, cần thiết không thể
bỏ qua.
-
10-
Nếu có lễ sám ngày 13 tháng 7 bắt đầu lạy, tắm rửa sạch sẽ thanh
tịnh. Xem thêm qui tắc tụng niệm có nói trước, sau khi kiết đàn nên
giữ gìn trang nghiêm, đừng để người, súc vật, cũng như không có vật
bất tịnh rơi vào. Giả sử có rơi vào, y theo pháp qui tội rất nặng.
-
11-
Đàn sám tăng chúng không được lộn xộn, như đàn Tỳ kheo chỉ nên toàn
Tỳ kheo, nếu Ni chúng kết đàn phải dùng đàn riêng cho ni chúng. Nam
chúng tại gia theo chúng Tỳ kheo, nữ theo Tỳ kheo ni, không xen tạp.
Nếu Ni không thể làm chủ đàn nên mời một vài vị tôn túc trưởng lão
cao đức giúp hộ. Bên ngoài đàn, Chủ sám dạy không được lập đàn cúng
hương đèn, không được lộn xộn cũng thế. Tấn đàn niệm hương lễ bái,
cũng vào đàn nội niệm hương lễ bái như vậy.
-
12-
Trong lúc lạy sám cần đi vệ sinh, vào restroom không được mang y
sạch vào. Trước tiên phải cởi y sạch, giày sạch để chỗ sạch rồi mới
mặc áo, mang giày vào nhà cầu. Việc xong tẩy tịnh, rửa tay sạch sẽ,
cởi áo giày ra rồi mặc y sạch, giày sạch lại phòng rửa mặt, lau mặt,
súc miệng rồi nhập đàn.
-
13-
Lúc lạy sám không được tiếp xúc người ngoài, không được nói chuyện
riêng với họ, cũng không được xem các sách kinh khác.
-
14-
Cúng ngọ dùng thức ăn đã nấu chín, cúng xong liền thâu dọn để trên
bàn đậy lại; cúng Phật chỉ dùng hương hoa, nước trong là đủ.
-
15-
Cúng trai Vu Lan, Phật dạy ở vào dịp lễ giải hạ, có nghĩa là chư
Tăng an cư 9 tuần, tu tập tinh chuyên, giới đức thanh tịnh, có thể
cứu độ ngạ quỉ (quỉ đói). Phàm vị thầy sám đều phải giữ thanh tịnh
không ăn sau giờ ngọ, cũng giống tu Bát Quan Trai.
Không được kéo dài giờ giấc làm hỏng giờ thọ trai (đúng ngọ).
-
16-
Lễ sám tới canh năm thức dậy rửa mặt, dùng trà xong nhập đàn là thời
thứ nhất, mặt trời lên dùng điểm tâm xong nghe hiệu lệnh vào đàn là
thời thứ hai, lễ lạy chừng hết một cây hương nghỉ giải lao, sau khi
giải lao độ 15 phút trở vào đàn là thời thứ ba lễ tới 11 giờ. Dùng
ngọ trai xong đi kinh hành, giải lao, chỉ tịnh. Lúc 14 giờ nhập đàn
là thời thứ tư, lễ độ 1 giờ và nghỉ giải lao; từ 4 giờ15 nhập đàn là
thời thứ năm tới 5,30 giờ nghỉ. Buổi tối lúc 8,30 giờ nhập đàn là
thời thứ sáu lễ sám. Sau khi ra đàn là giờ chỉ tịnh nghỉ ngơi.
-
17-
Sau khi ra đàn tọa hương đều phải chuyên tu thiền quán không được
phóng túng hoặc hôn trầm. Giả sử không ngồi tọa hương được, có thể
niệm thầm kinh chú hoặc niệm danh hiệu Phật, Bồ Tát cũng được, không
nên bàn nói lớn tiếng làm động người khác hoặc cười nói, v.v…
-
18-
Mỗi khi nghe chuông hiệu lệnh liền đi tiểu giải, rửa mặt. Nghe một
hồi 3 tiếng chuông dài liền theo thứ tự mà đứng, đừng đứng trước sau
không hàng lối.
-
19-
Trong quá đường thiết một bàn dùng hương đèn, trên bàn hiến cúng Vu
Lan Bồn, khải giáo Đại sĩ, đại hiếu Đại Mục Kiền Liên tôn giả liên
tọa. Trên đó chỉ cần người hầu hương đèn. Giả sử có việc cần cấp
ngưng lại có thể theo việc mà nói thẳng không được không nói nguyên
do. Nói lời khiên cưỡng khác, thảng hoặc có kẻ uống rượu say tới dạo
chơi, Tri khách nên nói khéo làm cho đương sự đứng xa nhìn, không
được gây rối.
-
20-
Lễ sám đến ngày Rằm, đại chúng tắm rửa, thay quần áo sẵn sàng nghi
cúng ngọ, xong thọ trai. Xem Quy tắc nghi ở trước có nói rõ. Nếu
không có lễ sám Vu Lan, có thể sám pháp Đại Bi hoặc
sám Tịnh Độ thay cũng được.
-
Ngày…tháng…năm,
Trụ trì… ký tên.
-
Chứng nghĩa ghi rằng:
- Chú
giải Kinh
Vu Lan, trong tạng Kinh chỉ thấy đời Đường Ngài Khuê Phong Tông Mật
pháp sư chú sớ 1 quyển. Sau đời Tống dựa theo sách ấy cho ra đời
sách Hiếu Xung sao 2 quyển. Cuối đời Minh Ngẫu Ích đại sư của Tông
Thiên Thai viết Tân sớ 1 quyển, Luật tông có pháp sư Ngọc Luật viết
Hiệp Thích 1 quyển. Bản còn lưu hành ở phòng Kinh sách Chiêu Khánh,
song Qui Tắc nghi cúng lâu không thấy lưu hành. Người đời lầm cho
rằng thí quỉ thần là cúng chay lễ Vu Lan, đây là sự lầm lẫn.
-
Sách Vân Thê Chánh Ngoa
tập ghi rằng:
-
Vu Lan Bồn duyên khởi do
Ngài Mục Kiền Liên, cho rằng ngày Rằm tháng bảy chư tăng giải hạ làm
lễ Tự tứ (chỉ lỗi và nhận lỗi) sau 3 tháng tu học đạt được nhiều đạo
quả. Ngày này nên cúng dường được phước đức tăng gấp trăm, chứ không
phải cúng thí cho cô hồn (quỉ thần) ăn. Cúng thí thực duyên khởi do
Ngài A Nan không hạn ngày rằm tháng bảy, sắm sửa đồ vật tại Ma Kiệt
Đà cũng không phải hội Vu Lan. Bởi vì theo một nguyên tắc, trên cúng
Thánh Hiền, một mặt khác dưới giúp loài quỉ đói do thương kính là
nguyên nhân khác nhau, chớ có lẫn lộn. Ngày nay Thanh Quy có cúng
thí thực Trung Nguyên nhằm ngày cúng lễ Vu Lan, dâng cúng Tam Bảo,
ban đêm thí hộc thức ăn, giúp đều cho quỉ thần, đây là một việc
lưỡng lợi nên làm.
-
Ngày 16 tháng 7 âm lịch là
ngày giải hạ. Thông báo dán tại phòng khách ghi rằng:
- Ngày
mai là lễ Tự tứ: Ngày giải hạ (Tự tứ) nghi thức giống như kiết hạ.
Trụ trì định giờ giấc, tới giờ báo hiệu lệnh ba hồi 3 tiếng chuông,
đại chúng vân tập vào chánh điện, đốt nhang, Trụ trì niệm hương, Duy
Na cử tán: "Vu
Lan chánh giáo…",
xong, đứng giữa niệm hương, trải tọa cụ lạy Phật 3 lạy rồi quỳ gối
chấp tay bạch rằng:
- - "Nam
mô Thích Ca Như Lai"
(2 lần),
mãn hạ tự tứ (đại chúng hòa theo). Duy Na đọc tiếp:
- - "Mãn
hạ Tự Tứ là pháp quan trọng của Phật môn, sám trừ tội khiên, chừa bỏ
lỗi lầm là cách tốt đẹp cho tăng hành, nuôi dưỡng thiện nhân vun bồi
quả chứng. Nếu không nương thuyền giới định không sao đến Niết Bàn
được. Hôm nay nhân ngày 16 tháng 7 đương lúc chúng tăng giải chế,
mãn kỳ kiết hạ, chúng tăng vân tập Phật điện trì tụng kinh chú giải
kỳ kiết giới. Từ đó đến nay có ai phạm 4 giới trọng trong 10 điều
ác, phải tự thú tội sám hối; khởi 3 độc (tham-sân-si) phạm 7 già tội(2)
tùy theo đó mà nói
ra. Hoặc thấy tội, nghe tội hoặc nghi tội mỗi mỗi đều phải sám hối.
Hoặc thân phạm, miệng phạm, ý phạm chồng chất phải nên tỏ bày sám
trừ căn trần trói buộc, thanh sắc dẫn lôi liên miên chứa nhóm các
tội lỗi ngăn chướng bản tâm. Nếu không tỏ bày sám hối do đâu tâm
sạch như băng tuyết được? Pháp sám hối đặc biệt rửa sạch hết tội của
ta - người, sám tức là tự ăn năn lỗi trước; hối là lương tâm ray rứt
không dám phạm ở tương lai. Nên bày tỏ rằng,
con đã phạm tội,
nguyện cầu xin sám hối để được tiêu sạch; tội chưa phạm không dám
phạm;
Vì vậy, nay là ngày giải hạ; tự thú nhận tội".
-
Duyệt chúng gõ khánh,
người bạch Tự tứ thưa rằng:
`
- - "Bạch
đại đức một lòng thương xót, chúng tăng ngày nay Tự tứ, con Tỳ kheo…
cũng Tự tứ. Nếu thấy, nghe, nghi có tội, xin Đại Đức thương xót chỉ
bảo, nếu con thấy có tội, sẽ y như pháp mà sám hối (3 lần)".
-
Mỗi người lần lượt ra
trước bạch như thế cho đến người cuối cùng. Xong rồi, đại chúng cùng
tụng bài kệ sám hối:
-
- "Xưa con đã tạo các
ác nghiệp
- Đều do vô
thỉ tham sân si
- Sanh khởi
đều từ thân miệng ý
- Hết thảy
tội con xin sám hối".
-
Án tam đà ra già đà ta bà
ha (3 lần).
-
Tụng Bát Nhã, niệm
Phật, sám nguyện:
-
- "Tự tứ giải hạ
- Phật quả
viên thành
- Nghiệp
chướng sạch thanh
- Tánh giác
lắng trong
- Trí tuệ
rạng soi
- Pháp giới
nhuần ân".
-
Nam mô
Cầu
Sám
Hối
Bồ Tát Ma Ha
Tát
(3 lần).
-
Tiếp tụng hồi hướng, phục
nguyện và 3 tự quy y. Nếu không tổ chức cúng lễ Vu Lan thắng hội,
ngày giải hạ Tứ tứ là Rằm thay vì ngày 16.
-
Chứng nghĩa ghi rằng:
- Giải
hạ tự tứ, sau khi đã kiết giới an cư để ngăn các Tỳ kheo thời kỳ hạ
không được đi khất thực gọi là nghỉ hạ. Sáng hôm mãn kỳ kiết giới,
mỗi người biết có lỗi, chính tự mình bày tỏ, tự không biết lỗi xin
nhờ chư tăng nêu lỗi, nên gọi là Tự tứ.
-
Có người hỏi Ngài Liên Trì
rằng:
- - "Hứa
cho Tăng Tự tứ nghĩa là gì?"
-
-
"Người
có lỗi như bịnh nhân mắc bệnh, nêu lỗi ra như hương y chữa khỏi. Dấu
bịnh là thầy thuốc ác, là kẻ đại ngu si. Thế thì biết có lỗi nêu lên
là làm đúng".
-
Lại cũng hỏi rằng
"có
lỗi như tự mình nêu lên càng tốt, hoặc người khác nêu ra mà không sợ
kẻ ấy chối cải sao?"
-
Đáp:
- - "Luật
ghi rõ tăng có tội, vị tăng bên cạnh bạch Phật. Phật triệu tập chúng
tăng lại mỗi mỗi khiển trách, nhân đó Phật chế luật; tòng lâm nay
đều y cứ theo đây áp dụng vậy".
-
Điều này, tuân lời Phật
dạy không phải xuất phát do ý riêng làm sao có sự tranh cải. Vã lại,
pháp thế gian còn cho rằng, vua tranh với thần, cha tranh với con,
kẻ sĩ tranh bằng hữu. Cho nên nói rằng
"minh
quân thưởng thần dám can ngăn thẳng; Thánh chúa lập đài chỉ trích".
Huống là tăng sĩ tu hạnh xuất thế há lại không có bằng hữu giúp chỉ
lỗi hay sao? Nếu trực ngôn thời chỉ trích trực tiếp, người nịnh hót
cố ngăn che chống trái, làm thất đức, mất sự nghiệp, gây tổn thất
chẳng phải nhỏ vậy.
-
Nhân đây lại có bài tụng
rằng:
-
- "Trước chỉ lỗi hội
Vu Lan
- Nay Tự tứ
lòng càng nhắc răn
- Rao lỗi
người giận khởi lên
- Luật lệ sờ
sờ mắt híp chẳng nhìn".
-
Hằng nào chánh pháp không
bị ma quân tiêu diệt tan tành chứ! Ngài Vân Thê pháp chủ đến đổi
phải than thở rằng "một
phép thương tâm ta, một tắc vỗ về chí ta, anh há chẳng thấy yêu kính
lễ nên còn dê,
Tuyên Ni từng nói được ban tòa ngồi gỗ".
-
Sách Thiền Tông Bí yếu ghi
rằng:
- Xưa
Tôn
Giả
Xà Dạ Đa tới thành La Duyệt Kỳ tuyên dương đốn giáo, nghĩa là đi
suốt ngày đấu lý bẻ giẹp hết chúng nhơn. Thế nhơn giả đã đạt được
không phiền não nội tâm chưa?
-
Đáp:
- - "Ta
nhớ lại bảy kiếp trước ta sanh ở nước Thường An Lạc, thầy ta là Trí
Giả Nguyệt Tịnh thọ ký cho ta chẳng bao lâu sau được chứng quả Tư Đà
Hàm. Lúc bấy giờ có Bồ Tát Đại Quang Minh ra đời, ta
vì già cả phải chống gậy đến lễ bái. Sư gặp quát lớn hỏi ta:
-
-
"Đồng
tử khinh cha, một kẻ hèn vậy sao?"
-
Lúc ấy ta tự cho không có
lỗi, nên thỉnh thầy chỉ giáo.
-
Thầy nói:
- - "Ông
lễ Bồ Tát Đại Quang Minh để gậy dựa vách vẽ hình diện Phật để
thấy lỗi này".
-
Ta liền mất hết 2 quả vị
và từ đó tự trách sám hối lầm lỗi. Nghe những lời ác như vang theo
gió, huống chi được uống vị cam lồ cao thượng mà còn sanh lòng sân
hận sao? Ôi! Đây đáng gọi là gương sáng của phép Tự tứ vậy!
-
1-
Khóa tu sáng sớm:
Chúng
thức dậy theo hiệu lệnh, sau khi lo các thủ tục cá nhân xong, nghe
ba hồi chuông và 3 tiếng, đại chúng đắp y lên chánh điện. Hô chung
bảng xong, chúng nhiếp tâm tọa thiền 30 phút. Sau đó là giờ công phu
khuya tụng kinh Thủ Lăng Nghiêm.
-
2-
Thiền trước giờ ngọ: Lúc
9:30
giờ, đại chúng nghe hiệu lệnh vào chánh điện hay thiền đường tọa
thiền cho tới 11 giờ xả thiền. Sau đó lúc 11giờ10 phút cúng ngọ;
11:30
giờ đại chúng thọ trai, xong đi kinh hành niệm Phật, chỉ tịnh.
-
3-
Thời tọa thiền buổi chiều: Thủ tục như thường lệ, lúc 14 giờ nghe
hiệu lệnh, đại chúng đắp y vào chánh điện tọa thiền cho tới 15 giờ,
đi thiền hành 30 phút, nghỉ giải lao 15 phút. Giờ công phu chiều,
theo mỗi ban đã phân trước.
-
4-
Giờ thiền buổi tối: Buổi tối sau thời
Kinh
Tịnh Độ, có giờ
tọa thiền từ 8 giờ đến 9 giờ. Tất cả đèn đều tắt, chỉ trừ đèn lưu ly
ánh sáng nhỏ không trông thấy rõ. Tới giờ Duy Na gõ 3 tiếng chuông
đại chúng đứng lên đi thiền hành 15 phút (3 vòng) rồi lui ra.
-
5-
Ngồi tọa hương ban tối: Tối
trước giờ chỉ tịnh đại chúng ngồi tọa hương, ngồi tĩnh tâm quán
chiếu cho tới khi tàn một cây nhang; có hiệu lệnh chỉ tịnh, tất cả
đèn đều tắt hết và chúng lên giường ngủ.
-
Qui tắc cổ mất dần mỗi
ngày thành lệch lạc, thời cuộc trải qua nhiều tệ đoan, nêu gìn điểm
tinh mật, tuy qui tắc nay trở thành công án(3)
mà điều cần yếu là
đại chúng phải biết, hành trì bổ túc cho nhau mới không hổ với Tông
Tổ; đạo phong kiêm toàn mới lợi lạc cho người lớp sau. Đó là do đồng
tâm cùng nhau tuân thủ (chấp hành) 32 điều sau đây:
-
1-
Người phụ trách chuông bảng không đúng giờ giấc; phạt quì hương lễ
sám, tuần liêu không tuân, cho ra khỏi,
-
2-
Chọc phá thị phi, đánh đấm, đôi co… cho ra khỏi chúng,
-
3-
Trừ phi già bịnh, phải tham gia công tác chung, nếu riêng trốn
tránh, yết bảng không cho ở trong chúng,
-
4-
Trong ngoài thiền đường nói bàn tạp, việc tạp bị phạt. Giờ chỉ tịnh
làm động chúng bị phạt, bất tuân: đuổi,
-
5-
Thủ hiệu lệnh bảng (mộc ngư) sai làm động chúng: phạt,
-
6-
Không có bổn phận mà dụm đầu kề tai nói chuyện: phạt nặng,
-
7-
Giờ tiểu tham, các khóa lễ… phải đắp y, cầm theo tọa cụ tập trung
tại chánh điện, đứng theo thứ tự. Có hỏi mới lên tiếng, không được
làm trái; người nào phạm: phạt,
-
8-
Chưa xong tọa thiền
không được đi ra ngoài, trừ có việc công ai tự ý rút lui bị phạt;
bất tuân, bị phạt nặng,
-
9-
Lén xem đọc kinh
sách, ngủ phi thời: phạt,
-
10-
Ra vào tự ý không thưa ban chức sự: phạt. Giờ chỉ tịnh không lên
giường bị phạt nặng,
-
11-
Ngồi thiền, tọa hương không đến dự phạt, lầm tán hương, tuần hương:
phạt,
-
12-
Trị nhựt luân phiên không rõ ràng: phạt, làm hư hỏng đồ đạc phải bồi
thường,
-
13-
Không chú tâm tham thiền, lấy đồ nhọn chọc phá: phạt, dối làm bộ
xướng tụng bình luận công án: phạt,
-
14-
Bên trong chùa ra vào theo lối mà đi, ai vi phạm: phạt. Nếu loạn đơn
đổi chỗ, đi băng xuyên thẳng tắt và đương không vào phòng người:
phạt nặng,
-
15-
Mượn dùng riêng đồ chùa đem ra ngoài bị phạt,
-
16-
Thô tháo mất oai nghi không nghe ban chức sự can ngăn, phạt, phạt
bất tuân cho ra khỏi chúng,
-
17-
Đi, đứng, tụng kinh, ăn uống, công tác v.v… không theo chúng phạt,
-
18-
Phê phán việc thị phi người khác, quấy rối số đông làm động chúng bị
phạt nặng,
-
19-
Cảnh cáo chễnh mãng, tối dạ không xuống giường bị phạt quỳ 3 cây
nhang,
-
20-
Cố tình thả buông theo hôn trầm (ngủ gật) phạt, cải lại hương bản
phạt, ai không tuân đuổi,
-
21-
Cảnh cáo ngủ gật sau đó vẫn như cũ bắt đứng tham thiền. Tái 3 lần
cảnh cáo không kết quả bắt quì tham thiền, không tuân đuổi ra khỏi,
-
22-
Qua lại ngang nhiên, nói cười khạc nhổ, hoặc đi giày phát ra tiếng
phạt, không tuân bị phạt đuổi,
-
23-
Đi ra ngoài không được mặc áo dài chấm gót, mặc bị phạt,
- 24-
Có việc ra ngoài không về đúng hẹn, bị phạt,
-
25-
Có các tôn khách tham quan, mỗi người giữ theo thứ tự không được mất
oai nghi, ai vi phạm phạt,
-
26-
Đi vào phòng khách cùng nói chuyện tạp với người bị phạt nặng,
-
27-
Sau giờ chỉ tịnh khuya nói cười ở liêu Giám Tự, hay dạo chơi bên
ngoài phòng ngủ:
phạt,
-
28-
Sắm đồ ăn uống riêng phạt:
hoặc nhóm lửa nấu nướng phạt nặng,
-
29-
Xông nhào vô tĩnh tọa:
phạt (làm mất oai nghi, động chúng),
-
30-
Tuần hương tự ý, hoặc đem công báo tư, cố lấy lòng:
phạt, ai phạm phạt nặng,
-
31-
Có bịnh xoàng cho nghỉ 3 ngày, bịnh nặng ra ngoài điều trị, không
được cố ở lại làm ảnh hưởng chúng, ai vi phạm phạt,
-
32-
Trở lên là 32 điều qui định, điều chính phụ có liên quan như không
tuân hành, tự mình mất lợi lành. Cùng ở chung với đại chúng lấy đó
răn nhắc nhau.
-
Ngày… tháng… năm,
Trụ trì ấn ký.
-
Chứng nghĩa ghi rằng:
- Thiền
đường cũng là nơi lui tới của hiền thánh, chỗ liễu sanh thoát tử.
Muốn thấu rõ môn hướng thượng nếu bỏ nơi đây không do đâu mà vào
được. Do vậy mười phương cùng câu hội, mỗi mỗi học đạo vô vi. Đây là
tuyển Phật trường (trường chọn người làm Phật), tâm không bậc thứ là
vậy. Đã học đạo vô vi tức ứng hợp dứt các duyên, chuyên tâm tham
cứu. Nếu ngang bướng làm hỏng, ngông láo, theo thói quen tùy tình,
không phải chỉ không khả năng học vô vi mà cũng e trái lại làm tăng
thêm dị kiến. Nên nói không có qui củ chẳng thể ngăn dứt việc tà,
không tinh tấn không thể đạt thành chí hướng là vậy.
-
Kinh ghi rằng:
“Nhân giới sanh
định, nhân định phát huệ, chỉ 2 từ này đã bao hàm được hết thảy”.
-
Sách Thiền Tông Bí yếu
ghi:
- - “Xưa
có người con trai họ Lữ xuất gia học đạo, được Ngài Ưu Bà Cúc Đa vì
đó thuyết pháp yếu, thấy chân lý đắc quả Tu Đà Hoàn, bèn nói rằng:
- - "Ta
đã đoạn 3 kiết sử rồi, còn mong gì nữa? Do tuyên bố như vậy mà chìm
nổi đó đây qua bảy lần sanh tử".
-
Tôn giả bảo rằng:
- - "Việc
sanh tử thật đúng là ác tặc, như phẩn nhơ, ít nhiều đều hôi hám cả";
bèn liền tới thôn Chiên Đà La thấy một đứa bé thân thể mọc đầy ghẻ
lỡ, vi trùng rúc tỉa, máu mủ tươm ra, thật rất là khổ sở, hỏi rằng:
- - "Tỳ
kheo có thấy đứa bé này không?".
-
Đứa bé đó là Tu Đà Hoàn.
Thuở xưa khi Phật tại thế có một vị La Hán thân thể nhỏ bé bị chứng
bịnh ngứa, cào gãi ra tiếng, vị Duy Na sân nói rằng, thân ông bị
trùng độc rĩa thế kia ư, hãy nên đi tới thôn Chiên Đà La. La Hán nói
rằng:
- - "Nay
con đã mắc tội đừng có buông lời này nữa".
Lúc đó Duy Na liền sám hối, và tinh tấn tu tập đắc quả Tu Đà Hoàn.
Về sau biếng trễ không cầu đạo vô thượng nên sanh vào nhà này để thọ
sự khổ não như thế. Đứa trẻ lại đi về phía trước thấy có một người
bị lửa đốt thân thể cháy đỏ đau đớn vô cùng, nó đi tới nữa lại thấy
có một người phạm pháp luật nhà nước thân thể bị đâm xỏ qua một cái
cây lớn treo lên vang ra tiếng than ai oán, hết sức đau khổ. Lúc đó
tôn giả hỏi tỳ kheo rằng:
- - "Ngươi
có thấy 2 người đó không?"
-
Tỳ kheo đáp:
-
-
"Dĩ
nhiên là thấy".
-
Tôn giả nói:
- - "Người
trước xưa kia là Tư Đà Hàm, người sau ngươi thấy đó trước kia là A
Na Hàm. Cả 2 đều biếng trễ không cầu đạo vô thượng, nên sanh cõi
người thọ cái khổ độc này. Vì thế,
nay ngươi phải tự tinh tấn sớm cầu giải thoát".
-
Vị Tỳ kheo nghe xong, đêm
ngày tinh chuyên tu tập, chẳng bao lâu đắc quả A La Hán.
-
Ôi thôi ! căn cứ vài người
chứng đạo quả; nhân đạt một ít đã cho là đủ như thế mà lui sụt biếng
lười nên phải rơi vào khổ báo. Thiền giả ngày nay mới kiết đông vài
lần bèn cho ta đây là ngộ thiền, sao lại phải miệt mài như vầy! Chưa
biết rõ ngộ thiền như thế chứng được quả vị gì vậy? Nếu không tinh
tấn tu hành đến lúc đại khổ báo ập đến mình phải chịu lãnh đủ!
-
(Mạnh
đông: tháng đầu mùa đông)
-
Tuần đầu tháng 10 chùa
viện chuẩn bị dọn dẹp, quét tước phòng xá, cửa nẽo, lau chùi chánh
điện, giảng đường, phòng khách, cửa ngõ v.v… trong ngoài tươm tất,
chuẩn bị khai đàn kết đông. Trình bạch ngài Phương Trượng duyệt qua
chương trình, bàn thảo thêm bớt quyết định chấp thuận. Thư ký viết
thông báo, đọc trên đài, đăng báo (dịch giả thêm) dán tại chùa.
-
Đến ngày 14 tháng 10 (âm
lịch) sau thời công phu sáng, điểm tâm xong nghe hiệu lệnh, đại
chúng đắp y tập trung tại thiền đường làm lễ cung an chức sự (mỗi
nhân sự trong ban điều hành). Duy Na bạch rằng:
- - "Hôm
nay là ngày kiết đông, chúng con có duyên sự đầu thành đảnh lễ tác
bạch. Để cho đạo tràng được trang nghiêm chúng con thành tâm cung
thỉnh Hòa Thượng Phương Trượng đương vi chứng minh, cung thỉnh
Thượng Tọa… đương vi Duy Na, cung thỉnh Thượng Tọa… đương vi Duyệt
chúng; cung thỉnh chư tôn Đại Đức đồng tác chứng hộ niệm".
-
Bạch xong thỉnh lên chánh
điện, Duyệt Chúng dẫn khánh đi đầu, 2 thị giả: một người bưng khay
lễ đi kế Duyệt Chúng, một người cầm phất trần, tích trượng theo sau,
tiếp theo là Ngài Phương Trượng, tới nơi Hòa Thượng lễ Phật, thỉnh
đăng tòa. Duy Na cử tán:
- -
“Dương chi tịnh thủy…”
xong, tiếp đến trước niệm hương lễ 3 lạy, trãi tọa cụ, lui về vị
trí. Đại chúng đồng tán:
- -
Nam mô Thanh
Lương
Địa…
- -
Nam mô Vân
Lai
Tập
Bồ Tát
Ma Ha
Tát
(3 lần).
-
Hồi một hồi khánh thỉnh
Hòa thượng khai thị, xong chúng đứng lên lễ Hòa Thượng 3 lạy. Tác
pháp yết ma vấn hòa, kiết giới mùa đông, phân ban lo công việc khóa
tu (xem thêm chương Trụ Trì ở trước).
-
Chứng nghĩa ghi:
- Y
cứ theo Kinh Phạm Võng: "trái
tôn ti thứ tự phải răn",
và ngoài ra luật tạng cũng có đủ các phép thứ tự, bởi 2 dãy (chúng)
luận chấp cùng một cách. Luận rằng giới chính do Phật chế, tòng lâm
ngày nay nhận chúng không hỏi giới, chẳng hỏi hạ lạp, cùng trong một
cách chấp. Kẻ tới trước đứng trước, tới sau đứng sau dường như đúng
mà sai, trái lời Phật dạy. Người thọ giới trước ngồi trước, thọ giới
sau ngồi sau, mới theo đúng luật.
-
Rằm tháng 10 lễ kiết đông
là thời gian nghiêm tu 9 tuần (3 tháng) của chư tăng, trong ngoài
đều trang nghiêm thanh tịnh. Nội bất xuất, ngoại bất nhập và dứt hết
mọi duyên, chỉ một mặt chuyên tu học mà thôi.
-
Đúng sáng rằm,
sau thời công phu
khuya, Trụ Trì niệm hương xong, Duy Na cử tán:
- - "Lư
hương..."
(giống nghi đón giao thừa).
-
Sau khi dùng điểm tâm
xong, có hiệu lệnh đại chúng vào thiền đường họp (không cần đắp y)
chúng và tuyên bố Nội Quy. Duy Na đọc bản Nội Quy chung toàn chúng.
Đọc Nội Quy xong, đại chúng cùng dùng trà, chuyện vãn thân mật vui
vẽ. Buổi chiều khởi sự thiền thất.
-
Chứng nghĩa ghi rằng:
- Đầu
mùa đông kiết giới chính là vì sự sanh tử. Nếu không tự tẩy trừ tâm
địa cho trong sạch, nên chỉ thấy hẹp hòi tự cho là mô phạm thật rất
đáng trách. Người trông ta giống như tham thiền, thậm chí còn hiểu
rõ chỗ âm u mờ tối như đại địa. Thật là đáng thương sống không biết
thiền là gì, chỉ biết liên quan tới mình, còn người khác bỏ mặc. Nếu
bạn khẳng quyết sắp đạt tâm đốn ngộ, rồi buông thỏng (lơi) thì đến
lúc nào mới được tương ứng?
-
Cổ nhân nói rằng:
Làm công phu chẳng
đắc lực, rõ bịnh nhiều biết nhiều xuyên qua lò luyện công án. Tập
khí bám chặc tháo gỡ không ra, do vậy Phật tánh không sáng tỏ. Nếu
quả đúng là người nghĩ tới việc sanh tử thời không để tâm tạp loạn.
Một câu thoại đầu (công án) tương tợ như uốn vòng sắt, quyết không
để phải gãy vụn. Nếu uốn không được sắt, thà bỏ mạng, để thân này
rơi vào địa ngục chứ trọn không bỏ câu thoại đầu. Lực tin mạnh mẽ
như thế, thế nên nghi tình ngày càng dứt sâu hơn; mắt nhìn tỏ rạng
sáng suốt khắp cùng mọi sự mọi vật biết rõ không sai. Như nói:
"từ
trên đến chư Tổ phần nhiều lấy cơ tiếp độ người",
nay tại sao truyền cho người lấy câu thoại đầu “tử”, tử lấy làm công
phu sao?
-
Đáp:
- - "Ôi!
Nói gì vậy? Luận về phép tham câu thoại đầu có từ Hoàng Bá Triệu
Đoan và được chư tôn tuân thừa mà đại biểu là Đại Huệ Vưu chủ xướng.
Thời trung hưng thạnh phát của Đại Huệ tế độ miệt vùng Bắc, đâu chỉ
dùng cơ duyên là đủ mà còn phải khai thị người tới học. Dùng một câu
thoại đầu chặn cổ họng người hỏi, làm hao hụt kỹ năng của đương sự;
rồi sau mới chỉ rõ đại cơ đại dụng, hầu khích lệ tinh tấn mà đạt
chứng đắc. Hơn 40 người, bởi vì lão sư dùng cơ, người học ra công
phu hẳn cả hai hợp nhau mà thành tựu vậy. Nếu không sách tấn người
học luyện công phu mà chỉ dùng cơ tiếp người thời kẻ thượng căn được
lợi, còn người trung căn, hạ căn hoàn toàn mất phần lợi lạc mà nhận
lấy chỗ trống rỗng. Thừa gió phát tiếng quét sạch bụi là một tông
yếu của Tổ
Đạt Ma.
Tổ Đạt Ma từ Tây Vức sang 9 năm ngồi quay mặt vào vách, có
thể nói là vách tường sừng sững vạn kiếp, nhưng rồi Ngài tiếp hướng
dẫn Thần Quang cũng là dùng phương tiện".
-
Cũng có thể nói rằng, chỉ
dứt hết ngoại duyên, nội tâm không đầu mối, tâm như tường vách mới
có thể nhập đạo. Đây là nói về công án tử vậy. Bởi vì công phu bất
tử thời tình thức nảy sanh. Chẳng màng danh lợi tức gắn liền với
hiểu biết, tuy dùng cơ mà có làm cho được an lạc không chứ?
-
Cho nên nay mời kết chế tu
thiền, khán câu thoại đầu tử là việc chính, may ra không dùng cơ làm
công án khiến rối loạn tâm vậy. Song nói khán câu thoại đầu tử chính
là dụng công ngay trên câu thoại đầu, gọi là khán tử thoại đầu.
Không phải đương nhiên ngồi không quán vắng lặng được.
-
Sách Thiền Tông Bí Yếu ghi
rằng:
- - Có
pháp sư Quật Đa xứ Tây Vức (Ấn Độ) ngoạn cảnh Ngũ Đài tới huyện Định
Nang thấy một vị tăng kết cỏ ngồi. Pháp sư hỏi:
- - "Ông
ngồi một mình đây làm gì?"
- - "Quán
tịnh, vị tăng đáp".
-
Sư hỏi:
- - "Ông
xuất phát từ ai?"
- - "Thần
Tú đại sư".
-
Pháp sư hỏi:
- - "Tây
Vức ta khác đạo, người nào căn cơ thấp nhất không rơi vào chỗ thấy
này, ngồi yên trống rỗng đối với đạo có ích gì?"
-
Không cứ lúc nào đều có
thể bắt đầu thiền thất, cũng không cần chọn ngày mồng một tháng 10.
Phàm bắt đầu tu thiền thất trước một ngày, cần xem xét lại kho lẫm,
gạo, muối, tương, dầu… tất cả mọi thứ sẵn sàng. Thiếu thứ nào nên
mua sắm cho đủ dùng. Mời người hộ thất, cân nhắc cắt đặt xong, nghe
báo cáo thực phẩm; cử người khán hương, giám hương, hầu Phương
Trượng… ngày khởi tu thiền thất, Duy Na bạch chúng rằng:
- - "Hôm
nay ngày… khởi thất";
đại chúng nghe hiệu lệnh (vân tập Tổ đường lễ Tổ, đến phòng Phương
Trượng thỉnh Hòa Thượng ban giáo từ khai thị xong, tiễn Hòa Thượng
về liêu phòng.
-
Sau đó Duy Na điều hành
buổi lễ, đại chúng đều đứng sẵn sàng, vị hộ thất thu tọa cụ. Duy Na
bạch thưa:
- - "Các
thầy tham gia thiền thất làm lễ Thầy Thủ Tọa, sư Hậu Đường, sư Đường
Chủ, thầy hương đăng, thầy hộ thất, thầy vận thủy, mỗi vị ba lạy".
-
Tiếp theo vị thủ tọa nói:
- - "Lễ
Thầy Duy Na, thầy Duyệt Chúng mỗi vị 3 lạy".
-
Phàm pháp quyến của bổn tự
cùng chư sơn các chùa viện xa gần đến tu thất, tức vào nhà phụ ở
sau. Nếu cư sĩ tu thất đặt đơn bên ngoài. Người tu thất nhất loạt
phải theo chúng đến mãn thất mới được phép ra khỏi viện. Ni và người
nữ không được phép vào thiền đường; có các vị tôn khách hay thí chủ
tùy hỷ tọa hương, không nêu ra ở đây. Lễ xong, thầy Duy Na nói: 2
dãy liêu đồng tọa thất quý Thầy đảnh lễ A - B Hòa Thượng. Mời Hòa
Thượng tôn túc thuyết pháp mở đầu kỳ nhập thất. Ban ẩm thực nhà trù
nấu thức ăn xong phân ra tô dĩa, ban hộ thất bưng dọn lên bàn (hoặc
cơm hay mì tùy ý). Tới giờ điểm tâm nghe hiệu lệnh chúng vào trai
đường ngồi theo vị trí, niệm Phật rồi dùng bửa. Mỗi ngày 4 buổi tọa
thiền, thiền hành: Duyệt chúng luân phiên hướng dẫn khóa tu theo
khuôn khổ nề nếp trang nghiêm. Chương trình mỗi ngày giống nhau. Nếu
trong kỳ thất có thí chủ cúng linh tinh cho chúng dùng phụ, nên tùy
thời sắp xếp cho tới mãn thất. Tới ngày thứ sáu, duyệt chúng dẫn
theo hai người đến phòng Phương Trượng thỉnh ngày hôm sau giải thất,
hoặc mời Ban Thủ thay thế giải thất. Phàm thiền thất, tham khảo sư
cả, chỉ ghi nhận ý chính để lợi ích cho người học. Một người tiểu
tham thoại đầu không cho phép làm xáo trộn công án. Phàm đứng hương
người đứng phải đứng hai chân cho đều, không được đứng chữ bát so
le, 2 tay buông xuống, không được xoa tay. Đi kỵ xăn tay áo, ngồi kỵ
vén quần. Phàm thiền thất lấy giờ khắc làm chứng, hiểu rõ việc sanh
tử, chuyên vào việc tham thiền là chính. Quản chúng không được nói
nhiều làm trở ngại việc chánh (tu thiền).
-
Giờ quá đường (dùng cơm
trưa), khởi hương, bỏ hương, đứng hương… Duy Na đều gõ bảng hiệu 3
hồi, tuần hương chỉ đánh lúc có người ngủ gật (đập vào vai cho tỉnh
dậy). Thủ tòa coi tổng quát quán sát đại chúng để sách tấn thiền
giả. Cho nên người đi tuần hương phải cầm hai tay, không được thả
một tay. Giám hương một tay thả xuống không được đưa hương xuống quá
thấp, nên tưởng cho hợp cách cúng dường. Hai tay dù đưa cao hay thấp
không thành vấn đề, miễn gặp người cựa quậy, hôn trầm đều đập lên
vai phía sau.
-
Chứng nghĩa ghi rằng:
- Ở
tòng lâm quanh năm tọa hương tham thiền, sao lại còn có thiền thất?
Vì muốn ghi đậm nét thời kỳ tu tập là ý này. Kẻ học giả thời đại
ngày nay đang ỷ mạnh trước tình trạng Phật giáo. Đối chiếu với ngày
thường nên gia tâm tham thiền gấp đôi ba lần. Người tham thiền tức
là tham cứu một câu thoại đầu. Tham thoại đầu không ngoài việc khởi
nghi tình. Cho nên mới có câu rằng:
"tiểu
nghi tiểu ngộ, đại nghi đại ngộ"
(nghi nhỏ ngộ nhỏ, nghi lớn ngộ lớn), không nghi không ngộ.
-
Nghi tức là tham vậy, luận
về niệm của nghi, đó là chướng của thể giác mà nhân là lợi thế người
tham được thiện dụng. Trái lại có thể mượn đó để như cái thuật phá
chướng ngại. Bởi lấy nghi đó cho người ngộ cơ hội dễ dàng mà tư thế
là giúp người. Cho nên người muốn ngộ hẳn quí chỗ nghi. Luận về cơ
nhân tâm không ngưng trệ, chắc chắn không thể khai thông suốt được.
Như thạnh đông đóng cửa chặc thành như núi Thái Nguyên. Như hơi thở
không khí không đủ thì sẽ sanh ích tắt, không đủ sức, cho nên quí
nhất là nghi. Nghi thời bị ngăn chặn, không thể đi sâu vào nguồn
chân của pháp giới, hẳn không đạt đến sâu sắc được. Cho nên hễ người
nghi chắc hẳn nghiền ngẫm, nên biết nghi là nhân của ngộ, ngộ là quả
của nghi. Trái ngược như tối phải có sáng, hít vào ắt thở ra vậy!
Sao không nghi chứ ! Sao không nghi chứ ! Do chỗ nghi mà ngộ thời
ngộ lại chẳng tồn tại, đối với nghi hẳn phải tôi luyện mới thành
công được.
-
Tu thiền hoặc một, hai hay
ba thất tới ngày viên mãn, Thầy Phương Trượng báo cho Duy Na bạch
chúng biết giờ giấc. Vâng lời Hòa Thượng mời thầy nào… vì chúng giải
thất và thỉnh vị ấy thuyết pháp xong, tụng nghi thức hồi hướng.
-
Duy Na bạch:
- - "Sau
nhiều (7,14,21) ngày kham tu, đại chúng hai liêu lễ tạ thầy Thủ tọa,
thầy hộ thất, thầy chủ hỏa đầu quân, thầy vận chuyển nước, thầy bổ
củi v.v… chí thành lễ ba lễ. Đến phòng đảnh lễ Hòa Thượng Phương
Trượng xong, đại chúng về liêu nghỉ, Chúng trưởng đi tuần các liêu
thăm hỏi, sau đó giờ chỉ tịnh".
-
Chứng nghĩa ghi rằng:
- Nói
thiền thất chỉ hiểu thời gian 7 ngày mà không rõ tham thiền là gì
nữa.
-
Hỏi:
- - "Vì
nghĩa của tham thiền ta đã nghe và làm theo, nhưng chưa biết việc
tham thiền bắt đầu lúc nào?"
-
Đáp:
- - "Kinh
Lăng Nghiêm ghi
rằng, ở ngay tại đây có cái tinh minh diệu hảo. Cũng nói nghiên cứu
trong và ngoài, lại nói nghiên cứu sâu rộng. Ngoài ra lại còn cho
rằng nghiên cứu tinh mật, không phải tham ư? Trong việc tham thiền
có 7 chỗ trừng tâm, tám nơi thấy rõ ánh sáng bay, đưa nắm tay lên,
thả tay xuống, tạo tiếng hét v.v… đều chỉ mối hồ nghi. Từ đây trở đi
phàm dạy khán công án, khởi nghi tình đều từ đây mà có.
-
Ngoài ra, Kinh Hoa
Nghiêm, phẩm Phạm Hạnh và các kinh như Lăng
Già, Viên Giác v.v… đều có nói tới thiền mà nói rất rõ ràng.
Thiền Sư Nga Hồ Đại Nghĩa nói rằng, nếu người nào tịnh tọa không
dụng công, cho tới năm nào (bao giờ) mới đạt được tâm KHÔNG? Ngài
còn nói: "nên
đề khởi ngay,
thổi bay mảng lợi, cần mổ xẻ Tây lai đệ nhất nghĩa là gì. Lại nói:
"chợt
mở mắt sáng, dựng đứng lông mi phản diện xem hắn ta là ai?"
Nói những lời như thế người tham thiền nên viết xuống đai áo; tuy
nhiên, nếu hướng tới ngữ cú nghĩ suy xuyên suốt trên tình thức xem
thử độ, rộng lượng lại nhận lầm thời gian nói dụng công, nói phân
tích, nói phản phúc là ý của khán. Thời cho rằng người tịnh tọa làm
thinh bất động, việc này cũng chẳng giống, mà lại như người bịnh
vậy. Cũng không thể không bàn đến lời tóm tắt như thế này: môn hạ
thiền tông vô ý thức lãnh đạo lược thâm áo thiền, cũng không còn là
giai đoạn nói tới thiền gốc, cũng không từ từ tu tập đạt đến thâm áo
thiền nữa. Vì thế, cần thiết ta phải đập vỡ chỗ mù lòa, đẩy lùi đi
không để mơ hồ loạn tưởng lầm cho là hiểu rõ nữa. Như tin rằng mình
lỗi lầm bèn tham cứu như thế mà không cần phải hỏi đông hỏi tây. Bởi
vì đại sự chưa tường dù tu hết trăm nghìn thất vẫn chưa thuần thục
nghi tình, chỉ cần một tắc là mạng bỏ đi. Nếu một tắc qua được trăm
tắc tức qua được hết thảy. Mong cố gắng đó!
-
Ngày Rằm tháng giêng là kỳ
giải đông (khóa kiết đông từ 15 tháng 10, trong 3 tháng, 9 tuần tu
tập). Nghi thức như thông thường. Ngày nay các tòng lâm hầu hết chỉ
kiết hạ từ 16 tháng tư đến 16 tháng 7 mà ít có nơi tổ chức kiết
đông. Vì chư tăng đa phần học trường ngoài nên phải theo cho kịp
chương trình cập nhật của bộ Giáo dục (người dịch chú). Tuy vậy, vẫn
còn một số ít đạo tràng giữ theo cổ Thanh Quy này.
-
Chứng Nghĩa ghi rằng:
-
Phật dạy từ Rằm tháng
giêng đến rằm tháng ba là giải đông. Thời gian đi khất thực là từ 15
tháng 8 đến 15 tháng 10, cũng là thời kỳ giải hạ. Tăng sĩ ngày nay
phần nhiều đi khất thực quanh năm là trái lời Phật dạy. Người an cư
kiết giới đa phần theo lệ xưa mà ít có sự hành trì thật sự. Ngài Vân
Thê có bài kệ giải đông rằng:
-
- "Bụi
trúc trước sân vẳng tiếng ca
- Báo tiết
thượng nguyên đã sẵn sàng
- Khảy tay
lượng sáng càng lướt qua
- Lớp áo vá
nhận ra được gì?"
-
Nghĩ cho sâu sắc thật là
thấm thía mỗi người nên hồi tâm quyết tu mãnh liệt. Khởi lên câu
thoại đầu trực tiếp theo đuổi để phá nghi vây chặc.
-
8.16
Tháng Giêng - Công Việc Mỗi Tháng Cần Nên Biết
-
Tháng giêng có Tết nguyên
đán là ngày lễ cổ truyền của các dân tộc Á Đông. Vì vậy, tòng lâm
phải lo sửa soạn dọn dẹp, lau quét trong ngoài, chưng bông, trái
mới, sắm sửa bánh mứt, thức ăn cúng Tổ. Cúng chư hương linh… lễ gồm
có đón giao thừa, chúc tết, phát lộc Xuân, lễ vía Phật Di Lặc,
lễ thù ân, lễ mừng khánh tuế Phương Trượng v.v… Hòa Thượng ban lời
khuyến tấn đại chúng, phát lộc đầu năm, chúng đảnh lễ Hòa Thượng.
Đặc biệt, trong ngày Mồng Một cử người thỉnh đại hồng chung suốt
ngày và khách thập phương cũng tới chùa lễ bái, cầu nguyện, ngoạn
cảnh, thăm chư tăng, dùng trà, chuyện vãn…
-
Chứng nghĩa ghi rằng, cúng
chư thánh thế gian như:
- - Chánh
giác thế gian: chư Phật, Bồ Tát, 4 thánh.
- -
Hữu tình thế gian: thiên,
nhơn, a tu la, súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục, sáu cõi phàm.
- -
Khí thế gian: y báo 3 cõi
như đất, nước, gió, lửa, các loài thần v.v… ngày nay cúng 4 thánh
như Phật Di Đà, Di Lặc, Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm,
Thế Chí, Chuẩn Đề, Địa Tạng và Tổ Đạt Ma, Bách Trượng, Thiên
Thai, Hiền Thủ, Nam Sơn, Viễn Công, cho đến trai đường, ruộng
vườn, đất đai… đều có nói tới nơi quyển 8 ở trước, nên ở đây không
ghi nữa. Phàm trên 4 Thánh không cúng giấy vàng mã, nếu cúng là phạm
tội bất kính. Lục phàm có thể cúng được (nhưng nay ít người dùng).
Ngoài ra các thần khác đều dùng vàng mã.
-
Lưu ý:
Tốt
nhất cúng bánh trái, thức ăn mà không có niệm tụng gì, đến như cúng
cha mẹ, sư trưởng, quỉ thần nên tụng niệm cầu nguyện. Xin đừng có
lạm dụng vậy.
-
Phụ:
các bài tán cần
dùng (Trừ
các nghi cúng thông thường ra cũng có thể tùy nghi xử dụng).
-
Thiền đường:
- - "Đại
Thừa rốt nghĩa thể toàn không
- Thấy nghe,
giác biết dường hư không
- Chỉ dấu
bày kim dung
- Tinh tấn
cần gia công
- Buông tay
thoát lao lung".
- Nam mô
Tỳ Lô Giá Na Phật.
-
Điện Quán Âm:
- - "Đức
giáo chủ viên thông
- Thường ở
chốn Lạc già
- Tùy duyên
ứng hiện không sai
- Nhà lửa
cứu tà ma
- Nhành
dương rảy rưới
- Một giọt
biến sơn hà".
- Nam mô
Quán Thế Âm Bồ Tát.
-
Lầu kinh các:
- - "Pháp
hội chư Phật ứng khắp đại thiên
- Từ bi
thương cảm cứu nhân thiên
- Nghĩa
thánh giáo thâm uyên
- Kinh,
luật, luận rộng truyền
- Hành, hiểu
chứng kim tiên".
- Thuyền
Duyệt Tạng Bồ Tát ma ha tát.
-
Điện Hoa Nghiêm:
- - "Pháp
hội hoa nghiêm
-
Xá na như lai
-
Tạng hải liên hoa tọa hoa
đài
-
Chư Phật hoan hỷ tuyệt vời
-
Vạn tượng thông suốt
-
U ám mở khai hợp thời".
-
Hoa Nghiêm
Hải
Hội
Phật Bồ Tát.
-
Tại giới đàn:
-
- "Ngàn
hoa trên đài Xá Na từ tôn
-
Lui về bản xứ cứu hàm linh
-
Tâm địa giới làm nhân
-
Ngàn ức Phật thân
-
Khúc hát hòa nắng xuân".
-
Nam mô Lô Xá Na Phật.
-
Điện Dược Sư:
-
- "Phật
Dược Sư bậc y vương
-
Thân đến thủy nguyệt đàn
trường
-
Lòng thương cứu khổ giáng
cát tường
-
Khỏi nạn trừ tai chướng
-
Con xin sám hối ba nghiệp
tội
-
Nguyện được phước thọ mãi
miên trường
-
Sao cao chiếu diệu gội
nhuần ân quang
-
Mọi điều như ý an khang".
-
Tiêu tai Diên Thọ Dược Sư
Phật.
-
Đèn tháp Dược Sư:
- - "Tán
lễ Mãn Nguyệt thế giới Đông Phương
-
Lưu ly cảnh diệu phi
thường
-
Sáng rực rỡ huy hoàng
-
Nhân trong thệ nguyện rõ
ràng
-
Phật Dược Sư phóng tỏa từ
quang
-
Diệt sạch hết chúng sanh
tai chướng
-
Ban rải sự cát tường
-
Hiện giờ đại chúng tán
dương
-
Phước thọ thật vô lường
-
Hiện thời đại chúng xưng
dương
-
Phước thọ khó nghĩ lường".
-
Nam mô Dược Sư Lưu Ly
Quang Như Lai.
-
Lầu Đại Bi:
-
- "Trang
nghiêm cứu giúp đời
-
Cao vời tâm đại bi
-
Mắt, tay hiện phép thông
hành thí
-
Diễn pháp Đà la ni
-
Chư Phật đồng hoan hỷ
-
Công đức khó nghĩ nghì".
-
Đại
Bi
Quán Thế Âm Bồ Tát.
-
Điện La Hán Đông:
-
- "Chín
trời (cõi) phiền dứt chứng quả vô sanh
-
Cúng dường trời người quả
đạt thành
-
Tích phước ban rãi điều
lành
-
Hổ phục, rồng hoan nghinh
-
Muôn đời mãi thơm danh".
-
A La Hán
Tôn
Giả.
-
Điện La Hán Tây:
-
- "Phạm
hạnh đầy đủ ngộ lý chơn không
-
Thiền định du hí phép thần
thông
-
Chấn hưng nền nếp Phật gia
phong
-
Người tôn sùng lợi lạc mãi
không cùng".
-
A La Hán
Tôn
Giả.
-
Điện thờ ngài Chí
Công:
-
- "Điểu
sào xưa sử tích
-
Lương Võ Đế trọng sư
-
Từng ở Bửu Hoa tướng uy
nghi
-
Tên núi lấy hiệu Bảo Công
ghi
-
Truyền pháp giáo hóa khó
nghĩ nghì
-
Vạn đời sám pháp mãi còn
ghi".
-
Độ
Nhơn
Sư
Bồ Tát.
-
Tổ sư Phổ Am:
- - "Phổ
Am linh ứng
-
Đại đức danh xưng
-
Trời rồng tám bộ tùy thân
-
Đất nước thảy hòa bình
-
Pháp mầu ban rãi khắp
-
Quả lành mãi đẹp xinh'.
-
Độ
Nhơn
Sư
Bồ Tát.
-
Trước bàn xuất sanh:
-
- "Chim
đại bàng cánh vàng
-
Quỉ dữ mẹ và con
-
Bỏ ác quy Thế Tôn
-
Trước thọ giới giữ tâm
-
Thệ nguyện rộng bền kiên
-
Hướng về đồng rộng vô biên".
-
Sanh
Thiên
Giới
Bồ tát ma ha tát.
-
Tại kho lẫm:
- - "Nhân
duyên tấn đạo ngũ cốc trước tiên
-
(Có thực mới vực được đạo)
-
Đàn na không xan tiếc trừ
dứt tham
-
Kính tin gieo phước điền
-
Bố thí vững an nhiên
-
Cảm ứng đến long thiên".
-
Hộ
Pháp
Tạng
Bồ Tát ma ha tát.
-
Điện Quan Thánh:
- - "Trung
quân báo quốc ân
-
Dũng mãnh trượng phu thần
-
Ủng hộ Phật pháp diệt dần
tà ma
-
Giữ gìn an ổn tăng già
-
Tiến tu đạo nghiệp lợi tha
-
Muôn đời ghi nhớ tán ca
bảng vàng".
-
Hộ Pháp Tạng Bồ Tát.
-
Điện Tam Quan:
- - "Ba
quan đại đế công đức khó lường
-
Đài mây đỉnh thượng phóng
luồng hào quang
-
Ân phước ban cát tường
-
Hài tội, trừ tai ương
-
Cởi trói giữ an khương".
-
Hộ Pháp Tạng Bồ Tát.
-
Điện thiên vương:
- - "Trì
quốc, Tăng trưởng, Quảng Mục, Đa văn
-
(Bốn vị thiên vương cai
quản 4 châu)
- Khuôn
phò đất nước mãi hằng an ninh
- Rừng
giáo pháp tạo kim lăng
-
Ủng hộ mối giềng tăng
-
Giúp đạo luôn thường hằng".
-
Hộ Pháp Tạng Bồ Tát.
-
Thần giữ sơn môn:
- - "Sanh
ra trong cõi nhân hoàn
-
Chủ gìn cửa nẽo đứng hàng
thần tôn
-
Hộ trì tăng chúng an ninh
-
Nhờ ân Phật đại uy linh
-
Trừ tai, diệt họa thanh
bình an vui".
-
Hộ Pháp Tạng Bồ Tát.
-
Những người ở chung
có cha mẹ sư trưởng hiện tiền:
- - "Tòng
lâm đất báu, sống chung lục hòa
-
Niệm ân cha mẹ cùng là ân
sư
-
Nương nhờ đức Phật đại từ
-
Cần chuyên nỗ lực công phu
-
Hưởng pháp bình đẳng ví
như dự phần".
-
Sanh
Thiên
Giới
Bồ Tát
-
Thả vật phóng sanh:
- - "Sanh
thai, đẻ trứng, ẩm thấp, hóa sanh
-
Nhiều kiếp trôi nổi lộn
quanh luân trầm
-
Quy y Tam Bảo phát bồ đề
tâm
-
Lưới, lồng tù hãm những
mong thoát lìa
-
Nhởn nhơ dưới nước, bay
bổng trên không
-
Dứt thọ báo sanh đao lợi
thiên cung".
-
Sanh
Thiên
Giới
Bồ Tát Ma
Ha
Tát.
-
Chứng nghĩa ghi rằng:
- Các
nhà tín thí cúng dường nhiều ít không giống nhau, song điều cần yếu
tâm thành kính mới là chính. Ở tòng lâm ngày nay, tuy dựa sự cúng
dường nhưng phần nhiều là rau cải trồng, hoặc dùng đồ đông lạnh,
không phải thức ăn liền. Chỉ biết người, việc mà không nghĩ tới vật
cúng do tâm sanh. Lễ nghi đơn giản nên người nhận cần phải biết. Tâm
đã không thành thời dâng cúng làm gì cho thêm vất vả. Cúng dường như
vậy là để cho ai kia khi dễ, là trực tiếp đem lễ làm trò đùa vậy.
Nên phải biết lỗi lầm này rất là tai hại, mong khắp những ai giới
đầu tròn cùng tránh theo cách này.
-
Tháng 2
-
Ngày mồng một đóng cửa sơn
môn mùa đông.
- -
Mồng 8:
Lễ
Vía
Phật Xuất
Gia,
- -
Rằm tháng 2:
Lễ
Vía
Đức
Phật Thích Ca Nhập
Niết Bàn.
- -
Tháng 2 nhằm giữa mùa xuân
gọi là trọng xuân.
- -
Ngày 19
Lễ Vía
Đức
Quán Thế Âm Bồ Tát.
- - Ngày
21 Lễ Vía
Bồ Tát Phổ Hiền.
-
Tùy nghi cúng lễ theo nghi
thông thường.
-
Tháng 3
-
Tháng 3 gọi là quí xuân,
tháng cuối của mùa xuân, cũng gọi là mạt xuân, vãng xuân, diểu xuân
(cuối xuân).
- -
Ngày 16
Lễ Vía
Bồ Tát Chuẩn Đề.
-
Tháng 4
-
Vào tháng 4 thời tiết nắng
ấm, vì bắt đầu vào hạ, khí hậu mát mẻ, cây cỏ xinh tươi tiếp theo
mấy tháng mùa xuân.
- -
Mồng 4:
Lễ
Vía
Bồ Tát Văn Thù.
- -
Mồng 8:
đến rằm Lễ
Vía
Đức
Phật Thích Ca Giáng
Sanh.
(Từ
xưa, lễ cử hành mùng 8 tháng 4, nhưng từ năm 1950 đến nay được giới
Phật giáo thừa nhận chọn ngày Rằm tháng 4 lễ Phật Đản (người
dịch chú).
- -
Rằm tháng 4:
cũng là Lễ
Khánh
Đản
Bồ Tát Dược Vương.
-
Tháng 4 gọi là mạnh hạ, sơ
hạ, thanh hòa, cũng gọi quỳ nguyệt: vì thứ hoa quỳ nở về mùa hè, hoa
vàng nhạt có 5 cánh ở giữa màu tím.
-
Tháng 5
-
Tiết Đoan Ngọ cũng gọi là
Đoan Dương, nhân gian tưởng niệm ngày mùng 5 tháng 5.
Người
Hoa hay người miền Nam Việt Nam thường lên rừng tìm các thứ cây, lá
thuốc hái đem về chặt vụn, phơi khô cho vô bao để dành nấu nước uống
(trị bịnh?) (người dịch chú)
-
Chứng nghĩa ghi rằng:
- Trong
tông môn không một việc gì, không một tiết nào mà chẳng lấy việc
thuyết pháp làm đề tài cống hiến mọi người. Nay lục lại lời pháp ngữ
tiết Đoan Ngọ làm một tắc để nêu ra những câu khác, như Thiền
Sư
Trạm Nhiên đăng
đường nói rằng:
-
- "Mồng
5 tháng 5 tiết đoan ngọ
-
Lưỡi trắng sạch, dấu đào,
miệng đỏ
-
Trị cọp beo lui mãn đầu rủ
-
Trỉ vàng, xương bồ, hòa
rượu hủ
-
Say mềm chẵng biết tháng
ngày qua
-
Ngàn tinh trăm quái đều
đuổi sạch
-
Ai hay ma tới hay Phật đà
-
Quyết lòng nắm chốt cổng
thiền na".
-
Như thế đại chúng làm sao
mà không thấy được đạo. Bảo vệ sanh mạng phải nên sát, sát hết mới
an ổn. Nên biết rõ đạo lý sát đưa tới giờ tốt này, lấy lá ngãi làm
cờ, lấy xương bồ làm kiếm, lấy tâm làm bén nhọn. Đãm tiết anh hùng
không quản ngại đắc thất, thánh phàm, chân vọng; cho chí tham sân
si, ái, hết thảy giặc phiền não để vung lên một lưỡi dao hai nhát
đạt thẳng tới thân tịnh. Rưới rưới đỏ, viên đà đà, trôi trôi chảy
tạo đại trượng phu thế gian, xuất thế gian. Anh em còn có nghĩa gì?
đạt được sự thật gì? Địa gì? Nếu không đạt địa gì, sơn tăng có cái
bùa hộ thân đem vứt đi. Niêm Trụ trượng nói rằng, xem rõ thái thượng
lão quân, gấp gấp như sắc lệnh. Tháng 5 làm ngọ cúng dê đực cũng gọi
là sanh tân hoặc tiết trung thiên hay tu nguyệt còn gọi là bồ
nguyệt, ngãi nguyệt, lưu nguyệt v.v…
-
Tháng 6
-
Tháng 6 gọi là quí
hạ - cuối mùa hạ - khí trời oi bức, cũng gọi là lâm chung, thả
nguyệt, hà nguyệt v.v…
- -
Ngày 19 tháng 6:
Lễ
Vía
Quán Thế Âm Bồ Tát.
-
Tháng 7
-
Tháng 7 gọi là mạnh
thu - đầu mùa thu - có nhiều lễ tiết quan trọng. Tháng của chay tịnh
đối với người muốn ăn chay báo hiếu chọn thời gian này.
- -
Ngày 13:
Lễ Vía
Đức
Bồ Tát Đại Thế Chí
- -
Ngày 15:
Lễ Vu Lan Thắng Hội
hay Vu Lan Bồn
- -
Ngày 16:
Lễ Tự Tứ hay giải
hạ của tăng
ni
các tòng lâm, tự viện tại nhiều nơi.
- -
Ngày
Lễ
Vu Lan được xem là đại lễ - ngày báo hiếu nên rất quan trọng đối với
hầu hết các nước Á Đông. Đặc biệt dịp lễ này cúng cho người quá cố
và đồng thời cũng cúng cho người còn sống, cầu an lạc và sống thọ;
cũng như cầu siêu độ.
- -
Ngày 24:
Lễ
Kỷ
Niệm
Bồ Tát Long Thọ
- -
Ngày 30:
Lễ
Vía
Bồ Tát Địa Tạng.
-
Có những danh từ gọi tháng
7 như: mạnh thu, di tắc, tương nguyệt, xảo nguyệt v.v…
-
Tháng 8
-
Tháng 8 gọi là trọng thu -
giữa mùa thu - thời tiết mát dịu êm đềm, lá vàng rơi rụng lác đác
đầy sân vườn, đường sá. Cảnh trí tiêu sơ, buồn ảm đạm, cũng gọi là
thanh thu, tráng nguyệt, quế nguyệt v.v…
- - Ngày 15:
Lễ
Trung
Thu
hay còn gọi là tết nhi đồng.
- -
Ngày 22:
Lễ
Vía
Cổ
Phật Nhiên Đăng.
-
Tháng 9
-
Tháng 9 gọi là Trùng
dương, quí thu, mộ thu, thâm thu, diểu thu, nguyên nguyệt, cúc
nguyệt v.v…
- - Ngày 19:
Lễ
Vía
Quán Âm Bồ Tát
- -
Ngày 30:
Lễ
Vía
Đức Phật Dược Sư.
-
Các đại tòng lâm, tu viện
thướng có tự điền làm hoa lợi để nuôi tăng chúng, điều hành
Phật
Sự.
Đất canh tác cho tá điền thuê mướn, chùa chỉ chia được 1/3 hoa lợi
mà thôi. Dù vậy, tiết thu là mùa lúa chín chùa phải cử người tới
ruộng lúa trông coi thợ gặt, hầu tránh sự thất thoát, lạm dụng của
Tam Bảo. Thu hoạch lúa xong đem về trình Phương Trượng duyệt
qua rồi nhập vào kho.
-
Tháng 10
-
Tháng 10 gọi là mạnh đông
- đầu mùa đông - mưa gió, bão lụt thường xảy ra vào mùa này. Rằm
tháng mười, dân gian gọi là lễ hạ nguơn, nên có câu rằng: rằm tháng
mười, mười người mười quảy, rằm tháng 7 kẻ quảy người không, rằm
tháng giêng, ai siêng thì quảy.
-
Tháng 11
-
Tiết đông chí, còn gọi là
trọng đông - giữa mùa đông - hay còn gọi hoàng chung, cô nguyệt, chí
nguyệt v.v…
- - Ngày
17 kỷ niệm Lễ
Vía
Đức
Phật A Di Đà.
Người tu pháp môn Tịnh Độ thường tổ chức mừng lễ vía Ngài rất
long trọng, có nơi tổ chức tu Phật thất, có nơi thiết đặt lễ
đài trang nghiêm với cảnh giới Cực Lạc như Kinh A Di Đà
diễn tả. Phóng sanh, phóng đăng, bố thí, chẩn tế cô hồn, bạt độ
các âm linh v.v…
-
Tháng 12
-
Tháng 12 gọi là quí
đông … cuối mùa đông… tiết trời khá lạnh.
- - Ngày
mùng 8:
Lễ
Vía
Đức
Phật Thích Ca Thành
Đạo.
- -
Ngày 29:
Lễ
Vía
Bồ Tát Hoa Nghiêm.
- -
Từ 23 đến ngày 30 là thời
điểm rất bận rộn, lo quét tước, sơn sửa lại, dọn dẹp sạch sẽ trong
ngoài để đón giao thừa. Lễ đón giao thừa vào đêm 29 tháng 12 (nếu
tháng thiếu) hoặc 30 tháng 12.
- - Ngày
cuối năm rất quan trọng, có những khóa lễ như: cúng ngọ, cúng chư
hương linh thờ tại chùa, tối có lễ sám hối hồng danh chư Phật, khuya
có lễ đón tân niên, lễ cầu nguyện quốc gia thái bình, nhân dân an cư
lạc nghiệp, chúc Tết, lộc Xuân v.v…
-
Chứng nghĩa ghi rằng:
- Cổ
nhân cho đêm trừ tịch là tử nhựt, vì một năm đã hết, cũng như một
đời chấm dứt. Thiền Sư Hoàng Bá nói rằng, nếu những việc gì dự định
trước làm chưa xong, đến ngày 30 tháng chạp cũng đủ làm cho ta rối
lên. Song ngày Mồng Một tháng giêng theo lẽ là tiếp nối đêm trừ tịch
(ngày 30) không phải là mới. Trước hết, phải biết người, biết việc,
thời liền hội lý với tử nhựt không phải là mới mà là thấm thoát,
dằng dặc rộn dâng. Không biết tuổi thiếu niên rồi tráng niên, tráng
rồi lão, lão rồi chết. Huống chi còn có những sự bất cập từ tráng
tới lão, há chẳng buồn thay! Cho nên sắp đến đêm trừ tịch là báo
hiệu vô thường để luôn luôn cảnh giác, tự nguyện tự hứa là không thể
dựa cũ mà buông thỏng cho qua đi. Làm một việc nào cho thấu triệt
(xong) việc đó, không thể lơ là xem rồi bỏ qua được. Không phải giải
được thông một ít kinh luận mà cho là hoàn bị đâu; không phải ngồi
tọa hương một vài lần không động không dao mà cho là triệt ngộ được.
Không phải giải được vài công án của cổ đức về việc vấn đáp, hiểu ít
câu thoại đầu, niêm cổ mà tự cho là thấu triệt. Không phải đối đáp
đôi câu thiền thoại hời hợt mà cho là hiểu hết được.
-
Cổ nhơn gọi việc này là
động nhiên như đáy thùng lủng, hoát nhiên như cơn mộng tĩnh lại,
không còn một tơ tóc nào còn có chỗ nghi mới có phần ứng hợp. Như có
một vị tăng thường ở miếu thần, ngủ trong lò đốt giấy, có một vị
tăng khác ẩn núp trong lò giấy đợi người kia tới ở, lại ngăn đuổi
không cho ở lại. Liền hỏi rằng:
- -
“Ý
Tổ sư từ Tây lại là gì?”
-
Đáp:
- -
“Trước
thần là bàn rượu”.
-
Lại có vị tăng nhơn tự cho
là đắc ngộ, cùng đi với sa di đến chỗ mé nước bỗng té ngã dưới nước,
gấp hỏi Ngưu Đầu lúc chưa gặp Tứ Tổ thời như thế nào?
-
Tăng đáp:
- - "Duỗi
chân để chân thẳng".
-
Bên trong dường như hai vị
tăng này có thể nói là dự biết trước, đã thấu rõ thời 7 tình, 8 gió(4)
, thấu triệt tới
trăm nghìn hô đâu ứng đó… đưa tay giở chân đều không sai thời. Phát
ra lời nào đều có qui ước như thế, tự tại như thế. Như lúc rãnh rỗi
dùng ý thức xem rộng biết độ đáp cơ tác tụng, không phải thản nhiên
mà quán sát được. Bịnh đến nghĩ tới vô thường, cũng giống như đêm
trừ tịch tới vậy. Người thật bận rộn, tay quay tít một cảnh đời bi
đát, há không tiếc thay! Mong rằng chúng ta nên lấy đây để cảnh tỉnh
mới thấu rõ tám khổ giao xen nhau hoàn toàn không ngăn được, hoặc
chưa được như vậy cũng khó tránh sự hiểu lầm. Xưa kia Ngài Thiên
Thai Trí Giả đại sư đắc Pháp Hoa tam muội tọa thiền nơi Hoa đảnh,
bổng trong đêm sâu có gió lớn sấm chớp, quỉ mị bao vây hình dạng rất
đáng sợ. Ngài an tâm ngồi yên tự nhiên mà chúng thoái lui; rồi lại
hiện hình cha mẹ, sư tăng kêu gào than khóc. Ngài niệm sâu thật
tướng tìm cách làm tiêu mất những hiện tượng ấy. Đến lúc Ngài sắp
tịch diệt đệ tử hỏi: không rõ Thầy đạt quả vị gì? Chết đây sanh
về đâu?
-
Ngài đáp:
- - "Ta
không lãnh đạo chúng hẳn 6 căn vì người mà giảm, chỉ đạt năm
phẩm vị thôi. Ngài còn khuyên Duy Na rằng, mạng ta sắp chấm dứt,
nghe tiếng chuông khánh nên gia tăng chánh niệm, càng lâu càng tốt.
Hơi thở dứt là một đời qua, khóc than, tang phục đều không hợp với
ngôn ngữ. Chết như nhập thiền định. Ôi, đại sư Trí Giả còn nói là
tha tổn, huống gì chúng ta ư? Đâu chẳng tự cảnh tỉnh chứ?
-
Tháng 12 còn gọi là diểu
đông, lạp nguyệt (tháng chạp), thái cung, trừ nguyệt v.v…
-
Hết quyển 8
- Ghi Chú
- 1- Tam
tai: 3 tai họa có hai loại lớn và nhỏ như: tiểu tam tai: binh đao,
dịch bệnh, đói kém; đại
tam tai: hỏa tai, thủy tai, phong tai. Ba tai họa này tự lần lượt
khởi lên để hủy hoại thế giới mà không phải khởi đồng thời, như ta
đã chứng kiến hiện tại trong thập niên qua tai họa xảy ra khắp nơi
trên thế giới như sóng thần, lũ lụt
- 2- Bảy già
nạn: trộm cắp vật của hiện tiền tăng, hành dâm với nam nữ trong lục
thân, làm ô nhiễm phạm hạnh tăng ni, thấy cha bịnh mà bỏ đi không
chăm sóc, thấy mẹ bịnh mà bỏ đi không chăm sóc, đối sư trưởng bịnh
mà bỏ đi không săn sóc - sát hại chúng sanh phát bồ đề tâm.
- 3- Công
án: thuật ngữ tức là từ chuyên môn của thiền tông. Công án là những
lời của Phật, của Tổ để làm đối tượng suy tư của thiền sinh. Như
nói: trước khi cha mẹ sinh ra ta là ai?
- 4- Tám gió
(bát phong): làm lay động tâm người học đạo. Ðó là: lợi, suy, hủy,
dự, xưng, cơ, lạc. 1) lợi: lợi lộc, lợi thế, quy ền lợi; 2) suy: hư
hoại, suy nhược, thương cảm; 3) hủy: nói xấu, hủy báng; 4) dự: khen,
tán thưởng; 5) xưng: khen ngợi, ca tụng; 6) cơ: chê bai, miệt thị;
7) khổ: hoạn nạn, việc rối rắm; 8) lạc: vui sướng, an hạnh.