-
SỰ
TÍCH GIỚI LUẬT
-
Ni
Sư Thích Nữ Trí Hải
-
---o0o---
-
-
Phần Ba
- Ba
Mươi Pháp Xả Đọa
- (Ni
tát kỳ
ba dặt đề)
- Tóm
tắt
- 1. Hạn giữ y dư (10
ngày)
- 2. Lìa y mà ngủ
- 3. Hạn cất vải dư (1
tháng)
- 4. Xin y không thân
- 5. Nhận vải quá phần
- 6. Xin thêm tiền y
- 7. Khuyên chung tiền
lại
- 8. Đòi quá 6 lần
- 9. Cầm giữ tiền của
- 10. Mua bán bảo vật
- 11. Bán mua đổi chác
- 12. Xin bát quá phần
- 13. Không thân xin
nhờ
- 14. Bảo thợ dệt thêm
- 15. Cho rồi đoạt lại
- 16. Cất chứa nhiều
đồ
- 17. Giữ y cúng gấp
- 18. Xoay nhiều về
một
- 19. Đòi vầy đòi khác
- 20. Pháp đường thành
y
- 21. Xoay một về
nhiều
- 22. Cúng vầy xoay
khác
- 23. Xin vầy xoay
khác
- 24. Chứa nhiều bát
tốt
- 25. Chứa nhiều đồ
đẹp
- 26. Không cho bệnh y
- 27. Dùng y phi thời
- 28. Đổi rồi đòi lại
- 29. Áo dày quá giá
- 30. Áo mỏng quá giá
- 1-
Giữ
y quá hạn:
- Phật ở
Xá vệ đặt ra
giới tỷ kheo không được giữ quá 3 y. Vào một mùa an cư, tôn giả A
Nan được cúng dường một tấm y ca sa đẹp. Ngài đã có đủ y, nhưng muốn
giữ cái y này để dành cúng tôn giả Ca Diếp đang an cư xa chưa về, mà
lại sợ phạm giới bèn đến bạch Phật. Phật hỏi:
- - "Ca
diếp chừng nào về đến?"
- A Nan
thưa:
- - "Bạch
Đức Thế Tôn, khoảng mười ngày nữa".
- Phật
bèn đặt ra
giới hạn cho phép chứa y dư là trong vòng 10 ngày, quá hạn ấy phải
bạch tăng để làm phép "tịnh thí". Tịnh thí có hai loại, là "chân
thật tịnh khí" và "triển chuyển tịnh thí".
-
Loại một là cho đứt
một người nào chưa đủ ba y. Loại hai là sau khi bạch chúng để xả y
dư, đương sự nói lên tên người mình muốn cho, rồi mỗi khi cần dùng
những y ấy, thì phải mượn. (Theo HT Trí Quang).
- Theo
Ni sư Phật Oanh thì trong pháp "chân thật tịnh thí" đương sự phải
hỏi chủ mới được mặc, còn "triển chuyển" thì khỏi cần hỏi cũng mặc
được, không phạm.
- Chân
thật tịnh thí thì ở giữa chúng, đương sự tác bạch với một vị như sau:
- - "Bạch
đại đức, tôi có y dư này chưa làm pháp tịnh thí, nay muốn thanh tịnh
nên xả cho đại đức".
- Triển
chuyển tịnh thí thì bạch:
- - "Bạch
đại đức, tôi có y dư chưa làm pháp tịnh thí, nay muốn thanh tịnh nên
xả cho đại đức. Xin đại đức triển chuyển tịnh thí giùm tôi".
- Vị thọ
tịnh trong trường hợp này nên nói:
- - "Đại
đức, xin nghe cho. Đại đức có y dư, chưa tác tịnh, vì muốn thanh
tịnh nên cho tôi, tôi sẽ nhận".
- Nhận
xong lại hỏi:
- - "Nay
đại đức muốn tôi chuyển cho ai?".
- Đương
sự đáp:
- - "Cho
vị tên Cột".
- Vị thọ
tịnh nên nói:
- - "Đại
đức, xin nghe cho. Y dư của đại đức chưa tác tịnh, vì muốn thanh
tịnh nên cho tôi. Nay tôi nhận để cho vị tên Cột. Nhưng vị tên Cột
đã có đủ y, vậy đại đức nên vì Cột mà giữ gìn y ấy, khi cần thì cứ
lấy mà mặc".
-
2- Lìa y mà ngủ:
- Phật ở
Xá vệ đặt ra
giới. Nhóm 6 Tỳ kheo phạm. Một Tỳ kheo trong chùa ngày nào cũng đem
nhiều y ra phơi cho khỏi hư mục. Các Tỳ kheo hỏi sao có nhiều y dư
không bạch, vị ấy đáp đấy là của Lục quần Tỳ kheo nhờ giữ hộ để du
hành. Phật nhân đấy nhóm tăng đặt ra giới không được rời y ngủ cách
đêm.
- 3-
Chứa vải quá hạn:
- Phật ở
Xá vệ đặt ra
giới. Sau khi Phật cấm chứa vải (y) dư, một Tỳ kheo có y tăng già lê
bị rách, muốn sắm y khác nhưng chưa có đủ vải, mà không dám giữ
những mảnh vải hiện có vì sợ phạm. Phật bèn cho phép nếu có hy vọng
được thêm vải để may y, thì cho phép giữ vãi vụn chờ được thêm cho
đủ. Lục quần Tỳ kheo nhân đấy đi xin nhiều vải ra phơi, các Tỳ kheo
biết chuyện bạch Phật. Phật bèn đặt
ra giới cho giữ
vải vụn trong vòng một tháng phải may thành y, quá hạn ấy mà còn giữ
bo bo thì phạm Ni tát kỳ ba dật đề.
-
4- Xin y không thân:
- Phật ở
Xá vệ đặt ra giới này. Tỳ kheo Bạt Nan Đà có tài ăn nói lưu loát,
biết nhiều hiểu rộng, một buổi sáng sớm tình cờ gặp một ông trưởng
giả mặc áp lông cừu sang trọng đi vào vườn Cấp cô độc vãn cảnh. Nghe
Tỳ kheo nói chuyện quá hay, ông ta phát tâm muốn cúng dường:
- - "Tôi
muốn cúng dường đại đức, đại đức cần gì xin nói cho tôi biết?".
- Bạt
Nan Đà muốn trêu ông ta bèn nói:
- - "Điều
mà tôi cần, ông không thể nào cho được, nói ra cũng vô ích mà thôi".
- Trưởng
giả năn nỉ:
- - "Không
hề gì, xin đại đức cứ nói đi. Tôi sẽ đá ứng".
- - "Thật
không?".
- - "Thật".
- Bạt
Nan Đà nói:
- - "Tôi
cần cái áo lông cừu trên người ông đang mặc".
- Ông
trưởng giả nói:
- - "Cũng
được, nhưng xin hãy để đến mai, tôi sẽ cho người mang đến. Vì hôm
nay đi dạo sớm, tôi chỉ khoác một cái áo này ra ngoài cho mau".
- Bạt
Nan Đà bèn bảo:
- - "Thấy
chưa? Tôi đã nói là điều tôi xin, ông không thể nào đáp ứng, thì nay
quả nhiên như vậy".
- - "Không
phải là tôi không thể cúng cho đại đức cái áo này, tôi chỉ nói là
hãy để đến mai".
- - "Tôi
không cần nó ngày mai, tôi cần ngay bây giờ. Ông tiếc của thì cứ nói
phứt đi, đừng bày đặt nói loanh quanh để từ chối".
- Bị
chạm tự ái, ông trưởng giả bèn cởi phăng cái y đưa cho tôn giả rồi
hằm hằm ra về. Thấy ông mang giày da sang trọng, vận quần xa tanh
dài láng bóng, nhưng mình lại ở trần trùng trục mà tản bộ giữa đường,
không ai không ngạc nhiên. Về đến cổng, gia nhân ra chào đón thấy
vậy thất kinh hỏi dồn:
- - "Thưa
chủ nhân, cái áo cừu đẹp của chủ đâu rồi? Phải chăng chủ đã bị bọn
cướp đường trấn lột?".
- - "Phải,
ta đã bị Sa môn Thích tử trấn lột mất cái áo cừu".
- Thiên
hạ bu tới biết chuyện, chê bai Tỳ kheo tham cầu không biết chán; dù
người ta có cho cũng không nên nhận những vật đắt giá, huống hồ
cưỡng bức mà xin. Khi câu chuyện này đến tai Phật, ngài bèn họp tăng
chế giới:
- - "Với
người cư sĩ không thân, không được xin y".
-
5- Nhận vải quá phần:
- Phật ở
Xá vệ đặt ra
giới này. Khi các Tỳ kheo bị cướp sạch hết y phục được phép đi xin
y, các cư sĩ thấy tội nghiệp bè đua nhau cúng y cho họ. Lục quần Tỳ
kheo xúi những vị này nên thừa dịp ấy cứ nhận thật nhiều rồi về cho
bớt anh em. Phật bèn chế giới không được nhận quá phần y mình được
giữ.
-
6- Xin thêm tiền y:
- Phật ở
Xá vệ, Bạt Nan Đà phạm đầu tiên. Các Tỳ kheo đi khất thức nghe một
nhà cư sĩ nọ đang bàn tính chuyện may y cúng cho Tỳ kheo Bạt Na Đà,
bèn về mách lại. Bạt Nan Đà thân hành đi đến nhà ấy, nói:
- - "Lành
thay, nghe nói cư sĩ muốn cúng cho tôi, vậy hãy cúng một tấm y như
vậy như vậy...".
- Thái
độ của Bạt Nan Đà làm cư sĩ bất mãn, nhất là ông đòi một cái y đắt
tiền hơn cái giá tiền y mà họ muốn cúng.
-
7- Khuyên chung tiền
lại:
- Cũng
như trên, người phạm là Bạt Nan Đà. Ông nghe lỏm biết có hai nhà cư
sĩ cùng muốn cúng y, sợ họ cúng hai cái y xấu (mà ông có thể phải xả
bớt một), ông bèn đến điều đình hai nhà nên chung tiền sắm một cái
cho tốt. Cư sĩ chê bai, Phật đặt
ra giới.
-
8- Đòi quá 6 lần:
- Phật ở
Xá vệ đặt ra
giới. Bạt Nan Đà được cúng tiền y, giao cho một cư sĩ giữ. Đến khi
cần, ông đi đến cư sĩ gặp lúc ông này đang bận túi bụi công việc,
sắp phải dự một phiên họp hàng năm của các thương gia, ai đi trễ bị
phạt năm trăm quan tiền. Cư sĩ giữ tiền của Bạt Nan Đà năn nỉ ông ta
chờ đến khi đi họp về sẽ giao tiền may y, nhưng Bạt Nan Đà nhất
quyết đòi cho được, cuối cùng ông ta phải về nhà lấy, và do vậy trễ
cuộc họp, phải bị phạt. Cư sĩ chê bai:
- "Tỳ
kheo gì mà lại làm cho người ta sạt nghiệp".
-
9- Cầm giữ
tiền của:
- Phật ở
Xá vệ, Bạt Nan Đà phạm. Nhân Bạt Nan Đà có vàng do bà vợ một ông đại
thần cúng, ông đem vào chợ gửi cho cư sĩ giữ, bị chê bai. Phật khiển
trách và đặt ra
giới.
-
10- Mua bán báo vật:
- Phật ở
Xá vệ. Bạt Nan Đà đem vật xin được chỗ này đến chỗ kia trong chợ mà
đổi chác. Khi Xá Lợi Phất đi khất thực đến những nơi đã từng đổi
chác với bọn họ bèn hỏi:
- - "Ông
có gì đổi không?”
- Trước
đây một tỳ kheo luôn luôn có thứ này thứ khác để đổi với chúng tôi,
nay ông đến tay không thì sao được?. Xá Lợi Phất về bạch Phật, Phật
đặt ra
giới.
-
11- Bán mua đổi chác
-
12- Xin bát quá phần:
- Phật ở
Xá vệ. Bạt Nan Đà làm bể bình bát, bèn đến các nhà cư sĩ xin. Nhà
nào ông cũng khai rằng bát bể, hãy cho tôi một cái mới. Các cư sĩ ai
cũng hoan hỉ cúng dường. Cúng xong gặp nhau họ khoe:
- - "Hôm
nay tôi làm được việc phước đức lớn".
- - "Việc
gì?"
- - "Cúng
bát cho Tỳ kheo".
- - "Cúng
cho ai?"
- - "Đại
đức Bạt Nan Đà Thích tử!".
- - "Thì
tôi cũng vậy".
- Khi ấy
họ vỡ lẽ Bạt Nan Đà đến nhà ai cũng xin bát, lấy làm bất mãn, chê
bai tới tai chúng tăng.
-
13- Không thân xin
nhờ:
- Phật ở
Xá vệ. Bạt Nan Đà đi đến các nhà cư sĩ xin chỉ để dệt y tăng già lê
(đại y). Sau khi xin được thật nhiều chỉ có thể may đến ba cái y,
ông đem tới một người thợ dệt không thân nhờ dệt giúp. Thợ dệt trông
thấy Tỳ kheo xin quá nhiều chỉ, bèn chê vị ấy tham cầu không chán.
-
14- Bảo thợ dệt thêm:
- Phật ở
Xá vệ đặt ra giới. Bạt Nan Đà nghe lỏm có cư sĩ đang gửi chỉ nơi một
thợ dệt để dệt y cho mình bèn tức tốc đến nơi thợ dệt ấy mà hỏi thực
hư. Thợ dệt xác nhận, và đưa chỉ người kia cúng cho ông ta xem. Bạt
Nan Đà bảo, cứ dệt cho dày, tốt, rồi tôi sẽ trả thêm tiền công cho.
Thợ dệt nói bấy nhiêu chỉ thì dày, tốt gì nổi, phải thêm vào mới đủ.
Bạt Nan Đa bèn tới nhà cư sĩ nọ, nói cái y dệt cúng cho tôi còn
thiếu chỉ. Gặp lúc cư sĩ vắng nhà, bà vợ đưa chỉ tốt cho Tỳ kheo đem
đi. Khi thợ dệt giao hàng đến nhà, cư sĩ thấy cái y có hai thứ chỉ,
không như ý mình muốn cúng ban đầu, bèn hỏi vợ mới biết tỳ kheo đã
đến nhà lấy thêm chỉ tốt hơn để giao cho thợ dệt. Cư sĩ nổi giận chê
bai phỉ báng.
-
15- Cho rồi đoạt lại:
- Phật ở
Xá Vệ đặt ra giới. Trong vườn Cấp cô độc bấy giờ có một Tỳ kheo trẻ
tuổi giỏi đi khuyến hóa, thường được cúng nhiều Bạt Nan Đà tặng cho
ông này một tấm y để dụ ông ta cùng đi với mình. Sau đó, có nhiều tỳ
kheo khác nói cho Tỳ kheo trẻ biết hoặc Nan Đà thiếu tư cách, thường
bị Phật quở, và khuyên ông ta đừng đi chung. Tỳ kheo trẻ nghe lời,
đổi ý không chịu đi theo Bạt Nan Đà nữa. Bạt Nan Đà giận đòi y lại,
ông kia nói:
- - "Đại
đức đã cho con rồi, sau bây giờ đòi lại?"
- - "Ta
cho ngươi vì nghĩ rằng ngươi sẽ theo ta. Bây giờ ngươi đổi ý thì hãy
trả y lại."
- Tỳ
kheo trẻ không trả, Bạt Nan Đà dùng vũ lực cưỡng đoạt y lại, bị
chúng tăng chê rồi bạch lên Thế Tôn. Phật đặt ra giới đã cho rồi
không được đòi lại.
-
16- Cất chứa nhiều
đồ:
- Phật ở
Xá vệ đặt ra giới này. Tỳ kheo Tất-Lăng-Già-Bà-Sa và chúng đệ tử của
ông xin được nhiều vật thực, đem về chất đầy một nhà gồm những đồ
chứa đủ cỡ, đựng sữa tươi, đường phèn, dầu, bơ… để ruồi bu, kiến đậu.
Cư sĩ vào chùa trông thấy chê bai.
-
17- Giữ y cúng gấp:
- Phật ở
Tỳ Lan Nhã, nhân lục quần tỳ kheo và Bạt Nan Đà mà đặt ra giới. Thể
theo lời cầu thỉnh của một Bà la môn giàu có, Phật cùng chúng tăng
đến thôn ấp của ông mà an cư ba tháng mùa mưa. Sau đó, Bà la môn bị
ma ám nên không nhớ gì đến chuyện đã thỉnh Phật. Suốt mùa an cư ấy
Phật và chư tăng phải tạm dùng lúa ngựa để sống qua ngày. Khi sách
mãn hạ an cư, Bà la môn mới nhớ tới chuyện cúng dường, bèn đến sám
hối và thỉnh Phật cùng chư tăng lưu lại ba tháng nữa, nhưng Phật từ
chối. Bà la môn năn nỉ xin được có một ngày cúng dường Phật và chúng
tăng y thực. Phật im lặng nhận lời. Bà la môn bèn mang thật nhiều y
thực thượng hạng đủ dùng cả ba tháng mà cúng dường Phật và chúng
tăng trong ngày hôm đó để bù lại việc khinh suất của mình vừa qua.
Lục quần tỳ kheo thấy Phật cho phép nhận y trong mùa an cư, và cấm
nhận y khi an cư chưa xong, phải đợi cho đến ngày Tự tứ.
- Về sau,
có hai viên quan chưa đến mùa Vu lan (còn những mười ngày nữa) đã
đến tinh xá Kỳ viên xin cúng dường y gấp để đi đánh giặc, vì không
kịp chờ đến ngày Tự tứ. Các tỳ kheo không dám nhận, bạch Phật, Phật
nhân đấy đặt ra giới này lần thứ hai, cho phép nhận y cúng gấp trước
Tự tứ mười ngày. Quá mười ngày phải bạch trước chúng tăng để làm
phép "chứa y dư", nếu không bạch thì cái y ấy gọi là y phi thời,
nghĩa là nhận không đúng lúc. Y nhận đúng lúc, được phép mặc gọi là
"thời y" nghĩa là y nhận từ rằm tháng bảy đến rằm tháng chạp (nếu có
thọ y công đức).
-
18- Xoay nhiều về
một:
- Phật ở
Xá vệ đặt ra giới này. Bạt Nan Đà biết một cư sĩ đang sắm sửa y thực
để cúng cho chư tăng ở Kỳ viên tinh xá, bèn tới nhà nói:
- - "Phật
và chúng tăng đã được vua và đại thần cúng nhiều y sang quý tốt đẹp,
chỉ có tôi còn thiếu. Ông cúng chư tăng thực phẩm là đủ rồi, khỏi
cần cúng vải vóc làm gì".
- Cư sĩ
làm theo lời, chỉ cúng thức ăn. Các Tỳ kheo biết chuyện, bạch Phật.
Phật đặt ra giới "Không được xoay vậy người ta định cúng chư tăng về
cho một mình mình".
-
19- Đòi vầy đòi khác:
- Phật ở
Xá vệ đặt ra giới. Tỳ kheo ni Thâu La Nan Đà dung mạo xinh đẹp, được
cư sĩ ưa thích nên cô đòi gì được nấy. Vì quen được chiều chuộng nên
cô yêu sách đủ điều, xin thứ này được cư sĩ đáp ứng xong cô lại đổi
ý trả lại, đòi thứ khác. Nhiều lần như vậy, cư sĩ đâm chán, chê bai
đồn đến tai chúng tăng.
-
20- Pháp đường thành
y:
- Phật ở
Xá vệ đặt ra giới này. Nhân thấy một chúng Tỳ kheo ni ngồi giữa trời
mà bố tát thuyết giới, cư sĩ chung nhau tiền đem đến cúng cho ni để
làm một pháp đường (nhà để chư tăng thuyết giới bố tát hay giảng
Kinh Luật Luận). Chư ni nhóm họ bàn rằng, làm nhà thuyết giới thì
phải trông coi thợ nề thợ một, vật liệu... quá phiền phức, mà mỗi
tháng chỉ có hai lần bố tát là cần dùng đến nhà ấy. Còn y phục thì
xin kiếm khó khăn, vậy ta nên đem tiền làm pháp đường mà chia cho
chúng may y. Về sau, cư sĩ lại thấy chư ni ngồi bố tát giữa trời,
hỏi ra mới biết tiền họ cúng làm nhà giảng đã được phân manh mún
chia nhau. Cư sĩ chê bai:
- - "Ai
chả biết y phục khó kiếm! Chính vì nghe Phật dạy làm pháp đường cúng
cho tứ phương tăng hành đạo thì được phước vô lượng, chúng ta mới
đem tiền đến cúng làm pháp đường chứ".
- Giới
này bao hàm sự "Xoay vật cúng cho tứ phương tăng thành ra hiện tiền
tăng trong chùa".
-
21- Xoay một về
nhiều:
- Phật ở
Xá vệ đặt ra giới. Bấy giờ các tỳ kheo ni ở Xá vệ nghe nói ni sư An
Ổn sắp đến, họ bèn đi khắp thành phố xin tứ sự cho ni sư. An Ổn là
một ni sư có danh tiếng thời bấy giờ, nên nghe nói duyên cho ni sư
An Ổn thì phật tử mộ đạo ai cũng hoan hỉ cúng dường trọng hậu đủ thứ
cần dùng. Nhưng rốt cuộc chờ cả tháng ni sư không đến, chư ni bèn
đem phân chia cho chúng tất cả những gì đã quyên cho Ni sư An Ổn.
Chia xong thì Ni sư An Ổn lại đến, không có vật dụng Bà ôm y bát vào
thành để khất. Các cư sĩ thấy, bèn tới chùa hỏi:
- - "Những
vật thực và đồ dùng chúng tôi cúng cho Ni sư ấy đi đâu cả rồi?".
- Các Tỳ
kheo ni cứ thật trình bày, cư sĩ chê bai đủ điều, tới tai chúng tăng,
tăng bạch Phật. Phật đặt ra giới "Hồi tác dư dụng" này, bao hàm sự "Xoay
đồ cúng cho một người về cho nhiều người" hay cả chúng, nghĩa là lợi
dụng danh nghĩa một vị có tên tuổi để đi xin, rồi mang về phân chia
cho nhiều người khác.
-
22- Cúng vầy xoay
khác:
- Phật ở
Xá vệ, nhân vì ni An Ổn phạm mà đặt ra giới. Bà đi khất thực, khi
được các cư sĩ hỏi thăm về chỗ ở, bà than phiền là chật chội, ồn ào,
đủ thứ. Cư sĩ chung tiền cúng cho bà làm một phòng riêng mà ở cho
thanh tịnh. Sau đó, ni An Ổn đem tiền ấy sắm y để mặc, gặp cư sĩ hỏi
bà vẫn kêu rêu như trước. Họ hỏi:
- - “Thế
thì bà chưa làm phòng riêng sao?”.
- Bà nói:
- -
“Tiền các vị cúng cho tôi làm phòng đã được đem may y hết rồi”.
- Cư sĩ
chê bai. Phật đặt ra giới này, cấm cái sự "Người ta cho mình tiền để
làm việc này, mình lại đem làm việc khác".
-
23- Xin vầy xoay
khác:
- Phật ở
Xá vệ, Lục Quần Tỳ kheo ni đi khắp nơi quyên tiền về làm nhà cho
tăng chúng ở, khi được tiền về, lại không làm nhà mà đem chia nhau
để may y, bị cư sĩ chê bai. Phật đặt ra giới này, cấm cái sự "Nhân
danh một việc để xin, khi được tiền lại dùng vào việc khác".
-
24- Chứa nhiều bát
tốt:
- Phật ở
Xá vệ đặt ra giới. Lục Quần Tỳ kheo chứa nhiều bát đẹp, dùng mỗi
ngày một cái không rửa, để chất từng đống. Cư sĩ vào chùa trông thấy,
chê bai Tỳ kheo ở dơ và không biết tàm quý, xin bát thật đẹp về mà
vứt bừa bãi như gạch vụn.
-
25- Chứa nhiều đồ
đẹp:
- Phật ở
Xá vệ, Lục quần Tỳ kheo chứa nhiều đồ dùng màu sắc đẹp đẽ, cư sĩ
trông thấy chê bai, nói giống hàng tạp hóa.
- Phụ:
- Kinh
Phước Cái Chánh Hạnh sở tập quyển 6 nói: "Khi Phật ở thành Vương Xá,
trong vườn trúc Ca Lan Đà có con trai trưởng giả sau khi nghe Pháp,
xin Phật xuất gia. Người mẹ anh ta chỉ có một con nên không muốn rời,
bảo con muốn xuất gia thì hãy đợi mẹ chết đã. Người con tuân lời dạy,
siêng năng làm lụng được bao nhiêu tài vật đều đem dâng mẹ, lại
thường khuyên bà bố thí tu phước. Người mẹ được tài vật thì cất giữ
chôn giấu, tiếc không nỡ đem cho. Nếu có Sa môn đến nhà khất thực
thì mắng nhiếc nói rằng quỷ tới. Người con biết chuyện không vui
càng khuyên can mẹ, người mẹ lại nói dối đã cho. Không lâu bà mẹ
chết, người con mở hội bố thí rộng rãi để hồi hướng cho mẹ rồi xuất
gia, tinh tấn tu hành đắc quả A La Hán. Bên bờ sông Hằng vị ấy tu
thiền định trong một am cỏ, một hôm có con quỷ đến đứng trước mặt
hình thể đen xấu như khúc gỗ cháy, đầu tóc lòa xòa cổ nhỏ bụng lớn,
tay chân bốc lửa, kêu la gào thét. Tôn giả hỏi:
- - "Ông
là ai?".
- Quỷ
nói:
- - "Tôi
là mẹ ông, chết đã 25 năm, đọa vào ngạ quỷ, chịu đói khát vô cùng,
không nghe đến cái tên ăn uống và nước. Có khi tôi vừa trông thấy
con sông lớn, thì bỗng nó khô cạn, trông xa thấy có rừng trái cây,
tới gần lại không có gì. Tôi không được lúc nào an vui. Xin tôn giả
cứu vớt. Cho tôi xin chút nước uống".
- Tôn
giả nghe xong buồn khóc nghĩa:
- - "Sống
không tu, chết đoạ ác đạo".
- Bèn
khuyên mẹ phát tâm hối lỗi. Quỷ cho biết chỗ chôn tài vật lúc sống,
nhờ tôn giả đem tài sản ấy thết trai cúng dường và xin những sa môn
thọ thực chú nguyện cho bà được thoát khổ. Tôn giả liền triệu tập
thân quyến về nhà đào của cải lên, đem cúng dường tam bảo và bố thí
cho kẻ ăn xin, lớn tiếng gọi tên mẹ. Bấy giờ Đức Thế Tôn dùng sức
oai thần gia trì và thuyết pháp, 5000 chúng sanh nghe pháp được ngộ,
quỷ thoát khổ, chết ngay. Tôn giả lại nhập định quán sát, thấy mẹ
sanh vào loài quỷ giàu có, bèn thuyết pháp cho bà nghe về quả báo
của tham lam, khuyên bố thí. Bà quỷ phát tâm cúng dường chư tăng hai
cuộn vải, nhưng tăng chưa kịp chia thì quỷ tiếc, ban đêm đến lấy
trộm. Tôn giả đến nơi quỷ đòi lại. Quỷ ăn trộm lại ba lần như thế,
chúng tăng cắt ra cho mỗi người một mảnh để vá áo. Quỷ cũng tới ăn
trộm cái áo đi. Phật dạy, nên biết tâm bỏn xẻn thật tai hại, bị nó
trói buộc vĩnh viễn đọa vào cõi xấu.
-
26- Không cho bệnh
y:
- Phật ở
Xá vệ đặt ra giới. Sau khi Phật đặt ra ba y cho Tỳ kheo và năm y cho
Tỳ kheo ni, có những Tỳ kheo ni có kinh nguyệt ra nhiều, sợ phạm
giới không dám giữ vải vụn nên không đủ để lót, làm dơ bẩn giường
ghế. Do đó, Phật cho phép ni được mặc thêm vải (y) lót bên trong lúc
bật tịnh, ngoài mặc nê hoàn tăng (quần), khi cần phải trải thêm đồ
lót ghế, giường để khỏi vấy bẩn.
- Ni
Chiên Đàn Thâu Na mới vừa dứt kinh nguyệt, liền khoe mình không có
tư tưởng dâm dục nên không còn bất tịnh, từ nay ai cần cô sẽ cho
mượn "bệnh y" tức đồ vệ sinh phụ nữ. Sau đó một Tỳ kheo ni khác cần,
đến mượn thì ni cô này không cho, chính vì cô cũng đang bất tịnh,
nhưng đã lỡ lời khoe khoang nên không nói lý do tại sao không thể
cho mượn. Cô kia bạch chúng tăng.
-
27- Dùng y phi thời
(làm y phải thời):
- Phật ở
Xá vệ đặt ra giới, Lục Quần ni phạm.
- Y phải
thời là y cúng và thọ nhận trong thời gian 5 tháng thọ y công đức,
từ rằm tháng bảy đến rằm tháng chạp; ngoài thời gian ấy ra mà nhận
thì gọi là y phi thời, phải "thuyết tịnh" nghĩa là đem ra giữa tăng
mà xả bằng pháp tịnh thí chân thật hay triển chuyển đã nói ở giới số
1 Xả đọa ở trên.
- "Thọ y
công đức" là một cách Phật tưởng thưởng, cho phép chúng tăng xả hơi
sau ba tháng an cư thanh tịnh. Trong thời gian thọ y công đức, có
năm sự được phóng xả như sau:
- - Một,
là được chứa y dư;
- - Hai,
lìa y ngủ;
- - Ba,
ăn biệt chúng;
- - Bốn,
ăn nhiều lần;
- - Năm,
đi ra khỏi dặn, vào bữa ăn sáng (tiền thực) hoặc bữa ăn trưa (hậu
thực).
- Nếu
không có thọ y công đức thì năm việc nói trên chỉ được một tháng
phóng xả từ rằm tháng bảy tới rằm tháng tám.
-
28- Đổi rồi đòi lại:
- Phật ở
Xá vệ đặt ra giới, ni Thâu La Nan Đà đổi y với một cô khác, sau giận
không muốn đổi, đòi lại.
-
29- Áo dày quá giá:
- Phật ở
thành Tỳ xá ly, trong giảng đường lầu các bên sông Di hầu. Khi Tỳ
kheo Ca La đến khất thực tại nhà một cư sĩ quen biết, gặp một người
dòng họ Ly xa (Licchavi); ông ta phát tâm muốn cúng dường cho cô một
món gì, yêu cầu cô nói ra vật dụng cô cần. Ni cô nói đã có đủ, không
cần gì cả. Người Ly xa năn nỉ, cô bèn đòi một cái y quý, giá thật
đắt. Người Ly xa đã không cho, lại còn rêu rao là ni tham cầu không
chán, đáng lẽ dù được cho áo đẹp đắt giá cũng không nên nhận, huống
hồ đi xin. (Xem chuyện số 4 ở chương này).
-
30- Áo mỏng quá giá:
- Phật ở
Tỳ xá ly, như trên. Tỳ kheo ni Bạt Đà Ca Tỳ La đến nhà cư sĩ mà xin
một tấm y mỏng trị giá 500 tấm vải mịn (trương điệp), bị cư sĩ chê
bai ham hố. Phật đặt ra giới.
- Phụ:
- Tỳ
kheo Tất Lăng Dà Ba Sa được cúng một cái áo lông cừu đắt giá, ông
mặc đi vào rừng. Bọn cướp trông thấy, đi theo Ngài bén gót. Nửa đêm
hôm ấy, bọn cướp đến gõ cửa chòi. Ngài nói:
- - "Các
ngươi muốn gì?".
- - "Muốn
cái áo lông cừu. Hãy đưa ra đây".
- - "Được.
Hãy thò tay vào song cửa sổ, ta sẽ đưa ra cho".
- Tôn
giả gia trì thần lực vào cái y, khiến cho bọn cướp đưa tay vào mà
không tài nào lôi ra được, thất kinh kêu cứu. Tôn giả thu nhiếp thần
lực, chúng bèn bỏ chạy một nước không còn dám bén mảng. Sau tôn giả
về thuật lại câu chuyện, các Tỳ kheo bạch Phật. Phật lo sợ cho các
Tỳ kheo đời mạt pháp không có được thần thông như tôn giả, nếu mặc y
quý giá mà ở rừng thì có thể nguy đến tánh mạng. Do đó Ngài đặt ra
giới này, một phần để Tỳ kheo giữ hạnh thiểu dục tri túc, trừ thói
kiêu mạn (khi thân cận giới nhà giàu mà được đồ tốt), thói ràng buộc
(được đồ tốt thì dễ bị ràng buộc thân tình với người cho), và nhất
là thói giữ của, luôn luôn lo sợ mất mát và hiểm nguy.