-
ĐỂ
CHO TƯƠNG LAI CÒN CÓ MẶT
-
CHÚ GIẢI VỀ NĂM GIỚI
-
---o0o---
-
-
Phần
năm: Nghi thức
-
Nghi thức
truyền
thọ ba quy và năm giới
- Người chủ lễ nghi
thức này là một người có đạo đức được đại chúng kính nể, đang hành
trì Giới Khất Sĩ, Giới Nữ Khất Sĩ, Giới Bồ Tát Xuất Gia hya Giới
Tiếp Hiện Xuất Gia đã được truyền đăng làm Giáo Thọ hoặc đã được đặc
biệt cho phép trao truyền Năm Giới.
- 1- Thiền
Hành (30 phút, sau khi được
hướng dẫn)
- 2- Thiên
Toạ (12 phút, sau khi được
hướng dẫn)
- 3- Dâng
Hương
- Đại chúng chắp tay
trước bàn thờ. Vị chủ lễ dâng hương lên và xướng kệ Dâng Hương sau
ba tiếng chuông bắt đầu, trong khi mọi người quán tưởng theo lời kệ:
- - “Lò
báu đốt danh hương
- Khói
trầm quyện toả khắp mười phương
- Tâm Bồ
Đề dũng liệt phi thường
- Tiếp
xúc đâu cũng phóng hào quang
- Khắp
chốn an định tỏ tường
- Kính
thành phụng hiến đức Từ Tôn,
- Chúng
con kính dâng hương lên Bụt và chư vị Bồ Tát”. (C)
- 4- Tán
Dương
- Hương đã cắm vào
bình, vị chủ lễ xướng, đại chúng chắp tay quán tưởng theo:
- - "Xinh
tốt như hoa sen
- Rạng
ngời như Bắc Đẩu
- Xin
quay về nương náu
- Bậc
Thầy của nhân, thiên.
- Sen
quý nở đài giác ngộ
- Hào
quang chiếu rạng mười phương
- Trí
tuệ vượt tầm pháp giới
- Từ bi
thấm nhuận non sông.
- Vừa
thấy dung nhan Điều Ngự
- Trăm
ngàn phiền não sạch không
- Hướng
về tán dương công đức
- Tinh
chuyên Đạo nghiệp vun trồng”.
- Nam mô
Đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni. (C)
- 5- Lạy
Bụt
- Vị chủ lễ xướng các
danh hiệu sau đây, và đại chúng lạy xuống một lạy theo tiếng chuông
gia trì sau mỗi danh hiệu:
- - Nhất
tâm kính lễ Bụt, Pháp, và Tăng thường trú trong mười phương (C)
- - Nhất
tâm kính lể Đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)
- - Nhất
tâm kính lễ Đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (C)
- - Nhất
tâm kính lễ Đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền. (C)
- - Nhất
tâm kính lễ Đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm. (C)
- - Nhất
tâm kính lễ Đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương. (C)
- - Nhất
tâm kính lễ Tôn Giả Thượng Thủ Ma Ha Ca Diếp. (C)
- - Nhất
tâm kính lễ Tôn Giả Đại Trí Trưởng Lão Xá Lợi Phất. (C)
- - Nhất
tâm kính lễ Tôn Giả Đại Hiếu Ma Ha Mục Kiền Liên. (C)
- - Nhất
tâm kính lễ Tôn Giả Luật Sư Ưu Ba Ly. (C)
- - Nhất
tâm kính lễ Tôn Giả Khải Giáo A Nan Đà. (C)
- - Nhất
tâm kính lễ Tôn Giả Ni Trưởng Kiều Đàm Di. (C)
- - Nhất
tâm kính lễ liệt vị Tổ Sư qua các thời đại từ Thiên Trúc cho đến
Việt Nam. (CC)
- 6- Trì
Tụng
- Đại chúng an toạ
trên toạ cụ thành hai hàng đối diện nhau. Duy Na và Duyệt Chúng khai
chuông mõ. Vị chủ lễ xướng Kệ Khai Kinh và Tâm Kinh:
- - “Nam
mô Đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni”. (3 lần). (C)
- -
“Giới luật cao siêu mầu nhiệm
- Cơ
duyên may được thọ trì
- Xin
nguyện đi vào biển tuệ
- Tinh
thông giáo nghĩa huyền vi”. (CC.)
-
Kinh Tinh Yếu Bát
Nhã Ba La Mật Đa (C)
- - “Bồ
tát Quán Tự Tại
- Khi
quán chiếu thâm sâu
- Bát
Nhã Ba La Mật
- Tức
diệu pháp Trí Độ
- Bỗng
soi thấy năm uẩn
- Đều
không có tự tánh
- Thực
chứng điều ấy xong
- Ngài
vượt thoát tất cả
- Mọi
khổ đau ách nạn. (C)
- “Nghe
đây, Xá Lợi Tử:
- Sắc
chẳng khác gì Không
- Không
chẳng khác gì Sắc
- Sắc
chính thực là Không
- Không
chính thực là Sắc
- Còn
lại bốn uẩn kia
- Cũng
đều như vậy cả. (C)
- Xá Lợi
Tử nghe đây:
- Thể
mọi pháp đều Không
- Không
sanh cũng không diệt
- Không
nhơ cũng không sạch
- Không
thêm cũng không bớt.
- Cho
nên trong tánh Không
- Không
có sắc, thọ, tưởng,
- Cũng
không có hành, thức
- Không
có nhãn, nhĩ, tỷ,
- Thiệt,
thân, ý - sáu căn
- Không
có sắc, thanh, hương,
- Vị,
xúc, pháp - sáu trần
- Không
có mười tám giới
- Từ
nhãn đến ý thức
- Không
hề có vô minh
- Không
có hết vô minh
- Cho
đến không lão tử
- Cũng
không hết lão tử
- Không
Khổ, Tập, Diệt, Đạo
- Không
trí cũng không đắc. (C)
- Vì
không có sở đắc
- Khi
một vị Bồ Tát
- Nương
diệu pháp Trí Độ
- Bát
Nhã Ba La Mật
- Thì
tâm không chướng ngại
- Vì tâm
không chướng ngại
- Nên
không có sợ hãi
- Xa lìa
mọi mộng tưởng
- Xa lìa
mọi điên đảo
- Đạt
Niết Bàn tuyệt đối. (C)
- Chư
Bụt trong ba đời
- Y diệu
pháp Trí Độ
- Bát
Nhã Ba La Mật
- Nên
đắc vô thượng giác.
- Vậy
nên phải biết rằng
- Bát
Nhã Ba La Mật
- Là
linh chú đại thần
- Là
linh chú đại minh
- Là
linh chú vô thượng
- Là
linh chú tuyệt đỉnh
- Có
năng lực tiêu trừ
- Tất cả
mọi khổ nạn
- Cho
nên tôi muốn thuyết
- Câu
thần chú Trí Độ
- Bát
Nhã Ba La Mật.”
- Nói
xong đức Bồ Tát
- Liền
đọc thần chú rằng:
- Gate
- Gate
Paragate
Parasamgate
Bodhi
Svaha”. (3 lần). (CC)
- 7- Tác
Pháp Yết Ma
- Vị Yết
Ma:
-
- “ Đại
chúng đã tập họp đầy đủ chưa?”
- Vị Thủ
Chúng:
- -
“Thưa, đại chúng đã tập họp đầy đủ”.
- Vị Yết
Ma:
- - “Có
sự hoà hợp không?”
- Vị Thủ
Chúng:
- -
“Thưa, có sự hoà hợp”.
- Vị Yết
Ma:
-
- “Đại
chúng hôm nay tập họp có chủ đích gì?”
- Vị Thủ
Chúng:
- -
“Thưa, để thục hiện Yết Ma truyền Năm Giới”.
- Vị Yết
Ma:
- - “Xin
đại chúng lắng nghe! Hôm nay là ngày (.../.../...), ngày được chọn
để truyền thọ Tam Quy và Ngũ Giới, chúng ta đã tập họp đúng giờ giấc,
đại chúng đồng ý sẵn sàng hộ niệm việc truyền thọ quy giới trong
tinh thần hoà hợp, như vậy, việc truyền giới là hợp pháp. Bạch như
thế, thì phép tác bạch có thành hay không?”
- Đại
chúng đáp:
- - “Thành”.
- 8- Khai
Thị
- Hôm
nay đại chúng tập họp để chứng minh và hộ niệm cho lễ Quay Về và
Nương Tựa Tam Bảo của các vị ... và ... Xin đại chúng theo dõi hơi
thở và an trú trong chánh niệm khi nghe ba tiếng chuông gia trì.
Tiếng chuông là tiếng gọi của Bụt để mọi người trở về trong trạng
thái tỉnh thức. (CCC)
- (Khoảng thời gian
giữa hai tiếng chuông là ba hơi thở và và ba hơi thở ra)
- 9- Lạy
Báo Ân
- Các vị
Giới Tử có tên sau đây đứng dậy, chắp tay thành búp sen trình diện
trước Tam Bảo (đọc tên.)
Nghe lời xướng và tiếng chuông thì lạy xuống một lạy:
- - Giới
tử mang ơn cha mẹ sinh thành, cúi đầu kính lễ Tam Bảo thường trụ
trong mười phương. (C)
- - Giới
tử mang ơn sư trưởng giáo huấn, cúi đầu kính lễ Tam Bảo thường trụ
trong mười phương. (C)
- - Giới
tử mang ơn bằng hữu và các bậc thiện tri thức đã tác thành cho, cúi
đầu kính lễ Tam Bảo thường trụ trong mười phương. (C)
- - Giới
tử mang ơn mọi loài chúng sanh, cây cỏ và đất đá, cúi đầu kính lễ
Tam Bảo thường trụ trong mười phương. (CC)
- 10- Truyền
Thọ Tam Quy
- Hôm
nay đại chúng tập họp để chứng minh và hộ niệm cho các vị ... trong
lễ phát nguyện thọ trì pháp Quy Y Tam Bảo. Là người có duyên với Đạo,
quý vị đã thấy rõ được con đường của tình thương và sự hiểu biết mà
tổ tiên chúng ta đã đi theo trong bao nhiêu thế hệ, và hôm nay quý
vị đã có chủ ý phát tâm quy y Tam Bảo.
- Quy y
Tam Bảo là quay về nương tựa nơi Bụt, nơi Pháp, và nơi Tăng. Bụt,
Pháp, và Tăng là ba viên ngọc quý. Quay về nương tựa nơi Bụt là quay
về nương tựa nơi bậc tỉnh thức, có khả năng đưa đường chỉ lối cho ta
trong cuộc đời. Quay về nương tựa Pháp là quay về với con đường của
trí tuệ và từ bi, nghĩ là con đường của hiểu biết và thương yêu.
Quay về nương tựa Tăng là quay về nương tựa nơi đoàn thể của những
người đang thực tập theo con đường trí tuệ và từ bi và sống trong
tỉnh thức.
- Bụt,
Pháp, và Tăng có mặt trong mười phương thế giới mà cũng có mặt trong
mọi người và mọi loài. Quay về nương tựa nơi Bụt, nơi Pháp, và nơi
Tăng cũng có nghĩa là tin tưởng ở khả năng giác ngộ nơi tự tánh mình,
ở khả năng khai mở và phát triển hiểu biết và thương yêu nơi bản
thân mình và khả năng thực tập hành đạo của cá nhân và đoàn thể mình.
- Xin
các vị giới tử cung kính đọc theo đây ba lời phát nguyện lớn:
- - “Con
về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời”.
- (Lặp lại) (C)
- - “Con
về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết”.
- (Lặp lại) (C)
- - “Con
về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời
tỉnh thức”.
(Lặp lại) (C)
- 11- Khai
Thị
- Quý vị
Phật tử! Quý vị đã chính thức tiếp nhận pháp Tam Quy, đưa Ba Viên
Ngọc Quý vào lòng và vào đời sống hàng ngày của quý vị. Hôm nay quý
vị đã trở nên những người học trò của bậc Giác Ngộ, và đã nguyện
sống theo nếp sống tỉnh thức của Người. Bắt đầu từ hôm nay, quý vị
phải để tâm hàng ngày học hỏi và hành trì theo con đường của trí tuệ
và từ bi, nghĩa là để phát triển khả năng hiuể biết và thương yêunơi
quý vị. Và cũng bắt đầu từ hôm nay, quý vị phải biết nương tựa vào
đoàn thể của quý vị để học hỏi và hành trì, tham dự những khoá tĩnh
tu, tham dự những buổi đọc tụng quy giới và những sinh hoạt tu học
khác của đoàn thể. Thầy giáo thọ của quý vị là Hoà Thượng (Thượng
Toạ, Đại Đức) ... và pháp danh của quý vị là do chính Hoà Thượng (Thượng
Toạ, Đại Đức) ban cho. Quý vị phải nương vào thầy của quý vị mà học
Đạo và tu Đạo.
- 12-
Truyền Thọ Năm Giới
- Các
giới tử! Đây là giây phút long trọng của sự truyền thọ Năm Giới. Năm
Giới là nền tảng cho một cuộc sống có hạnh phúc và có chí hướng vị
tha, có năng lực bảo vệ sự sống và làm đẹp cho cuộc đời.
- Năm
Giới là những nguyên tắc hướng dẫn chúng ta về hướng an lạc, giải
thoát và giác ngộ. Năm Giới là nền tảng của hạnh phúc cá nhân, hạnh
phúc gia đình và xã hội. Học hỏi và thực hành theo Năm Giới, ta sẽ
đi đúng con đường chánh pháp, ta sẽ tránh được lỗi lầm, khổ đau, sợ
hãi và thất vọng, ta sẽ xây dựng được an lạc hạnh phúc cho ta, cho
gia đình ta và đóng góp vào phẩm chất an lạc và hoà bình của xã hội.
- Đây là
Giới tướng của Năm Giới. Xin quý vị lắng nghe từng Giới một với tâm
hồn thanh tịnh. Xin trả lời “dạ có” mỗi khi thấy mình có khả năng
tiếp nhận, học hỏi và hành trì giới luật được tuyên đọc.
- - "Các
vị đã sẵn sàng chưa?"
- Trả
lời:
-
- “Sẵn sàng”.
-
Đây là Giới Thứ Nhất:
- - Ý
thức được những khổ đau do sự sát hại gây ra, con xin học theo hạnh
đại bi để bảo vệ sự sống của mọi người và mọi loài. Con nguyện không
giết hại sinh mạng, không tán thành sự giết chóc và không để kẻ khác
giết hại, dù là trong tâm tưởng hay trong cách sống hàng ngày của
con.
- Đó là
Giới Thứ Nhất của Năm Giới. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi
và hành trì Giới ấy hay không?
- Đáp:
-
- “Dạ có.” (C)
-
Đây là Giới Thứ Hai:
- - Ý
thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cướp và bất công xã hội
gây ra, con xin học theo hạnh đại từ để đem lại niềm vui sống và an
lạc cho mọi người và mọi loài, để chia xẻ thì giờ, năng lực và tài
vật của con với những kẻ đang thật sự thiếu thốn. Con nguyện không
lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải do mình tạo ra. Con
nguyện tôn trọng quyền tư hữu của kẻ khác, nhưng cũng nguyện ngăn
ngừa kẻ khác không cho họ tích trữ và làm giàu một cách bất lương
tên sự đau khổ của con người và của muôn loại.
- Đó là
Giới Thứ Hai của Năm Giới. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi
và hành trì Giới ấy hay không?
- Đáp:
- - “Dạ có.” (C)
-
Đây là Giới Thứ Ba:
- - Ý
thức được những khổ đau do thói tà dâm gây ra, con xin học theo tinh
thần trách nhiệm để giúp bảo vệ tiết hạnh và sự an toàn của mọi
người và mọi gia đình trong xã hội. Con nguyện không ăn nằm với
những người không phải là vợ hay chồng của con. Con ý thức được rằng
những hành động bất chính sẽ gây ra những đau khổ cho kẻ khác và cho
chính con. Con biết muốn bảo vệ hạnh phúc của mình và của kẻ khác
thì phải biết tôn trọng những cam kết của mình và của kẻ khác. Con
sẽ làm mọi cách có thể để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm tiếp
tục gây nên sự đổ vỡ của các gia đình và của đời sống đôi lứa.
- Đó là
Giới Thứ Ba của Năm Giới. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi
và hành trì Giới ấy hay không?
- Đáp:
- - “Dạ có.” (C)
-
Đây là Giới Thứ Tư:
- - Ý
thức được những khổ đau đo lời nói thiếu chánh niệm gây ra, con xin
học theo hạnh ái ngữ và lắng nghe để dâng tặng niềm vui cho người và
làm vơi bớt khổ đau của người. Biết rằng lời nói có thể đem lại hạnh
phúc hoặc khổ đau cho người, con nguyện chỉ nói những lời có thể gây
thêm niềm tự tin, an vui và hy vọng, những lời chân thật có giá trị
xây dựng sự hiểu biết và hòa giải. Con nguyện không nói những điều
sai với sự thật, không nói những lời gây chia rẽ và căm thù. Con
nguyện không loan truyền những tin mà con không biết chắc là có thật,
không phê bình và lên án những điều con không biết chắc. Con nguyện
không nói những điều có thể tạo nên sự bất hòa trong gia đình và
đoàn thể, những điều có thể làm tan vỡ gia đình và đoàn thể.
- Đó là
Giới Thứ Tư của Năm Giới. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi
và hành trì Giới ấy hay không?
- Đáp:
- - “Dạ có.” (C)
-
Đây là Giới Thứ Năm:
- -Ý
thức được những khổ đau do sự sử dụng ma túy và độc tố gây ra, con
xin học cách chuyển hóa thân tâm, xây dựng sức khỏe thân thể và tâm
hồn bằng cách thực tập chánh niệm trong việc ăn uống và tiêu thụ.
Con nguyện chỉ tiêu thụ những gì có thể đem lại an lạc cho thân tâm
con, và cho thân tâm gia đình và xã hội con. Con nguyện không uống
rượu, không sử dụng các chất ma túy, không ăn uống hoặc tiêu thụ
những sản phẩm có độc tố trong đó có một số sản phẩm truyền thanh,
truyền hình, sách báo, phim ảnh và chuyện trò. Con biết rằng tàn
hoại thân tâm bằng rượu và các độc tố ấy là phản bội tổ tiên, cha mẹ
và cũng là phản bội các thế hệ tương lai. Con nguyện chuyển hóa bạo
động, căm thù, sợ hãi và buồn giận bằng cách thực tập phép kiêng cữ
cho con, cho gia đình con và cho xã hội. Con biết phép kiêng khem
này rất thiết yếu để chuyển hóa tự thân, tâm thức cộng đồng và xã
hội.
- Đó là
Giới Thứ Năm của Năm Giới. Quý vị có phát nguyện tiếp nhận, học hỏi
và hành trì Giới ấy hay không?
- Đáp:
- - “Dạ có.” (C)
- Quý vị
Phật tử! Quý vị đã tiếp nhận xong Năm Giới Quý Báu, nền tảng của
hạnh phúc gia đình và chất liệu của chí nguyện lợi tha. Quý vị phải
ôn tụng thường xuyên giới tướng mỗi tháng ít nhất là một lần, đề sự
học hỏi và hành trì Năm Giới càng ngày càng sâu sắc và lớn rộng.
-
Lễ tụng giới được tổ chức tại chùa, tại thiền đường, niệm phật đường,
hay tại tư gia, có sự tham dự của những người bạn tu của mình. Quý
vị cũng có thể tổ chức lễ tụng giới trong phạm vi gia đình mình,
hoặc nếu sống độc thân xa chùa, xa bạn, thì cũng có thể tụng giới
một mình. Nếu trong vòng ba tháng mà không tụng giới ít nhất là một
lần thì quý vị tự động mất giới thể và lễ Quy Y Truyền Giới này sẽ
mất hiệu lực.
- Quý vị
Phật tử! Là đệ tử của Bụt, quý vị nên tinh tiến tu học theo con
đường mà Bụt đã dày công chỉ dạy để tạo an lạc và hạnh phúc cho
chính mình và cho mọi người. Nghe chuông, xin đứng dậy và lạy xuống
ba lạy để tỏ lòng tôn kính và biết ơn Tam Bảo.
- 13- Tuyên
Đọc Phái Quy Y
- Các
Phật tử! Xin quý vị lắng tai nghe thầy tuyên đọc phái quy y
(đọc phái quy y, trong đó có pháp
danh của người mới được quy y và của vị bổn sư mình. Đọc xong, phái
quy y được trao lại cho đương sự. Giới tử đã quy y ra quỳ trước điện
Bụt để nghe đọc phái và nhận phái.)
- 14- Hộ
Niệm
- Để hộ
niệm cho các Phật tử mới thọ phép Quy Y được đạo tâm kiên cố và đạo
nghiệp tăng trưởng, xin đại chúng nhiếp tâm trì niệm hồng danh chư
Bụt và chư vị Bồ Tát theo phương pháp trì danh nhất tâm bất loạn.
(Mỗi danh hiệu 3 lần)
- - Nam
mô Đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)
- - Nam
mô Đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (C)
- - Nam
mô Đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền (C)
- - Nam
mô Đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm (C)
- - Nam
mô Đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương (CC)
- 15-
Quay Về Nương Tựa
- - Con
về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.
- - Con
về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.
- - Con
về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời
tỉnh thức. (C)
- - Đã
về nương tựa Bụt, con đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời.
- - Đã
về nương tựa Pháp, con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn
chuyển hoá.
- Đã về nương tựa Tăng, con đang được tăng thân soi sáng,
dìu dắt và nâng đỡ trên con đường thực tập. (C)
- - Về
nương Bụt trong con, xin nguyện cho mọi người, thể nhận được Giác
Tính, sớm mở lòng Bồ Đề.
- - Về
nương Pháp trong con, xin nguyện cho mọi người, nắm vững các pháp
môn, cùng lên đường chuyển hoá.
- - Về
nương Tăng trong con, xin nguyện cho mọi người, xây dựng nên bốn
chúng, nhiếp hoá được muôn loài. (CC)
- 16-
Hồi Hướng
- -
“Truyền trì Giới thâm diệu
- Tạo
công đức vô biên
- Đệ tử
xin hồi hướng
- Cho
chúng sinh mọi miền. (C)
- Pháp
môn xin nguyện học
- Ân
nghĩa xin nguyện đền
- Phiền
não xin nguyện đoạn
- Quả
Bụt xin chứng nên”. (CCC)
-
Nghi thức
tụng giới
thiếu
nhi và năm giới
- Nghi thức tụng giới
cho thiếu nhi gồm có Ba Phép Quay Về Nương Tựa và Hai Lời Hứa, có
thể được cử hành trước Nghi Thức Tụng Năm Giới. Thiếu nhi từ mười
tuổi trở lên, nếu muốn, có thể ở lại để tham dự lễ tụng Năm Giới.
- 1-
Thiền Hành (30 phút, sau khi
được hướng dẫn)
- 2-
Thiên Toạ (12 phút, sau khi
được hướng dẫn)
- 3-
Dâng Hương
- Đại chúng chắp tay
trước bàn thờ. Vị chủ lễ dâng hương lên và xướng kệ Dâng Hương sau
ba tiếng chuông bắt đầu, trong khi mọi người quán tưởng theo lời kệ:
- -
“Hương đốt khói trầm xông ngát
- Kết
thành một đoá tường vân
- Đệ tử
đem lòng thành kính
- Cúng
dường chư Bụt mười phương.
- Giới
luật chuyên trì nghiêm mật
- Công
phu thiền định tinh cần
- Tuệ
giác hiện dần quả báu
- Dâng
thành một nén tâm hương”.
- Chúng
con kính dâng hương lên Bụt và chư vị Bồ Tát. (C)
- 4-
Tán Dương
- Hương đã cắm vào
bình, vị chủ lễ xướng, đại chúng chắp tay quán tưởng theo:
- -
“Xinh tốt như hoa sen
- Rạng
ngời như Bắc Đẩu
- Xin
quay về nương náu
- Bậc
Thầy của nhân, thiên.
- Sen
quý nở đài giác ngộ
- Hào
quang chiếu rạng mười phương
- Trí
tuệ vượt tầm pháp giới
- Từ bi
thấm nhuận non sông.
- Vừa
thấy dung nhan Điều Ngự
- Trăm
ngàn phiền não sạch không
- Hướng
về tán dương công đức
- Tinh
chuyên Đạo nghiệp vun trồng”.
- Nam mô
Đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni. (C)
- 5-
Lạy Bụt
- Vị chủ lễ xướng các
danh hiệu sau đây, và đại chúng lạy xuống một lạy theo tiếng chuông
gia trì sau mỗi danh hiệu:
- - Nhất
tâm kính lễ Bụt, Pháp, và Tăng thường trú trong mười phương (C)
- - Nhất
tâm kính lể Đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)
- - Nhất
tâm kính lễ Đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (C)
- - Nhất
tâm kính lễ Đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền (C)
- Nhất tâm kính lễ Đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm (C)
- - Nhất
tâm kính lễ Đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương (C)
- - Nhất
tâm kính lễ Tôn Giả Thượng Thủ Ma Ha Ca Diếp (C)
- - Nhất
tâm kính lễ Tôn Giả Đại Trí Trưởng Lão Xá Lợi Phất (C)
- - Nhất
tâm kính lễ Tôn Giả Đại Hiếu Ma Ha Mục Kiền Liên (C)
- - Nhất
tâm kính lễ Tôn Giả Luật Sư Ưu Ba Ly (C)
- - Nhất
tâm kính lễ Tôn Giả Khải Giáo A Nan Đà (C)
- - Nhất
tâm kính lễ Tôn Giả Ni Trưởng Kiều Đàm Di (C)
- - Nhất
tâm kính lễ liệt vị Tổ Sư qua các thời đại từ Thiên Trúc cho đến
Việt Nam. (CC.)
- 6-
Trì Tụng
- Đại chúng an toạ
trên toạ cụ thành hai hàng đối diện nhau. Duy Na và Duyệt Chúng khai
chuông mõ. Vị chủ lễ xướng Kệ Khai Kinh và Tâm Kinh:
- Nam mô
Đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni. (3 lần) (C)
- -
“Giới luật cao siêu mầu nhiệm
- Cơ
duyên may được thọ trì
- Xin
nguyện đi vào biển tuệ
- Tinh
thông giáo nghĩa huyền vi”. (CC.)
-
Kinh Tinh Yếu Bát
Nhã Ba La Mật Đa (C)
- - “Bồ
tát Quán Tự Tại
- Khi
quán chiếu thâm sâu
- Bát
Nhã Ba La Mật
- Tức
diệu pháp Trí Độ
- Bỗng
soi thấy năm uẩn
- Đều
không có tự tánh
- Thực
chứng điều ấy xong
- Ngài
vượt thoát tất cả
- Mọi
khổ đau ách nạn. (C)
- “Nghe
đây, Xá Lợi Tử:
- Sắc
chẳng khác gì Không
- Không
chẳng khác gì Sắc
- Sắc
chính thực là Không
- Không
chính thực là Sắc
- Còn
lại bốn uẩn kia
- Cũng
đều như vậy cả. (C)
- Xá Lợi
Tử nghe đây:
- Thể
mọi pháp đều Không
- Không
sanh cũng không diệt
- Không
nhơ cũng không sạch
- Không
thêm cũng không bớt.
- Cho
nên trong tánh Không
- Không
có sắc, thọ, tưởng,
- Cũng
không có hành, thức
- Không
có nhãn, nhĩ, tỷ,
- Thiệt,
thân, ý - sáu căn
- Không
có sắc, thanh, hương,
- Vị,
xúc, pháp - sáu trần
- Không
có mười tám giới
- Từ
nhãn đến ý thức
- Không
hề có vô minh
- Không
có hết vô minh
- Cho
đến không lão tử
- Cũng
không hết lão tử
- Không
Khổ, Tập, Diệt, Đạo
- Không
trí cũng không đắc. (C)
- Vì
không có sở đắc
- Khi
một vị Bồ Tát
- Nương
diệu pháp Trí Độ
- Bát
Nhã Ba La Mật
- Thì
tâm không chướng ngại
- Vì tâm
không chướng ngại
- Nên
không có sợ hãi
- Xa lìa
mọi mộng tưởng
- Xa lìa
mọi điên đảo
- Đạt
Niết Bàn tuyệt đối. (C)
- Chư
Bụt trong ba đời
- Y diệu
pháp Trí Độ
- Bát
Nhã Ba La Mật
- Nên
đắc vô thượng giác.
- Vậy
nên phải biết rằng
- Bát
Nhã Ba La Mật
- Là
linh chú đại thần
- Là
linh chú đại minh
- Là
linh chú vô thượng
- Là
linh chú tuyệt đỉnh
- Có
năng lực tiêu trừ
- Tất cả
mọi khổ nạn
- Cho
nên tôi muốn thuyết
- Câu
thần chú Trí Độ
- Bát
Nhã Ba La Mật.”
- Nói
xong đức Bồ Tát
- Liền
đọc thần chú rằng:
- Gate
Gate
Paragate
Parasamgate
Bodhi
Svaha”. (3 lần).
(CC)
- 7-
Tác Pháp Yết Ma
- Vị Yết Ma:
- -
“Chúng thiếu nhi đã tập họp đầy đủ chưa?”
- Vị Thủ Chúng:
- -
“Thưa, chúng thiếu nhi đã tập họp đầy đủ”.
- Vị Yết Ma:
- - “Có
sự hoà hợp không?”
- Vị Thủ Chúng:
- -
“Thưa, có sự hoà hợp”.
- Vị Yết Ma:
-
- “
Có
thiếu nhi nào vằng mặt đã yêu cầu được đại diện và gởi theo sự thanh
tịnh không?”
Vị Thủ Chúng:
- -
“Không có”.
- (Trong trường hợp có
thì nói (ví dụ): “Có thiếu nhi Trần Diễm
Trúc pháp danh Tâm Lưu Ly, vì lý do sức khoẻ không đến tụng giới
được, đã yêu cầu thiếu nhi Nguyễn Văn Nam pháp danh Tam Hy Mã đại
diện và gửi theo sự thanh tịnh.”)
- Vị Yết Ma:
- - “Đại
chúng các thiếu nhi hôm nay tập họp có chủ đích gì?”
- Vị Thủ Chúng:
- -
“Thưa, để thục hiện Yết Ma tụng Ba Sự Quay Về Nương Tựa và Hai Lời
Hứa”.
- Vị Yết Ma:
- - “Xin
toàn thể chúng thiếu nhi lắng nghe! Hôm nay là ngày (.../.../...),
ngày được chọn để thuyết tụng giới luật, chúng ta đã tập họp đúng
giờ giấc, chúng thiếu nhi đồng ý sẵn sàng nghe thuyết đọc quy giới
trong tinh thần hoà hợp, như vậy, việc tụng giới là hợp pháp. Bạch
như thế, thì phép tác bạch có thành hay không?”
- Đại chúng đáp:
- - “
Thành”.
- Vị chủ lễ nói:
- - “Hôm
nay chúng thiếu nhi tập họp để ôn lại Quy Giới, tức là Ba Sự Quay Về
Nương Tựa, Hai Lời Hứa, và sau hết là Tụng Năm Giới. Trước hết là ôn
lại Quy Giới. Xin các thiếu nhi đứng dậy, chắp tay búp sen, trình
diện trước Tam Bảo.”
- Thiếu
nhì nghe tiếng chuông kính cẩn lạy xuống ba lạy để tỏ lòng tôn kính
Bụt, Pháp, và Tăng.
- Chuông, thiếu
nhi lạy. (3 lần)
- - Thiếu nhi quỳ,
chắp tay búp sen.
- 8- Ôn
tụng Ba Phép Quay Về Nương Tựa
- Quý vị
Phật tử trẻ tuổi! Là học trò của Bụt, quý vị đã phát nguyện quay về
nương tựa nơi Bụt, nơi Pháp và nơi Tăng. Bây giờ đây, chúng ta ôn
lại Ba Sự Quay Về và Nương Tựa ấy. Xin đại chúng đọc theo đây:
- - Con
về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.
-
(Đại chúng lặp lại)
(C)
- - Con
về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.
-
(Đại chúng lặp lại)
(C)
- - Con
về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời
tỉnh thức.
-
(Đại chúng
lặp lại) (CCC)
- 9-
Bài Hát Quay Về Nương Tựa
- - Con
về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.
-
Namo Buddhaya.
- Con về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự
hiểu biết.
-
Namo Dharmaya.
- - Con
về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời
tỉnh thức.
Namo Sanghaya.
- -
Buddham Saranam Gacchami.
- -
Dharmam Saranam Gacchami.
- -
Sangham Saranam Gacchami. (CC)
- 10-
Ôn Tụng Hai Lời Hứa
- Quý vị
Phật tử trẻ tuổi! Qúy vị vừa ôn lại Ba Phép Quay Về và Nương Tựa.
Bây giờ chúng ta ôn lại Hai Lời Hứa tức là hai điều mà quý vị đã hứa
là sẽ học tập và giữ gìn.
-
Đây là Lời Hứa Thứ
Nhất: Xin quý
vị đọc theo:
- - Con
xin mở rộng lòng thương (Thiếu
nhi lặp lại) và tìm cách bảo vệ sự sống (lặp
lại) của mọi người và mọi loài (lặp lại.)
- Đó là
Lời Hứa Thứ Nhất mà quý vị đã cam kết với Bụt. Trong hai tuần qua,
quý vị có học hỏi và giữ gìn lời hứa đó hay không?
- Thiếu nhi đáp trong
tâm: “Dạ có.”
- - Chuông. Thiếu nhi
xá và cúi đầu. Đại chúng chắp tay.
-
Đây là Lời Hứa Thứ
Hai:
- - Con
xin mở rộng tầm hiểu biết (Thiếu
nhi lặp lại) để có thể thương yêu và
chung sống (lặp lại) với mọi người và mọi loài (lặp lại.)
- Đó là
Lời Hứa Thứ Hai mà quý vị đã cam kết với Bụt. Trong hai tuần qua,
quý vị có học hỏi và giữ gìn lời hứa đó hay không?
- Thiếu nhi đáp trong
tâm: “Dạ có.”
- - Chuông. Thiếu nhi
xá và cúi đầu. Đại chúng chắp tay.
- 11-
Bài Hát Hai Lời Hứa
- - Con
xin mở rộng lòng thương, để bảo vệ sự sống khắp mười phương. Nguyện
che chở sinh mạng của mọi người và mọi loài.
- - Con
xin tập nhìn tập hiểu thật sâu, để thấy được gốc rễ mọi niềm đau.
Nguyện chung sống an lạc với mọi người và mọi loài.
- 12-
Khai Thị
- Quý vị
Phật tử! Lòng thương và sự hiểu biết là hai điều quý báu nhất của
Đạo Bụt và của con người. Nếu không học cởi mở để hiểu biết những
tâm trạng và những hoàn cảnh khổ đau của người khác thì không thể
thương yêu và chung sống với họ. Đối với các loài động vật và thực
vật, ta cũng phải học thái độ cởi mở và hiểu biết để thương yêu và
để bảo vệ như ta thương yêu và bảo vệ con người. Nếu không hiểu biết
thì không thể thương yêu. Bụt dạy phải biết nhìn mọi người và mọi
loài bằng con mắt hiểu biết và từ bi. Quý vị phải siêng năng học và
làm theo lời Bụt dạy. Nghe chuông, xin đứng dậy, và lạy xuống ba lạy
để tỏ lòng cung kính Bụt, Pháp, và Tăng trước khi rút lui.
- - Chuông. Thiếu nhi
đứng dậy.
- - Chuông. Thiếu nhi
lạy xuống 3 lần.
- Thiếu nhi đi ra. Đợi
cho thiếu nhi ra hết, vị chủ lễ xướng lại bài Kệ Khai Kinh để đại
chúng trì tụng.)
- 13-
Kệ Khai Kinh
- -
“Giới luật cao siêu mầu nhiệm
- Cơ
duyên may được thọ trì
- Xin
nguyện đi vào biển tuệ
- Tinh
thông giáo nghĩa huyền vi”. (CC)
- 14-
Tụng Năm Giới
- Tác
pháp Yết Ma tụng Năm Giới.
- Vị Yết Ma:
- - “Đại
chúng đã tập họp đầy đủ chưa?”
- Vị Thủ Chúng:
- -
“Thưa, đại chúng đã tập họp đầy đủ”.
- Vị Yết Ma:
- - “Có
sự hoà hợp không?”
- Vị Thủ Chúng:
- -
“Thưa, có sự hoà hợp”.
- Vị Yết Ma:
- - “Có
vị nào vắng mặt đã yêu cầu được đại diện và gởi theo sự thanh tịnh
không?”
Vị Thủ Chúng:
- -
“Không có”.
- Trong trường hợp có
thì nói (ví dụ): “Có cận sự nam, Nguyễn
Văn Ý pháp danh Tâm Khai, vì lý do sức khoẻ không đến tụng giới được,
đã yêu cầu cận sự nữ, Trần thì Xuyến pháp danh Tâm Quy, đại diện và
gử theo sự thanh tịnh.”
- Vị Yết Ma:
- - “Đại
chúng hôm nay tập họp có chủ đích gì?”
- Vị Thủ Chúng:
- -
“Thưa, để thục hiện Yết Ma tụng Năm Giới”.
- Vị Yết Ma:
- - “Xin
đại chúng các vị cận sự nữ và cận sự nam lắng nghe! Hôm nay là ngày
(.../.../...), ngày được chọn để thuyết tụng Quy Giới, chúng ta đã
tập họp đúng giờ giấc, đại chúng đồng ý sẵn sàng nghe thuyết tụng
quy giới trong tinh thần hoà hợp, như vậy, việc tụng giới là hợp
pháp. Bạch như thế, thì phép tác bạch có thành hay không?”
- Đại chúng đáp:
- - “Thành”.
- Đại
chúng! Đây là lúc chúng ta tuyên thuyết Năm Giới. Năm Giới là nền
tảng cho một cuộc sống có hạnh phúc và có chí hướng vị tha, có năng
lực bảo vệ sự sống và làm đẹp cho cuộc đời. Xin các vị đã thọ trì
Năm Giới quỳ lên, chắp tay búp sen, hướng về Đức Bổn Sư.
- Đại
chúng! Năm Giới là những nguyên tắc hướng dẫn chúng ta về hướng an
lạc, giải thoát và giác ngộ. Năm giới là nền tảng của hạnh phúc cá
nhân, hạnh phúc của gia đình và của xã hội. Học hỏi và thực hành
theo Năm Giới ta sẽ đi đúng con đường chánh pháp, ta sẽ tránh được
lỗi lầm, khổ đau, sợ hãi, và thất vọng, ta sẽ xây dựng được an lạc
hạnh phúc cho ta, cho gia đình ta và đóng góp vào phẩm chất an lạc
và hoà bình của xã hội.
- Đây là
giới tướng của Năm Giới. Chúng ta hãy lắng nghe từng Giới một với
tâm hồn thanh tịnh, lấy giới luật làm tấm gương trong vắt để soi
chiếu nội tâm mình. Xin im lặng thở và im lặng trả lời ‘có’ mỗi khi
thấy mình trong hai tuần qua có cố gắng học hỏi và hành trì những
giới luật được tuyên đọc.
-
Đây là Giới Thứ Nhất:
- - Ý
thức được những khổ đau do sự sát hại gây ra, con xin học theo hạnh
đại bi để bảo vệ sự sống của mọi người và mọi loài. Con nguyện không
giết hại sinh mạng, không tán thành sự giết chóc và không để kẻ khác
giết hại, dù là trong tâm tưởng hay trong cách sống hàng ngày của
con.
- Đó là
Giới Thứ Nhất của Năm Giới. Trong hai tuần qua, quý vị có cố gắng
học hỏi và hành trì giới ấy hay không?
- - Ba hơi thở. (C)
-
Đây là Giới Thứ Hai:
- - Ý
thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cướp và bất công xã hội
gây ra, con xin học theo hạnh đại từ để đem lại niềm vui sống và an
lạc cho mọi người và mọi loài, để chia xẻ thì giờ, năng lực và tài
vật của con với những kẻ đang thật sự thiếu thốn. Con nguyện không
lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải do mình tạo ra. Con
nguyện tôn trọng quyền tư hữu của kẻ khác, nhưng cũng nguyện ngăn
ngừa kẻ khác không cho họ tích trữ và làm giàu một cách bất lương
tên sự đau khổ của con người và của muôn loại.
- Đó là
Giới Thứ Hai của Năm Giới.Trong hai tuần qua quý vị có cố gắng học
hỏi và hành trì giới ấy hay không?
-
- Ba hơi thở. (C)
-
Đây là Giới Thứ Ba:
- - Ý
thức được những khổ đau do thói tà dâm gây ra, con xin học theo tinh
thần trách nhiệm để giúp bảo vệ tiết hạnh và sự an toàn của mọi
người và mọi gia đình trong xã hội. Con nguyện không ăn nằm với
những người không phải là vợ hay chồng của con. Con ý thức được rằng
những hành động bất chính sẽ gây ra những đau khổ cho kẻ khác và cho
chính con. Con biết muốn bảo vệ hạnh phúc của mình và của kẻ khác
thì phải biết tôn trọng những cam kết của mình và của kẻ khác. Con
sẽ làm mọi cách có thể để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm tiếp
tục gây nên sự đổ vỡ của các gia đình và của đời sống đôi lứa.
- Đó là
Giới thứ Ba của Năm Giới. Trong hai tuần qua quý vị có cố gắng học
hỏi và hành trì giới ấy hay không?
-
- Ba hơi thở. (C)
-
Đây là Giới Thứ Tư:
- - Ý
thức được những khổ đau đo lời nói thiếu chánh niệm gây ra, con xin
học theo hạnh ái ngữ và lắng nghe để dâng tặng niềm vui cho người và
làm vơi bớt khổ đau của người. Biết rằng lời nói có thể đem lại hạnh
phúc hoặc khổ đau cho người, con nguyện chỉ nói những lời có thể gây
thêm niềm tự tin, an vui và hy vọng, những lời chân thật có giá trị
xây dựng sự hiểu biết và hòa giải. Con nguyện không nói những điều
sai với sự thật, không nói những lời gây chia rẽ và căm thù. Con
nguyện không loan truyền những tin mà con không biết chắc là có thật,
không phê bình và lên án những điều con không biết chắc. Con nguyện
không nói những điều có thể tạo nên sự bất hòa trong gia đình và
đoàn thể, những điều có thể làm tan vỡ gia đình và đoàn thể.
- Đó là
Giới thứ Tư của Năm Giới. Trong hai tuần qua quý vị có cố gắng học
hỏi và hành trì giới ấy hay không?
- - Ba hơi thở. (C)
-
Đây là Giới Thứ Năm:
- -Ý
thức được những khổ đau do sự sử dụng ma túy và độc tố gây ra, con
xin học cách chuyển hóa thân tâm, xây dựng sức khỏe thân thể và tâm
hồn bằng cách thực tập chánh niệm trong việc ăn uống và tiêu thụ.
Con nguyện chỉ tiêu thụ những gì có thể đem lại an lạc cho thân tâm
con, và cho thân tâm gia đình và xã hội con. Con nguyện không uống
rượu, không sử dụng các chất ma túy, không ăn uống hoặc tiêu thụ
những sản phẩm có độc tố trong đó có một số sản phẩm truyền thanh,
truyền hình, sách báo, phim ảnh và chuyện trò. Con biết rằng tàn
hoại thân tâm bằng rượu và các độc tố ấy là phản bội tổ tiên, cha mẹ
và cũng là phản bội các thế hệ tương lai. Con nguyện chuyển hóa bạo
động, căm thù, sợ hãi và buồn giận bằng cách thực tập phép kiêng cữ
cho con, cho gia đình con và cho xã hội. Con biết phép kiêng khem
này rất thiết yếu để chuyển hóa tự thân, tâm thức cộng đồng và xã
hội.
- Đó là
Giới thứ Năm của Năm Giới. Trong hai tuần qua quý vị có cố gắng học
hỏi và hành trì giới ấy hay không?
-
- Ba hơi thở. (C)
- Đại
chúng! Chúng ta đã tuyên đọc xong Năm Giới quý báu, nền tảng của
hạnh phúc gia đình và chất liệu của chí nguyện lợi tha. Bụt dạy
chúng ta phải ôn tụng thường xuyên giới tướng mỗi tháng ít nhất là
một lần, để sự học hỏi và hành trì Năm Giới càng ngày càng sâu sắc
và lớn rộng. Nghe chuông, xin lạy xuống ba lạy để tỏ lòng tôn kính
và biết ơn Tam Bảo trước khi ngồi xuống.
- 15-
Niệm Bụt
- Xin
đại chúng nhiếp tâm trì niệm hồng danh chư Bụt và chư vị Bồ Tát theo
phương pháp trì danh nhất tâm bất loạn. (Mỗi danh hiệu 3 lần)
- - Nam
mô Đức Bổn Sư Bụt Thích Ca Mâu Ni (C)
- - Nam
mô Đức Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi (C)
- - Nam
mô Đức Bồ Tát Đại Hạnh Phổ Hiền (C)
- - Nam
mô Đức Bồ Tát Đại Bi Quan Thế Âm (C)
- - Nam
mô Đức Bồ Tát Đại Nguyện Địa Tạng Vương (CC)
- 16-
Quy Nguyện
- -
“Trầm hương xông ngát điện
- Sen nở
Bụt hiện thân
- Pháp
giới thành thanh tịnh
- Chúng
sanh lắng nghiệp trần. (C)
- Đệ tử
tâm thành
- Hướng
về Tam Bảo
- Bụt là
thầy chỉ đạo
- Bậc
tỉnh thức vẹn toàn
- Tướng
tốt đoan trang
- Trí và
Bi viên mãn. (C)
- Pháp
là con đường sáng
- Dẫn
người thoát cõi mê
- Đưa
con trở về
- Sống
cuộc đời tỉnh thức. (C)
- Tăng
là đoàn thể đẹp
- Cùng
đi trên đường vui
- Tu tập
giải thoát
- Làm an
lạc cuộc đời. (C)
- Đệ tử
nương nhờ Tam Bảo
- Trên
con đường học Đạo
- Biết
Tam Bảo của tự tâm
- Nguyện
xin chuyên cần
- Làm
sáng lòng ba viên ngọc quý. (C)
- Nguyện
theo hơi thở
- Nở nụ
cười tươi
- Nguyện
học nhìn cuộc đời
- Bằng
con mắt quán chiếu
- Nguyện
xin tìm hiểu
- Nỗi
khổ của mọi loài
- Tập từ
bi
- Hành
hỷ xả
- Sáng
cho người thêm niềm vui
- Chiều
giúp người bớt khổ
- Đệ tử
nguyện sống cuộc đời thiểu dục
- Nếp
sống lành mạnh an hoà
- Cho
thân thể kiện khương
- Nguyện
rũ bỏ âu lo
- Học
tha thứ bao dung
- Cho
tâm tư nhẹ nhõm
- Đệ tử
xin nguyện ơn sâu đền báo
- Ơn cha
mẹ ơn thầy
- Ơn bè
bạn chúng sanh
- Nguyện
tu học tinh chuyên
- Cho
cây bi trí nở hoa
- Mong
một ngày kia
- Có khả
năng cứu độ mọi loài
- Vượt
ra ngoài cõi khổ. (C)
- Xin
nguyện Bụt, Pháp, Tăng chứng minh
- Gia hộ
cho đệ tử chúng con
- Viên
thành đại nguyện”. (CC)
- 17-
Quay Về Nương Tựa
- - Con
về nương tựa Bụt, người đưa đường chỉ lối cho con trong cuộc đời.
- - Con
về nương tựa Pháp, con đường của tình thương và sự hiểu biết.
- - Con
về nương tựa Tăng, đoàn thể của những người nguyện sống cuộc đời
tỉnh thức. (C)
- - Đã
về nương tựa Bụt, con đang có hướng đi sáng đẹp trong cuộc đời.
- - Đã
về nương tựa Pháp, con đang được học hỏi và tu tập các pháp môn
chuyển hoá.
- - Đã
về nương tựa Tăng, con đang được tăng thân soi sáng, dìu dắt và nâng
đỡ trên con đường thực tập. (C)
- - Về
nương Bụt trong con, xin nguyện cho mọi người, thể nhận được Giác
Tính, Sớm mở lòng Bồ Đề.
- - Về
nương Pháp trong con, xin nguyện cho mọi người, nắm vững các pháp
môn, cùng lên đường chuyển hoá.
- - Về
nương Tăng trong con, xin nguyện cho mọi người, xây dựng nên bốn
chúng, nhiếp hoá được muôn loài. (CC)
- 18-
Hồi Hướng
- - “Trì
Giới pháp thâm diệu
- Tạo
công đức vô biên
- Đệ tử
xin hồi hướng
- Cho
chúng sinh mọi miền. (C)
- Pháp
môn xin nguyện học
- Ân
nghĩa xin nguyện đền
- Phiền
não xin nguyện đoạn
- Quả
Bụt xin chứng nên”. (CCC)
-
Góp bài trong tập
này:
- - Robert Aiken,
Roshi (Lão sư), là vị Sư Trưởng của Diamond Sangha (Tăng Thân Kim
Cang) tại Hawaii và là một trong những sáng lập viên của Hội Ái Hữu
Phật tử vì Hoà Bình (Buddhist Peace Fellowship.) Ông là tác giả của
các tập sách: Encouraging Words (Cảnh Sách), The Dragon Who Never
Sleeps (Con Rồng Chưa Bao Giờ Ngủ), Taking the Path of Zen (Hành
Thiền Đạo), và A Zen Wave (Đợt Sóng Thiền.)
- - Stephen Batchelor,
tác giả, dịch giả, và giáo sư Phật Học, sống ở nước Anh, là tác giả
của các quyển: ‘The Awakening of the West: Buddhism and European
Culture’ (Sự thức tỉnh của phương Tây: đạo Bụt và văn hoá Âu châu),
‘The Faith to Doubt: Glimpses of Buddhist Uncertainty’ (Đức Tin vào
sự Nghi Ngờ: Khái lược về Vô Thường trong Đạo Bụt), The Tibet Guide
(Sách Hướng Dẫn thăm Tây Tạng), và là dịch giả của nhiều tác phẩm
viết từ tiếng Tây Tạng.
- - Sư Cô Chân Không,
Tỳ kheo ni , làm việc thiện nguyện giúp trẻ em thiếu ăn và nhiều
người nghèo khó từ năm 14 tuổi, và phụ tá của Thiền sư Thích Nhất
Hạnh hơn ba mươi năm qua, Giám Đốc Đạo Tràng Mai Thôn ở Pháp. Sư Cô
là tác giả cuốn Learning True Love: How I Learned and Practiced
Social Change in Vietnam (Học Thương Đúng Nghĩa: Tôi đã học và thực
tập thay đổi xã hội như thế nào tại Việt Nam), và là Giáo Thọ Đạo
Tràng Mai Thôn, một trong 6 người đầu tiên thọ trì 14 giới của dòng
tu Tiếp Hiện cùng với Nhất Chi Mai năm 1966.
- - Maxine Hong
Kingston, đạt Giải Thưởng Tác Phẩm Quốc Gia (National Book Award),
là tác giả các quyển ‘The Woman Warrior: Memoirs of a Girlhood among
Ghosts’ (Nữ chiến binh: Hồi ký về tuổi thanh xuân giữa những bóng
ma), ‘China Men’ (Những người đàn ông Tàu), ‘Hawaii’ One Summer’ (Một
Mùa Hè Hawaii), và ‘Tripmaster Monkey: His Fake Book’ (Con Khỉ Tôn
Hành Giả: Du Ký giả của nó.) Hiện bà đang viết quyển Book of Peace (Sách
An Bình) về sức mạnh chuyển hoá của các chiến binh.
- - Jack Kornfield,
Giáo Thọ và người đồng sáng lập Trung Tâm Thiền Linh Thạch (Spirit
Rock Meditation Center) ở miền Bắc California, là tác giả các quyền
‘A Path with Heart: A Guide through the Perils and Promises of
Spiritual Life’ (Con Đường với Trái Tim: Cẩm Nang qua những Hiểm
Nguy và Hứa Hẹn của Đời Sống Tâm Linh), và ‘Living Buddhist Masters’
(Những vị Thầy Sống trong đạo Phật), và đồng tác giả quyển ‘Seeking
the Heart of Wisdom: The Path of Insight Meditation’ (Tìm Tâm Trí
Tuệ: Con Đường của Thiền Minh Sát.)
- - Sư Cô Annabel
Laity (CHÂN ĐỨC), cựu Giáo sư Phạn Ngữ Đại Học Luân Đôn Anh quốc, tỳ
kheo ni Giáo Thọ theo truyền thống của Đạo Tràng Mai Thôn, Trụ Trì
Tu Viện Tùng Hạc, tiểu bang Vermont, một Tu viện em của Đạo Tràng
Mai Thôn. Sư Cô giúp hướng dẫn cách tu tập chánh niệm hằng ngày cùng
khắp Bắc Mỹ Châu và Âu Châu. Dịch giả của nhiều quyển sách của
Thiền Sư Thích Nhất Hạnh.
- - Sulak Sivaraksa,
người sáng lập Mạng Lưới Phật Tử Dấn Thân trên Thế Giới
(International Network of Engaged Buddhists) đóng ở Bangkok, và
nhiều tổ chức khác, được đề cử giải Nobel Hoà Bình năm 1993. Ông là
tác giả của cuốn Seeds of Peace: A Buddhist Vision for Renewing
Society (Những Hạt Giống Hoà Bình: Viễn cảnh Phật Giáo về Một Xã Hội
Đổi Mới) và nhiều quyển sách khác.
- - Gary Snyder, Thi
sĩ đoạt giải Pulitzer Prize, sống ở miền Bắc California. Ông là
người sáng lập thiền đường Ring of Bone Zendo, và là tác giả các
quyển No Nature (Vô Tính), The Practice of the Wild (Sự thực tập của
Hoang Dã), Axe Hanles (Những Cán Rìu), Turtle Island (Đảo Rùa),
Earth House Hold (Đất Quen), và nhiều quyển khác.
- - David Steindl-rast,
Tu sĩ dòng Benedictine, sống ở tu viện Cama-Idolese ở California.
Ông là tác giả của các quyển ‘Gratefulness’ (Tri Ân), ‘The Heart of
Prayer: An Approach to Life in Fullness’ (Trái tim của sự Cầu Nguyện:
một cách đến với Đời Sống trong Sự Vẹn Toàn), và ‘A Listening Heart’
(Trái tim biết lắng nghe), và là một nhân vật hàng đầu trong các
phong trào đổi mới nếp sống tu viện và đối thoại Đông-Tây.
- - Patricia Max
Ellsberg cùng với phu quân là Daniel Ellsberg đã công bố tài liệu
mật về Tình Báo Cia Hoa Kỳ nhằm phơi bày những tội ác kinh khiếp của
tổ chức này. Bà và phu quân là hai người Hoa Kỳ đã hết lòng tranh
đấu cho Hòa Bình Việt Nam và nhiều nước khác trên thế giới, hầu chấm
dứt sự can thiệp quân sự mưu mô tàn ác của chính quyền Hoa Kỳ vào
nhiều nước trên thế giới.