- BỒ TÁT GIỚI
- Hòa thượng Thích
Trí Quang dịch giải
-
- CHƯƠNG BA
- Dịch Giải Chính
Văn
- Bồ Tát Giới Phạm
Võng
- ---o0o---
- Bồ
tát giới Phạm võng
- Là
giới pháp vô thượng,
-
Trăm ngàn vạn ức kiếp
- Vẫn
khó mà gặp được;
- Nay
con đã thấy nghe
- Lại
còn được thọ trì,
-
Nguyện cầu sớm thành tựu
-
Pháp tánh thân thường trú.
- Kính
lạy Đức Lô Xá Na Như Lai.
- Kính
lạy Đức Thích Ca Mâu Ni Như Lai.
- Kính
lạy Kho Tàng Bồ Tát Giới Phạm Võng.
- Đây là
bài kệ khai kinh và kính lạy giáo chủ Bồ tát giới Phạm võng. Bài kệ
khai kinh này là bài thông thường mà tôi đổi và dịch cho đúng với
trường hợp tụng Bồ tát giới Phạm võng. Pháp tánh thân thường trú là
như chính văn sau đây nói, "Hết thảy chúng sinh đều có Phật tánh,
nên toàn bộ thân tâm của chúng sinh, thân ấy tâm ấy đều nhập vào
trong giới pháp Phật tánh, và đương nhiên có cái nhân như vậy thì
đương nhiên thực hiện pháp thân thường trú". Chú thích: nhập vào
trong giới pháp Phật tánh là thọ và trì giới pháp ấy.
- Bài kệ
khai kinh này, Bồ tát giới kinh để nguyên và đặt trước nghi thức mở
đầu. Để và đặt như vậy không thích hợp ý nghĩa mà cũng không thích
hợp nghi thức.
-
Kinh Phạm võng, phẩm
thứ 10
- "Tâm
địa giới bồ tát của Đức Lô Xá Na tuyên thuyết", phần dưới
- Đầu đề
này đã giải thích trong chương dẫn nhập. Nay chỉ giải thích chính
văn.
-
Tiết 1 : Mở
Đầu Về Bồ Tát Giới Phạm Võng
-
Mục 1: Nói về Xuất
Xứ Của Bồ Tát Giới Phạm Võng Bằng Thể Trường Hàng
- Đoạn
1: Nói Xuất Xứ Gián Tiếp Của Bồ Tát Giới Phạm Võng.
- Số
1 : Đức Lô Xá Na Tổng Kết Về Phẩm Pháp Môn Tâm Địa.
- Số 2
: Chư Phật Chuyển Dạy Phẩm Pháp Môn Tâm Địa Cho Chúng Sinh.
- Đoạn
2: Nói Xuất Xứ Trực Tiếp Của Bồ Tát Giới Phạm Võng.
- Số 1
: Đức Thích Ca Bổn Sư Tự Thuật Ngài Cũng Chuyển Dạy Phẩm Pháp Môn
Tâm Địa Như Chư Phật.
- Số 2
: Đức Thích Ca Bổn Sư Nói Sẽ Nói Lại Bồ Tát Giới Phạm Võng.
-
Mục 2 : Nói
về Xuất Xứ Của Bồ Tát Giới Phạm Võng Bằng Thể Chỉnh Cú
- Đoạn 1
: Đức Thích Ca Bổn Sư Thuật Lời Đức Phật Bản Thân Tụng Bồ Tát
Giới.
- Đoạn 2
: Đức Thích Ca Bổn Sư Thuật Sự Tụng Lại Bồ Tát Giới Của Chư
Phật Hóa Thân.
- Đoạn 3
: Đức Thích Ca Bổn Sư Mở Đầu Để Tụng Lại Bồ Tát Giới Y
Như Chư Phật Hóa Thân.
-
Mục 3 :
Qui Định Mấy Điều Cốt Yếu Về Bồ Tát Giới Phạm Võng
- Đoạn 1
: Qui Định Hiếu Là Giới.
- Đoạn 2
: Qui Định Tất Cả Bồ Tát Vị Phải Tụng Bồ Tát Giới Phạm Võng.
- Đoạn 3
: Qui Định Điều Kiện Lãnh Thọ Bồ Tát Giới Phạm Võng.
-
Số 1: Đức Lô Xá Na
Tổng Kết Về Phẩm Pháp Môn Tâm Địa
- Khi ấy
Đức Lô Xá Na đã vì đại chúng mà khai thị một cách tóm tắt, chỉ bằng
đầu sợi lông, về pháp môn tâm địa, một trong các pháp môn nhiều đến
số lượng không thể nói hết, như cát của trăm ngàn sông Hằng. Và kết
thúc rằng, pháp môn tâm địa ấy hết thảy chư Phật quá khứ đã nói, chư
Phật vị lai sẽ nói, chư Phật hiện tại đang nói, tất cả Bồ tát trong
quá khứ vị lai và hiện tại đã học sẽ học và đang học. Như lai đã
trải qua cả trăm vô số kiếp tu hành tâm địa ấy, kết quả thành Phật,
danh hiệu Lô Xá Na. Chư vị Phật đà, các ngài hãy chuyển pháp môn của
Như lai đã nói cho hết thảy chúng sinh, khai thị tâm địa cho họ. Bấy
giờ trên Sư tử tòa sáng chói rực rỡ ở Liên hoa đài, tức Hoa tạng thế
giới, Đức Lô Xá Na phóng ra ánh sáng, khuyến cáo một ngàn Đức Thích
Ca trên một ngàn cánh hoa, rằng các ngài hãy đem phẩm Pháp môn tâm
địa của Như lai mà đi, nói lại một cách tuần tự phẩm ấy cho một ngàn
lần trăm ức Đức Thích Ca, và hết thảy chúng sinh, với lời khuyến cáo
rằng các người hãy thọ trì, đọc tụng, nhất tâm mà phụng hành.
- Đây là
Đức Lô Xá Na tổng kết về phẩm Pháp môn tâm địa mà trong đó có phần
Giới pháp vô tận (Bồ Tát Giới) khuyến cáo chư Phật hóa thân chuyển
dạy pháp môn ấy cho chúng sinh.
- Sư tử
tòa là Phật như sư tử, Phật ngồi ở đâu chỗ ấy cũng gọi là sư tử tòa.
Sư tử tòa ở đây của Đức Lô Xá Na, và chư Phật hóa thân của ngài, là
ở Hoa tạng thế giới. Hoa tạng thế giới tượng trưng như Liên hoa đài
(đài sen), nên gọi đủ là Liên Hoa Đài Tạng thế giới. Tách ra, chuyển
dịch "Liên hoa đài, tức Hoa tạng thế giới" là để ăn liền với ngàn
cánh hoa ở câu dưới. Liên hoa đài cũng là từ ngữ dùng trong văn
chỉnh cú ở dưới.
- Đưa
đại chúng đến hỏi để Đức Lô Xá Na nói về pháp môn tâm địa là ngàn
lần trăm ức Đức Thích Ca, nhưng Đức Lô Xá Na gọi ngàn Đức Thích Ca
mà nói, ấy là Phật nói với Phật về tâm địa; còn ngàn Đức Thích Ca
nói với ngàn lần trăm ức Đức Thích Ca, ấy là Phật nói với Phật về
cách nói tâm địa cho chúng sinh. Nói một cách tuần tự cho ngàn lần
trăm ức Đức Thích Ca, và hết thảy chúng sinh, câu này nói tắt, nói
rõ thì phải là nói cho ngàn lần trăm ức Đức Thích Ca để chư Phật ấy
dạy lại cho hết thảy chúng sinh, khuyến cáo chúng sinh thọ trì tâm
địa. Nói một cách tuần tự là nói bằng 10 chỗ thuyết pháp.
-
Số 2: Chư Phật
Chuyển Dạy Phẩm Pháp Môn Tâm Địa Cho Chúng Sinh
- Khi ấy
một ngàn Đức Thích Ca trên một ngàn cánh hoa, và một ngàn lần trăm
ức Đức Thích Ca, đều đứng dậy từ Sư tử tòa rực rỡ ở Hoa tạng thế
giới. Ngài nào cũng cáo thoái bằng cách khắp mình phóng ra ánh sáng
bất khả tư nghị, cùng hóa hiện vộ lượng Đức Phật nữa, và cùng trong
một lúc dùng vô số sắc hoa xanh vàng đỏ trắng hiến cúng Đức Lô Xá
Na, tiếp nhận và ghi nhớ trọn vẹn phẩm Pháp môn tâm địa mà ngài đã
tuyên thuyết. Rồi các ngài từ Hoa tạng thế giới ẩn đi. Ẫn rồi nhập
định tên Bông hoa ánh sáng của thể tánh thanh tịnh in như hư không,
trở về dưới cây bồ đề ở châu Diêm phù của thế giới mình, xuất định
nói trên, ngồi trên Kim cang tòa đầy bông hoa ánh sáng, và tại Diệu
quang đường nói về mười biển cả thế giới, lại rời chỗ ấy đến Đế
thích cung nói về mười trú, đến Diệm thiên nói về mười hành, đến Đâu
suất thiên nói về mười hướng, đến Hóa lạc thiên nói về mười định,
đến Tha hóa thiên nói về mười địa, đến Sơ thiền nói về mười kim cang,
đến Nhị thiền nói về mười nhẫn, đến Tam thiền nói về mười nguyện,
đến cung Đại tự tại thiên vương thuộc Tứ thiền nói lại phẩm Pháp môn
tâm địa mà bản thân là Đức Lô Xá Na ở Hoa tạng thế giới đã nói. Toàn
thể một ngàn lần trăm ức Đức Thích Ca đều làm như vậy, không khác gì
nhau, như phẩm Hiền kiếp đã nói.
- Đây là
chư Phật hóa thân chuyển dạy phẩm Pháp môn tâm địa cho chúng sinh
bằng cách thị hiện 8 tướng thành đạo và 10 chỗ thuyết pháp.
- Định
tên Bông hoa ánh sáng của thể tánh thanh tịnh in như hư không , nói
vắn tắt và nói cách khác, là diệu dụng của bản tánh thanh tịnh ;
diệu dụng ấy là thị hiện 8 tướng thành đạo và 10 chỗ thuyết pháp.
Nhập định rồi xuất định ấy là từ bản tánh thanh tịnh mà hiện khởi
diệu dụng như vậy. Trở về dưới cây bồ đề ở châu Diêm phù của thế
giới mình, xuất định nói trên, ngồi trên Kim cang tòa là nói tắt về
sự thị hiện 8 tướng thành đạo.
- Trong
10 chỗ thuyết pháp, Kim cang tòa đầy bông hoa ánh sáng , cũng có thể
dịch Kim cang tòa rực rỡ hoa mỹ Kim cang tòa này ở dưới Bồ đề thọ
của Tịch diệt tràng. Cách 3 dặm về phía đông nam của Tịch diệt tràng
là Diệu quang đường (Phổ quang minh điện). Tại chỗ thứ 1 này chư
Phật nói về 10 biển cả thế giới, là nói về vi trần thế giới, nói về
vô tận Hoa tạng thế giới, thế giới Phạm võng. Còn 8 chỗ kế tiếp nói
về Bồ tát hạnh vị. Hạnh vị ấy tuy có 8 số 10, nhưng chính yếu là 30
tâm (10 trú 10 hạnh 10 hướng) và 10 địa, còn những hạnh vị khác chỉ
chuẩn bị (10 tín, chính văn này lược đi) hay bổ túc. Đến chỗ thứ 10
nói lại phẩm Pháp môn tâm địa mà, như đã nói, trong đó có Bồ tát
giới. Ngang đây lẽ đáng còn phải có câu như chính văn số 2 của đoạn
2 sau đây nói, "Rồi từ cung thiên vương ấy trở xuống ngồi dưới cây
bồ đề của châu Diêm phù, vì hết thảy chúng sinh phàm phu mê ám trên
đất này, nói lại giới pháp duy nhất mà đức bản thân Lô Xá Na đã nói
trong phẩm Pháp môn tâm địa của ngài".
- Và như
vậy, Bồ tát giới được từ đức Phật bản thân đến chư Phật hóa thân đều
nói, tại Liên hoa đài, tại Đại tự tại thiên cung, tại Bồ đề thọ.
- Về
pháp đã thuyết qua 10 chỗ, cuối Bồ tát giới Phạm võng tổng kết như
sau, "Nói tóm, ngàn lần trăm ức thế giới, Hoa tạng thế giới, và các
Hoa tạng thế giới khác nhiều như vi trần, cũng diễn về tất cả kho
tàng chánh pháp của chư Phật là kho tàng tâm, kho tàng địa, kho tàng
giới, kho tàng vô lượng hạnh nguyện và kho tàng nhân quả Phật tánh
thường trú".
-
Số 1: Đức Thích Ca
Bổn Sư Tự Thuật Ngài Cũng Chuyển Dạy Phẩm Pháp Môn Tâm Địa Như Chư
Phật
- Bấy
giờ Đức Thích Ca Mâu Ni từ Hoa tạng thế giới mà khởi đầu Ngài đã
hiện ra ở đó, hướng về phía đông, đi vào cung thiên vương, nói xong
kinh Ma vương chịu giáo hóa, rồi hạ sinh ở nước Ca di la thuộc châu
Diêm phù, mẹ là hoàng hậu Ma Da, cha là hoàng đến Bạch Tịnh, "Như
lai tên Tất Đạt, bảy năm xuất gia, thành đạo lúc ba mươi tuổi, danh
hiệu Thích Ca Mâu Ni, đầu tiên ngồi Kim cang tòa đầy bông hoa ánh
sáng tại Tịch diệt tràng, cuối cùng đến cung Đại tự tại thiên vương,
tuần tự thuyết pháp cả mười chỗ". Trong khi thuyết pháp tại cung Đại
tự tại thiên vương, Đức Thích Ca Mâu Ni nhìn tràng lưới của các Đại
Phạm thiên vương, nhân đó nói với họ, rằng vô lượng thế giới in như
mắt lưới, mỗi mỗi khác nhau, vô cùng vô tận; pháp môn Đức Lô Xá Na
dạy cũng y như vậy. Như lai nay đến thế giới này đã tám ngàn lần, vì
cả thế giới Ta bà mà ngồi Kim cang tòa đầy bông hoa ánh sáng, nói về
mười biển cả thế giới, cho đến đến cung Đại tự tại thiên vương này,
tóm tắt khai thị hoàn tất phẩm Pháp môn tâm địa cho đại chúng ở đây.
- Đây là
Đức Thích Ca Bổn Sư Tự Thuật, Ngài cũng chuyển dạy phẩm Pháp môn tâm
địa cho chúng sinh bằng 8 tướng thành đạo và 10 chỗ thuyết pháp; nói
cách khác, ngài cũng thể hiện diệu dụng của định Bông hoa ánh sáng
của thể tánh thanh tịnh.
- Thích
Ca Mâu Ni , hay Thích Ca, ở đây là Đức Thích Ca Bổn Sư. Ngài cũng
thị hiện 8 tướng thành đạo và 10 chỗ thuyết pháp. Tám tướng thành
đạo là giáng thần, nhập thai, trú thai, xuất thai, xuất gia, thành
đạo, chuyển pháp luân, nhập niết bàn. Sự tích như sau: Giáng trần là
từ nội viện Đâu suất, Phật giáng trần bằng hình tướng cỡi voi trắng
mà xuống vương cung Bạch tịnh. Nhập thai là Phật nhập vào hông trái
của hoàng hậu Ma Da. Trú thai là Phật ở trong thai mà không hôn mê,
vẫn thuyết pháp cho chư thiên. Xuất thai là ngày trăng tròn tháng tư,
từ hông phải của hoàng hậu Ma Da, Phật sinh ra ở hoa viên Lâm tỳ ni.
Xuất gia là 25 (23?) tuổi, Phật thoát vương cung, vào núi học đạo.
Thành đạo là sau 6 năm khổ hạnh, và sau khi ngồi trên tòa Kim cang,
hàng phục ma vương, Phật thành chánh giác dưới gốc bồ đề. Chuyển
pháp luân là Phật thuyết pháp, quảng độ chúng sinh trong 50 năm.
Nhập niết bàn là 80 tuổi, Phật nhập diệt dưới cây Sa la song thọ. Cả
8 tướng như vậy đều là sự thị hiện, và nói thị hiện, hay nói Đức Lô
Xá Na hóa ra Đức Thích Ca, là như thế đó, chứ không phải như là ảo
thuật. Cả 8 tướng như vậy toàn là tác dụng độ sinh, chứ không phải
chỉ có thuyết pháp mới độ sinh. Và cả 8 tướng như vậy hợp thành một
Đức Phật liệt ứng thân, nói cách khác, toàn là "bông hoa ánh sáng
của thể tánh thanh tịnh". Chính văn trên đây, 8 tướng này nói đã
lược, lại lược luôn cả chữ thị hiện.
- Hướng
về phía đông là vì Ta bà thế giới ở về phía đông Hoa tạng thế giới.
Vào cung thiên vương là cung Đại tự tại thiên vương (Vạn 60/334B)
Tịch diệt tràng là Bồ đề tràng; ở đó hóa thân của Phật thị hiện
chứng hữu dư niết bàn nên gọi là Tịch diệt tràng, thị hiện chứng vô
thượng Bồ đề nên gọi là Bồ đề tràng.
- Nói
thế giới và pháp môn mà ví dụ như Phạm võng, là nói đạo lý trùng
trùng duyên khởi. Thị hiện 8 tướng thành đạo ở Diêm phù, 1 trong 1
tỷ thành phần của đại thiên thế giới Ta bà, mà nói "vì cả thế giới
Ta bà mà thuyết pháp 10 chỗ", thì biết Đức Thích Ca Bổn Sư không
phải chỉ là một chiều thuộc về số lượng ngàn lần trăm ức Đức Thích
Ca hóa thân, thế giới ngài giáo hóa cũng không phải là một chiều
thuộc về số lượng ngàn lần trăm ức tiểu thế giới. Tóm tắt khai thị
hoàn tất phẩm Pháp môn tâm địa tức là cũng đã tóm tắt tụng lại Bồ
tát giới (phần Giới pháp vô tận trong phẩm Pháp môn tâm địa) cho các
vị đại căn đương cơ ở Đại tự tại thiên cung, chứ không phải chỉ nói
Bồ tát tâm địa còn Bồ tát giới về Diêm phù mới nói.
-
Số 2: Đức Thích Ca
Bổn Sư Nói Sẽ Nói Lại Bồ Tát Giới Phạm Võng
- Rồi từ
cung thiên vương ấy, Như lai trở xuống, ngồi dưới cây bồ đề của châu
Diêm phù, vì hết thảy chúng sinh phàm phu mê ám trên đất này, nói
lại giới pháp duy nhất mà đức bản thân Lô Xá Na của Như lai đã nói
trong phẩm Pháp môn tâm địa của ngài, giới pháp mà từ khi mới phát
tâm ngài đã thường tụng. Giới pháp ấy như ngọc kim cang sáng chói,
và là bản nguyên của chư Phật, của Bồ tát, là hạt giống Phật tánh.
Hết thảy chúng sinh đều có Phật tánh, nên toàn bộ thân tâm của chúng
sinh, thân ấy tâm ấy đều nhập vào trong giới pháp Phật tánh, và
đương nhiên có cái thân như vậy thì đương nhiên thực hiện pháp thân
thường trú. Về mười Ba la đề mộc xoa mà Như lai sẽ nói lại sau đây,
khi xuất hiện ở thế giới này, thì đó chính là giới pháp của Phật
pháp, là giới pháp mà hết thảy chúng sinh trong quá khứ vị lai và
hiện tại nên kính phụng thọ trì. Như lai sắp sửa vì cả đại chúng ở
đây mà trùng tuyên phần Giới pháp vô tận, giới pháp của hết thảy
chúng sinh, bản nguyên là tự tánh thanh tịnh.
- Đây là
Đức Thích Ca Bổn Sư nói sẽ nói lại Bồ tát giới Phạm võng (Giới pháp
vô tận) cho chúng sinh Diêm phù, Bồ tát giới mà bản thân Lô Xá Na
của ngài đã nói trong phẩm Pháp môn tâm địa và đã tụng từ khi mới
phát tâm, cho đến thành Phật rồi cũng vẫn thường tụng.
- Như
lai trở xuống, ngồi dưới cây bồ đề của châu Diêm phù, vì hết thảy
chúng sinh phàm phu mê ám trên đất này, nói lại giới pháp duy nhất
mà Đức Bản Thân Lô Xá Na của Như lai đã nói trong phẩm Pháp môn tâm
địa của ngài, giới pháp mà từ khi mới phát tâm ngài vẫn thường tụng
là nói Bồ tát giới là giới pháp mà thánh phàm cùng được truyền thọ
và thọ trì. "Nói lại giới pháp duy nhất..." chính văn là thuyết ngã
bản Lô Xá Na Phật tâm địa trung sơ phát tâm trung thường sở tụng
nhất giới. Tâm địa ở đây không phải là nhân địa để dịch tu nhân, mà
là gọi tắt tên phẩm Pháp môn tâm địa, như đã gọi như vậy ở đoạn đầu
và còn gọi như vậy ở đoạn cuối Bồ tát giới Phạm võng. Phật tụng giới,
không phải chỉ tụng trong khi tu nhân, lại càng không phải chỉ tụng
lúc mới phát tâm. Cả chính văn chỉnh cú và trường hàng trong đoạn 1
mục 2 và đoạn 2 mục 3 sau đây sẽ chứng tỏ từ khi mới phát tâm cho
đến lúc thành Phật rồi, Phật vẫn thường tụng. Chưa thành Phật thì
tụng để được thành, thành Phật rồi thì tụng để truyền thọ, như Phật
bản thân tụng lại và Phật hóa thân tụng lại nữa, tụng thành Bồ tát
giới Phạm võng này đây.
- Phật
tánh ở đây vừa có nghĩa bản thể vừa có nghĩa khả năng: bản thể là
Phật, và khả năng làm Phật, gọi là Phật tánh. Bản thể và khả năng ấy,
chính là thân tâm chúng ta đây. Như vậy, vì chúng sinh có Phật tánh,
nên thân là thân chúng sinh, tâm là tâm chúng sinh, mà thân tâm ấy
vẫn có thể thọ và trì được giới pháp Phật tánh, nên chính văn nói "Hết
thảy chúng sinh đều có Phật tánh, nên toàn bộ thân tâm của chúng
sinh, thân ấy tâm ấy đều nhập vào trong giới pháp Phật tánh".
- Câu
trên đây, chính văn là nhất thế chúng sinh giai hữu Phật tánh, nhất
thế ý thức sắc tâm, thị tình thị tâm giai nhập Phật tánh giới trung.
Trước hết, phải hiểu các chữ ý, thức, sắc, tâm, tình, tâm. Ý, thức,
tâm, 3 chữ ấy chỉ là "một nghĩa mà khác tên", vậy có thể và cần phải
gồm lại mà chỉ nói là tâm, cho rõ và đủ hơn. Còn sắc ở đây là 5 sắc
căn, tức nhãn căn cho đến thân căn; 5 căn này ngài La thập cũng hay
dịch là ngũ tình. Việc này không những thấy trong Pháp hoa (như phẩm
24), mà Trí độ luận (như cuốn 40) nói càng rõ, "5 tình là mắt vân
vân, gọi là nội thân; 5 trần là sắc vân vân, gọi là ngoại thân". Như
vậy thì chữ sắc ở đây cũng chính là chữ tình ở đây. Và sắc hay tình
là 5 căn, là chính cái thân tổng hợp 5 giác quan, vậy có thể và cần
phải gồm lại mà chỉ nói là thân, cho rõ và sát hơn. Sát hơn, vì lẽ
Bồ tát giới cũng như bao nhiêu giới pháp khác, không có thân như chư
thiên Vô sắc giới thì không thọ được, nên chính văn đoạn 3 mục 3 sau
đây kể ai cũng được thọ Bồ tát giới mà không kể chư thiên Vô sắc
giới. Vậy thì biết thân là yếu tố cần nhất trong việc thọ và trì
giới pháp Phật tánh, thân là Phật tánh.
- Nên
nói thêm chút nữa. Nói Phật tánh mà chỉ nói tâm thì không ai lạ gì,
nhưng nói thân vào (nói sắc vào) thì có nhiều người lúng túng. Lúng
túng đến nỗi phải lướt bỏ chữ sắc đi, lại hiểu chữ tình là tình thức.
Lúng túng như vậy là quên đi rằng, nói Phật tánh thì đúng là nói tâm,
nhưng tâm ấy là tâm tánh, gồm cả thân tâm và ngoại cảnh: toàn bộ
thân tâm và ngoại cảnh của tâm tánh đều bản thể là Phật, đều thành
khả năng làm Phật, nên gọi là Phật tánh cả. Phải hiểu như vậy về chữ
Phật tánh, nhất là chữ ấy ở đây. Và hiểu như vậy thì thấy chữ sắc
trong 6 chữ ý, thức, sắc, tâm, tình, tâm, chữ sắc ấy đúng là sắc căn
(nội sắc), nhưng nếu hiểu thêm rằng chữ sắc ấy cũng chỉ cho cả trần
cảnh (ngoại sắc), thì dẫu quá xa cũng vẫn đúng. Đúng, vì không cần
luận đến bản thể mà chỉ nói sự dụng, thì ngoại cảnh cũng là phương
tiện và khả năng giúp cho sự thọ trì Bồ tát giới, thực hiện Phật
tánh.
- Sau
hết, chính văn chỗ này có một định thức: có Phật tánh thì có thể thọ
trì Phật giới, thọ trì Phật giới thì thành tựu Phật quả là pháp thân
thường trú.
- Mười
ba la đề mộc xoa là 10 giới nặng. Nói về Bồ tát giới, phần nhiều hay
nói 10 giới nặng ấy, vì 10 giới nặng ấy là căn bản, còn 48 giới nhẹ
toàn là đẳng lưu. Nói 10 giới nặng xuất hiện thế gian là nói Bồ tát
giới xuất hiện, và 10 giới nặng ấy cũng gọi là 10 giới pháp vô tận
hay phần Giới pháp vô tận.
- Về 10
giới pháp vô tận, kinh Anh lạc cũng gọi như vậy, và cũng có ý như
Phạm võng, chỉ thứ tự có xê xích chút ít. Gọi là giới pháp vô tận,
vì giới pháp ấy thọ rồi, đời này đời khác, vẫn thường không mất, đi
theo hành giả cho đến thành Phật, lại nữa, giới pháp ấy lấy tâm làm
thể, tâm vô tận nên giới vô tận (Anh lạc, Chính 24/1020).
- Giới
pháp của Phật pháp , chính văn chỉ là pháp giới. Nhưng do từ ngữ
Phật pháp trung giới tạng (giới tạng trong Phật pháp, kho tàng giới
pháp trong Phật pháp) trong đoạn 3 mục 2 sau đây, và từ ngữ chư Phật
pháp giới (giới pháp của Phật pháp) ở đầu đoạn 2 mục 3 sau đây nữa,
mà biết pháp giới là gọi tắt những từ ngữ ấy, nên phải dịch rõ ràng
như vậy. Giới pháp của hết thảy chúng sinh, bản nguyên là tự tánh
thanh tịnh là gián tiếp định nghĩa về giới: giới là tự tánh thanh
tịnh, nên giới là của chúng sinh. Vì giới là của chúng sinh như vậy,
nên chúng sinh có thể và nên thọ trì. Và giới là tự tánh thanh tịnh
của chúng sinh, đó cũng là một cách nói về xuất xứ của Bồ tát giới
Phạm võng.
-
Đọan 1: Đức Thích Ca
Bổn Sư Thuật Lời Đức Phật Bản Thân Tụng Bồ Tát Giới Như lai Lô Xá
Na
- An tọa
Liên hoa đài,
- Xung
quanh Liên hoa đài
- Có cả
một ngàn cánh.
- Trên
ngàn cánh hoa ấy
- Như
lai hiện ngàn Phật,
- Tất cả
đồng một hiệu
- Hiệu
Thích Ca Thế Tôn.
- Mỗi
cánh hoa nói trên
- Có
trăm ức thế giới,
- Mỗi
thế giới lại có
- Một
Đức Thích Ca nữa;
- Các
Đức Thích Ca này
- Cùng
trong một thì gian
- Ngồi
dưới bồ đề thọ
- Thành
tựu vô thượng giác.
- Ngàn
và ngàn trăm ức
- Đức
Thích Ca nói trên,
- Toàn
thể chỉ là một
- Bản
thân Lô Xá Na.
- Một
ngàn lần trăm ức
- Đức
Thích Ca như vậy
- Cùng
tiếp dẫn đại chúng
- Số
lượng như vi trần,
- Tất cả
đều đưa đến
- Chỗ
Như lai an tọa,
- Để
nghe Như lai tụng
- Giới
pháp của chư Phật.
- Như
lai tụng hoàn tất
- Giới
pháp của chư Phật
- Là cửa
ngõ Cam lộ
- Tức
thì được khai mở.
- Các
câu 21-28 là nói ngàn trăm ức Đức Thích Ca đưa đại chúng đến chỗ Đức
Lô Xá Na, hỏi để ngài nói phẩm Pháp môn tâm địa, lại nghe ngài tụng
Bồ tát giới thành phần Giới pháp vô tận của phẩm Pháp môn tâm địa.
Đối với tâm địa thì nói Phật nói, đối với giới pháp thì nói Phật
tụng, chữ tụng ấy đưa Bồ tát giới Phạm võng lên tột đỉnh của sự quan
trọng. Cửa ngõ Cam lộ là niết bàn: niết bàn là thần dược bất tử, nên
cũng có tên Cam lộ.
-
Đoạn 2: Đức Thích Ca
Bổn Sư Thuật Sự Tụng Lại Bồ Tát Giới Của Chư Phật Hóa Thân
- Bấy
giờ ngàn trăm ức
- Đức
Thích Ca Thế Tôn
- Về lại
bồ đề tràng
- Ngồi
dưới bồ đề thọ,
- Cùng
tụng lại giới pháp
- Của
Đức Phật bản thân,
- Gồm có
mười giới nặng
- Và bốn
tám giới nhẹ.
- Giới
pháp ấy in như
- Vầng
thái dương sáng chói
- Ánh
trăng rằm quang rạng
- Và
chuổi ngọc quí báu;
- Hết
thảy các Bồ tát
- Nhiều
như số vi trần,
- Đều do
giới pháp này
- Mà
thành Đẳng chánh giác.
- Tám
câu cuối cùng là tán dương năng lực của Bồ tát giới: giới ấy thực
hiện trí tuệ như nhật nguyệt và viên mãn phước đức như chuổi ngọc,
nên làm cho vi trần Bồ tát được thành Phật đà. Đó là lý do vì sao
đức Phật bản thân đã tụng ra và chư Phật hóa thân còn tụng lại về Bồ
tát giới. Đẳng chánh giác hay chánh biến tri, là tuệ giác của Phật
chứng ngộ một cách như sở hữu tánh về bản thể và tận sở hữu tánh về
hiện tượng.
-
Đoạn 3: Đức Thích Ca
Bổn Sư Mở Đầu Để Tụng Lại Bồ Tát Giới Y Như Chư Phật Hóa Thân
- Giới
pháp đức bản thân
- Lô Xá
Na đã tụng,
- Như
lai cũng tụng lại
- Hoàn
toàn y như vậy
- Nên
tất cả các người
- Bồ tát
mới tu học,
- Hãy
hết lòng tôn kính
- Thọ
trì giới pháp ấy.
- Các
người đã thọ trì
- Giới
pháp như vậy rồi,
- Lại
đem giới pháp ấy
- Chuyền
trao cho chúng sinh.
- Vậy
tất cả các người
- Hãy
chú ý lắng nghe
- Như
lai tụng chính xác
- Giới
tạng trong Phật pháp.
- Giới
tạng ấy chính là
- Ba la
đề mộc xoa,
- Nên
hết thảy đại chúng
- Chí
tâm mà thâm tín;
- Thâm
tín rằng chính mình
- Là đức
Phật sẽ thành
- Y như
Như lai đây
- Là đức
Phật đã thành,
- Thường
thâm tín như vậy,
- Giới
pháp đã đầy đủ.
- Bất cứ
là loài nào
- Hễ vốn
có tâm tánh,
- Thì
đều nên lãnh thọ
- Giới
pháp của chư Phật.
- Chúng
sinh mà lãnh thọ
- Giới
pháp của chư Phật,
- Thì kẻ
ấy tức thì
- Nhập
vào cương vị Phật;
- Cương
vị đã đồng thể
- Với
chư Phật đại giác,
- Thì
người ấy đích thực
- Là con
của chư Phật.
- Vậy
tất cả đại chúng
- Cung
kính mà lắng nghe,
- Như
lai sẽ tụng lại
- Giới
pháp của chư Phật.
- Đức
Thích Ca Bổn Sư mở đầu tụng lại Bồ tát giới với 4 cách. Một, khuyên
Bồ tát tự mình thọ trì, lại truyền thọ cho chúng sinh. Bồ tát mới tu
học là mới phát đại bồ đề tâm học tập làm Phật. Nói Bồ tát mới tu
học không có nghĩa chỉ các vị Bồ tát này mới cần thọ trì và truyền
thọ Bồ tát giới, mà là nói ngay như các vị này đã phải làm như vậy,
huống chi các vị trên nữa. Hai, nói muốn có giới pháp đại thừa thì
phải có đức tin đại thừa. Đức tin ấy là tin mình sẽ làm Phật. Ba,
vừa khuyên vừa nói yếu tố thọ trì giới pháp. Yếu tố ấy là có tâm
tánh thì có thể và nên thọ trì. Tâm tánh là thể tánh của cả thân tâm
và ngoại cảnh. Bốn, nói hiệu lực của giới pháp. Là chúng sinh, nhưng
thọ Phật giới thì nhập Phật vị và được gọi là Phật tử. Cương vị Phật
là Phật vị: cương vị của các đấng đại giác. Cương vị ấy kể từ khi
mới phát đại bồ đề tâm cho đến lúc đã thành vô thượng bồ đề. Cắt
nghĩa như vậy là nói về tiệm nhập (vào dần). Nhưng thật ra cũng có
trường hợp đốn nhập (vào ngay). Văn khí chỗ này nói tuy có vẻ đốn
nhập, nhưng nói để khuyến khích, chứ không phải chỉ đề cao và thừa
nhận sự đốn nhập.
-
Đoạn 1: Qui Định
Hiếu Là Giới
- Bấy
giờ Đức Thích Ca Mâu Ni ngồi dưới cây bồ đề, thành tựu tuệ giác vô
thượng rồi, bắt đầu qui định về Bồ tát giới, rằng sự hiếu thuận đối
với cha mẹ, đại sư, chư tăng, đối với Tam Bảo sự hiếu thuận phù hợp
chánh pháp chí thượng, sự hiếu thuận ấy gọi là giới, cũng gọi là
năng lực chế ngự đình chỉ mọi sự tội lỗi. Đức Thế Tôn liền từ miệng
vàng phóng ra ánh sáng vô lượng. Lúc ấy đại chúng có đến trăm vạn ức,
các vị Bồ tát, các vị Phạm thiên trong mười tám tầng trời cõi Sắc,
các vị thiên nhân trong sáu tầng trời cõi Dục, các vị quốc vương của
mười sáu nước cường đại, đều chắp tay, khuynh tận tâm trí, lắng nghe
Đức Thế Tôn tụng lại giới pháp đại thừa của hết thảy chư Phật.
- Bấy
giờ Đức Thích Ca Mâu Ni ngồi dưới cây bồ đề, thành tựu tuệ giác vô
thượng rồi, bắt đầu qui định về Bồ tát giới , nói như vậy là nói tắt;
rõ thì phải nói thị hiện thành đạo, tuần tự thuyết pháp 10 chỗ, rồi
trở lại ngồi dưới bồ đề thọ, tụng lại Bồ tát giới, bằng cách trước
hết qui định về giới ấy. Hiếu thuận đối với cha mẹ, đại sư, chư tăng,
trong chữ cha mẹ gồm có chúng sinh, vì lẽ hiếu thuận ở đây là coi
tất cả chúng sinh đều đã là sẽ là và đang là cha mẹ bà con của mình.
Còn đại sư là 2 vị đại sư: đại sư hòa thượng (vị thầy truyền giới)
và đại sư xà lê (vị thầy chỉ dạy cách nói và làm trong sự thọ giới).
Không dịch đại sư hòa thượng và đại sư xà lê, chỉ dịch đại sư, là vì
Bồ tát giới thì 1 vị mà làm 2 nhiệm vụ này (đến giới nhẹ 41 sẽ nói
rõ hơn), nên nhiều chỗ chính văn sau đây hay nói là vị pháp sư (đặc
biệt trong giới nhẹ 23). Hiếu thuận đối với cha mẹ, đại sư, chư tăng,
đối với Tam Bảo, sự hiếu thuận ấy căn bản phù hợp Phật pháp tối
thượng. Sự hiếu thuận như vậy chính là giới pháp, có sức mạnh ngăn
chận và loại bỏ tội ác. Các pháp số 18 tầng trời cõi Sắc, 6 tầng
trời cõi Dục, 16 nước cường đại, đều dễ tra cứu.
- Sau
hết, nên nói lại từ ngữ tuệ giác vô thượng. Từ ngữ ấy chính văn là
vô thượng giác. Do chữ này của chính văn ở đây mà biết không phải
ngài La thập chỉ dịch tắt A nậu đa la tam miệu tam bồ đề là vô
thượng đạo, mà cũng dịch tắt là vô thượng giác. Chữ bồ đề, ngài cũng
dịch là giác, chứ không phải chỉ dịch là đạo.
-
Đoạn 2: Qui Định Tất
Cả Bồ Tát Vị Phải Tụng Bồ Tát Giới Phạm Võng
- Đức
Thế Tôn dạy các vị Bồ tát, nay Như lai cứ nửa tháng nửa tháng đích
thân tụng lại giới pháp của Phật pháp. Các người, những vị Bồ tát
mới phát tâm cho đến những vị Bồ tát mười phát thú mười trưởng dưỡng
mười kim cang và mười địa, cũng phải tụng y như vậy. Vì lý do ấy mà
ánh sáng giới pháp từ miệng Như lai tuôn ra. Ánh sáng ấy có lý do
chứ không phải không có. Nhưng ánh sáng ấy không phải xanh vàng đỏ
trắng đen, không phải vật lý tâm lý, không phải khái niệm có không,
không phải tính cách nhân quả; mà là bản nguyên của chư Phật, là căn
bản của Bồ tát, căn bản của chính đại chúng Phật tử các người. Vì
vậy, đại chúng Phật tử các người phải thọ trì, phải đọc tụng, phải
khéo học.
- Bồ tát
vị, như đã nói, ngoài sơ phát tâm và thập tín trước đó, chính yếu
gồm có thập trú (phát thú) thập hạnh (trưởng dưỡng) thập hướng (kim
cang) và thập địa. Hoa nghiêm nói thập trú thập hạnh thập hướng và
thập địa, còn Phạm võng nói 30 tâm và 10 địa, ý nghĩa thì đồng, chỉ
danh từ có khác (Vạn 60/305B). Tất cả Bồ tát vị này đều phải bố tát
tụng Bồ tát giới, vì giới ấy căn bản là thật tướng bát nhã (biểu thị
bằng ánh sáng siêu việt của Phật).
-
Đoạn 3: Qui Định
Điều Kiện Lãnh Thọ Bồ Tát Giới Phạm Võng
- Phật
tử, lắng nghe cho kỹ: Muốn lãnh thọ giới pháp của chư Phật thì không
cứ quốc vương, vương tử, tể tướng, bách quan, tỷ kheo, tỷ kheo ni,
Phạm thiên mười tám tầng trời cõi Sắc, thiên nhân sáu tầng trời cõi
Dục, tất cả dân chúng, những kẻ hoàng môn, dâm nam dâm nữ, nô bộc tỳ
thiếp, quỉ thần trong tám bộ, thần Kim cang, súc sinh, cho đến những
kẻ biến hóa, hễ ai hiểu được tiếng nói của vị pháp sư truyền giới,
thì đều có thể thọ giới và được giới - đều có thể trở thành người
thanh tịnh bậc nhất.
- Điều
kiện thọ Bồ tát giới chỉ là và phải hiểu rõ tiếng nói của vị thầy
truyền giới. Chính văn trên đây kể ra khá nhiều kẻ mà đối với Tỷ
kheo giới không được thọ, vậy mà những kẻ ấy được thọ Bồ tát giới,
chứng tỏ giới pháp này cực kỳ bao dung và quảng đại. Tuy nhiên,
những loài không có sắc thân như Vô sắc giới, hay những kẻ có sắc
thân mà thân ấy đi đôi với tâm quá dữ, quá đần, vô tín ngưỡng (như
giới nhẹ 42 nói) thì cũng không thọ được Bồ tát giới. Dầu vậy, việc
thọ Bồ tát giới vẫn tương đối dễ dàng. Nhưng dễ thọ không có nghĩa
Bồ tát giới không tôn, không nghiêm, không khó như Tỷ kheo giới; chỉ
vì Tỷ kheo giới là bản thể Tăng bảo nên điều kiện thọ giới ấy phải
tương đối khó hơn mà thôi.