-
CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT
-
Thích Thiện Siêu
-
---o0o---
- Khai Đạo Giới
Tử
- Thọ Bồ-Tát
Giới
- Chư vị
Giới tử,
- Chư vị
đã thọ Sa-di giới, đã thọ Tỳ-kheo giới; chư vị sắp sửa thọ Bồ-tát
giới. Bồ-tát giới nói cho đủ là Đại thừa Bồ-tát tâm địa giới. Danh
từ Bồ-tát nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa; nghĩa là Giác hữu tình. Một
chúng sinh, một hữu tình đã có sự giác ngộ, đồng thời phát nguyện
giác ngộ cho kẻ khác gọi là Bồ-tát. Danh từ Bồ-tát đó chẳng những
hôm nay các vị được mang, mà trước đây những vị thọ giới Bồ-tát cũng
đã được mang và mười phương Bồ-tát mà chúng ta hằng kính lễ cũng
được mang.
- Cùng
một danh từ Bồ-tát, nhưng phân biệt ra có:
- - Sơ
phát tâm Bồ-tát,
- - Gia
hạnh Bồ-tát,
- - Địa
thượng Bồ-tát,
- - Địa
hậu Bồ-tát khác nhau.
- Như
hôm nay, các vị phát tâm thọ giới Bồ-tát, là chỉ mới phát tâm thôi,
chưa làm gì xứng đáng với sự phát tâm ấy, chưa hoàn thành những giới
hạnh của một vị Bồ-tát thì chỉ được gọi là Sơ phát tâm Bồ-tát. Từ đó,
tu tập trải qua các giai đoạn Tín, Trụ, Hạnh, Hướng, tu luyện theo
những pháp môn Đại thừa mà Đức Phật đã chỉ dạy thì gọi là Gia hạnh
Bồ-tát. Nhờ sự gia hạnh đó mà vô minh sẽ diệt bớt, chân như sẽ được
chứng thành, dần dần nhập vào Sơ địa, Nhị địa, Tam địa, Tứ địa, cho
đến Thập địa. Những Bồ-tát ở địa vị này được gọi là Địa thượng
Bồ-tát.Các vị ấy, sau khi đã thành tựu Đắng giác, Diệu giác, vẫn tùy
duyên hóa độ chúng sinh dưới nhiều hình thức, dưới nhiều căn cơ,
dưới nhiều phương tiện. Tính cách tùy duyên hóa độ, không trú
Niết-bàn của các Đức Phật, gọi là Địa hậu Bồ-tát. Vậy cùng một danh
từ Bồ-tát nhưng có Sơ phát tâm Bồ-tát, Gia hạnh Bồ-tát, Địa thượng
Bồ-tát, Địa hậu Bồ-tát khác nhau. Hiểu rõ như thế chúng ta mới có
một ấn tượng rõ rệt để phát tâm một cách vững chắc, tu hành một cách
sáng suốt. Địa vị đã khác nhau như thế, thì tại sao chúng ta cũng
được gọi là Bồ-tát, các vị Gia hạnh, Địa thượng, Địa hậu cũng gọi là
Bồ-tát cả? Bởi vì tuy cấp bậc khác nhau, nhưng có một điểm đồng nhất,
đó là Bồ-đề tâm. Bắt đầu phát Bồ-đề tâm là phát tâm thượng cầu hạ
hóa (trên cầu được giác ngộ, dưới cầu hóa độ chúng sinh). Tâm đó
phát ra giờ phút nào thì chính giờ phút đó, chúng ta được gọi là
Bồ-tát. Tâm ấy bền chắc mãi mãi, suốt thời gian không gian không bao
giờ lay chuyển, cho đến khi trải qua các địa vị Gia hạnh, Địa thượng,
Địa hậu vẫn một tâm Bồ-đề ấy, không khác gì một sợi chỉ xuyên các
hột chuỗi. Nhìn vào địa vị thì có Sơ phát tâm Bồ-tát, Gia hạnh
Bồ-tát, Địa thượng Bồ-tát, Địa hậu Bồ-tát khác nhau. Chúng ta không
thể nào sánh bằng Đức Quán Thế Âm, Đức Đại Thế Chí; chúng ta cũng
không thể nào sánh bằng những vị Bồ-tát trên các địa vị Tín, Trụ,
Hạnh, Hướng ở Thập địa... nhưng bên trong vẫn là một tâm Bồ-đề xuyên
suốt tất cả. Vì cái tâm Bồ-đề xuyên suốt tất cả đó mà tất cả đều
được mang danh từ Bồ-tát, căn cứ vào sự phát Bồ-đề tâm. Như Đức Bổn
Sư Thích-Ca của chúng ta, lúc ban sơ cũng là một chúng sinh lăn lộn
trong vòng luân hồi đau khổ. Một hôm nọ, như bao nhiêu chúng sinh
khác trong cảnh địa ngục, phải vất vả kéo xe mà còn bị ngục tốt hành
hạ, Ngài phát tâm mong sao cho mình được mạnh khỏe để kéo thay cho
tất cả những chúng sinh khác để họ khỏi bị hành hạ. Bắt đầu từ đó,
Ngài phát một tâm lợi tha. Tâm ấy là căn bản, rồi từ đấy chuyển
nghiệp tiến tu, cho đến khi thành Phật, tâm Bồ-đề ấy vẫn không dứt
đoạn. Cũng vì sự phát lâm ấy là một sự phát tâm rộng lớn, căn cứ vào
Đại thừa tánh, nên Kinh thường tán thán rằng những người nào phát
Bồ-đề tâm tức là đã thành giác ngộ, không cần trải qua các địa vị,
vì đã cầm chắc trong tay quả vị giác ngộ rồi. Bởi thế, sự phát Bồ-đề
tâm trở thành Bồ-tát là một điều hết sức quan trọng.
- Khi
Đức Phật dạy các giới pháp Sa-di và Tỳ-kheo, khi chúng ta lãnh thọ
các giới pháp ấy, là chúng ta đã trở thành những người xuất gia với
những giới luật và tư cách đã đầy đủ lắm rồi. Nhưng còn phương diện
lợi tha, hành đạo rộng rãi vô biên nữa nên Phật mới căn cứ vào tâm
địa giác là giác tánh có sẵn ở trong tất cả chúng sinh cũng như nơi
Đức Phật và Bồ-tát. Tất cả đều có tâm địa giác, nhưng ở chúng ta thì
không thành tâm địa giới, bởi vì tâm địa giác ở chúng ta không được
để ý, không được khai thác, không được khuếch tr
ương, không được hiểu
biết. Tâm địa giác nơi chúng ta luôn bị vùi lấp dưới những hành vi
sai quấy, những nghiệp chướng nặng nề, những tâm niệm ích kỷ, nên
không thành Đại thừa tâm địa giới. Phật thấy chúng sinh đã có tâm
địa giác nhưng chưa có tâm địa giới, nên mới căn cứ vào tâm địa giác
đó mà đặt ra
những điều mục tu hành để thành tựu tâm địa giới. Tâm địa giới ấy
gọi là Đại thừa Bồ-tát tâm địa giới mà hôm nay các vị sắp thọ. Tâm
địa chúng ta vốn có khả năng ngăn ngừa tất cả điều ác, Phật từ đó
chế ra Nhiếp luật nghi giới. Tâm địa chúng ta vốn đủ khả năng làm
mọi điều lợi ích, chuyển nghiệp, căn cứ vào đó Phật đặt
ra Nhiếp thiện pháp giới. Tâm địa chúng ta vốn là giác tánh bình
đẳng, lợi lạc hữu tình, từ bi hỷ xả, quảng đại vô biên, vô lậu, Phật
căn cứ vào đó chế ra Nhiếp chúng sinh giới (Nhiêu ích hữu tình giới).
Tu tập theo Nhiếp luật nghi giới, chúng ta ngăn ngừa mọi tội lỗi ba
nghiệp thân miệng ý. Tu tập theo Nhiếp thiện pháp giới, chúng ta làm
mọi việc lành, ba ngàn oai nghi, tám vạn tế hạnh hay tám muôn bốn
nghìn pháp môn mà Đức Phật đã chỉ giáo cho chúng ta tu hành. Nhiếp
luật nghi giới là 10 giới trọng cấm và 48 giới khinh mà kinh Phạm
Võng đã đề ra và lát nữa đây các vị sẽ thọ. Tám vạn bốn nghìn pháp
môn là những pháp môn phụng thờ Tam Bảo, thừa sự Như Lai, không phải
một hai Đức Phật mà vô lượng Đức Phật. Với một tâm Đại thừa quả cảm,
dõng mãnh tinh tấn phụng thờ Tam Bảo mà khi gặp Đức Phật Đề-Sa đi
ngang qua, Ngài (Bồ-tát Thích-Ca Văn) đã say sưa chiêm ngưỡng Đức
Phật trong bảy ngày; một cái chân giơ lên, không để xuống mà không
biết; mắt không nháy mà không hay. Lúc đó Ngài chỉ thấy việc tán
dương Đức Phật là sung sướng, quý báu hơn tất cả, thời gian không có
nữa đối với Ngài. Nhiếp thiện pháp giới có vô số phương pháp tu tập,
nhưng nói tóm Tứ nhiếp, Lục độ là những phương pháp viên mãn nhất để
lợi lạc chúng sinh. Cuối cùng, vượt lên trên tất cả Nhiếp luật nghi
giới, Nhiếp thiện pháp giới là Nhiếp chúng sinh giới. Đây là một
điều nhằm vào sự cứu độ chúng sinh, lợi lạc hữu tình. Trong Sa-di
giới, Tỳ-kheo giới, sự cứu độ này được coi nhẹ, nhưng ở Bồ-tát giới
thì rất trọng. Vì lẽ, một tâm Bồ-đề “thượng cầu hạ hóa” là một tâm
nhìn xa, thấy rộng, biết sâu không phải là một tâm còn hạn cuộc
trong một chúng sinh, trong một thân ngũ uẩn. Tâm đó vượt ngoài biên
cương của một thể xác để nhìn khắp tất cả chúng sinh cùng chung một
tâm địa giác như mình, khổ đau như mình, cùng chung một khả năng
giác ngộ như mình, để theo niệm đại bi đồng thể đó mà cứu độ tất cả.
Tu tập theo đó là Nhiếp chúng sinh giới.
Nói tóm lại, Bồ-tát giới chia ra từng đề mục, 10 giới
trọng, 48 giới khinh, nhưng tóm tắt có ba mục chính yếu gọi là:
- 1-
Nhiếp luật nghi giới: ngăn ngừa tất cả tội lỗi.
- 2-
Nhiếp thiện pháp giới: làm tất cả việc lành.
- 3-
Nhiếp chúng sinh giới: làm những việc ích lợi chúng sinh.
- Trong
Tỳ-kheo hay Sa-di giới, Đức Phật dạy chúng ta chú trọng vào việc
giải thoát sinh tử luân hồi. Sự giải thoát sinh tử này nhằm vào bản
thân, nên giới cấm đầu tiên, Đức Phật răn chúng ta bất dâm, rồi mới
đến bất đạo, bất sát, bất vọng. Dục là căn bản của vô lượng sinh tử
luân hồi. Còn nước ái dục thì gốc luân hồi còn sinh mãi; nước ái dục
hết thì gốc luân hồi sẽ phải cháy khô. Thấy rõ như vậy, nên Đức Phật
dạy người xuất gia, muốn cầu giải thoát thì phải chú trọng đến việc
diệt trừ ái dục. Do đó, giới trọng đầu tiên của Tỳ-kheo là bất dâm,
rồi mới đến bất đạo, bất sát, bất vọng. Trong Bồ-tát giới, không
phải chỉ ngó vào mình mà xoay cái nhìn vào chúng sinh, cho nên giới
trọng đầu tiên là bất sát rồi mới đến bất đạo, bất dâm, bất vong.
Trong Tỳ-kheo thì bất dâm đứng đầu, trong Bồ-tát giới thì bấl sát
đứng đầu, vì Bồ-tát xem việc cứu chúng sinh trọng hơn việc giải
thoát luân hồi sinh tử của bản thân. Vì sự sai biệt ấy, nên nếu muốn
hoàn thành cả hai khía cạnh tự giác giác tha, tự lợi lợi tha thì
phải thọ cả giới Sa-di, Tỳ-kheo và Bồ-tát. Cũng chính vì lẽ đó, mà
sau khi thọ Sa-di giới, Tỳ-kheo giới, các vị đã hăng hái thọ thêm
Bồ-tát giới.
- Cái
nhìn đã khác, mục đích đã khác, cho nên những điều mục tu hành ở
Bồ-tát giới cũng khác. Chẳng hạn, ở giới Sa-di, uống rượu là một
trọng tội, nhưng qua giới Bồ-tát, bán rượu là một trọng tội, đem
ruợu mời kẻ khác là một trọng tội, vì lẽ trong khi uống rượu, mình
chỉ mất phần tự lợi, còn bán rượu hay mời rượu là làm hại bao nhiêu
người khác. Đó là cách phân biệt để thấy rõ sự khác biệt, sự liên hệ
giữa hai giới. Vậy nhằm vào việc giải thoát bản thân, chúng ta nên
giữ giới Tỳ-kheo, nhằm mục đích lợi tha thì nên giữ giới Bồ-tát.
- Giới
Bồ-tát luôn luôn nhìn đến chúng sinh dưới những khía cạnh đau khổ mà
chúng sinh phải gánh chịu. Chính những đau khổ đó, mình cũng mắc
phải, nhưng kẻ không có Bồ-đề tâm thì không bao giờ biết. Bằng vào
sự khổ của mình mà thông cảm với nỗi khổ của người khác; bằng vào sự
ưa muốn của mình mà cảm thông sự ưa muốn của kẻ khác; do đó, cứ muốn
chúng ta sống mà không biết đến kẻ khác chết, cứ muốn chúng ta vui
mà không kể gì đến kẻ khác khổ. Vì thiếu tâm Bồ-đề nên không bao giờ
có được sự thông cảm đại đồng đó mà thuật ngữ Phật giáo gọi là đồng
thể đại bi. Người thọ giới Bồ-tát luôn luôn đem tâm Bồ-đề thông cảm
với mọi chúng sinh qua những cạnh khía an lạc, khổ đau để cứu giúp
tất cả Đó là yếu điểm của tâm Bồ-đề, của giới bổn Bồ-tát.
- Giới
Bồ-tát muốn thọ trì, truớc hết phải phát Bồ-đề tâm, vì đây là giới
mà Đức Phật đã căn cứ vào tâm địa giác để chế ra. Có Bồ-đề tâm thì
giới ấy mới được thành tựu; mất Bồ-đề tâm thì giới ấy không thể hành
trì. Bồ-đề tâm là tâm viên mãn, tâm giải thoát, tâm giác ngộ, tâm vô
ngã, vô nhân, vô chúng sinh, vô thọ giả, như trong Kinh Kim Cang
Phật dạy: “Dĩ vô ngã, vô nhân, vô chúng sinh, vô thọ giả, tu nhất
thiết thiện pháp tức đắc A-nậu-đa-la tam-miệu-tam-bồ-đề; nhược hữu
ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, tức thị ma nghiệp”.
- Nhờ
phát Bồ-đề tâm mà chúng ta có thể thành tựu được trí giác sáng suốt,
không bị vô minh mù quáng che lấp. Cho nên những vị Bồ-tát có khi
làm những việc long trời lở đất mà chúng ta không thể làm, nếu không
sáng suốt. Và giả như có nhắm mắt làm càn cho long trời lở đất thì
lại thành ra tai nạn. Bởi thế, phát Bồ-đề tâm cũng là tôi luyện trí
Bát-nhã để có thể nhìn thấy mọi khía cạnh của việc làm lợi lạc chúng
sinh. Phát Bồ-đề tâm, hành Bồ-tát giới là phát bốn hoằng thệ nguyện:
- -
Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ,
- -
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn,
- - Pháp
môn vô lượng thệ nguyện học,
- - Phật
đạo vô thượng thệ nguyện thành.
- Bốn
đại nguyện là duyên theo Bốn đế mà phát ra. Một người muốn giữ trọn
Bồ-tát giới phải phát Bồ-đề tâm, lập bốn đại nguyện. Từ căn bản đó
mới phát sinh, thành tựu các giới đức viên mãn.
- (Khai
đạo Giới tử thọ Bồ-tát giới tại giới đàn Vĩnh Gia, năm 1970).