|
LÂM TẾ CHÚC THÁNH
& TỔ ĐÌNH PHÁP HỘI BÌNH THUẬN
Nhất Quán-Thích Đồng Trung
-
CHƯƠNG III
-
-
TỔ ĐÌNH PHÁP HỘI
-
BÌNH THUẬN
-
-
1. TỔ KHAI SƠN TỔ ĐÌNH PHÁP HỘI BÌNH THUẬN
-
- THỊ LẠC –
HÀNH THIỆN – HƯNG TỪ (1911 – 1991), NỐI TRUYỀN PHÁP PHÁI LÂM
TẾ CHÁNH TÔNG ĐỜI THỨ 42, THẾ HỆ THỨ 9 DÒNG LÂM TẾ CHÚC
THÁNH
-
Và là:
-
- ĐỆ TAM TỔ CỦA CHÙA MINH SƠN ( CHÙA HANG MINH
ĐỨC), NỐI TRUYỀN PHÁP PHÁI LÂM TẾ CHÁNH TÔNG ĐỜI THỨ 42.
-
1. VÀI DÒNG TIỂU SỬ:
-
Thiền sư Thích Hưng Từ, thế danh Bùi Vạn An,
sanh ngày 01 tháng 8 năm Tân Hợi (1911) tại làng Bình Hòa, xã
An Dân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Ngài sanh trong một gia
đình có truyền thống đạo Phật. Thân phụ Ngài là cụ Bùi thế Vĩ,
pháp danh Như Chơn, thân mẫu là cụ bà Võ Thị Biểu, pháp danh
Thị Bửu cũng là đệ tử tại gia của Tổ Sư Như Hương - Hòa Quang
- Hòa Phước. Từ nhỏ ngài đã được song thân giáo dục trong tinh
thần từ bi và chan chứa đức hỷ xả của nhà Phật, nên ngài sớm
mộ cửa thiền.
-
Duyên lành đã đến, ngày mùng 08 tháng 02 năm
Mậu Ngọ (1918), khi vừa bảy tuổi, Ngài được song thân cho phép
xuất gia đầu sư với hòa thượng Thích Hòa Phước, trụ trì chùa
Thiên Long. Được bổn sư ban cho Pháp danh Thị Lạc tự Hành
Thiện, thuộc đời 42 tông Lâm Tế, thế hệ thứ 9 dòng Lâm Tế Chúc
Thánh.
-
Nhờ túc duyên, ngài rất thông minh đỉnh đạt.
Ngay từ nhỏ, từ hai thời công phu, bốn quyển luật Tỳ Ni cho
đến các bộ kinh Địa Tạng, Thủy Sám ngài đều thuộc lòng. Ngoài
sự dạy dỗ của bổn sư, ngài còn được tham học giáo điển với các
vị Cao Tăng như Hòa thượng Từ Pháp chùa Thiên Tôn.
-
Năm 20 tuổi (1931) ngài thọ Tam đàn cụ túc tại
Đại giới đàn chùa Linh Sơn do Đại lão Hòa Thượng Thích Hoằng
Hóa làm Đàn đầu thí giới và được Phú pháp hiệu Hưng Từ. Sau
khi thụ giới cụ túc xong, ngài tiếp tục học khóa Du Già Mật
Tông với Hòa thượng Linh Quang và được Hòa thượng truyền trao
pháp ấn.
-
Năm 23 tuổi (1934) ngài được Chư tôn túc trong
hội Địa Tạng Phổ lúc bấy giờ giới thiệu và gửi học Tam Tạng
giáo điển tại Phật học đường Tây Thiên ở Huế trong ba năm kể
từ năm 1934 - 1936. Nhờ tâm cầu học vững bền, chẳng những ngài
uyên thâm kinh điển mà còn thấu triệt lý tánh diệu dụng của
khoa Du Già Chẩn Tế.
-
Sau khi tham học với các bậc Cao Tăng ở Huế và
Phú Yên xong, nhằm lúc phong trào chấn hưng Phật Giáo đang dấy
lên mạnh mẽ trên khắp ba miền đất nước, ngài nhận thấy đây là
một cơ duyên thuận lợi để phục hưng chánh Pháp.
-
Trong những năm 1936 -1940 phong trào chấn hưng
Phật giáo lan rộng, nơi nơi đều có giáo lý Từ bi ban rải, ngài
được Bồ tát Thích Quảng Đức mời về tham gia trong công cuộc
hoạt động truyền bá Phật Pháp tại nhiều nơi. Riêng ở Khánh
Hòa, đặc biệt là ở Ninh Hòa có tổ đình Sắc Tứ Thiên Tứ (Núi
Đất, Địa Sơn, Mỹ Trạch). Sau đó ngài được Bồ tát Thích Quảng
Đức giao trọng trách kế vị trú trì tổ đình Thiên Tứ. Còn ở Tuy
An (Tuy Hòa) thì có chùa Liên Trì, chùa Cổ Lâm. Riêng hoạt
động tại Núi Đất, Mỹ Trạch, Ninh Hòa trong khoảng thời gian kể
trên gặp được rất nhiều thuận lợi. Tại đây đã mở nhiều khóa
Trường hạ và Phật học, do ngài làm giáo thọ là Pháp sư chủ
giảng, có nhiều bậc Hòa Thượng nổi tiếng sau này như Hòa
Thượng Vĩnh Thọ, Nhơn Duệ, Nhơn Thị, Thủ Thiên là những học
viên xuất sắc thời đó. Số Tăng tín tham gia tu học tại đây có
khoảng gần 100 vị từ các tỉnh ở miền Nam và miền Trung cũng
như ở tại Ninh Hòa và Khánh Hòa.
-
Kể từ năm 1940 trở đi, vì tình hình chính trị
bất ổn, hoạt động Phật sự tại Tổ đình Sắc Tứ Thiên Tứ bị gián
đoạn, các Tăng học đường tạm thời đóng cửa, nhưng ngài luôn
tìm mọi cách tổ chức các lớp tu học, giảng kinh luật dưới hình
thức an cư-kiết hạ. Mở Đại giới đàn ở các tỉnh Phú Yên, Khánh
Hòa, Bình Thuận, Bình Tuy để đào tạo các bậc Tăng tài hữu ích
cho Đạo sau này như các Hòa thượng Ấn Tâm, Viên Quang, Đồng
Huy và giảng dạy khoa Du Già Chẩn Tế cho chư Tăng ở các tỉnh
Phú Yên, Khánh Hòa. Đặc biệt là ở vùng đất Khánh Hòa. Vào năm
1942 ngài mở Đại giới đàn tại chùa Kim Long (Phú Hòa, Ninh
Quang) do Hoà thượng Phước Huệ chùa Hải Đức, Nha Trang làm Đàn
đầu. Từ đó đạo tràng lớn mạnh không ngừng.
-
Ngoài ra ngài còn tranh thủ thời gian để mở lớp
giảng dạy khoa Du Già Chẩn Tế cho chư Tăng tại tỉnh Bình
Thuận. Song song với việc giảng dạy, đào tạo Tăng Ni, ngài còn
đem hết sức mình khai sơn và trùng tu rất nhiều ngôi chùa để
có nơi tu học cho Tăng Ni và sớm hôm lễ bái của Phật Tử xa gần
như:
-
- Tổ đình Sắc Tứ Thiên Tứ (1937) Núi Đất (Địa
Sơn) Ninh Hòa,
-
- Chùa Thiên Long ở Phú Yên (1938),
-
- Chùa Kim Long (1942) Phú Hòa, Ninh Quang,
-
- Tổ đình Minh Sơn (1957),
-
- Chùa Linh Đài, Tuy An (1959).
-
- Khai sơn Linh Sơn Tự, Lạc Tánh ở Tánh Linh
(1961)
-
- Tổ
đình
Pháp Hội ở Hàm Tân, Bình Thuận (1967).
-
Riêng Tổ đình Hội Phước từ lâu thiền sư thường
thăm viếng và sách tấn chư Tăng. Ngài là Y Chỉ Sư của TT.
Thích Quảng Thiện. Năm 1986, ngài đã quang lâm Tổ đình chứng
minh, đặt đá đại trùng tu Tổ đường và năm 1989, quang lâm
chứng minh, đặt đá xây dựng Liên Hoa Bảo Tháp.
-
2. NHỮNG ĐÓNG GÓP CHO ĐẠO PHÁP & DÂN TỘC
-
Trong suốt cuộc đời tu học và hành đạo, ngài
không từ nan bất cứ nhiệm vụ nào khi được chư Tăng và Giáo hội
giao phó cũng như Phật tử cần đến. Đối với dân tộc, ngài luôn
đem hết sức mình góp phần vào công cuộc bảo vệ quê
hương.
Theo nhà viết sử Phật Giáo triều Nguyễn cho
rằng:
-
- Một cảnh tượng suy thoái, một giai đoạn không
mấy vẻ vang khi nhìn chung đạo pháp, nhưng riêng ở Phú Yên
xuất hiện rất nhiều danh tăng hoằng hóa trong tỉnh và thành
đạt chứng quả ở nhiều địa phương khác... Khách quan mà nhìn
nhận, ta có thể nói đây là thời kỳ có được những bước tiến khá
dài trong lịch sử Phật giáo trước đây.
-
Từ khi hội An Nam Phật Học và hội Phật Học
Trung Việt ra đời vào năm 1932 thì ở Phú Yên Hội Phật học cũng
được thành lập mà thành phần của Hội là thẩm phán Trần Kỳ Quỳ
quê ở xã An Dân và bác sĩ Lê Văn Kỷ, quê ở Sông Cầu. Các cố
vấn của Hội Phật Học Phú Yên là thiền sư Thiền Phương (chùa
Phước Sơn - Đồng Tròn) và thiền sư Phúc Hộ chùa Từ Quang.
-
Sau năm 1932 Tuần vũ Tôn Thất Toại chịu ảnh
hưởng về cách tổ chức Phật giáo ở Huế - Thừa Thiên nên mời chư
tăng thành lập Giáo Hội Tăng Già Phú Yên mà Tòng lâm Pháp chủ
là Hòa Thượng Pháp Ngữ huynh đệ đồng môn với thiền sư Chơn
Thật - Đạo Thông – Pháp Ngãi chùa Từ Quang (Đá Trắng), ở Tuy
An.
-
Đến năm 1945 trong thời kỳ kháng chiến chống
pháp, Hội Phật Giáo Cứu Quốc tỉnh Phú Yên ra đời mà Ban chấp
hành lâm thời có ông Nguyễn Thọ Dực, nguyên là quyền Tri phủ
Tuy Hòa. Tháng 3 năm 1946 Ban chấp hành chính thức gồm:
-
- Thiền sư Thị Lạc – Hành Thiện – Hưng Từ là
Chủ tịch và Cư sĩ Nguyễn Nguyên Huân - Phó chủ tịch.
-
Từ đó trở đi, thiền sư dấn thân hành đạo, vào
những năm:
-
- Năm 1955, ngài đảm nhận chức vụ tri sự trưởng
Giáo hội Tăng già tỉnh Khánh Hòa liên tiếp trong hai nhiệm kỳ.
-
- Năm 1963-1964 ngài lãnh đạo phong trào đấu
tranh bảo vệ Phật Giáo và dân tộc tỉnh Bình Tuy (Hàm Tân).
-
- Năm 1964-1978, ngài được Hội đồng Viện Hóa
Đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất suy tôn vào Hội
đồng Trưởng lão Viện Tăng Thống.
-
- Từ năm 1982 cho đến ngày viên tịch, ngài được
suy tôn Cố vấn Chứng minh kiêm ủy viên Tăng sự Ban trị sự Tỉnh
hội Phật giáo Thuận Hải (cũ) cũng chính là tên gọi tỉnh Bình
Thuận trước kia và sau này, và
là thành viên Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật Giáo Việt Nam.
-
Với đức độ, tài năng và uy tín của Ngài, nhất
là ảnh hưởng từ lúc Ngài tham gia vào phong trào kháng chiến
chống Pháp, sau nầy có một hòa thượng (9*) đã xử dụng tên và
uy tín của ngài để hoạt động cho phong trào chống Mỹ cứu nước.
Chính vì vậy mà Ngài đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc duy
trì và phát triển phật sự tại Linh Sơn Tự, Lạc Tánh, Tánh Linh
và Linh Sơn Trường Thọ Tự, núi Tà Cú, Bình Thuận.
-
Ngài đã có công dịch bộ kinh Thập Lục Quán và
trước tác quyền Lịch sử Tổ Hữu Đức (Tổ linh Sơn Trường thọ,
núi Tà Cú) và Chư hậu Tổ. Đặc biệt ngài đã sáng tác ra nhiều
Liễn Đối hiện nay nhiều Tự viện còn lưu lại bút tích một thời
vang bóng giới đức và trí đức trang nghiêm của ngài.
-
3. TRÊN ĐƯỜNG HÀNH ĐẠO
-
Là đệ tam tổ chùa Minh Sơn, trong thời gian trú
trì, thiền sư Thị Lạc - Hành Thiện - Hưng Từ khởi công trùng
tu tổ đình Minh Sơn (1957) và chùa Linh Đài (1959) cho đến năm
cho
đến năm 1962 mới khánh thành chùa mái ngói vách gạch. Theo
Nguyễn Đình Chúc và Huệ Nguyễn thì:
-
- Thiền sư Thị Lạc - Hành Thiện - Hưng Từ có
một cách truyền thừa hơi khác. Thiền sư truyền hiền chứ không
truyền cho đệ tử. Sư Tâm Thủy đệ từ của thiền sư Vạn Ân nhận
chùa Minh Sơn. Sư Quảng Vân đệ tử của sư Trí Giác nhận chùa
Pháp Hội ở Bình Tuy là hai ví dụ cụ thể trong đời của thiền sư
Thị Lạc - Hành Thiện - Hưng Từ.
-
Sau đó thiền sư vân du hoằng hóa ở phương Nam,
những địa phương thiền sư đã đặt chân tới như Khánh Hòa, Ninh
Thuận, rồi đến núi Trà Bang - làng Bình An - Phú Quí - Phan
Rang. Sau đó, thiền sư đến vùng Vĩnh Hảo để hoằng dương Phật
pháp ở vùng Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết, Bào Trâm gần mũi
Kê Gà, rồi Hàm Tân Bình Tuy, Bình Thuận …. hoằng dương Phật
pháp.
-
Có thể nói những nơi trước đây tổ Bảo Tạng đã
từng đi qua thì sau nầy thiền sư Thị Lạc - Hành Thiện - Hưng
Từ cũng đặt chân đến. Quả thật, như nói về việc thiền sư Bảo
Tạng tìm được đường ngầm vào núi Tà Cú, gần Hàm Tân, Bình
Thuận nơi có nhiều long mạch và vào đó tu hành sau nầy được
gọi là Hang Tổ. Sau đó thiền sử Bảo Tạng rời hang tổ vân du
hoằng hoá, thì thiền sư Thông Ân - Hữu Đức vào ẩn tu trong
hang Tổ.
-
Tương truyền thiền sư Hữu Đức cảm hóa được thú
dữ, khi thiền định có hai con cọp hầu bên cạnh. Ngài tu thiền
chỉ ăn rau rừng uống nước suối. Khi ra khỏi hang thì tóc râu
dài. Nhiều người chí tâm muốn đến cầu học thì được cọp
dẫn đường. Số người đến thăm viếng càng đông, họ cất am tranh
ở gần hang Tổ để thiền sư tu hành, sau này các đệ tử xây dựng
thành chùa Linh Sơn Trường Thọ, và trãi qua nhiều thay đổi của
thời gian, chùa nhiều lần trùng tu nên mới được như ngày nay.
-
Thừa kể tổ Thông Ân - Hữu Đức là thiền sư Vĩnh
Thọ, ngày xưa là học viên của thiền sư Thị Lạc – Hành Thiện –
Hưng Từ, sau khi công trình tạc tượng bổn sư Niết bàn dài 49 m
còn chưa hoàn chỉnh thì cuộc chiến tại miền nam trở nên khốc
liệt, và thiền sư Vĩnh Thọ phải đi lánh nạn nhiều nơi, cho nên
Chùa Linh Sơn Trường Thọ lúc nầy chỉ nhờ vào sự trông nom của
thiền sư Thị Lạc – Hành Thiện – Hưng Từ.
-
Mặc dầu trong năm 1961 thiền sư Hưng Từ đã xây
dựng Linh Sơn Tự, Lạc Tánh, Tánh Linh, nhưng vì phải trông nom
chùa Linh Sơn Trường Thọ, núi Tà Cú, cho nên thiền sư đã uỷ
nhiệm cho đệ tử là hòa thượng Thích Đồng Hương trụ trì. Bản
thân thiền sư và một số đệ tử của Ngài phải cư trú tại chùa
Linh Sơn Pháp Bửu Đường, Hàm Tân, Bình Tuy để tiện việc trông
nom phật sự của chùa Linh Sơn Trường Thọ, núi Tà Cú.
-
Đến năm 1967 thiền sư đề cử ni trưởng Thích Nữ
Bổn Đại làm trú trì và khai sơn Tổ Đình Pháp Hội Bình Thuận
như chúng ta đã biết.
-
Nhìn chung, công việc hoằng pháp tại Tỉnh Bình
Thuận, kể từ khi các thiền sư: Thích Hoằng Phúc, Thích Quảng
Hưng, Thích Hưng Từ đến hoằng pháp thì dòng thiền Lâm Tế Chúc
Thánh phát triển mạnh. Tuy nhiên chỉ có sự truyền thừa của
thiền sư Thị Lạc - Hành Thiện - Hưng Từ là sâu rộng hơn cả.
-
4. XẢ BỎ BÁO THÂN
-
Dù tuổi già sức yếu, nhưng ngài vẫn tinh tấn tu
hành không một phút giây trễ nải và phục vụ chúng sanh đến
giây phút cuối cùng. Ngày mồng 02 tháng 8 năm Tân Mùi (1991),
thiền sư Thị Lạc - Hành Thiện - Hưng Từ đã an nhiên thị tịch,
trụ thế 81 tuổi với 61 hạ lạp, môn đồ xây thờ Bảo tháp của
ngài được toạ lạc trong khuôn viên chùa Pháp Hội, thuộc huyện
Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận.
-
Thiền sư Thị Lạc - Hành Thiện - Hưng Từ là một
trong những bậc cao Tăng thạc đức của Phật Giáo Việt Nam đã
trọn đời lo cho Phật Pháp và đặc biệt là ngài chú trọng đến
việc tiếp Tăng độ Chúng. Cuộc đời tu hành và hóa đạo của Thiền
sư là tấm gương hy sinh tận tụy, không từ nan bất cứ công việc
gì dù nhỏ, đem hết sức mình để giáo huấn Tăng tín đồ Phật tử.
Với đức tính khiêm cung hiếu hạnh và mô phạm cao cả của ngài
là thân giáo quan trọng đã tác thành nên những đệ tử hữu danh
trong giáo hội.
--o0o--
|
|