|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- KINH TẠNG
-
-
KINH THỦ LĂNG NGHIÊM
Thích
Duy Lực
- --o0o--
-
- QUYỂN CHÍN
-
- SẮC GIỚI
- SƠ THIỀN
- l. A Nan! Tất
cả người tu tâm trong thế gian chẳng nhờ Thiền Na thì chẳng có
trí huệ; nếu được giữ thân chẳng dâm dục, khi đi khi ngồi, niệm
tưởng đều không, ái nhiễm chẳng sanh, chẳng lưu luyến Dục Giới,
làm bạn với Phạn Thiên, hạng này gọi là Phạn Chúng Thiên.
- 2. Dục lậu đã
trừ, "Tâm lìa dục" hiện, ưa hành theo các luật nghi, đức hạnh
trong sạch, hạng này gọi là Phạn Phụ Thiên.
- 3. Thân tâm
diệu viên, oai nghi đầy đủ, giới cấm trong sạch, lại có sự tỏ
ngộ, được thống lãnh Phạn Chúng, làm Đại Phạn Vương, hạng này
gọi là Đại Phạn Thiên.
- - A Nan! Ba
bậc này tất cả khổ não chẳng thể bức bách, dù chẳng phải chánh
tu chơn Tam Ma Địa, nhưng nơi tâm trong sạch, dục lậu chẳng thể
lay động, gọi là Sơ Thiền.
- NHỊ THIỀN
- l. A Nan!
Hàng Phạn Thiên thống lãnh Phạn chúng, đầy đủ phạn hạnh, lắng
tâm chẳng động; do tịch lặng sanh ra ánh sáng; hạng này gọi là
Thiểu Quang Thiên.
- 2. Ánh sáng
chói lọi, chiếu soi vô cùng, chiếu khắp mười phương cõi đều như
lưu ly; hạng này gọi là Vô Lượng Quang Thiên.
- 3. Hào quang
đồng như âm thanh, thành tựu giáo thể, phát ra sự giáo hóa trong
sạch, ứng dụng vô cùng; hạng này gọi là Quang Âm Thiên.
- - A Nan! Ba
bậc này tất cả lo buồn chẳng thể bức bách, dù chẳng phải chánh
tu chơn Tam Ma Địa, nhưng nơi tâm trong sạch, những phiền não
thô động đã uốn dẹp, gọi là Nhị Thiền.
- TAM THIỀN
- l. A Nan! Hào
quang thành âm, dùng âm thanh tỏ bày diệu lý, thành hạnh tinh
tấn, thông với sự vui tịch diệt, hạng này gọi là Thiểu Tịnh
Thiên.
- 2. Cảnh "Tịnh
Không" hiện tiền, chẳng có bờ bến, thân tâm nhẹ nhàng, thành sự
vui tịch diệt, hạng này gọi là Vô Lượng Tịnh Thiên.
- 3. Thế giới
và thân tâm, tất cả đều trong sạch, thành tựu đức tánh trong
sạch, thắng cảnh hiện tiền, qui về cái vui tịch diệt, hạng này
gọi là Biến Tịnh Thiên.
- - A Nan! Ba
bậc này đầy đủ công hạnh đại tùy thuận, thân tâm yên ổn, được sự
vui vô lượng, dù chẳng phải thật đắc chơn Tam Ma Địa, nhưng nơi
tâm yên ổn trọn đủ sự hoan hỷ, gọi là Tam Thiền.
- TỨ THIỀN
- l. Lại nữa A
Nan! Cõi trời này, thân tâm chẳng bị bức bách, nhân khổ đã hết,
biết sự vui chẳng thường trụ, lâu ắt biến hoại, hai tâm khổ vui
nhất thời cùng xả, tướng thô đã diệt, tánh phước được sanh, hạng
này gọi là Phước Sanh Thiên.
- 2. Tâm xả
viên dung, thắng giải trong sạch, được sự tùy thuận nhiệm mầu,
cùng tột vị lai, tánh phước chẳng ngăn ngại, hạng này gọi là
Phước Ái Thiên.
- 3. A Nan! Từ
cõi trời này tẻ ra hai đường: Nếu dùng tâm sáng tỏ đầy đủ phước
đức trước kia để tu chứng an trụ, hạng này gọi là Quảng Quả
Thiên.
- 4. Nếu nơi
tâm trước kia, nhàm chán cả khổ vui, lại nghiền ngẫm cái tâm xả
chẳng gián đoạn, trọn thành đạo xả, thân tâm tiêu diệt, lắng tâm
bặt tưởng, trải qua năm trăm kiếp. Nhưng vì người ấy đã lấy cái
sanh diệt làm nhân, thì chẳng thể phát minh tánh chẳng sanh
diệt, nên nửa kiếp đầu thì diệt, nửa kiếp sau lại sanh, hạng này
gọi là Vô Tưởng Thiên.
- - A Nan! Bốn
bậc này tất cả cảnh khổ vui của thế gian chẳng thể lay động, dù
chẳng phải là chỗ chơn bất động của đạo vô vi, nhưng nơi tâm có
sở đắc, công dụng thuần thục, gọi là Tứ Thiền.
- NGŨ TỊNH CƯ
THIÊN
- - Ở đây, còn
có năm bậc Bất Hoàn Thiên, đã dứt sạch chín phẩm tập khí của cõi
dưới, khổ vui đều hết, chẳng định cư ở cõi dưới, nên an lập chỗ
ở nơi tâm xả của đồng phận chúng sanh.
- l. Vậy, khổ
vui đã diệt, ưa ghét chẳng sanh, hạng này gọi là Vô Phiền Thiên.
- 2. Tự tại
phóng xả, chẳng có năng sở, tâm chẳng đối đãi, hạng này gọi là
Vô Nhiệt Thiên.
- 3. Mười
phương thế giới, diện kiến trong lặng, chẳng còn tất cả cấu
nhiễm của cảnh trần, hạng này gọi là Thiện Kiến Thiên.
- 4. Diệu kiến
hiện tiền, biến tạo vô ngại, hạng này gọi là Thiện Hiện Thiên.
- 5. Sắc trần
từ tướng lăng xăng đến chỗ cứu cánh chẳng động, cùng tột tánh
sắc chẳng có bờ bến, hạng này gọi là Sắc Cứu Cánh Thiên.
- - A Nan! Với
các cõi Bất Hoàn Thiên này, chỉ riêng bốn vị Thiên Vương cõi Tứ
Thiền mới được nghe biết, nhưng chẳng thể thấy biết. Như nay
trong thế gian, nơi núi sâu rừng thẳm, những đạo tràng của bậc
thánh, đều có các vị A La Hán trụ trì, mà người thế tục chẳng
thể thấy.
- - A Nan! Mười
tám cõi trời kể trên, dù thoát khỏi cảnh dục, nhưng chưa thoát
khỏi sắc thân, gọi là Sắc Giới.
- VÔ SẮC GIỚI
- - Lại nữa A
Nan! Từ trên đảnh của Sắc Giới, lại tẽ ra hai đường:
- - Nếu nơi tâm
xả, phát minh trí huệ, sáng suốt viên thông, bèn ra cõi trần,
thành A La Hán, vào Bồ Tát Thừa, hạng này gọi là Hồi Tâm Đại A
La Hán.
- - Nếu nơi tâm
xả được thành tựu, thấy thân chướng ngại, tiêu ngại vào không,
hạng này gọi là Không Xứ.
- - Chướng ngại
đã tiêu, vô ngại vô diệt, trong đó chỉ còn A Lại Da Thức và nửa
phần vi tế của Mạt Na Thức; hạng này gọi là Thức Xứ.
- - Sắc và
Không đã tiêu, tâm thức đều diệt, mười phương tịch lặng, chẳng
có chỗ đến; hạng này gọi là Vô Sở Hữu Xứ.
- - Dùng tánh
thức chẳng động để diệt sự nghiền ngẫm, thành ra ở nơi vô tận
lại tỏ bày tánh tận, như còn mà chẳng còn, tận mà chẳng tận,
hạng này gọi là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.
- - Hạng này
xét cùng cái Không, nhưng chẳng tột lý Không; nếu từ thánh đạo
Bất Hoàn Thiên mà xét cùng, hạng này gọi là Bất Hồi Tâm Độn A La
Hán.
- - Nếu từ Vô
Tưởng Thiên của ngoại đạo mà chấp thật Không, chẳng biết quày
đầu, mê muội hữu lậu, chẳng nghe chánh pháp, bèn vào luân hồi.
- - A Nan!
Những cõi trời kể trên, mỗi mỗi đều là phàm phu đền trả nghiệp
quả, khi nghiệp quả trả hết bèn vào luân hồi. Thiên Vương các
cõi ấy, đều là Bồ Tát tu Tam Ma Địa, lần lượt tiến lên, hướng về
đường tu của Bậc Thánh.
- - A Nan! Cõi
Tứ Không này, thân tâm dứt sạch, tánh định hiện tiền, chẳng có
sắc thân của nghiệp quả; từ đây đến cùng, gọi là Vô Sắc Giới.
- - Ấy đều do
chẳng rõ diệu tâm sáng tỏ, tích chứa vọng tưởng, chấp thân trung
ấm, tùy loại thọ sanh, vọng có tam giới, nên vọng theo bảy loài
mà chìm đắm.
- A TU LA
- - Lại nữa A
Nan! Trong tam giới còn có 4 loại A Tu La:
- l. Nếu từ
loài quỷ, dùng sức hộ pháp, nhờ thần thông vào trong hư không;
loại A Tu La này là noãn sanh, thuộc về loài quỷ.
- 2. Nếu từ cõi
trời, thất đức bị đọa, chỗ ở gần với nhựt nguyệt; loại A Tu La
này là thai sanh, thuộc về loài người.
- 3. Có vua Tu
La, thống lãnh tất cả A Tu La trên thế giới, sức mạnh vô úy, có
thể tranh quyền với Phạn Vương Đế Thích và Tứ Thiên Vương, loại
A Tu La này là hóa sanh, thuộc về loài trời.
- 4. A Nan,
riêng có một số A Tu La thấp kém sanh ở đáy biển, lặn dưới hang
nước, ban ngày dạo trên hư không, ban đêm về ngủ dưới nước; loại
A Tu La này là thấp sanh, thuộc về loài súc.
- - A Nan! Bảy
loài địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, cõi người, thần tiên, cõi trời
và A Tu La kể trên, đều là những tướng hữu vi hôn trầm, vọng
tưởng tùy nghiệp thọ sanh. Thật ra thảy đều như hoa đốm trên
không, vọng hiện nơi bản tâm vô tác sáng tỏ, vốn vô sở đắc, chỉ
một hư vọng, chẳng có cội gốc.
- - A Nan!
Những chúng sanh này, chẳng nhận được bản tâm, bị luân hồi trải
qua vô số kiếp, chẳng được chơn tánh trong sạch, ấy đều do tùy
thuận ba nghiệp sát, đạo, dâm; hoặc ngược lại ba thứ đó, thành
không sát, đạo, dâm; vọng thấy "Có" thì là loài quỷ, vọng thấy
"Không" thì là loài trời; Có và Không thay phiên nhau, phát khởi
tánh luân hồi.
- - Nếu ngộ
pháp Tam Ma Địa, thì diệu Tâm thường tịch, hữu vô bất nhị, bất
nhị cũng diệt, những việc không sát, đạo, dâm còn chẳng có,
huống là thuận theo sát, đạo, dâm.
- - A Nan,
chẳng dứt ba nghiệp thì chúng sanh mỗi mỗi đều có nghiệp riêng,
do nghiệp riêng ấy, trong đồng phận của chúng sanh, chẳng phải
là không có chỗ nhất định. Đó là do tự tạo vọng nghiệp, vọng vốn
chẳng nhân, chẳng thể truy cứu cội gốc.
- - Ngươi
khuyên người tu hành, muốn đắc đạo Bồ Đề, phải trừ dứt ba
nghiệp. Nếu ba nghiệp chẳng dứt, dẫu được thần thông, cũng đều
là những công dụng hữu vi của thế gian, tập khí chẳng diệt thì
lạc vào ma đạo, dù muốn trừ vọng, càng thêm giả dối. Như Lai nói
là kẻ đáng thương xót.
- - Vậy, vọng
do người tự tạo, chẳng phải lỗi của Bồ Đề, thuyết như thế gọi là
chánh thuyết, chẳng thuyết như thế tức là tà thuyết. Liền đó,
Như Lai xuống pháp tòa, nơi tòa sư tử, dựa ghế thất bửu mà bảo
khắp đại chúng và A Nan rằng:
- MA NGŨ ẤM
- - Nay ta đã
thuyết pháp chơn tu, các ngươi còn chưa hiểu những ma sự vi tế,
cảnh ma hiện tiền, các ngươi cũng chẳng biết, vì tâm chẳng
chánh, lọt vào tà kiến, nên bị ma ngũ ấm, hoặc thiên ma, hoặc
quỷ thần, hoặc yêu mî xâm nhập, trong tâm chẳng biết, nhận giặc
làm con. Những người nhị thừa, được ít lại cho là đủ, như Tỳ
Kheo Vô Văn, tu đến tứ thiền mà vọng nói đã chứng thánh quả, đến
khi hết phước báo cõi trời, đọa địa ngục A Tỳ. Nay các ngươi hãy
chú ý nghe:
- - Các ngươi
phải biết, cái tâm thể bản giác của mười phương chúng sanh vốn
viên mãn diệu minh, cùng với mười phương chư Phật chẳng hai
chẳng khác, vì do vọng tưởng của các ngươi mê chấp đạo lý mới
thành lỗi lầm, từ đó sanh ra si ái, si ái sanh trưởng khắp nơi,
nên có tánh hư không, sự mê chấp tiến hóa không ngừng, nên sanh
ra thế giới, vậy thì mười phương vô số quốc độ đều do vọng tưởng
kiến lập. Phải biết: Hư không sanh khởi trong tâm các ngươi như
đám mây ở giữa hư không, huống là các thế giới đều ở trong hư
không. Trong các ngươi có một người kiến tánh, thì mười phương
hư không đều tiêu diệt ngay, làm sao những quốc độ trong hư
không chẳng bị tan nát. Các ngươi tu thiền đến nơi chánh định,
cũng như mười phương Bồ Tát và Đại A La Hán, chơn tâm dung
thông, ngay đó trạm nhiên. Khi ấy, tất cả ma vương và quỷ thần,
thấy cung điện của mình khi không sụp đổ, đều cảm thấy kinh
khủng, họ đều được năm thứ thần thông (chỉ trừ ra Lậu Tận
Thông), ham thích trần lao, đâu thể để cho người tu Chánh pháp
làm sụp đổ xứ sở của họ, cho nên đang lúc người tu được chánh
định, những thiên ma, yêu tinh, quỷ thần đều tụ lại để quấy phá,
nhưng họ ở trong trần lao, người tu ở trong diệu giác, dù họ
hung dữ cách mấy cũng hại chẳng được; ví như gió thổi ánh sáng,
hoặc dùng dao cắt nước, chẳng ăn nhằm gì. Họ như băng đá, người
tu như nước nóng, nước nóng làm tan rã băng đá. Họ ỷ lại sức
thần thông, nhưng chỉ là khách, người tu là chủ, nếu chủ mê thì
khách được thành tựu sự quấy phá của họ, nếu người tu ngay đó
giác ngộ chẳng mê, thì ma sự của họ chẳng làm gì được mình.
- I - MA SẮC ẤM
- - A Nan nên
biết, ngươi tọa đạo tràng, vọng niệm nếu hết thì ngay cái lìa
niệm ấy tất cả sáng tỏ, động tịnh chẳng dời, nhớ quên như một,
nên trụ nơi này mà nhập chánh định. Như người mắt sáng ở chỗ đen
tối, chơn tánh trong sạch, trong tâm chưa phát ánh sáng, đây gọi
là phạm vi của Sắc Ấm. Nếu con mắt sáng tỏ, thì mười phương khai
mở, chẳng còn đen tối, gọi là Sắc Ấm hết, thì khi ấy được siêu
việt Kiếp Trược. Nhưng quán xét nguyên nhân là bởi Kiên Cố Vọng
Tưởng (l) làm gốc.
- l. A Nan,
đang trong lúc tham cứu diệu minh, quên cả tứ đại, bỗng sắc thân
ra vào các vật chất đều chẳng chướng ngại, ấy gọi là sự sáng tỏ
tràn ra trước mắt. Sự việc ấy chỉ là công dụng tạm được như thế,
chẳng phải chứng thánh; chẳng tự cho là thánh, gọi là cảnh giới
tốt, nếu cho là thánh, liền lọt vào tà ma.
- 2. Trong lúc
tham cứu diệu minh, thân như lưu ly, bỗng trong thân lấy ra các
loài giun sán mà thân vẫn y nguyên, chẳng bị thương tổn, ấy gọi
là sự sáng tỏ tràn ra hình thể, đây chỉ là do tu hành tinh tấn
tạm được như thế, chẳng phải chứng thánh; chẳng tự cho là thánh,
gọi là cảnh giới tốt, nếu cho là thánh, liền lọt vào tà ma.
- 3. Trong lúc
tham cứu diệu minh, khi ấy, ngoài sắc thân ra, hồn phách, ý chí,
tinh thần dung hòa lẫn nhau, bỗng trong hư không nghe tiếng
thuyết pháp, hoặc nghe mười phương chư Phật cùng diễn mật nghĩa,
đây gọi là hồn phách, ý chí thay phiên nhau làm chủ khách, ly
hợp lẫn nhau, thành tựu thiện chủng, tạm được như thế, chẳng
phải chứng thánh; chẳng tự cho là thánh, gọi là cảnh giới tốt,
nếu cho là thánh, liền lọt vào tà ma.
- 4. Trong lúc
tham cứu diệu minh, trong tâm sáng tỏ, phát ra ánh sáng, chiếu
khắp mười phương thành màu sắc Diêm Phù Đàn, tất cả các loài đều
hóa thành Như Lai. Bỗng thấy Phật Tỳ Lô Giá Na ngồi trên đài
Thiên Quang, ngàn Phật vây quanh, trăm ức cõi Phật cùng hoa sen
đồng thời hiện ra. Ấy gọi là việc sở nhiễm của tâm hồn linh ngộ,
ánh sáng của tâm chiếu soi các thế giới, tạm được như vậy, chẳng
phải chứng thánh; chẳng tự cho là thánh, gọi là cảnh giới tốt,
nếu cho là thánh, liền lọt vào tà ma.
- 5. Trong lúc
tham cứu diệu minh, quan sát chẳng ngừng, sức đè nén hàng phục
quá mức, bỗng trong hư không thành màu sắc bách bảo, xanh vàng
đỏ trắng đồng thời cùng khắp mười phương mà chẳng chướng ngại
nhau. Ấy gọi là sự dụng công đè nén quá mức tạm được như thế,
chẳng phải chứng thánh; chẳng tự cho là thánh, gọi là cảnh giới
tốt, nếu cho là thánh, liền lọt vào tà ma.
- 6. Trong lúc
tham cứu diệu minh, trong sáng chẳng loạn, bỗng lúc nửa đêm, ở
trong nhà đen tối, thấy rõ các vật chẳng khác ban ngày, ấy gọi
là tâm dụng đến chỗ vi tế, cái năng thấy trong như lưu ly, cái
sở thấy thấu qua đen tối, tạm được như thế, chẳng phải chứng
thánh; chẳng tự cho là thánh, gọi là cảnh giới tốt, nếu cho là
thánh, liền lọt vào tà ma.
- 7. Trong lúc
tham cứu diệu minh, toàn tâm dung hòa với hư không, bỗng thân
thể đồng như cây cỏ, lửa đốt, dao chém chẳng có cảm giác, thiêu
chẳng thấy nóng, chém chẳng thấy đau, ấy gọi là tâm và trần dung
hợp thành một, tạm được như thế, chẳng phải chứng thánh; chẳng
tự cho là thánh, gọi là cảnh giới tốt, nếu cho là thánh, liền
lọt vào tà ma.
- 8. Trong lúc
tham cứu diệu minh, dụng công đến chỗ thanh tịnh, bỗng thấy núi
sông, đất đai mười phương đều thành cõi Phật đầy đủ thất bảo,
ánh sáng chiếu khắp, lại thấy hằng sa chư Phật, cung điện trang
nghiêm, cùng khắp thế giới, thấy khắp thiên đàng địa ngục đều
chẳng ngăn ngại, ấy gọi là tập trung tư tưởng ngày càng sâu đậm,
lâu ngày hóa thành, chẳng phải chứng thánh; chẳng tự cho là
thánh, gọi là cảnh giới tốt, nếu cho là thánh, liền lọt vào tà
ma.
- 9. Trong lúc
tham cứu diệu minh, đến chỗ sâu xa, bỗng ở nửa đêm, thấy được
các đường phố và bà con phương xa, nghe được tiếng nói của họ,
ấy gọi là tâm bức bách quá mức bay ra, nên cái thấy thấu qua vật
chất, chẳng phải chứng thánh; chẳng tự cho là thánh, gọi là cảnh
giới tốt, nếu cho là thánh, liền lọt vào tà ma.
- 10. Trong lúc
tham cứu diệu minh, thấy hình thể của thiện tri thức, trong giây
lát hiện ra đủ thứ biến đổi, ấy gọi là tâm tà bị yêu mị, hoặc
thiên ma xâm nhập, thình lình thuyết pháp, thông đạt diệu nghĩa,
chẳng phải chứng thánh; chẳng tự cho là thánh, gọi là cảnh giới
tốt, nếu cho là thánh, liền lọt vào tà ma.
- - A Nan! Mười
thứ cảnh giới thiền định trên, đều do Sắc Ấm và dụng tâm giao
tranh lẫn nhau mà hiện ra. Chúng sanh ngu mê chẳng tự xét kỹ,
gặp nhân duyên này mà chẳng tự biết, nói là chứng thánh thành
đại vọng ngữ, đọa địa ngục A Tỳ.
- - Sau khi Như
Lai nhập diệt, trong thời mạt pháp, các ngươi phải theo lời dạy
bảo như trên khai thị người tu, hộ trì cho họ thành Vô Thượng
Đạo, chớ để cho thiên ma được dịp quấy phá.
- II - MA THỌ
ẤM
- - A Nan!
Người tu thiền định, khi dứt được Sắc Ấm, tâm thấy chư Phật như
bóng hiện trong gương, dường như có sự chứng đắc, nhưng chưa
được thọ dụng. Cũng như người bị bóng đè, tay chân vẫn còn, thấy
nghe rõ ràng, vì tâm bị tà bên ngoài xâm nhập, chẳng thể cử động
được, ấy gọi là phạm vi của Thọ Ấm. Nếu bóng đè hết, tâm lìa sắc
thân, được tự thấy mặt mình, ở đi tự do vô ngại, gọi là Thọ Ấm
hết, thì lúc ấy được siêu việt Kiến Trược.Nhưng quán xét nguyên
nhân, là do Hư Minh Vọng Tưởng (2) làm gốc.
- l. A Nan!
Đang lúc thiền định, thấy ánh sáng chói lọi, trong tâm ức chế
quá mức, bỗng sanh lòng buồn bã, cho đến thấy các loài ruồi muỗi
như con của mình, thương xót rơi lệ, ấy gọi là dụng công đè nén
quá mức. Ngộ biết đó là vọng tưởng chẳng phải chứng thánh, chẳng
mê chẳng chấp, lâu tự tiêu diệt; nếu cho là thánh, thì bị Ma Bi
xâm nhập, hễ gặp người thì than khóc không xiết, lạc mất chánh
định, sẽ bị chìm đắm.
- 2. Trong lúc
thiền định, thấy sắc ấm dứt, thọ ấm rõ ràng, thắng cảnh hiện
tiền, kích động quá phần, bỗng trong đó sanh lòng dũng mãnh,
phấn chí sánh bằng chư Phật, cho là một niệm có thể siêu việt ba
A Tăng Kỳ kiếp, ấy gọi là dụng công lấn tiến quá mức. Ngộ biết
đó là vọng tưởng, chẳng phải chứng thánh, chẳng mê chẳng chấp
lâu tự tiêu diệt, nếu cho là thánh thì bị Ma Cuồng xâm nhập, hễ
gặp người thì khoe khoang kiêu căng, ngã mạn tăng trưởng, cho
đến trên chẳng thấy có Phật, dưới chẳng thấy có người, lạc mất
chánh định, sẽ bị chìm đắm.
- 3. Trong lúc
thiền định, thấy sắc ấm dứt, thọ ấm rõ ràng, tiến đến trước
chẳng có chứng đắc mới, lui về sau lại mất chỗ cũ, sức trí kém
mòn, giữa chừng bị lạc, chẳng có sở thấy, trong tâm bỗng sanh
khô khan, luôn luôn nhớ mãi không tan, lại cho là tinh tấn, ấy
gọi là tu tâm mà chẳng huệ. Ngộ biết đó là vọng tưởng, chẳng
phải chứng thánh; nếu cho là thánh, thì bị Ma Nhớ xâm nhập, ngày
đêm trói tâm vào một chỗ, lạc mất chánh định, sẽ bị chìm đắm.
- 4. Trong lúc
thiền định, thấy sắc ấm dứt, thọ ấm rõ ràng, sức huệ mạnh hơn
sức định, tâm chấp các việc thù thắng, tự tưởng là Phật Lô Xá
Na, được ít cho là đủ, ấy gọi là dụng tâm quên mất quán chiếu,
đọa vào tri kiến. Ngộ biết đó là vọng tưởng, chẳng phải chứng
thánh; nếu cho là thánh, thì bị Ma-Hèn-Hạ-Dễ-Biết-Đủ xâm nhập,
hễ gặp người thì tự xưng là Vô Thượng Đệ Nhất Nghĩa Đế, lạc mất
chánh định, sẽ bị chìm đắm.
- 5. Trong lúc
thiền định, thấy sắc ấm dứt, thọ ấm rõ ràng, chưa được chứng
mới, lại mất chỗ cũ, tiến lui đều chẳng được, cảm thấy khó khăn,
bỗng sanh lòng lo âu, tâm chẳng muốn sống, mong cầu người khác
sát hại thân này để mau được giải thoát, ấy gọi là tu hành lạc
mất phương tiện. Ngộ biết đó là vọng tưởng, chẳng phải chứng
thánh; nếu cho là thánh, thì bị Ma-Hay-Lo-Rầu xâm nhập, tự cầm
dao kiếm chém cắt thịt mình, thích bỏ thọ mạng, hoặc thường lo
rầu, trốn vào rừng núi, sợ bị người thấy, lạc mất chánh định, sẽ
bị chìm đắm.
- 6. Trong lúc
thiền định, thấy sắc ấm dứt, thọ ấm rõ ràng, ở nơi thanh tịnh,
tâm được an nhàn, bỗng trong lòng vui mừng vô cùng, chẳng thể
kềm chế được, ấy gọi là khinh an mà chẳng có trí huệ tự ngăn.
Ngộ biết đó là vọng tưởng, chẳng phải chứng thánh; nếu cho là
thánh, thì bị Ma-Ham-Vui xâm nhập, hễ gặp người thì cười, múa
hát ngoài đường, tự cho mình đã được giải thoát vô ngại, lạc mất
chánh định, sẽ bị chìm đấm.
- 7. Trong lúc
thiền định, thấy sắc ấm dứt, thọ ấm rõ ràng, tự cho sự tu của
mình đã đầy đủ, bỗng tâm sanh đại ngã mạn, hoặc khinh mạn người,
hoặc ngạo mạn mình hơn người, hoặc tăng thượng mạn, hoặc tî liệt
mạn (khinh người hơn mình), đồng thời phát ra. Đã dám khinh chê
mười phương chư Phật, huống là các bậc Thanh Văn, Duyên Giác! Ấy
gọi là kiến chấp quá cao, không có trí huệ tự cứu. Ngộ biết đó
là vọng tưởng, chẳng phải chứng thánh; nếu cho là thánh, thì bị
Ma-Đại-Ngã-Mạn xâm nhập, không lễ chùa tháp, phá hủy kinh tượng,
nói với Phật tử rằng:"Tượng Phật là loại vàng đồng, đồ gỗ, kinh
sách là lá cây, giấy lụa, cái thân này đã là chơn thường, sao
chẳng cung kính cúng dường mà đi sùng bái loại cây loại gỗ, thật
là điên đảo". Khiến những người tin theo lời họ, hủy hoại tượng
Phật, kinh sách, làm lầm chúng sanh đọa ngục A-Tỳ, lạc mất chánh
định, sẽ bị chìm đắm.
- 8. Trong lúc
thiền định, thấy sắc ấm dứt, thọ ấm rõ ràng, ở nơi sáng tỏ tự
ngộ chơn lý, được sự thuận lợi, trong lòng bỗng sanh khinh an vô
cùng, tự nói chứng thánh, được đại tự tại, ấy gọi là do huệ mà
được khinh an. Ngộ biết đó là vọng tưởng, chẳng phải chứng
thánh; nếu cho là thánh, thì bị Ma-Khinh-An xâm nhập, tự cho là
đủ, chẳng cầu tiến thêm, cũng như Tỳ Kheo Vô Văn, làm lầm chúng
sanh đọa ngục A-Tỳ, lạc mất chánh định, sẽ bị chìm đắm.
- 9. Trong lúc
thiền định, thấy sắc ấm dứt, thọ ấm rõ ràng, trong chỗ tỏ ngộ,
được tánh hư minh, bỗng trong đó sanh lòng đoạn diệt, bác bỏ
nhân quả, luôn luôn chấp không. Ngộ biết đó là vọng tưởng, chẳng
phải chứng thánh, nếu cho là thánh, thì bị Ma-Rỗng-Không xâm
nhập, chê báng người trì giới là Tiểu Thừa, cho bậc Bồ Tát hễ
ngộ được Tánh Không thì chẳng có trì phạm, thường ở nơi đàn việt
tín tâm, rượu thịt, dâm uế. Vì được sức ma nhiếp trì, nên chẳng
sanh nghi ngờ, tâm ma xâm nhập lâu ngày, hoặc ăn những đồ nhơ
nhớp, đại tiểu tiện, cho là chẳng khác rượu thịt, phá hoại giới
luật, khiến người tạo tội, lạc mất chánh định, sẽ bị chìm đắm.
- 10. Trong lúc
thiền định, thấy sắc ấm dứt, thọ ấm rõ ràng, ham đắm sự hư minh,
bỗng sanh lòng yêu vô hạn, yêu quá phát điên, liền thành tham
dục, ấy gọi là trong định ham chấp sự an ổn, không có trí huệ tự
chế, lầm vào ái dục. Ngộ biết đó là vọng tưởng, chẳng phải chứng
thánh; nếu cho là thánh thì bị Ma-Dục xâm nhập, vọng nói dâm dục
là đạo Bồ Đề, người hành dâm gọi là Trì Pháp Tử, dạy người thế
gian làm việc dâm dục. Nhờ sức ma nhiếp trì, những kẻ ngu mê tin
theo trong thời mạt pháp chẳng phải ít, đến lúc ma sanh lòng
chán rời khỏi thân thể, người ấy mất hết uy đức, bị sa vào lưới
pháp luật, khiến chúng sanh bị lầm lạc, đọa địa ngục A-Tỳ, lạc
mất chánh định, sẽ bị chìm đắm.
- - Mười thứ
cảnh giới thiền định trên, đều do thọ ấm và dụng tâm giao tranh
lẫn nhau mà hiện ra, chúng sanh ngu mê chẳng tự xét kỹ, gặp nhân
duyên này mà chẳng tự biết, nói là chứng thánh, thành đại vọng
ngữ, đọa ngục A-Tỳ.
- - Sau khi Như
Lai nhập diệt, trong thời mạt pháp, các ngươi phải theo lời dạy
bảo như trên khai thị cho người tu, hộ trì cho họ thành Vô
Thượng Đạo, chớ để cho thiên ma được dịp quấy phá.
- III - MA
TƯỞNG ẤM
- - A Nan!
Người tu thiền định, khi dứt được thọ ấm, dù chưa dứt hết tập
khí, nhưng tâm đã được rời khỏi thân thể, như chim ra khỏi lồng,
đã được thành tựu từ thân phàm trở lên, trải qua 60 cấp bậc
thánh vị Bồ Tát, được Ý-Sanh-Thân, đi ở vô ngại. Ví như có người
ngủ say nói mớ, người ấy dù không hay biết gì, nhưng lời nói của
họ đã làm cho người thức nghe biết, ấy gọi là phạm vi của Tưởng
Ấm. Nếu động niệm và vọng tưởng dứt trừ, trong tâm sáng tỏ như
gương sạch hết nhơ bụi, được sự chiếu soi, chẳng thấy có tướng
sanh tử, gọi là tưởng ấm hết, thì lúc ấy được siêu việt Phiền
Não Trược. Nhưng quán xét nguyên nhân là do bởi Dung Thông Vọng
tưởng (3) làm gốc.
- l. A Nan!
Trong lúc thiền định, thọ ấm hư minh, chẳng lọt tà tưởng, bỗng
trong tâm ham đắm sự hư minh, tham cầu sự khéo léo, khi ấy thiên
ma được dịp nhập vào thân người khác để thuyết pháp; người đó
chẳng biết đã bị ma nhập, tự nói đã được Vô Thượng Niết Bàn, đến
nơi người cầu khéo léo, thuyết pháp cho họ, hoặc hiện thân Tỳ
Kheo, hoặc Đế Thích, hoặc phụ nữ, hoặc Tỳ Kheo Ni, hoặc trong
phòng tối thân phát ánh sáng, người ấy ngu mê chẳng biết cho là
Bồ Tát, tin theo lời dạy của họ, tín tâm lay chuyển, phá hoại
giới luật, lén làm việc tham dục. Ma ưa nói những việc biến đổi
của tội phước, hoặc nói Như Lai sẽ ra đời chỗ này chỗ kia, hoặc
nói những điềm kiếp hỏa, binh loạn, hăm dọa người ta, làm cho
gia tài người ta vô cớ bị tiêu tan, ấy gọi là Quái Quỷ (quỷ tham
lam) tuổi già thành ma, nhiễu loạn người ấy, đến khi ma sanh
lòng chán, rời bỏ người ấy, lúc đó đệ tử lẫn thầy đều bị sa lưới
pháp luật. Các ngươi nên sớm giác ngộ để khỏi bị luân hồi, nếu
mê lầm chẳng biết, sẽ bị đọa ngục A-Tỳ.
- 2. Trong lúc
thiền định, thọ ấm hư minh, chẳng lọt tà tưởng, bỗng trong tâm
ham thích đi chơi, tham cầu sự du lịch. Khi ấy thiên ma được dịp
nhập thân người khác để thuyết pháp; người đó chẳng biết đã bị
ma nhập, tự nói đã được Vô Thượng Niết Bàn, đến chỗ người tham
cầu du lịch, thuyết pháp cho họ, người nghe pháp bỗng thấy thân
mình ngồi trên bửu liên hoa, toàn thân hóa thành sắc vàng, cả
chúng nghe pháp đều được như vậy, được chưa từng có, ngu mê
chẳng biết, cho là Bồ Tát, tâm ham dâm dục, phá hoại giới luật,
lén làm việc tham dục. Ma ưa nói việc chư Phật ra đời; hoặc nói
người này người kia, chỗ này chỗ nọ là Phật Bồ Tát hóa thân đến
đây, khiến người nghe thấy vậy, sanh lòng ham mộ, tà kiến khởi
lên, làm mất chủng trí, đây gọi là Bạt Quỷ (quỷ dâm dục), tuổi
già thành ma, nhiễu loạn người ấy, đến khi ma sanh lòng chán,
rời khỏi thân thể, lúc ấy đệ tử lẫn thầy đều sa vào lưới pháp
luật. Các ngươi nên sớm giác ngộ mới khỏi bị luân hồi, nếu mê
lầm chẳng biết, sẽ bị đọa ngục A-Tỳ.
- 3. Trong lúc
thiền định, thọ ấm hư minh, chẳng lọt tà tưởng, bỗng trong tâm
tham cầu sự luôn luôn khế hợp. Khi ấy thiên ma được dịp nhập
thân người khác để thuyết pháp, người đó chẳng biết đã bị ma
nhập, tự nói đã được Vô Thượng Niết Bàn, đến chỗ người cầu khế
hợp thuyết pháp cho họ, khiến người nghe chưa nghe pháp đã được
tỏ ngộ, niệm niệm dời đổi, hoặc được túc mạng thông, hoặc được
tha tâm thông, hoặc thấy địa ngục, hoặc biết các việc tốt xấu
của thế gian, hoặc nói kệ, hoặc tự tụng kinh, mỗi mỗi đều vui
vẻ, được chưa từng có, người ấy ngu mê chẳng biết, cho là Bồ Tát
tâm ham ái dục, phá hoại giới luật, lén làm việc tham dục. Ma ưa
nói Phật có lớn nhỏ trước sau, có chơn giả, có nam Phật, nữ
Phật, Bồ Tát cũng vậy; người nghe thấy vậy lạc mất bản tâm, dễ
lọt vào tà ngộ. Đây gọi là Mî Quỷ (quỷ gian dối), tuổi già thành
ma, nhiễu loạn người ấy, đến khi ma sanh lòng chán, rời khỏi
thân thể, lúc đó đệ tử lẫn thầy đều bị sa lưới pháp luật. Các
ngươi nên sớm giác ngộ để khỏi bị luân hồi, nếu mê lầm chẳng
biết, sẽ bị đọa ngục A-Tỳ.
- 4. Trong lúc
thiền định, thọ ấm hư minh, chẳng lọt tà tưởng, bỗng trong tâm
ham thích suy xét căn bản, phân tích cội gốc cùng tột của sự
vật. Khi ấy thiên ma được dịp nhập thân người khác để thuyết
pháp, người đó chẳng biết bị ma nhập, tự nói đã được Vô Thượng
Niết Bàn, đến chỗ người cầu phân tích cội gốc thuyết pháp cho
họ, ma có uy thần thuyết phục các người, khiến chưa nghe pháp,
tự nhiên tâm đã hàng phục, nói Bồ Đề Niết Bàn, pháp thân thường
trụ tức là cái sắc thân hiện hữu này, cha con đời đời tương sanh
với nhau tức là pháp thân thường trụ chẳng dứt, cái trước mắt đã
là cõi Phật, chẳng có cõi Tịnh Độ và đức Phật nào khác. Người
nghe tin nhận, quên mất bản tâm trước, đem cả thân mạng quy y,
được chưa từng có, ngu mê chẳng biết, cho là Bồ Tát, tâm ham suy
xét, phá hoại giới luật, lén làm việc tham dục. Ma ưa nói nhãn,
nhĩ, tỷ, thiệt đều là Tịnh Độ, nam nữ nhị căn là nơi chơn thật
của Bồ Đề Niết Bàn, người mê chẳng biết, tin lời ô uế ấy. Đây
gọi là Cổ Độc Yểm Thắng Ác Quỷ (quỷ cuồng), tuổi già thành ma,
nhiễu loạn người ấy, đến khi ma sanh lòng chán, rời khỏi thân
thể, lúc đó đệ tử lẫn thầy đều bị sa vào lưới pháp luật. Các
ngươi nên sớm giác ngộ để khỏi bị luân hồi, nếu mê lầm chẳng
biết, sẽ bị đọa ngục A-Tỳ.
- 5. Trong lúc
thiền định, thọ ấm hư minh, chẳng lọt tà tưởng, bỗng trong tâm
ham cầu sự tiên tri cảm ứng. Khi ấy thiên ma được dịp nhập thân
người khác để thuyết pháp, người đó chẳng biết đã bị ma nhập, tự
nói đã được Vô Thượng Niết Bàn, đến chỗ người cầu cảm ứng,
thuyết pháp cho họ. Ma khiến người nghe tạm thấy thân họ như
trăm ngàn tuổi, lòng sanh yêu mến, chẳng muốn rời bỏ, chịu làm
đầy tớ cúng dường đủ thứ mà chẳng biết mệt mỏi, lại khiến đồ
chúng của mỗi người trong tâm đều biết họ là tiên sư, là thiện
tri thức, sanh lòng yêu mến, thiết tha như keo sơn, được chưa
từng có, người ấy ngu mê chẳng biết, cho là Bồ Tát, tâm ưa thân
cận, phá hoại giới luật, lén làm việc tham dục. Ma ưa nói kiếp
trước người này người kia là anh em, là vợ của ta, nay đến để độ
họ, cùng nhau đi đến cõi này cõi kia để cúng dường Phật này Phật
nọ; hoặc nói có cõi trời Đại Quang Minh kia, chư Phật đều nghỉ
tại đó, người mê chẳng biết, tin lời cuồng vọng ấy. Đây gọi là
Lệ Quỷ (quỷ sân si), tuổi già thành ma, nhiễu loạn người ấy, đến
khi ma sanh lòng chán, rời khỏi thân thể, lúc ấy đệ tử lẫn thầy
đều bị sa vào lưới pháp luật. Các ngươi nên sớm giác ngộ, để
khỏi bị luân hồi, nếu mê lầm chẳng biết, sẽ bị đọa ngục A-Tỳ.
- 6. Trong lúc
thiền định, thọ ấm hư minh, chẳng lọt tà tưởng, bỗng trong tâm
ham cầu tĩnh tịch, khắc khổ siêng tu, ưa thích chỗ vắng lặng.
Khi ấy thiên ma được dịp nhập thân người khác để thuyết pháp,
người đó chẳng biết đã bị ma nhập, tự nói đã được Vô thượng Niết
Bàn, đến chỗ người cầu tĩnh lặng thuyết pháp cho họ. Ma khiến
người nghe mỗi mỗi đều biết nghiệp báo của mình, hoặc nói với
một người nào rằng: "Ngươi nay dù chưa chết, nhưng đã làm súc
sinh". Rồi bảo người khác đến sau lưng họ làm dạng đạp đuôi,
liền khiến người ấy đứng dậy chẳng được, làm cho tất cả đều hết
lòng khâm phục, có người móng tâm lên, ma liền biết ý. Ngoài
luật nghi của Phật ra, nó càng thêm khắc khổ, phỉ báng Tỳ Kheo,
chửi mắng đồ chúng, phơi bày việc người, chẳng tránh hiềm khích,
ưa nói việc tội phước của tương lai mà mảy may không sai. Đây
gọi là Đại Lực Quỷ (quỷ ngạo mạn), tuổi già thành ma, nhiễu loạn
người ấy, đến khi ma sanh lòng chán, rời khỏi thân thể, lúc ấy
đệ tử lẫn thầy đều bị sa vào lưới pháp luật. Các ngươi nên sớm
giác ngộ, để khỏi bị luân hồi, nếu mê lầm chẳng biết, sẽ bị đọa
ngục A-Tỳ.
- 7. Trong lúc
thiền định, thọ ấm hư minh, chẳng lọt tà tưởng, bỗng trong tâm
ham muốn tri kiến, siêng năng nghiên cứu, tham cầu túc mệnh. Khi
ấy thiên ma được dịp nhập thân người khác để thuyết pháp; người
đó chẳng biết đã bị ma nhập, tự nói đã được Vô Thượng Niết Bàn,
đến chỗ người cầu tri kiến, thuyết pháp cho họ. Người ấy khi
không ở nơi nghe pháp được hòn ngọc báu, có lúc ma lại hóa thành
súc sinh, miệng ngậm hạt châu và các châu báu, sách, bùa, các
vật quý lạ, trước tiên đem hiến cho người ấy, sau nhập xác họ,
hoặc bảo với họ là dưới đất nơi đó có hạt châu chiếu sáng, khiến
các người nghe, được chưa từng có. Do sức ma nhiếp trì, thường
ăn cây thuốc chứ chẳng ăn cơm, hoặc hằng ngày chỉ ăn một hột mè
hoặc một hột lúa mà thân vẫn béo mạnh; phỉ báng Tỳ Kheo, chửi
mắng đồ chúng, chẳng tránh hiềm khích; ưa nói kho báu nơi tha
phương hoặc chỗ ẩn cư của bậc thánh hiền mười phương, những
người theo sau thường thấy có kẻ kỳ lạ. Đây gọi là loại quỷ thần
sơn lâm, thổ địa, thành hoàng sông núi, tuổi già thành ma, hoặc
kêu gọi làm việc dâm dục, phá hoại giới luật, cùng với người
vâng theo lén làm sự ngũ dục; hoặc chỉ ăn cây cỏ cho là tinh
tấn, những việc làm không có nhất định, nhiễu loạn người ấy, đến
khi ma sanh lòng chán, rời khỏi thân thể, lúc ấy đệ tử lẫn thầy
đều bị sa vào lưới pháp luật. Các ngươi nên sớm giác ngộ, nếu mê
lầm chẳng biết, sẽ bị đọa ngục A-Tỳ.
- 8. Trong lúc
thiền định, thọ ấm hư minh, chẳng lọt tà tưởng, bỗng trong tâm
ham cầu thần thông biến hóa. Khi ấy thiên ma được dịp nhập thân
người khác để thuyết pháp, người đó chẳng biết đã bị ma nhập, tự
nói đã được Vô Thượng Niết Bàn, đến chỗ người cầu thần thông,
thuyết pháp cho họ. Người ấy hoặc tay cầm ngọn lửa để trên đầu
tứ chúng, lửa cháy sáng vài thước mà chẳng thấy nóng hay bị
cháy, hoặc đi trên mặt nước như đi trên đất bằng, hoặc an tọa ở
giữa hư không, hoặc vào trong bình hay trong túi, xuyên qua bức
tường đều chẳng chướng ngại, chỉ đối với quân binh giao trận là
không được tự tại thôi. Tự nói là Phật, thân mặc bạch y, nhận lễ
lạy của bậc Tỳ Kheo, phỉ báng thiền luật, chửi mắng đồ chúng,
phơi bày việc người mà chẳng tránh hiềm khích, ưa nói thần thông
tự tại, hoặc khiến người thấy cõi Phật ở kế bên; dùng sức quỷ mê
hoặc người, chẳng phải có thật, khen ngợi sự dâm dục, chẳng bỏ
thô hạnh, đem những việc ô uế cho là truyền pháp. Đây gọi là
loại Sơn tinh, Hải Tinh, Phong Tinh, Hà Tinh, Thổ Tinh, tất cả
cây cỏ trên trời đất lâu năm lụy kiếp thành tinh, hoặc là Long
(rồng) mî, hoặc loại tiên chết rồi sống lại thành mî, hoặc loại
tiên chết rồi hình thể chưa tan, quỷ quái khác nhập vào, tuổi
già thành ma, nhiễu loạn người ấy, đến khi ma sanh lòng chán,
rời khỏi thân thể, lúc ấy đệ tử lẫn thầy đều bị sa vào lưới pháp
luật. Các ngươi nên sớm giác ngộ, để khỏi bị luân hồi, nếu mê
lầm chẳng biết, sẽ bị đọa ngục A-Tỳ.
- 9. Trong lúc
thiền định, thọ ấm hư minh, chẳng lọt tà tưởng, bỗng trong tâm
ham muốn nhập diệt, tham cầu đi sâu vào cái rỗng không. Khi ấy
thiên ma được dịp nhập thân người khác để thuyết pháp, người đó
chẳng biết đã bị ma nhập, tự nói đã được Vô Thượng Niết Bàn, đến
chỗ người cầu rỗng không, thuyết pháp cho họ. Trước mặt đại
chúng, thân ma bỗng biến mất, chúng không trông thấy, lại từ hư
không thình lình hiện ra, ở đi tự tại, hoặc hiện thân như lưu
ly. hoặc duỗi tay chân bay mùi chiên đàn, hoặc đại tiểu tiện như
đường phèn cứng chắc, phỉ báng giới luật, khinh bỉ người xuất
gia. Ưa nói không có nhân quả, hễ chết rồi là diệt hẳn, chẳng có
thân sau và nói các phàm thánh dù đã được không tịch, nhưng vẫn
còn lén hành tham dục, và người thọ sự dâm dục ấy cũng được
Tâm-Không. Đây gọi là loại kim ngọc, chi thảo, hoặc con lân,
phụng, rùa, hạc, thu hút tinh khí của nhựt nguyệt, trải qua ngàn
vạn năm chẳng chết thành tinh, tuổi già thành ma, nhiễu loạn
người ấy, đến khi ma sanh lòng chán, rời khỏi thân thể, lúc ấy
đệ tử lẫn thầy đều sa vào lưới pháp luật. Các ngươi nên sớm giác
ngộ để khỏi bị luân hồi, nếu mê lầm chẳng biết, sẽ bị đọa ngục
A-Tỳ.
- 10. Trong lúc
thiền định, thọ ấm hư minh, chẳng lọt tà tưởng, bỗng trong tâm
ham muốn sống lâu, vất vả nghiên cứu, tham cầu trường thọ chẳng
diệt. Khi ấy thiên ma được dịp nhập thân người khác để thuyết
pháp, người đó chẳng biết đã bị ma nhập, tự nói đã được Vô
Thượng Niết Bàn, đến chỗ người cầu trường thọ, thuyết pháp cho
họ, hay nói đi lại từ nơi này đến nơi khác chẳng có ngăn ngại;
hoặc trong chốc lát từ muôn ngàn dặm đi liền trở lại, mang theo
đồ vật của nơi đó; hoặc ở trong nhà, cho người ấy đi vài bước từ
vách tường bên đông sang bên tây, mà người ấy đi gấp suốt năm
chẳng tới, khiến họ tin đó là Phật hiện tiền. Ma ưa nói tất cả
mười phương chúng sanh đều là con ta, ta sanh ra chư Phật, sanh
ra thế giới, là Phật nguyên thủy, tự nhiên ra đời, chẳng do tu
được. Đây gọi là Tự Tại Thiên Ma ở đời, sai khiến những quyến
thuộc chưa phát tâm (kẻ đã phát tâm thì hộ trì chánh pháp), lợi
dụng sự hư minh của họ, thu hút tinh khí của người. Người ấy
hoặc không nhờ thầy mà tự mình thấy rõ, ma tự xưng là Thần Hộ
Pháp Kim Cang, cho người sống lâu; hoặc hiện thân mỹ nữ, thịnh
hành việc tham dục, khiến người ấy chưa đầy một năm gan não đã
khô kiệt, hay nói lẩm nhẩm một mình, nghe như yêu mî mà người
khác chẳng hiểu. Khi bị sa vào lưới pháp luật, chưa kịp xử hình
thì đã chết khô, nhiễu loạn người ấy đến chết mới thôi. Các
ngươi nên sớm giác ngộ để khỏi bị luân hồi, nếu mê lầm chẳng
biết, sẽ bị đọa ngục A-Tỳ.
- - A Nan phải
biết! Nơi thời mạt pháp, mười thứ ma kể trên ở trong pháp ta
xuất gia tu hành; hoặc nhập thân người khác, hoặc tự hiện hình,
đều nói đã thành chánh biến tri, khen ngợi sự dâm dục, phá hoại
giới luật. Ma và đệ tử họ truyền nhau làm việc dâm dục, tà ma
như thế, mê hoặc tâm can người từ chín đời cho đến cả trăm đời,
khiến người tu hành đều thành quyến thuộc của họ, sau khi chết
tất cả sẽ trở thành dân ma, lạc mất chánh biến tri, đọa ngục
A-Tỳ.
- - Nay các
ngươi dẫu đã được vô lậu, chưa nên sớm nhập Niết Bàn, phải
nguyện ở lại, vào trong thời mạt pháp, khởi đại từ bi, cứu người
phát chánh tâm tu hành, khiến đừng lạc vào tà ma, được chánh
biến tri. Nay ta đã độ các ngươi ra khỏi sanh tử, các ngươi hãy
theo lời Phật dạy mà hành gọi là báo ân Phật.
- - A Nan! Mười
thứ cảnh giới thiền định trên, đều do Tưởng Ấm và dụng tâm giao
tranh lẫn nhau mà hiện ra, chúng sanh ngu mê chẳng tự xét kỹ,
gặp nhân duyên này mà chẳng tự biết, nói là chứng thánh, thành
đại vọng ngữ, đọa ngục A Tỳ.
- - Sau khi Như
Lai nhập diệt, trong thời mạt pháp, các ngươi phải theo như lời
dạy bảo trên khai thị cho người tu, hộ trì cho họ thành Vô
Thượng Đạo, chớ để cho thiên ma được dịp quấy phá.
- GHI CHÚ:
- (l) Kiên
cố vọng tưởng và kiếp trược:
- Sắc Ấm tại
sao gọi là Kiên Cố Vọng Tưởng? Vì do vọng tưởng của cha mẹ và
vọng tưởng của mình giao kết mà thành cái sắc thân kiên cố này,
nên gọi là Kiên Cố Vọng Tưởng.
- Do Sắc Ấm
và tri kiến giao tranh lẫn nhau, dựa theo đó mà sanh ra tri kiến
chấp thật, nên gọi là Kiếp Trược.
- (2) Hư
Minh Vọng Tưởng và Kiến Trược:
- Thọ Ấm tại
sao gọi là Hư Minh Vọng Tưởng? Vì Hư thì năng thọ, Minh thì năng
nhận, như bóng tượng hiện trong gương sáng. Theo bản thể, hư
minh là tâm Phật, tại sao nói là vọng tưởng? Vì hễ mống lên một
niệm chấp trước, muốn được sự chứng đắc, thì liền bị thọ ấm che
khuất, nên gọi là Hư Minh Vọng Tưởng.
- Kiến Trược
là do tri kiến thọ nhận các cảnh rồi giao tranh lẫn nhau, dựa
theo đó mà sanh ra tri kiến chấp thật, nên gọi là Kiến Trược.
- (3) Dung
Thông Vọng Tưởng và Phiền Não Trược:
- Tưởng Ấm
tại sao gọi là Dung Thông Vọng Tưởng? Do tưởng năng dung thông
biến hóa, khiến Tâm theo cảnh, khiến cảnh theo Tâm. Vì cái Tâm
chấp dung thông chưa được hóa giải, nên ma mới được dịp thừa cái
chấp ấy mà mê hoặc người, nên gọi là Dung Thông Vọng Tưởng.
- Tất cả
phiền não đều do tưởng niệm mà có, dựa theo đó mà sanh ra tri
kiến chấp thật, nên gọi là Phiền Não Trược.
-
- (QUYỂN CHÍN HẾT)
- --o0o--
|
|