-
QUYỂN NHẤT
-
-
Chúc Diên
- Chúc Quốc Vương
-
---o0o---
-
-
Đời Đường, Sa môn Hoài
Hải ở núi Bách Trượng biên tập tại Hồng Châu.
-
Chùa Chân Tịch Tỳ Kheo
Nghi Nhuận chứng nghĩa tại Cổ Hàng.
-
Đời Thanh, trụ trì Chùa
Giới Châu là Diệu Vĩnh hiệu duyệt ở Việt Thành.
-
Lời thuật nói rằng, con
người quí ở cái đạo sáng nên từ xưa các bậc Thánh đế tôn sùng lời
dạy của các Thánh nhân Tây phương; chẳng lấy cái lễ thường đối đãi
ta mà tôn thờ cái đạo các Ngài. Đã được triều đình ưu đãi đến thế,
lại đặc miễn thuế má sưu dịch, làm cho dân an cư mà hết lòng với
đạo. Ân vua rộng lớn không thể dùng lời tả hết được, làm tăng ắt
phải ngộ Phật tánh, nghiêm giữ giới luật. Nhiều người chẳng có ý cậy
nhờ vào Triều đình thịnh vượng mà lại sớm tối chúc diên, mong ân
Phật từ bi gia hộ, lòng trời soi chiếu cho quân vương chăn dân lấy
đức lành cảm hóa. Xây đời lấy nhân làm ranh vực. Ngõ hầu ngưỡng vọng
báo đền ân trong muôn một nên thấy những việc hằng ngày, kính cẩn
ghi chép ra để mà duy trì các phép tắc vậy.
-
Vâng mệnh thiết các Lễ
Chư Thánh
-
Kinh Kim Cang Vô Lượng
Thọ có ghi
rằng, việc sở trường sở đoản tùy theo, tăng không ngoa ngụy dối gian
chứng tỏ lòng cung kính. Trước tiên việc lập đàn có 3 mục: phòng
khách chuẩn bị giấy mực các thứ, phòng thư ký, vị tri khách (tiếp
khách - tiếp tân) đến tiếp xúc lễ một lễ bạch rằng: “Thưa… ngày đó,
tháng… năm đó có lễ thánh tiết, xin cảm phiền Đại Đức… cho vài lời
sơ lược”. (Nếu thư ký không có mặt, Thầy Phó thay thế, trong trường
hợp cả hai đều vắng, nên dùng phần sau đây đáp sơ). Thư ký đúng phép
tắc bạch xong, đều giản đơn đem trình cho vị Trụ trì xem qua rồi
đích thân tới phòng khách thưa thỉnh: lễ một lạy, đáp lời thỉnh cầu…
Thầy tri khách dùng giấy vàng viết chữ và các chi tiết liên hệ vào
tờ sớ. Lập đàn trước hết là phòng khách, mời vị Duy Na (thủ chuông)
cùng chư tăng tụng kinh cầu nguyện. Kế đến linh động sắp xếp trình
cho Trụ Trì xem xét xong; mời Trụ Trì lên Phật điện hướng dẫn chúng
tụng kinh chúc Thánh. Nên sửa soạn chánh điện, quét dọn sạch sẽ hẳn
thiết lập Kim Cang Vô Lượng Thọ đạo tràng, thiết trí cho thật trang
nghiêm, treo các liễn trướng… ghi rõ ngày… tháng… năm… cung chúc
thánh đản vạn thọ hiệp cùng đại chúng bổn viện vân tập Phật điện,
tụng các thần chú, niệm danh hiệu Phật Dược Sư, phục nguyện...
Phật nhựt soi tỏ, Thánh thọ vô ngần v.v...
-
Mời cho được 20 vị tăng
tụng kinh, tối thiểu cũng phải 10 vị mỗi ngày. Chương trình gồm có
thuyết pháp, tọa thiền hay niệm Phật, cúng ngọ, bái sám, tụng kinh…
tùy nghi cho thích hợp.
-
Có thể đọc lòng sớ như
sau: “Sớ rằng: Cảnh vận rộng khai, thánh nhân tạo dựng mà có vạn vật;
hồng ân lợi nhuần một nhân vật nhưng triệu người được nhờ; thọ mạng
vô cùng, trời đất khó đo lường được chỗ cao dày, chiếu soi sáng tỏ.
Mặt trời mặt trăng khó dụ ánh quang rực rỡ; vốn biết rằng có tán
dương cũng khó tận mà muốn báo đáp cũng vô cùng. Chỉ bày hun đúc
người tài đức biết trọng 4 ân hết lòng trung tín, tâm thành kính
chúc. Nay tại Châu Diêm Phù Đề trong bốn châu…quốc…tỉnh...quận…phố...khu…đường;
chùa (tên chùa). Hôm nay là ngày… tháng… năm… nhân dịp lễ Khánh tiết,
bổn tự thiết lễ nghi diên hoàn bị, kiền thỉnh đại đức chúng tăng vân
tập bảo điện, lập Kim Cang Vô Lượng Thọ đạo tràng".
-
Vài ba ngày nên thỉnh
tăng luân phiên tụng Kinh Hoa Nghiêm (Kinh Đại Phật
đảnh vạn hạnh Thủ Lăng Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Đại Phương
quảng Viên Giác tu đa la liễu nghĩa, Kinh Kim Cang Bát Nhã ba la mật,
Kinh Nhân Vương hộ quốc bát nhã, Từ Bi đạo tràng Sám Pháp, Lương
Hoàng Sám pháp…) trong mỗi Kinh tụng thêm các bài thần
chú mật ngôn, tụng danh hiệu Phật, kỳ cầu hồng ân, phụng vì khánh
chúc:
-
- "Trên hoàng thượng
thánh thọ vạn tuế vạn vạn tuế".
-
Lại nguyện:
-
- "Sao Xu cao chiếu
sáng lòe, long tượng hòa hài, lưới trời lồng lộng; núi sông bao dung
lượng thánh hàm tàng 3000 hoa tạng thế giới, lợi ích thấm nhuần bất
tận; ngưỡng cầu: thần long che chở, sao tinh chiếu dọi thiên hạ thái
bình, 4 mùa an ổn, quốc dân hòa lạc mà đất nước cường thịnh. Phật
nhật sáng soi Long thiên chiêu cảm. Xin chí thành dâng sớ tỏ bày".
-
Ngày…tháng…năm… Trú trì:
Sa môn (tên) cung đọc xong.
- (Nếu có
viên chức chính quyền dự, mời chủ trì mỗi vị nên biên tên họ đầy đủ.
Sớ này ghi chữ rõ ràng, ở đầu tờ sớ thêm vào 4 chữ lớn:
-
- "Vạn Thọ Vô Cương". (Cũng
như đọc sớ phải nhằm ngày lễ chánh. Đàn tràng cúng trước giờ ngọ và
đại chúng cùng tụng kinh).
-
Đọc:
- "Nam
mô Vô Lượng Thọ Phật " (xong rồi đốt sớ).
-
Thọ mạng vô lường
-
Xe vàng và xe pháp cùng
chuyển bánh,
-
Phước vượt khỏi ba kỳ
-
Thuấn nhựt và Phật nhựt
cùng sáng lạn,
-
Thọ mạng kéo dài ức
kiếp.
- Khắp
nơi đồng mừng
-
Một nhân vật tự tại như
mây kéo qua mặt trời,
-
Sao vằng vặc rạng chiếu
cùng biển đất
-
Thọ mạng vô lường như
rồng ôm bản đồ,
-
Phượng xây lầu gác,
quốc gia bền vững
-
Ngưỡng xem Bắc Cực
-
Tám tờ biểu dâng vua,
đồng quay về giáo hóa
-
Muôn dân triều cống,
-
Người người đồng hưởng
an lạc thái bình".
-
(Những câu trên viết
treo nơi hàng ba trước chánh điện).
-
Chứng nghĩa ghi rằng:
-
Thánh tiết hay còn gọi
là vạn thọ tiết hoặc xưng là thiên thọ. Vì đây là ngày (giai tiết)
của Thánh nhân đản sanh. Sách Trung Phong ghi rằng, chỉ trồng cây
sanh giữa đất trời mà không chăm tưới bón, chỉ giòng họ Thích ta mới
được thấm đến như thế! Sao không lấy đó làm bằng. Cô lập, hư, mềm,
yếu mà không tự đứng được. Nói cô lập là một mình xa cách người thân,
không kinh doanh như người đời, hư là sống nhờ đàn việt không cày
sâu cuốc bẩm. Nói mềm là làm cho tâm lắng chìm vắng lặng, giữ phép
tắc nội quy, nói yếu là giữ gìn chân tánh, không cạnh tranh hơn
thiệt. Mình chưa là thánh nhân nên đừng quên lời Phật dạy:
-
- "Cong rủ giữ vẽ ngoài
thì vườn tăng đủ tươi. Há dám tự xưng tăng mà không lấn đoạt nơi tay
người khác ư?".
-
Do vậy, chúng ta an ổn
nhàn lạc, một giờ, một khắc hàm dung ân đức bậc thánh. Dù nhờ trời
che đất chở cũng không thí dụ hết được. Phải quyết lòng cầu pháp,
trọn đời buộc ràng với đạo, cho chí tan thân mất mạng cũng không đủ
đền đáp một phần trong muôn một. Đâu lại thong dong biếng lười sa
đọa, để lần lửa qua ngày mà đắm chìm trong lạc dục ư? Cho nên, ngày
lễ thánh hợp như pháp thiết lễ cúng bái, tụng kinh để báo đáp ân
quốc vương.
-
Đúng ngày lễ, thời khóa
công phu sáng: đốt hương, thị giả cầm hương chờ, đủ đồ pháp khí
tang, linh, khánh, đại chúng tể tựu đầy đủ; vị Trụ Trì niệm hương,
cắm hương lên lư. Thầy Duy Na (thủ chuông) tán bài:
-
"Lư vàng hương đốt thơm
lừng,
-
Khói xông ngào ngạt
khắp cùng mười
phương,
-
Thành tâm hiến cúng
pháp vương,
-
Nguyện vì chúc thọ quân
vương,
-
Đất bền, trời vững an
khương thái hòa".
-
Nam mô Hương Vân Cái Bồ
Tát Ma Ha Tát (3
lần).
-
Sau khi tán xong, đại
chúng đồng niệm:
-
- "Chú Thánh Vô
Lượng Thọ Quang Minh" (3 lần).
-
Thầy Duy Na xướng:
-
- “Dược Sư Như Lai”.
- Đại
chúng cùng hòa theo:
-
- “Dược Sư Như Lai”.
- Thầy
Duyệt Chúng xướng:
-
- “Pháp Vương vạn tuế”.
- Đại
chúng đều niệm lớn:
-
- “Dược Sư Như Lai”.
-
Thầy Duy Na xướng:
-
- “Pháp Vương vạn tuế”.
- - Đại
chúng cùng niệm lớn:
-
- “Dược Sư Như Lai”.
- Thầy
Trụ trì xướng sớ; thầy Duy Na quỳ sau hay bên cạnh đọc sớ, sớ rằng:
-
"Bậc Đại giác Thế Tôn,
- Ứng
hiện nơi trời tây,
-
Tâm dung tợ hư không,
- Đức
trùm cõi sa giới,
-
Một trong bốn thiên hạ,
- Cõi Nam
Thiệm Bộ Châu".
- …Quốc…Tỉnh…Phủ…Huyện…Chùa…Sa-môn…tên…
-
- “Hôm…nay…ngày…tháng…năm…
nhằm ngày lễ Thánh tiết giờ thiêng, hiện tại tăng chúng tề tựu tại
đại hùng bảo điện (chánh điện), phúng tụng kinh chú, xưng tán hồng
danh thánh hiệu, nguyện cầu hồng ân gia bị. Nay đương vì thánh vương
kỳ cầu: vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế…"
-
Duy Na đọc tiếp:
-
- "Cầu nguyện quốc thái
dân an, thiên hạ thái bình, văn võ bá quan đều được nhuần ân đức,
lộc vị hiển vinh. Lại nguyện: mưa hòa gió thuận, lúa thóc được mùa,
tám phương ca tụng đạo quân vương, bốn biển vui vầy cảm hóa đạo
nhiệm".
-
Ngưỡng mong đại chúng
đồng niệm:
-
- "Kim Cang Vô Lượng
Thọ Hộ Quốc Nhơn Vương Bồ Tát Ma Ha Tát".
-
Tiếp theo tụng Kinh
Lăng Nghiêm:
-
- "Nam mô Lăng Nghiêm
Hội Thượng Phật Bồ Tát"
(3 lần).
-
Đọc xong 5 đệ, tiếp đọc
Chú Đại Bi, 10 bài chú khác, Bát Nhã xong đọc:
-
- "Thượng lai hiện tiền
thanh tịnh chúng…"
-
Kế tán Phật Dược Sư:
-
- "Phật Dược Sư phóng
tỏa hào quang,
-
Sáng rực rỡ nghiêm
trang khó lường,
-
Bao nhiêu hạnh nguyện
lợi hữu tình,
-
Mỗi mong được an tường
thỏa mãn".
-
Nam mô Đông Phương Thế
Giới, Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật.
-
Đứng lên đi nhiễu Phật
đồng niệm:
-
- Nam mô Dược Sư
Lưu Ly Quang Như Lai (3 vòng xong, chủ lễ xướng, đại chúng đảnh
lễ):
-
- Nam mô Dược Sư Lưu
Ly Quang Như Lai
(12 lạy)
-
- Nam mô Nhựt Quang
Biến Chiếu Bồ Tát
-
- Nam mô Nguyệt Quang
Biến Chiếu Bồ Tát
-
- Nam mô Dược Sư Hải
Hội Phật Bồ Tát
(mỗi hiệu 1 lạy).
-
Đại chúng về Tổ Đường,
tác bạch cảm tạ, đảnh lễ v.v.. Ngày này chúng luân phiên tụng niệm,
cúng ngọ, thọ trai quá đường, kinh hành niệm Phật v.v..
-
Chứng nghĩa ghi:
-
Thanh Quy là chiếc mũ
đội đầu, chúc Thánh là khâm tuân lời Phật dạy, báo đáp ân tổ quốc. Y
cứ Kinh Đại Thừa Bổn Sanh Tâm Địa Quán, Phật dạy ân tổ quốc có 10
đức. Nay tăng chúng chúng ta cùng ở thời thanh bình thạnh trị, may
mắn gặp được bậc minh quân, ân vua như mặt trời mặt trăng sáng tỏa,
đức như trời đất chở che. Nói chung vua có 10 ân đức cần phải giữ
gìn:
-
1- Kính tôn Tam Bảo,
tuân lời Phật phó chúc (quốc vương)
-
2- Kiến lập chùa viện
làm đạo tràng duy trì Phật pháp
-
3- Ấn hành kinh tạng
để Phật pháp tồn tại
-
4- Cấp giới điệp tăng
già, học hỏi không ngừng
-
5- Miễn trừ tăng tịch
cho việc xuất gia được tiện
-
6- Ban cho nguời bảo hộ
trang nghiêm chốn già lam
-
7- Truy phong bậc cổ
đức, tôn trọng người chân tu
-
8- Hàng năm ban tặng
tiền hoa quả, nhang đèn cúng Phật để tạo phước lâu dài
-
9- Riêng đặt chức
quan cho tăng, người đời không hỗ danh tăng già
-
10- Không bắt tăng sĩ
làm lao động mà cho họ yên tâm hành đạo.
- Mười ân
đức của quốc vương như thế đó phải biết để mà đền đáp hợp tình hợp
lý.
-
Phật dạy:
-
- "Ta có ngũ nhãn thấy
rõ biết các quốc vương ba đời đều do đời quá khứ thân cận hầu hạ 500
đức Phật nên đời này được làm vua. Thế nên, các bậc thánh nhân, La
Hán mong sanh vào nước của các vua đó làm nhiều việc lợi ích. Ta
phái 5 vị Bồ Tát đại lực, 5 đại sĩ, 5000 vua đại thần tới ủng hộ vua
các nước đó. Vì thế, nay ta đem Tam Bảo giao cho các vị quốc vương
v.v…" Như Kinh Đại Niết Bàn và các Kinh nói rõ, đều có lời
Phật dạy vua giữ ngoại hộ, nên nêu ở đầu vậy.
-
Đại chúng nên tụng kinh,
lễ lạy Hồng Danh Sám Hối để tiêu trừ nghiệp trước, cầu nguyện
nhà nhà an lạc, quốc vương sống lâu để trăm họ được nhờ ơn phước như
biển không bao giờ cạn; như sư tử trong hang sanh sản sư tử con rồi
chui ra khỏi hang núi, là tốt là điềm lành trải khắp 9 phương, cỏ
cây, côn trùng đều nhờ ân hưởng. Cúi đầu lễ lạy là việc khó nghĩ bàn.
Ví như các vì sao vây xung quanh trăng sáng, nên nay tuyên dương
pháp vi diệu trong đệ nhứt nghĩa chân thật:
-
"Chúc diên công đức
hạnh nhiệm mầu
-
Thắng phước bao nhiêu
con nguyện cầu
-
Cầu khắp chúng sanh
nghiệp nặng sâu
-
Sớm sanh Tây Phương
Tịnh Độ mau
-
Mười phương ba đời chư
Phật thảy
-
Tất cả Bồ Tát Ma Ha Tát
-
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật".
-
Tiếp theo: nghi chúc
thọ Hoàng Hậu (lược bỏ phần này vì ngày nay không còn thích hợp).
- Nên tổ
chức tiếp rước sắc chỉ long trọng, Trụ Trì suất tăng chúng ra xa
chùa 5 dặm rước sắc chỉ trên long xa vào chùa, tăng chúng đứng 2 bên
nghiêm chỉnh. Trong chùa thiết bàn riêng để sắc chỉ lúc thỉnh tới,
chuông trống Bát Nhã trổi lên khi đoàn rước tới nơi. Tất cả đồng quỳ
chở kiệu đi qua, mọi người đứng dậy theo sau kiệu. Kiệu đặt giữa
điện, chư tăng đứng hai bên.
-
Tri khách xướng:
-
- "Hoàng ân ngự giá sơn
môn".
-
Đại chúng đảnh lễ ba
lạy:
-
- "Vạn tuế".
-
Lễ xong, thư ký cầm tờ
chỉ quỳ gối hướng phía đông tuyên đọc xong để lại khay nơi kiệu. Vị
Trụ Trì tới trước kiệu dâng hương lễ 3 lạy xong cùng đại chúng lạy
tạ 9 lạy. Chuông trống bát nhã trổi 3 hồi, chư tăng tụng:
-
- "Nam mô Vô Lượng
Thọ Phật".
- Thỉnh
sắc chỉ để vào lầu kinh các. Duy Na xướng:
-
"Thiên long thánh chủ
giúp đời châu viên
- Ân vua
sâu nặng khó thể nêu danh
-
Báo đáp giữ nơi tâm
- Chúng
tăng lòng thành
-
Đội ân đức nào quên".
- Nam
mô Kiết Tường Vương Bồ Tát Ma Ha Tát
(3 lần).
-
Bốn ngày chay bảo hộ
sanh mạng mỗi tháng, mồng 1, mồng 8, 15, 30 là 4 ngày chay để bảo hộ
sanh mạng. Tại chùa, 2 ngày rằm, mồng một là những ngày Bố Tát, tụng
luật Tứ phần giới bổn hoặc Kinh Phạm Võng Bồ Tát giới (tụng
thay đồi: nửa tháng tụng luật Tỳ kheo, nửa tháng tụng BồTát giới
Phạm Võng Kinh).
-
Chứng nghĩa ghi:
-
Bốn ngày chay là để hộ
mạng, khởi đầu từ đời Tùy niên hiệu Khai Hoàng thứ ba, ban ra cho
dân chúng mỗi năm 3 tháng là tháng giêng, tháng 5 và tháng 9 cùng
với 4 ngày chay tịnh, 6 hay 10 ngày chay. Tại các chùa có thiết lập
đạo tràng cầu thọ mạng, không giết hại sanh mạng loài vật. Trong
Kinh có dẫn câu chuyện Tỳ Sa môn thiên vương, mỗi năm đi tuần thú
bốn châu lớn, vào các tháng giêng, tháng 5 và tháng 9 đến châu phía
Nam nên cấm sát sanh. Nhưng các phiên trấn đời Đường mỗi khi nhậm
chức ắt sắc cho dân chúng phải sát hại cho bữa đại yến linh đình.
Cho nên chọn lấy tháng giêng, tháng 5, tháng 9 không nhậm chức, để
cấm giết hại. Ngày nay lầm ngày kỵ là không đúng; vào 4 ngày chay
nên tụng kinh chú, bái sám cũng như vâng lời Phật dạy, khiến cho mọi
người hiểu rõ ý nghĩa như thế. Chiếu từ tâm chất có tội thì sửa đổi,
không tội được miễn trừ, không phải chỉ lo tụng kinh mà đủ báo ân
đâu! Niệm tụng giải thích để báo ân dù chưa hiểu nghĩa, vẫn giữ được
lễ. Ngày nay nếu bỏ hết không thực hành thật là sai lầm vậy. Dựa
theo Tục Cao Tăng truyện và Vân Lâu Sùng hành lục, Tỳ Kheo Thích
Tăng Vân ở chùa Bảo Minh ham đắm cái danh diễn giảng mà ngày rằm
tháng tư nhân lúc tụng giới, thưa đại chúng rằng:
-
- “Gìới để cho người,
người tụng đắc giới, cần gì nhọc tới số đông, có thể làm cho một vị
tăng hiểu nghĩa khiến lớp sau tỏ ngộ”.
-
Chúng không dám phản
đối bèn bỏ tụng giới. Ngày rằm tháng 7 chúng làm lễ tự tứ bổng Vân
vắng mặt, 4 thầy đi tìm bèn gặp ở trong khu nghĩa địa hoang, thân
thể đầy máu me. Họ hỏi nguyên nhân được cho hay có một người rất
mạnh cầm thanh đao dài gọi lớn tiếng hỏi Tăng Vân:
-
- “Đây là người gì? Dám
bỏ tụng giới, dối xưng là hiểu nghĩa”.
-
Rồi dùng dao dí vào
thân tôi, đau buốt không chịu nổi. Nhân đó tìm trở lại chùa, khẩn
cầu sám hối trải qua 10 năm, rất chí thành tha thiết theo nghi thức
tụng giới. Ngày lâm chung có hương lạ phảng phất khắp phòng rồi an
tường ra đi. Lúc đó niên hiệu Hàm Gia làm cho đời luôn nhắc tới.
Ngài Vân Thê Liên Trì nói rằng:
-
- “Thời nay còn kinh
luận mà xem thường giới luật, hai nghìn năm sau, nửa tháng tụng giới
một lần lại không muốn làm. Tôi không lường được! Hưng vong sa đọa ở
trong chùa con người do chưa tin mà ra. Quả báo hiển nhiên mà ngài
Tăng Vân trưng dẫn, mong lấy đó suy nghĩ.”
-
Hết quyển nhứt.