-
LỜI NÓI ĐẦU
-
-
Theo Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang
thì Phật Giáo đã truyền đến Việt Nam rất sớm, vào khoảng đầu
kỷ nguyên TL. Vào khoảng thời gian nầy có ba Trung Tâm Phật
Giáo được nhắc đến đó là Trung Tâm Phật Giáo Luy Lâu nằm trong
phần đất của Giao Chỉ, hiện nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Hai trung
tâm còn lại đó là Trung Tâm Phật Giáo Lạc Dương là kinh đô của
Trung Hoa vào đời Nhà Hán, hiện nay là một huyện ở Tỉnh Hà
Nam, và Trung Tâm Phật Giáo Bành Thành thì ở hạ lưu sông Dương
Tử, hiện thuộc tỉnh Triết Giang.
-
Về 3 trung tâm nầy, cũng theo VNPGSL của Nguyễn
Lang thì Trung Tâm Phật Giáo Luy Lâu hình thành vào thượng bán
thế kỷ thứ nhất, được coi là hình thành sớm nhất (1*), sau đó
là Trung Tâm Phật Giáo Bành Thành, và đến hạ bán thế kỷ thứ
hai tức là năm TL. 165 thì Trung Tâm Phật Giáo Lạc Dương mới
hình thành (2*). Do đó, theo Ông Lương Khải Siêu quả quyết
rằng, Phật Giáo từ Ấn Độ đã truyền vào Việt Nam trước khi vào
Trung Quốc và đã dừng chân tại Trung Tâm Phật Giáo Luy Lâu
(3*), rồi sau đó mới truyền vào các Trung Tâm Phật Giáo Bành
Thành và Trung Tâm Phật Giáo Lạc Dương. .
-
Cho đến năm TL 528 triều đại nhà Lương, Tổ Bồ
Đề Đạt Ma từ Ấn Độ qua Trung Quốc truyền đạo, Ngài đã lênh
đênh trên biển cả suốt 3 năm trời. Cho nên có thuyết cho rằng
Ngài đã dừng chân tại Giao Chỉ, Trung Tâm Phật Giáo Luy Lâu
trước khi Ngài vào nội địa Trung Quốc để hội kiến với Vua
Lương Võ Đế. Sau khi cuộc đối thoại ngắn với nhà Vua, Tổ biết
nhà Vua chỉ là một Phật Tử thuần thành nhưng không phải đối
tượng hoằng dương Phật Pháp. Thế là Ngài đã âm thầm vượt sông
Dương Tử đi về phía Bắc lên Chùa Thiếu Lâm tại núi Trung Sơn.
Tại đây dòng thiền Ấn Độ - Trung Hoa bắt đầu nở rộ và truyền
bá mạnh mẽ qua các vị tổ từ Tổ Huệ Khả, Tăng Xán, Đạo Tín trở
đi.
-
Xét về Thiền Tông Việt Nam, cùng thời với Tổ
Đạo Tín tức là tổ thứ tư của Thiền Tông Trung Hoa thì từ sớm
đã có Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi truyền pháp làm tổ thư nhất của
Thiền Tông Việt Nam. Đến đời Đường (TL 820) thì có Tổ Vô Ngôn
Thông từ Trung Quốc sang và lập thành phái Thiền Tông thứ hai,
rồi sau đó đến các Thiền Phái Thảo Đường, Tào Động..., nhưng
Phật Giáo lúc đó chưa mấy thịnh hành. Cho đến gần 1150 năm
sau, tính từ Tổ Bồ Đề Đạt Ma đến Việt Nam trước khi vào nội
địa Trung Quốc. Vào khoảng năm Đinh Tỵ 1677, Thiền Sư Nguyên
Thiều Siêu Bạch cùng các đệ tử từ Trung Quốc qua Đại Việt, vào
Phủ Quy Nhơn lập Chùa Thập Tháp Di Đà. Năm 1683, Ngài ra Thuận
Hóa lập Chùa Hà Trung và đến Phú Xuân lập Chùa Quốc Ân, dựng
tháp Phổ Đồng (1684).
-
Như vậy Thiền Tông từ Ấn Độ đến Việt Nam từ sớm
rồi đi nhanh theo dấu chân của Tổ Bồ Đề Đạt Ma, chưa lưu lại
dấu vết gì, nhưng ngày trở lại Việt Nam theo dấu chân Thiền Tổ
Nguyên Thiều thì rất đậm nét và phong phú qua sự truyền thừa
của các Thiền Tổ cho nên đã định hình cho Việt Nam một thiền
phái lớn, có tầm vóc ảnh hưởng sâu rộng trong lòng quần chúng
Phật Tử.
-
Xét về Thiền Phái Lâm Tế ở Trung Quốc, Tổ khai
sáng Tông Lâm Tế là Thiền Sư Lâm Tế Nghĩa Huyền truyền đến đời
21 là Ngài Vạn Phong Thời Ủy ở Chùa Thiền Đồng (Trung Hoa)
truyền xuống theo bài kệ:
-
- Tổ Đạo Giới Định Tông
-
Phương Quảng Chứng Viên Thông
-
Hạnh Siêu Minh Thiệt Tế
-
Liễu Đạt Ngộ Chơn Không"
-
Đến đời thứ 31 Thiền Sư Đạo Mân Mộc Trần đã
xuất dòng kệ riêng:
-
- Đạo Bổn Nguyên Thành Phật Tổ Tiên
-
Minh Như Hồng Nhựt Lệ Trung Thiên
-
Linh Nguyên Quản Nhuận Từ Phong Phổ
-
Chiếu Thế Gian Đăng Vạn Cổ Huyền
-
Tổ sư Nguyên Thiều - Siêu Bạch đều thuộc hệ
truyền thừa của 2 phái này. Sau đệ tử và pháp tôn của Ngài là
các tổ như Tổ Sư Minh Hải Pháp Bảo, Tổ Sư Thiệt Diêu Liểu Quán
lập thêm hai chi phái khác. Ngài Minh Hải Pháp Bảo khai sơn
Chùa Chúc Thánh (Quảng Nam), lập chi phái Chúc Thánh và xuất
kệ:
-
- Minh Thiết Pháp Toàn Chương
-
Ấn Chơn Như Thị Đồng
-
Chúc Thánh Thọ Thiên Cửu
-
Kỳ Quốc Tộ Địa Trường.
-
Đắc Chính Luật Vi Tiên
-
Tổ Đạo Hạnh Giải Thông
-
Giác Hoa Bồ Đề Thọ
-
Sung Mãn Nhơn Thiên Trung.
-
Xét qua dòng kệ từ tổ Nguyên Thiều - Siêu Bạch
trở xuống để chúng ta hiểu thêm về tổ khai sơn các ngôi chùa
tổ trong cũng như ngoài tỉnh. Về chữ Đạo (Đạo Mân) thuộc đời
thứ 31, chữ Bổn đời thứ 32, chữ Nguyên đời thứ 33, chữ Thành
đời thứ 34, chữ Phật đời thứ 35.
-
Về chữ Siêu đời thứ 33, chữ Minh đời thứ 34,
chữ Thiệt đời thứ 35. Vậy chữ Thiệt và chữ Phật đời ngang
nhau. Những thiền sư dù ở giòng kệ thiền sư Vạn Phong Thời ủy
hay thiền sư Đạo Mân thì cũng cùng chung phái Lâm Tế mà tổ sư
là Nghĩa Huyền thiền sư. Những thiền sư dù ở giòng kệ Liễu
Quán hay ở giòng kệ Chúc Thánh thì cũng cùng chung phái Lâm Tế
tổ là Nguyên Thiều - Siêu Bạch thiền sư, được truyền thừa tổ
sư Nghĩa Huyền thiền sư.
-
Về Lâm Tế Chúc Thánh, kể từ khi Tổ Minh Hải -
Đắc Trí – Pháp Bảo khai tông lập giáo, tính đến nay dòng thiền
Lâm Tế Chúc Thánh đã trải qua 300 năm lịch sử với 12 đời
truyền thừa. Qua ngần ấy thời gian có mặt trong ngôi nhà Phật
Giáo Việt Nam, các thế hệ tăng nhân của dòng Lâm Tế Chúc Thánh
tại Phú Yên như Tổ Sư Pháp Chuyên - Luật Truyền - Diệu Nghiêm (1726 –
1798), Tổ Sư Ấn Thiên – Tổ Hòa - Huệ Nhãn (1850 – 1888), và Tổ
Sư Chơn Tín - Đạo Thành – Pháp Hỷ đã từng đóng góp đáng kể cho
sự phát triển của Đạo Pháp và Dân Tộc, mà qua đó là đã đào tạo
các vị thiền tổ có danh tiếng như:
-
- Thiền sư Phước Huệ sau nầy là Tăng
Cang Quốc Sư
-
- Thiền Sư Phổ Huệ …
-
Đặc biệt sau nầy có nhiều vị thiền sư trở thành
lãnh đạo cao cấp của giáo hội như HT. Tăng Thống Thích Tịnh
Khiết, HT. Thích Viên Thành bổn sư của Hòa Thượng Trí Thủ. Lớp
thứ hai là Hòa Thượng Mật Thể, Mật Nguyện, Mật Hiển, Trí Thủ,
Phúc Hộ. Và lớp thứ ba có thiền sư Thiện Hoa, Thiện Hòa, Trí
Tịnh, Bát Nhã … Tổ Sư Chơn Tín - Đạo Thành – Pháp Hỷ còn giảng
kinh cho cư sĩ Lê Đình Thám, cư sĩ Diệu Không và cho mẹ vua
Bảo Đại nữa.
-
Như vậy ta thấy, dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh
là một trong những thiền phái quan trọng trong việc hình thành
và truyền giáo của Phật Giáo Việt Nam qua các thời đại. Quan
trọng vì tính chất truyền thừa có hệ thống liên tục, sâu rộng
và vững chắc, cho nên dù trải qua không biết bao nhiêu cuộc
thăng trầm của lịch sử nhưng Thiền Phái nầy vẫn liên tục phát
triển không ngừng. Qua đó, là một trong những chi nhánh đã
cùng song hành với các chi nhánh khác được biết đến và đã được
truyền thừa trực tiếp từ Tổ Đình Chúc Thánh, Quảng Nam,
khai sơn là Sơ Tổ
Sư Minh Hải - Đắc Trí – Pháp Bảo cho đến
Tổ Đình Chùa Từ
Quang (Chùa Đá Trắng), Phú Yên khai sơn là Tổ Sư Pháp
Chuyên - Luật Truyền - Diệu Nghiêm, rồi
trải qua các triều đại, các vị tổ sư đó là Tổ
Đình Pháp Hội Bình Thuận,
khai sơn là
Tổ Sư Thị Lạc - Hành Thiện - Hưng Từ. Nhất là, từ khi
đất nước được mở rộng thì Thiền Phái nầy đã có rất nhiều vị
danh Tăng mang pháp danh theo dòng kệ pháp phái đi khắp mọi
miền đất nước theo bước tiến của dân tộc, đem chánh pháp
truyền đến tận những vùng xa xôi của tổ quốc, và cũng chính
những vị này đã gieo trồng chánh pháp sâu rộng trong lòng của
quần chúng Phật Tử tại Việt Nam cũng như Hải ngoại.
-
Ngày hôm nay, tại Việt Nam, từ Quảng Nam, Phú Yên
xuôi về Nam thì có, Khánh Hòa, Bình Thuận, Gia Định, Bình
Dương cho đến các tỉnh
miền Nam, Miền Tây Nam Bộ. Từ Quảng Nam ngược về Bắc thì Huế và
các tỉnh thành miền Bắc. Tại Hải Ngoại: Mỹ Châu, Âu Châu và Úc
Châu đã có rất nhiều ngôi chùa, tu viện, tịnh thất do chư tôn
đức của thiền phái Chúc Thánh khai sơn cũng như kế thừa hoằng
truyền Phật pháp.
-
Rất vui mừng khi tìm lại được sự
truyền thừa trong hệ thống pháp phái
LÂM TẾ CHÚC THÁNH & TỔ ĐÌNH PHÁP HỘI
BÌNH THUẬN.
Nơi đây con kính dâng lên giác linh hòa thượng bổn sư
TỔ SƯ
KHAI SƠN CHÙA PHÁP HỘI THỊ LẠC - HÀNH THIỆN – HƯNG TỪ,
đồng thơi cũng xin được chia xẻ niềm vui nầy với chư tôn đức
xa gần.
-
Tại Hải Ngoại những tài liệu về hệ
thống pháp phái rất khan hiếm, hơn nữa khả năng cũng có hạn,
do vậy chúng tôi biết còn rất nhiều khuyết điểm, thiếu xót.
Xin chư tôn thông cảm bỏ qua những thiếu xót. Hy vọng lần tái
bản sẽ hoàn chỉnh hơn.
-
-
Nhất Quán – Thích Đồng Trung