Lời thuật ghi rằng, mỗi người đều có Tổ cúng giỗ để ôn nhắc lại sanh
bình của các Ngài. Hình hài lúc sanh tiền đáng yêu quí, song thể xác
có lúc rồi cũng tiêu vong, yêu quí có lúc cũng hết. Chỉ có tánh linh
hiển nhiên không mê mờ, chẳng do sanh mà tồn tại, chẳng do mất mà
quên lờ. Cho nên Phật dạy người hiển tánh minh mà người sau học hỏi.
Lại nữa,
gắn chặt nơi lời nói không gọi được nơi quy hướng. Từ khi giáo pháp
truyền sang Đông Độ, người được truyền thừa quả là ít ỏi và
Tổ Đạt Ma đến, do pháp trực chỉ mà người ta mới thoạt thấy rõ.
Luận về chỗ diệu của tự tánh từ đó trở đi truyền nhau không dứt. Tổ
truyền đạo về sau thờ Tổ như lửa của củi, bình chứa của nước liên
tục truyền thừa cho đến ngày nay có thể nói là thạnh vậy.
Song
công ơn đức Tổ làm sao quên được chứ? Ngày lễ giỗ kỵ đâu thể bỏ bê
ư? Đến như Tổ Bách Trượng Đại Trí thiền sư viết Thanh Quy
làm mô phạm cho ta nay tòng lâm đuợc chấn chỉnh. Công đức ấy thật
xứng đáng là Sơ Tổ truyền lưu không dứt. Cho nên pháp hội Ngài tọa
gọi là tòng lâm. Tổ đường nên thờ Tổ Đạt Ma bên trong,
Tổ Bách Trượng kế bên tay trái mà là Tổ khai sơn của bổn
tự. Nay đều xếp vào hàng trí giả cúng theo nghi chư tôn đức để
giữ pháp gìn luật, báo ân đức người khởi xướng không làm sao quên
được vậy.
Bách Trượng Hoài
Hải
Biên
Soạn Tại Núi Bách Trượng Vào Đời Đường Tại Hồng Châu
Tỳ Kheo
Nghi Nhuận chứng nghĩa, chùa Chân Tịch tại Hàng Châu
Trụ Trì
chùa Giới Châu Diệu Vĩnh duyệt lại tại Việt Thành vào đời Thanh
Ngày mồng 5 tháng 10
là lễ giỗ Sơ Tổ Đạt Ma.
Tự viện,
tòng lâm viết thông báo đọc trên đài, đăng báo hay dán tại trai
đường, phòng khách ở chùa. Thông cáo ở chùa viết như sau: "Ngày mai
là Lễ Kỷ Niệm Đạt Ma Lão Tổ thị tịch, tối nay và sáng
mai sau khóa lễ, nghe hiệu lệnh, đại chúng vân tập Tổ đường đảnh lễ
Tổ, trưa có cúng ngọ".
Chú ý:
quét tước lau chùi long vị Tổ, tượng thờ, bàn thờ, thay nước cúng;
sắm hoa quả tươi dâng cúng. Tối mồng 4, sau khi khóa lễ xong, Tri
Khách thỉnh 3 hồi chuông, chúng tề tựu vào bàn Tổ, Trụ Trì niệm
hương, xướng lễ:
-
"Nam Mô Tây Thiên Đông Độ Lịch Đại Tổ Sư",
-
"Nam Mô Đông Độ Truyền Giáo Truyền Giới Chư Vị Tổ Sư",
-
"Nam Mô Đông Độ Truyền Thừa Thiền Tông Sơ Tổ, Đạt Ma Đại Lão Tổ Sư".
Sau đó,
rót trà dâng cúng, đại chúng lễ 3 lạy, châm trà lạy 3 lạy; đọc
Chú Biến Thực, Cam Lồ, Phổ Cúng Dường v.v... Châm trà lần thứ 3,
đồng lạy 3 lạy rồi đại chúng lui ra.
Sáng
mồng 5, sau thời Kinh Lăng Nghiêm xong, đại chúng đến trước
bàn Tổ dâng hương đảnh lễ, dâng trà như hôm trước. Trụ Trì niệm
hương:
-
"Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát" (3 lần).
Duy Na
cử niệm:
-
"Nam Mô Thiền Tông Tông Chủ Bồ Đề Đạt Ma Tôn Giả" (3 lần).
Tiếp
theo, tụng Kinh Lăng Già A Bạt Đa La Bảo, phẩm tâm ngữ của
chư Phật: “Chẳng sanh câu sanh khắp, thường câu vô thường câu, sanh
tướng câu, vô sanh tướng câu; trụ khác câu, chẳng trụ khác câu; sát
na câu, phi sát na câu. Tự tánh câu, lìa tự tánh câu; không câu,
chẳng không câu. Đoạn câu, chẳng đoạn câu; biên câu, phi biên câu.
Trung câu, phi trung câu; thường câu, phi thường câu. Duyên câu, phi
duyên câu; nhân câu, phi nhân câu. Phiền não câu, phi phiền não câu;
ái câu, phi ái câu. Phương tiện câu, phi phương tiện câu; xảo câu,
phi xảo câu. Tịnh câu, phi tịnh câu; thành câu, phi thành câu. Thí
câu, phi thí câu; đệ tử câu, phi đệ tử câu. Sư câu, phi sư câu;
chủng tánh câu, phi chủng tánh câu. Ba thừa câu, phi ba thừa câu; sở
hữu câu, vô sở hữu câu. Nguyện câu, phi nguyện câu; 3 luân câu, phi
3 luân câu. Tiêu tướng câu, phi tiêu tướng câu; hữu phẩm câu, phi
hữu phẩm câu; cụ câu, phi cụ câu. Duyên do Thánh trí hiện pháp lạc
câu, phi hiện pháp lạc câu. Quốc độ câu, phi quốc độ câu; a câu, phi
a câu. Thủy câu, phi thủy câu; cung câu, phi cung câu. Thật câu, phi
thật câu; số câu, phi số câu. Thần thông số câu, phi thần thông số
câu. Minh câu, phi minh câu; hư không câu, phi hư không câu; mây câu,
phi mây câu. Công xảo kỹ thuật xứ sáng câu, phi công xảo kỹ thuật xứ
sáng câu. Gió câu, phi gió câu; đất câu, phi đất câu. Tâm câu, phi
tâm câu; thi thiết câu, phi thi thiết câu. Tự tánh câu, phi tự tánh
câu; âm câu, phi âm câu. Chúng sanh câu, phi chúng sanh câu; huệ câu,
phi huệ câu. Niết Bàn câu, phi Niết Bàn câu. Lửa bỏng câu, phi lửa
bỏng câu. Ngoại đạo câu, phi ngoại đạo câu; hoang loạn câu, phi
hoang loạn câu. Huyễn câu, phi huyễn câu; mộng câu, phi mộng câu.
Lửa hừng câu, phi lửa hừng câu. Voi câu, phi voi câu; xe câu, phi xe
câu. Kiền thác bà câu, phi kiền thác bà câu. Thiên câu, phi thiên
câu. Ăn uống câu, phi ăn uống câu. Dâm dục câu, phi dâm dục câu.
Thấy câu, phi thấy câu; ba la mật câu, phi ba la mật câu. Giới câu,
phi giới câu. Trời, trăng, sao câu, phi trời, trăng, sao câu. Chắc
thật câu, phi chắc thật câu. Quả câu, phi quả câu. Khởi diệt câu,
phi khởi diệt câu. Trị câu, phi trị câu. Xem tướng câu, chẳng xem
tướng câu. Chi câu, phi chi câu. Xứ xảo minh câu, phi xứ xảo minh
câu. Thiền câu, phi thiền câu. Mê câu, phi mê câu. Hiện câu, chẳng
hiện câu; Ủng hộ câu, chẳng ủng hộ câu. Tộc (giòng họ) câu, phi tộc
câu. Tiên câu, phi tiên câu. Vua câu, phi vua câu. Nhiếp thọ câu,
chẳng nhiếp thọ câu; Báu câu, phi báu câu. Ghi câu, phi ghi câu.
Nhứt xiển đề câu, phi nhứt xiển đề câu. Nữ nam chẳng phải nam câu,
phi nữ nam chẳng phải nam câu. Mùi câu, chẳng phải mùi câu. Việc câu,
chẳng phải việc câu; Thân câu, chẳng phải thân câu. Giác câu, chẳng
phải giác câu. Động câu, chẳng phải động câu. Căn câu, chẳng phải
căn câu; Hữu vi câu, phi hữu vi câu. Vô vi câu, phi vô vi câu. Nhân
quả câu, phi nhân quả câu; sắc cứu cánh câu, phi sắc cứu cánh câu.
Đốt (lóng đốt) câu, chẳng phải đốt câu. Rừng cây dây leo câu, chẳng
phải rừng cây dây leo câu. Tạp câu, chẳng phải tạp câu; Thuyết câu,
phi thuyết câu. Tỳ ni câu, phi tỳ ni câu. Tỳ kheo câu, phi tỳ kheo
câu. Xứ câu, phi xứ câu. Chữ câu, chẳng phải chữ câu”.
Luận về
huệ gồm 108 câu như thế, trước Phật đã nói:
- "Ngươi
cùng chư đại Bồ Tát cần nên tu học".
Tiếp
tụng Chú Biến Thực, Cam Lồ, Phổ Cúng Dường. Thời tụng kinh
này, Thầy Trụ Trì niệm hương, lạy 3 lạy, dâng trà, thức ăn. Cúng bàn
phía đông rồi đến bàn phía tây, quanh tới bàn thờ Tổ dâng cúng. Cúng
xong trở lại lễ 3 lạy, lại đốt thêm nhang, lạy 3 lạy. Đợi chư tăng
tụng xong, mời một thầy thuyết pháp. Bài pháp xong, Duy Na quỳ gối
chấp tay khấn bạch:
- "Cung
bạch Sơ Tổ xưa ở Tây Thiên, bằng một chiếc thuyền nang
tới khai hóa Đông Độ. Hân hạnh thay giáo pháp chánh truyền. Tiếp nối
dòng dõi của giác hoàng, hốt nhiên vô thánh, phá trừ mê mờ của nghĩa
học, trăm sông đổ ra biển hẳn khác dòng. Mặt trời hồng bám vào trời,
rỗng rang không đo được bóng hình, chỉ vào tâm người mà thành Phật.
Hợp diệu đạo phải quên lời đã làm cho đại chấn tông phong nên có
công rất lớn khi giáo huấn. Hiện ra như hoa Đàm nơi đời xấu ác, thật
là Vị Tổ giữ pháp khí thần châu Đại Thừa đến tận hậu lai. Nay
gặp ngày lễ nhập diệt, chúng con sắm chút lễ mọn, những mong tin lời
di huấn của Phật Tổ, sức gánh vác nghìn cân. Một bông hoa nở
ngoài mùa xuân phảng phất hương thơm vạn đợi. Cẩn bạch trải tấc lòng
thành kính ngưỡng mong chứng giám".
Đọc
xong, xá một xá rồi cử bài tán:
- "Đức Phật
giơ cành hoa
Tổ Ca
Diếp mỉm cười
Ý đạo
tỏ ngộ rồi
Hai
Mươi Tám Tổ kế thừa
Truyền
chánh pháp Như Lai
Tổ Tổ
mãi truyền lưu".
(Tinh
túy những bài tán Phật, Bồ Tát, tập I, trang 38, Pháp Bảo ấn tống
năm 2005 của T.B ảo Lạc dịch).
Chứng
nghĩa:
Sơ Tổ
người nam Thiên Trúc, con thứ 3 của Vua Hương Chí, giòng Sát Đế Lợi,
vốn tên là Bồ Đề Đa La. Sau khi gặp Tổ thứ 27, Bát Nhã Đa La tôn giả,
biết sư có điểm gì bí mật, nhân đó thử cùng với 2 anh luận việc bố
thí bảo châu. Tôn giả đã phát hiện được tâm yếu rằng:
- "Ngươi
ở trong các pháp đã được thông suốt. Luận Đạt Ma có nghĩa là
thông đại pháp nên Tổ đổi tên thành Đạt Ma. Nhân đổi tên là
Bồ Đề Đạt Ma nên Trung Hoa dịch là Giác Pháp".
Ngài
thưa tôn giả:
- "Con
đã đắc pháp nên đi đến xứ nào làm Phật sự; mong ân sư từ bi chỉ giáo
?
Tổ
đáp:
- "Con
tuy đắc pháp nhưng chưa thể đi xa được. Vả ở lại Nam Thiên (Ấn) đợi
sau khi Ta tịch diệt 60, 70 năm nên qua nước Chấn Đán thiết lập đại
pháp trực tiếp giúp kẻ thượng căn. Cẩn thận chớ đi xa về sau sẽ suy
kiệt".
Đời
Lương niên hiệu Phổ Thông năm thứ 8 nhằm năm Đinh Mùi (520), Ngài
vượt Nam Hải đến Quảng Châu, thứ sử Tiêu Ngang dâng biểu cho Vua Võ
Đế cho sứ nghinh tiếp. Ngày mồng 1 tháng 10 Ngài đến Kim Lăng cùng
đàm đạo với nhà vua nhưng không hợp. Ngày mồng 9 tháng 10 Ngài qua
đất Giang Bắc. Ngày 23 tháng 11 Ngài vào Lạc Dương lúc đó nhằm đời
Ngụy Hiếu Minh niên hiệu Thái Hòa, năm thứ 10, dừng lại ở chùa Thiếu
Lâm núi Cao Sơn và ngồi xoay mặt vào vách tọa thiền. Suốt ngày Ngài
làm thinh, người đời khó hiểu nên gọi là Bích Quán Bà La Môn(1).
Lúc đó
tại Chấn Đán kẻ có học chấp tướng phần nhiều kẹt vào danh tướng.
Trong số người có học lại chú mục vào tôn chỉ, Tổ nêu tướng
chỉ tâm không ai lãnh hội được. May gặp Thần Quang chặt cánh
tay cầu an tâm, Ngài truyền y bát và dạy tụng Kinh Lăng
Già lấy đó làm tâm ấn. Thái Hà năm thứ 19 ngày 5 tháng 10 năm
Bính Thìn, Ngài ngồi kiết già ngay ngắn mà viên tịch.
Cùng năm đó, lễ an táng Ngài tại núi Hùng Nhỉ vào ngày 28
tháng 12 và khởi sự việc xây tháp tại chùa Định Lâm.
Về sau
này vào đời Hậu Ngụy, Tống Vân đi sứ về gặp Tổ tại
Thông Lãnh, vai quảy một chiếc giày hướng phía Tây mà đi. Tới Đường
Ích Viên Giác đại sư đề tháp là Không quán, nay trên tháp còn ghi
lời Kinh tụng Lăng Già 108 câu, là tâm yếu của thiền tông.
Tiếng
Phạn Lăng Già, Trung Hoa dịch là không thể trở lại. Nghĩa rõ
ràng là cảnh giới, thánh trí, thiền tông tự giác, lìa tâm vọng tưởng,
ý thức, chẳng phải tà trí có thể đạt được.
Tiếng
Phạn A Bạt Đa La, Trung Hoa dịch là Vô Thượng, có
nghĩa là biết rất rốt ráo, không còn gì trên nên gọi là bảo. Hết
thảy chư Phật qua tâm ngữ mà chỉ có Phật với Phật hiểu nhau. Một là
tất cả nên chỉ lấy một Kinh làm sáng tỏ. Hiểu rõ nghĩa của tâm, tức
hiểu nghĩa trực chỉ của Đạt Ma, cũng hiểu ý nghĩa giơ cành
hoa của Đức Thế Tôn. Như nói:
- "Niết
Bàn diệu tâm là để phó chúc cho Tổ thứ 2 mà Kinh Lăng Già
quyển 4 nêu làm tâm ấn". Nay lấy 108 câu dựa theo lời Đức Thế Tôn
đáp chung chỗ Ngài Đại Huệ đã hỏi. Trong mỗi câu đều có nửa
câu trên, nêu hỏi tướng; nửa câu dưới tùy đó quét sạch mối nghi. Dựa
tâm chân như quét sạch hết các tướng nên đều gọi là phi, là vô, là
lìa. Nói chung ngoài cái tâm này, không pháp có thể thuyết, khiến
người tin sâu để tu học như những câu Kinh tụng ở trên cũng giống ý
ở đây vậy.
Ngài
Kính Sơn Diệu Hỷ nói rằng:
- "Hậu
duệ của thiền, ban đầu do từ Đức Thế Tôn giơ cành hoa tại hội
Linh Sơn chỉ Ca Diếp mĩm cười. Thế Tôn nói:
- “Ta
có chánh pháp nhãn tạng Niết Bàn diệu tâm, nay phó chúc cho ngươi”.
Do đấy
từ đời này sang đời kia truyền thọ nhưng đến đời Đạt Ma, Đạt Ma
đến Trung Quốc chủ trương không lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, thấy
tánh thành Phật, đó là thiền tông vậy. Cũng như nói:
- "Luận
Thiền cùng giáo, luật vốn là một thể".
Ví như
trăm sông nước đều quy về biển mà không khác vị (vị mặn). Nếu các
nhà giáo - luật chỉ chấp văn tự, lời nói hẳn không đạt ý chỉ
gốc-ngọn. Như thiền tông dù tọa thiền nhưng bỏ bồ đoàn chưa hẳn
chứng ngộ, cũng là ngọn vậy. Căn cứ theo đó cho thấy thiền, giáo,
luật khác tông nhưng đồng gốc chẳng phải hợp nhau chỗ chứng ngộ sao?
Ngày 29 tháng giêng
âm lịch là Lễ Kỵ Tổ Bách Trượng.
Nghi
thức giống như cúng Tổ Đạt Ma. Trước hết cử tán:
-
"Nam Mô Nam Nhạc Nhị Thế Bách Trượng Hoài Hải Thiền Sư Giác Linh
Thùy Từ Chứng Giám" (3 lần).
Tiếp
theo tụng Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Phạm Hạnh như:
- "Lúc
đó Thiên Tử Chánh Niệm, thưa Bồ Tát Pháp Huệ rằng:
- "Thưa
Phật tử, hết thảy thế giới các chúng Bồ Tát y lời dạy của Phật, bỏ
thói nhiễm xuất gia, làm sao đạt phạm hạnh thanh tịnh, từ địa vị Bồ
Tát nhanh đạt đạo Bồ Đề?"
Pháp
Huệ Bồ Tát đáp:
- "Này
Phật tử, đại Bồ Tát tu phạm hạnh phải lấy 10 pháp làm điểm tựa, ý
nghĩa, quán sát gọi là nương nơi thân: thân nghiệp; nơi miệng: khẩu
nghiệp; nơi ý: ý nghiệp. Phật, Pháp, Tăng, giới nên quán xét như thế
lấy thân là phạm hạnh ư? Cho đến giới là phạm hạnh ư? Nếu thân là
phạm hạnh nên biết phạm hạnh như thế là chẳng thiện, là vì chẳng
phải pháp, là vì nhơ nhiễm, vì xấu ác, bất tịnh, đáng che dấu, vì
trái nghịch, vì tạp nhiễm, là như thây chết, là vì vi trùng nhóm.
Nếu thân nghiệp là phạm hạnh, thế thì phạm hạnh là đi - đứng - nằm -
ngồi; ngó trông 2 bên; co - duỗi – cúi - ngước. Nếu khẩu là phạm
hạnh thì phạm hạnh ấy là tiếng nói, hơi thở, môi, lưỡi, cổ họng, súc,
nhổ, đưa vào, vặn ép, ngang, cao, thấp, trong, đục. Nếu ngữ nghiệp
là phạm hạnh thì phạm hạnh ấy là đứng dậy, hỏi han, nói hẹp, nói
rộng, nói thí dụ, nói thẳng, khen, chê, nói an lập, nói theo tục,
nói rõ ràng… Nếu ý là phạm hạnh thì phạm hạnh phải là giác, là quán,
là phân biệt, nhiều loại phân biệt, là niệm nhớ, đủ thứ nghĩ ngợi,
suy tư, đủ thứ suy tư, là hư ảo, là mơ ngủ… Nếu ý nghiệp là phạm
hạnh nên biết phạm hạnh ấy là tư tưởng lạnh, nóng, đói, khát, khổ,
vui, lo, mừng… Nếu Phật là phạm hạnh, thế Sắc là Phật ư? Thọ là Phật?
Tưởng là Phật? Hành là Phật? Thức là Phật ư? Tướng là Phật sao? Tốt
là Phật ư? Thần thông là Phật? Nghiệp hành là Phật ư? Quả báo là
Phật ư? Nếu Pháp là phạm hạnh, như thế tịch diệt là pháp ? Niết Bàn
là pháp ? Bất sanh là pháp ư? Bất khởi là pháp? Bất khả thuyết là
pháp? Vô phân biệt là pháp ? Không chỗ hành là pháp ? Không nhóm họp
là pháp sao? Không tùy thuận là pháp ư? Không chỗ đắc là pháp ư? Nếu
Tăng là phạm hạnh thời lấy quả dự lưu hướng là Tăng? Dự lưu quả là
Tăng? Nhứt lai hướng là Tăng? Nhứt lai quả là Tăng? Bất hoàn hướng
là Tăng ư? Bất hoàn quả là Tăng sao? A La Hán hướng là Tăng ? A La
Hán quả là Tăng ư? Ba món minh(2) là Tăng? Sáu phép thong(3) là Tăng
ư? Nếu giới là phạm hạnh như vậy lấy đàn tràng làm giới ư? Vấn thanh
tịnh là giới ? Dạy oai nghi là giới sao? Hỏi ba lần bạch yết
ma(4) là giới ư? Hòa Thượng là giới sao? A Xà Lê(5) là giới
sao? Cạo tóc là giới ư? Mặc đắp y ca sa là giới? Khất thực là giới?
Sống nghề chân chánh là giới ư?
Đã quán
xét như thế không chấp thủ thân, không chỗ vướng buộc tu, không trụ
nơi pháp. Quá khứ đã qua, vị lai chưa đến, hiện tại vắng lặng, không
có người tạo nghiệp, không kẻ thọ báo. Đời này không di động, biến
đổi, trong đó pháp nào là phạm hạnh? Phạm hạnh từ đâu đến? Ai là kẻ
sở hữu? Thể nó là gì? Do ai tạo thành mà có? Đó là không, là sắc, là
phi sắc, là thọ, phi thọ, là tưởng, phi tưởng, là hành, phi hành, là
thức, phi thức. Quán xét như thế cho thấy rằng phạm hạnh không thể
đạt được. Các pháp 3 thời đều vắng lặng nên ý không chấp bám, tâm
không chướng ngại, việc làm không hai nên phương tiện tự tại. Thọ vô
tướng nên quán pháp không tướng để biết Phật pháp bình đẳng. Vì hết
thảy đều là Phật Pháp và như thế gọi là phạm hạnh thanh tịnh".
Tiếp
theo tụng Chú Biến Thực, Cam Lồ, Phổ Cúng Dường như
nghi cúng Kỵ Tổ Đạt Ma. Chỉ thay đổi lời bạch:
- "Cung
kính nghe rằng một lời vì thiên hạ ban pháp trong đó có qui củ phép
tắc thì muôn đời biết tôn sư trọng đạo, có kỷ có cương (mối giềng)
lấy lễ nhạc tòng lâm làm thạnh; phép toán làm phát long tượng; thiền
giáo cùng đeo đuổi sự phong phú, vẹt đá tảng hưởng lộc trời. Kinh
luật đều nhuần nhuyễn như nén vàng thoi ngọc; đáng nên bồi đắp tổ
thiền lấy tế tự nên tuân ngày húy nhựt mà cúng kiến".
Lại
nguyện:
- "Không
bỏ tục đế cảm được thân thanh tịnh, tiếp nối khêu đèn trí soi sáng
đêm tăm tối".
Bạch xong, xá 1
xá; Duy Na cử tán, đại chúng hòa theo:
- "Bực thầy
thiên hạ, truyền bá chánh tông
Tuy tu
diệu hạnh trụ pháp chân không
Thiền,
luật làu thông
Muôn
đời làm chấn song
Bách
Trượng tông phong".
Nam
Mô Nam Nhạc Nhị Thế Bách Trượng Hoài Hải Tồ Sư (tam bái).
Ngoài
ra, theo như nghi thức cúng Tổ Đạt Ma.
Chứng
nghĩa ghi rằng:
Nơi bàn
thờ Tồ, chính giữa thờ Tổ Đạt Ma, bên trái Tổ Bách Trượng,
bên phải Tổ Khai Sơn. Tuy do tăng già qui định, nhưng
chỉ có thiền tông theo đúng như vậy.
Trong
khi Luật tông, chính giữa thờ Tổ Đàm Vô Đức, bên trái Tổ
Đạo Tuyên, bên phải Tổ Khai Sơn.
- Tông
Sám Ma, ở giữa thờ Ngài Chí Công, bên trái Ngài Ngộ Đạt, bên phải Tổ
Khai Sơn.
- Tông
Thiên Thai, chính giữa thờ Tổ Long Thọ, bên trái Tổ Trí Giả, bên
phải Tổ Khai Sơn.
- Tông
Hiền Thủ, chính giữa thờ Ngài Đỗ Thuận, bên trái Ngài Hiền Thủ, bên
phải Tổ Khai Sơn.
- Tông
Từ Ân, chính giữa thờ Ngài Huyền Trang, bên trái Ngài Khuy Cơ, bên
phải Tổ Khai Sơn.
- Tông Pháp
Tánh, ở giữa thờ Ngài Tăng Triệu, bên trái Ngài Đạo An, bên phải Tổ
Khai Sơn.
- Mật
tông chính giữa thờ Ngài Kim Cang Trí, bên trái thờ Ngài Đại Quảng
Trí, bên phải thờ Tổ Khai Sơn.
- Tông
Phiên Dịch chính giữa thờ Ngài Ca Diếp Ma Đằng, bên trái Ngài Trúc
Pháp Lan, bên phải thờ Tổ Khai Sơn.
- Tông
Tịnh Độ chính giữa thờ Tổ Huệ Viễn, bên trái thờ Tổ Ưu Đàm, bên phải
thờ Tổ Khai Sơn.
Cách
thờ tự như thế mới làm nổi bật các nhà lập phái, 10 hệ phái không
hơn mà các ngày cúng giỗ có ghi đầy đủ trong các sách như Cao Tăng
truyện v.v.. Người nào muốn hiểu rộng nên tự tìm tòi, mong mỏi thay!
Thờ Tổ từ lâu nay đã lâu mất dần tôn chỉ, nội việc cúng cũng không
biết Tổ nào? Cúng ngày nào? Vong bản đến thế, Phật Pháp làm sao hưng
long chứ?
Tổ
Bách Trượng thực hành đã nói rõ nguyên nghĩa ở trước, nên ở đây
không lặp lại nữa. Nay chỉ nói tụng Kinh phẩm Phạm Hạnh,
điều Thanh Quy Chương 9. Thực hành tuy không giống nhau,
nhưng chung vẫn là giữ giới, ngăn lỗi là hình thức các tông giống
nhau. Lấy vô sở đắc quán tự tánh; quán lý nếu sáng tỏ; phạm hạnh tự
tịnh. Tâm thuần là pháp cùng với pháp ứng hợp nhau; đó là không bị
trần cảnh làm chướng ngại. Sự và lý tu song hành, chân và tục không
hai thì một phẩm Phạm Hạnh đây thật là hữu ích trợ duyên tu thiền
cũng như trợ lực Thanh Quy vậy. Không phải chỉ dâng cúng tụng kinh
mà có khi cũng còn cần nên tham cứu lời Tổ dạy nữa.
Ngày 24 tháng 11 là
Lễ giỗ Tổ Thiên Thai Trí Giả Đại Sư.
Nghi
thức giống như cúng Tổ Đạt Ma. Trước hết niệm:
-
"Nam Mô Thiên Thai Tông Chủ Trí Giả Đại Sư"
(3 lần).
Tụng
Kinh Pháp Hoa, kệ Như Lai Thọ Lượng:
- "Từ khi
Tôi thành Phật
Trải
qua vô số kiếp
Vô
lượng trăm nghìn vạn
Ức a
tăng kỳ kiếp
Thường
thuyết pháp giáo hóa
Độ vô
số chúng sanh
Khiến
nhập vào Phật đạo
Đến nay
vô lượng kiếp
Vì độ
thoát chúng sanh
Phương
tiện nhập Niết Bàn
Mà thật
không diệt độ
Trụ cõi
này thuyết pháp
Ta
thường trụ ở đây
Dùng đủ
lực thần thông
Khiến
chúng sanh điên đảo
Dù gần
mà chẳng thấy
Nếu
thấy Ta nhập diệt
Rộng
cúng dường xá lợi
Mà sanh
tâm khát ngưỡng
Chúng
sanh đã tín phục
Chân
thật ý nhu hòa
Nhất
tâm muốn thấy Phật
Không
tự mến tiếc thân
Lúc ấy
Ta cùng Tăng
Ra khỏi
núi Linh Sơn
Ta hay
bảo mọi người
Thường
ở đây bất diệt
Vì dùng
sức phương tiện
Hiện có
diệt không diệt
Các cõi
có chúng sanh
Kẻ ưa
kính tín thành
Ta lại
tới nơi đó
Thuyết
pháp độ thoát họ
Các
ngươi không nghe rõ
Nên
nghĩ Ta diệt độ
Ta thấy
các chúng sanh
Chìm
ngụp trong khổ não
Vì thế
chẳng hiện thân
Họ sanh
lòng khát ngưỡng
Do có
tâm mến tưởng
Mới nói
pháp thật tướng
Lực
thần thông như thế
Trải
qua vô số kiếp
Thường
tại núi Linh Thứu
Và tại
những nơi khác
Chúng
sanh thấy kiếp hết
Lúc hỏa
tai thiêu sạch
Cõi này
Ta an lạc
Trời
người thường hân hoan
Vườn
rừng cùng lầu các
Bằng
vật báu trang nghiêm
Cây báu
sai hoa quả
Chúng
vui chơi sẵn sàng
Chư
thiên đánh trống trời
Những
kỹ nhạc thường trổi
Rải hoa
Mạn Đà La
Cúng
Phật cùng đại chúng
Tịnh Độ
Ta chẳng diệt
Nhưng
chúng thấy thiêu sạch
Luôn
khổ não sợ sệt
Đầy dẫy
việc như trên
Do ác
nghiệp nhân duyên
Tội báo
chúng gây nên
Qua vô
số kiếp liền
Không
nghe tên Tam Bảo
Công
đức những ai tạo
Tâm nhu
hòa chánh trực
Đều
được thấy thân Ta
Đang
hiện thân thuyết pháp
Hoặc có
lúc vì chúng
Nói
Phật thọ vô lượng
Kẻ lâu
không thấy Phật
Bèn cho
Phật khó gặp
Trí lực
Phật như thế
Tuệ
quang chiếu khắp cùng
Thọ
mạng không thể lường
Nhân tu
lâu chứng được
Kẻ trí
các người thường
Chớ
sanh tâm nghi tưởng
Phải
dứt nghi vĩnh viễn
Lời
Phật thật không dối
Như
lương y phương tiện
Chữa
trị đứa con hoang
Cha
sống mà nói chết
Lời này
chẳng dối gian
Ta cũng
như người cha
Cứu
thoát bao khổ nạn
Vì phàm
phu điên đảo
Ta còn,
nói thác oan
Những
ai thường thấy Phật
Mà sanh
lòng kiêu căng
Buông
lung theo ngũ dục
Rơi vào
đường xấu ác
Ta cũng
biết các hạng
Tu tập,
kẻ chẳng tu
Tùy đó
mà độ họ
Nói
pháp hợp căn cơ
Mỗi
loài tự nghĩ suy
Tự biết
phải làm gì
Đạt
được vô thượng trí
Mau
thành Phật uy nghi".
Tiếp
theo tụng Chú Biến Thực, Cam Lồ, Phổ Cúng Dường v. v…
như nghi thức cúng Tổ Đạt Ma, tuy chỉ thay đổi lời bạch như
sau:
- "Cung
kính nghe rằng, Đức Như Lai một đời giáo hóa, đời sau nhắc
lại các triết thuyết đã tuyên dương. Chúng sanh 6 thức mê lầm,
ngưỡng trông bậc đạo sư giác ngộ. Vì vậy, Ngài hóa hiện nơi
cõi người, giáng sanh chỗ phức tạp, phồn hoa. Thánh đức đủ đầy, mộng
thấy khói hương 5 sắc; thần kỳ hiện tướng; phẩm cách phi thường.
Tụng Pháp Hoa mà vào định, thấy Linh Thứu hiển bày, cảm kích
Kim Lăng, thoát áo quan mà thuyết pháp; thân cao chót vót ở
chóp đài nơi đất vàng để chuyển pháp luân. Từ đây giáo pháp truyền
thừa muôn đời không dứt, còn lại sắc thân thị tịch, 5 uẩn tạm nương.
Nay nhân lễ húy nhật, sắm sửa lễ phẩm cúng dường, ngưỡng mong chiếu
giám, làm điểm sáng cho người sau".
Tiếp
theo đại chúng cùng tán:
- "Linh Sơn
phó chúc,
Kim
khẩu truyền thừa,
Như Lai
giao trọng nhiệm đảm đương,
Ba quán
tỏ tường soi chiếu,
Tổ Tổ
kế lưu truyền,
Đèn
pháp mãi sáng vô biên".
Nam
Mô Thiên Thai Tông Chủ Trí Giả Đại Sư (3 lạy).
Chứng
nghĩa ghi rằng:
Tông
chủ Thiên Thai là Ngài Trí nghiễm, tự là Đức An, họ Trần nguyên quán
tại Dĩnh Xuyên. Cha làm lương tán kỵ từ Dương Công Trần, mẹ họ Từ.
Sự tích cuộc đời Ngài xem Tục Cao Tăng truyện, quyển 21 và sách
riêng có đăng tải. Ngài tịch ngày 24 tháng 11 năm Khai Hoàng 17 đời
Tùy, hưởng thọ 67 tuổi. Căn cứ theo việc tụng Kinh Pháp Hoa
của Ngài Phẩm Dược Vương đến câu:
- "Là
chân thật tinh tấn
Gọi là
chân pháp cúng
Cúng
dường Đức Như Lai".
Hốt
nhiên đại ngộ chứng được Pháp Hoa tam muội, tinh hoa của
Kinh Pháp Hoa, bình luận một đời Phật giáo hóa và dẫn phẩm Tín
Giải để phân định 5 thời thuyết giáo. Quan trọng ở chỗ Như Lai
phóng một đạo hào quang trắng ánh sáng thấu đến 10 pháp giới, 6 độ
vạn hạnh, cho nên nói tri kiến Phật sớm đã quay lượn bay đi. Do
trong chúng không ngộ nên Xá Lợi Phất ba lần thỉnh Phật
thuyết pháp. Phật vì khai quyền hiển thật mà khai khẩu nói pháp do
một đại sự nhân duyên duy nhất Ngài xuất hiện ra đời. Đó là không
ngoài khai thị chúng sanh tỏ ngộ tri kiến Phật, đến phẩm Như Lai
thọ lượng này nói đến tột cùng nguồn chơn, vì mọi người mà phá
nốt. Song Phật, hiện Niết Bàn mà Ngài Trí Giả cũng hiện diệt
độ. Nay là ngày lễ kỷ niệm Ngài, đại chúng tụng phẩm
Kinh này chính để cho thấy rõ không phải chỉ vì Phật, Tổ mà không
nhập Niết Bàn. Vậy nên phàm phu chúng ta đã từng ở trong sanh tử lâu
dài. Người bị khổ luân hồi trong sanh tử bèn vọng tưởng là do nhân
duyên. Nếu lìa vọng tưởng vốn hiện 3 thân, bốn trí, Niết Bàn, sanh
tử sánh như không hoa, do tụng phẩm Kinh này mà được mở bày ngộ tri
kiến Phật.
4.4 Lễ Kỵ
Ngài Pháp Sư Hiền Thủ
Ngày 14 tháng 11 Lễ
Kỵ Tông Chủ Hiền Thủ, là Quốc Nhất, là tằng Tổ kỵ.
Nghi
thức giống như cúng Tổ Đạt Ma:
-
"Nam Mô Hiền Thủ Tông Chủ Quốc Nhất Pháp Sư" (3 lần).
Tiếp
theo tụng Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, phẩm Như
Lai xuất hiện ra:
- "Này
Phật tử, Đại Bồ Tát phải làm sao để biết Như Lai Chánh Đẳng giác
nhập Niết Bàn? Này Phật tử, đại Bồ Tát muốn biết Như Lai nhập đại
niết bàn cần phải biết rõ tự tánh căn bổn chân thật NHƯ là Niết Bàn,
Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như thật tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn
cũng thế. Như pháp giới Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như hư
không Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như pháp tánh Niết Bàn,
Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như ly dục Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn
cũng thế. Như vô tướng tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như
ngã tánh tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như hết thảy pháp
tánh tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như chân như tế Niết
Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Tại sao? Vì Niết Bàn không sanh
không xuất. Nếu pháp không sanh, không xuất thì không có diệt.
- "Này
Phật tử, Như Lai không vì Bồ Tát mà nói Niết Bàn rốt
ráo của Như Lai cũng không vì sự thị hiện kia mà nói Niết Bàn.
Tại sao? Vì muốn làm chúng sanh thấy tất cả thường trụ của Như
Lai về trước, trong một niệm thấy Chư Phật quá khứ, vị
lai sắc tướng tròn đầy như hiện tại; cũng không khởi hai chẳng nhị
tưởng. Tại sao? Vì Đại Bồ Tát xa lìa hết thảy mọi chấp tướng.
Này Phật tử, Chư Phật Như Lai vì làm cho chúng sanh sanh tâm
hân hoan mà xuất hiện ra đời, muốn làm cho chúng sanh có lòng luyến
mộ mà hiện Niết Bàn nhưng thật Phật không có ra đời cũng
không Niết Bàn. Tại sao? Vì Phật thường trụ cảnh giới thanh tịnh,
tùy theo tâm chúng sanh mà thị hiện Niết Bàn.
- "Này Phật
tử, ví như mặt trời mọc chiếu sáng khắp thế gian, vào nơi tất cả đồ
chứa nước sạch mà không hiện bóng. Này Phật tử, ý ông nghĩ sao, bóng
mặt trời không hiện là mặt trời có lỗi không?"
Đáp:
-
"Không có
lỗi. Chỉ do đồ chứa hư (bể) không phải lỗi ở mặt trời".
- "Này Phật
tử, trí Như Lai cũng như thế, chiếu sáng khắp pháp giới không có
trước sau. Tất cả chúng sanh tâm lắng thanh tịnh, Phật hiện thân
ngay; tâm tánh thường lóng trong luôn thấy Phật hiện. Nếu tâm dơ vật
hỏng không thấy Phật".
- "Này
Phật tử, nếu có chúng sanh phải dùng Niết Bàn mà độ đó Phật hiện
Niết Bàn, nhưng thật Như Lai không sanh không diệt, không có diệt độ.
Này Phật tử, thí dụ như lửa cháy lớn khắp hết thế gian, ai cũng phải
lo chữa cháy hoặc có nơi một lúc, lửa liền tiêu hết. Ý Ông nghĩ thế
nào, tất cả lửa thế gian đều dứt hết chăng?"
Đáp:
- "Không thể
dứt hết".
- "Này Phật
tử, Như lai hiện Chánh Đẳng giác cũng lại như thế, trong các thế
giới làm các Phật sự hoặc nơi một thế giới làm việc xong mới thị
hiện Niết Bàn; đâu phải các thế giới chư Phật Như Lai đều diệt độ
hết cả đâu! Này Phật tử, đại Bồ Tát phải biết như thế, Như Lai hiện
Chánh Đẳng giác, nhập đại Niết Bàn. Lại này Phật tử, ví như huyễn sư
khéo làm trò huyễn thuật, vì lực huyễn thuật trong hết thảy mọi quốc
độ ở 3000 đại thiên thế giới nào thành ấp, xóm làng hiện thân huyễn.
Vì duy trì lực huyễn trải qua kiếp số mà tồn tại, nhưng nơi các xứ
khác việc huyễn đã xong, huyễn sư ẩn thân không hiện".
Này
Phật tử, ý Ông nghĩ thế nào, đại huyễn sư kia đâu phải ở một nơi ẩn
thân không hiện mà làm cho tất cả mọi nơi đều diệt hết sao?
Đáp:
- "Không
phải như vậy".
- "Này Phật
tử, Như Lai hiện Chánh Đẳng giác cũng lại như thế. Khéo biết vô số
trí phương tiện bằng mọi huyễn thuật trong các cõi mà hiện thân khắp
nơi; giữ cho luôn tồn tại đến vị lai tế hoặc ở một nơi, tùy theo tâm
chúng sanh mà làm việc xong lại thị hiện Niết Bàn. Đâu có thể lấy
một nơi nhập Niết Bàn mà cho là tất cả đều diệt độ. Này Phật tử, đại
Bồ Tát phải biết như thế, Như Lai hiện Chánh Đẳng giác, đại Niết Bàn.
Lại này Phật tử, Như Lai hiện Chánh Đẳng giác lúc hiện Niết Bàn nhập
bất động tam muội, khi vào tam muội này trong mỗi mỗi thân đều phóng
ra vô lượng trăm nghìn ức vô số ánh sáng lớn; mỗi ánh sáng đó xuất
vô số lượng hoa sen. Mỗi hoa có vô số nhụy hoa báu, mỗi nhụy hoa có
một tòa sư tử. Trên mỗi tòa sư tử đều có Phật ngồi kiết già thiền
định, các đức Phật phân thân vô số hợp với số chúng sanh đều đầy đủ
công đức trang nghiêm. Do bổn nguyện lực phát sanh, nếu có chúng
sanh thiện căn thuần thục thấy được thân Phật đều được Phật giáo hóa.
Song thân Phật kia ở trong ngằn mé đời vị lai hoàn toàn an trụ tùy
cơ hóa độ hết thảy chúng sanh chưa từng thôi nghỉ. Này Phật tử, thân
Như lai không ở một phương sở nào, chẳng thật chẳng hư, chỉ vì bổn
thệ nguyện chư Phật mới kham độ chúng sanh, bèn xuất thế. Đại Bồ Tát
phải biết như thế, Như Lai hiện Chánh Đẳng giác đại Niết Bàn. Này
Phật tử, Như Lai trụ trong vô số pháp giới, an ổn vô ngại cõi hư
không, chân như pháp tánh không sanh không diệt. Và vì thật tế, vì
chúng sanh tùy lúc thị hiện để duy trì bổn nguyện không có chấm dứt;
không bỏ chúng sanh, cõi nước và các pháp".
Tiếp
theo tụng Chú Biến Thực, Cam Lồ, Phổ Cúng Dường như
nghi cúng Tổ Đạt Ma, chỉ thay đổi lời bạch:
- "Cung
kính nghe rằng pháp sư, theo dấu Thiên Thai tôn xưng Hiền Thủ, là
Tông chủ tông Hoa Nghiêm, thành một nhà giáo quán. Nhưng một tôn chỉ
ở Kỳ Châu muốn ngộ Phật thừa, giảng pháp đại thừa vào đời Đường bọn
tả đạo hồi tâm. Từ đó 10 tông thành lập, 5 phái thường còn làm kim
chỉ nam của ngàn sau, làm thầy dạy pháp cho muôn đời… Nay gặp ngày
húy nhựt Ngài xin phụng hiến hương hoa cúng dường kỷ niệm. Lại
nguyện, đèn trí sáng soi mãi mãi, ấn Tổ rạng ngời, xin gia hộ cho
người sau tiếp tục duy trì tông phong lâu dài".
Bạch
xong, đại chúng cử tán bài:
- "Lành thay Hiền Thủ
Mô phạm
muôn đời
Bao năm
lập nguyện truyền thừa
Chí cầu
pháp mạch sâu
Trước
thuật mãi truyền lưu
Chớ bàn
chỗ thậm huyền."
Nam
Mô Hiền Thủ Tông Chủ Quốc Nhất Pháp Sư (3 lạy).
Chứng
nghĩa ghi rằng:
Tông
Chủ húy là Pháp Tạng, tự Hiền Thủ, Vua phong là Ích hiệu Quốc Nhất,
là Tổ thứ 3 tông Hoa Nghiêm ở Đông Độ. Ngài họ Khương, người nước
Khương Cư sanh ngày mồng 2 tháng 11 năm Trinh Quán thứ 17 đời Đường,
cùng với ngài Thiên Thai Trí Giả trước sau gần 200 năm, chuyên giảng
Kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm có 1 phẩm là Hiền Thủ, lại là trong
10 vị Bồ Tát có một vị tên Hiền Thủ. Nên lấy 2 chữ Hiền Thủ đặt pháp
tự; cũng như lấy chữ này thành lập tông. Cũng giống lập giáo quán
tông Thiên Thai có chỗ đại đồng tiểu dị. Phần Kinh tụng ở trên, phẩm
Như Lai xuất hiện chương Niết Bàn, lấy lời dạy chính của Phật thành
lập tông, mà nay việc cúng giỗ thích nghi vậy. Tông Thiên Thai dùng
Kinh Pháp Hoa phẩm Thọ Lượng cũng là ý này.Về sau ngày giỗ kỵ tụng
Kinh phần nhiều tụng Tâm Kinh, chú vãng sanh hoặc tụng Kinh A Di Đà,
nếu cúng trước linh của người thế tục. Như các bậc Tổ Sư cao tăng
sớm đã ra khỏi 3 cõi đâu có như phàm phu mà cầu siêu độ ư? Cho nên
đối với chư Tổ mỗi vị tùy theo tông phái mà tụng niệm cho thích hợp.
Như Tổ Thiền Đạt Ma ở trước tụng 108 câu Kinh Lăng Già, lấy tâm ấn
thiền tông, không như 108 câu ở đây. Tổ Bách Trượng ở trước tụng
phẩm Phạm Hạnh, Kinh Hoa Nghiêm lấy chỗ giống với Thanh Quy. Lại như
Đạo Tuyên luật sư tụng bài kệ Kinh Phạm Võng; Liên Xã Tổ Huệ Viễn
tụng chương Đại Thế Chí.
Ngăn
các môn phái không đặt lẫn lộn cho con cháu, dễ nắm rõ mỗi tông về
tôn chỉ riêng mà sự linh hiển của chư Tổ cũng gia tăng theo sự yêu
thích riêng. Ý nghĩa chung không đặt thẳng thừng, theo danh tham
khảo thích hợp cơ nghi. Tuy mới bổ túc cho lớp sau, nhưng cúng chư
Tổ cũng phải giữ nguyên kế tục như trước như mỗi phái đã có quy định.
4.5 Giỗ
Đạo Tuyên Luật Sư
Ngày mồng 3 tháng 10
Lễ giỗ Nam Sơn tông chủ, Đạo
Tuyên Luật Sư.
Nghi
thức giống như cúng Tổ Đạt Ma. Trước tiên cử tán:
-
"Nam Mô Nam Sơn Tông Chủ Đạo Tuyên Luật Sư"
(3 lần).
Tiếp
theo tụng Kinh Phạm Võng, bài kệ Phẩm Bồ Tát tâm địa
rằng:
- "Người
sáng nhẫn huệ mạnh
Trong
lúc đạo chưa thành
Hay giữ
được pháp này
Đạt
được năm điều lợi:
Một là
mười
phương Phật
Thương
tưởng hộ niệm luôn
Hai là
lúc mạng chung
Chánh niệm
tâm hoan hỷ
Ba là
sanh chỗ nào
Bồ Tát
kết bạn lữ
Bốn là
nhóm công đức
Giới độ
đều thành tựu
Năm là
đời này, đời sau
Phước
huệ trọn đầy đủ".
Như thế,
này chư Phật tử, kẻ trí khéo suy nghĩ: người nào ưa chấp ngã trước
tướng không có khả năng tin pháp này. Người thọ diệt chấp chứng đắc
cũng không hạ quyết tâm gieo căn lành; muốn nảy mầm Bồ Đề sáng soi
rọi thế gian, phải nên quán sát kỹ. Các pháp tướng chân thật, không
sanh cũng không diệt; không thường cũng không đoạn; không một cũng
không khác; không đến cũng không đi; trong thể nhứt tâm ấy, phương
tiện để trang nghiêm. Chỗ đáng làm của Bồ Tát cần phải tuần tự
học, nơi học nơi vô học, chớ sanh tướng phân biệt. Đó gọi là đệ nhứt
đạo, cũng gọi là ma ha diễn; hết thảy ác hý luận, ắt theo đó mà tiêu
diệt. Chư Phật tướng vắng lặng, hẳn từ đây ra. Vì thế chư Phật tử,
nên phát tâm đại dũng mãnh nơi tịnh giới chư Phật gìn sạch như minh
châu. Chư Bồ Tát quá khứ cũng đã học như thế, và vị lai sẽ học, hiện
tại nay đang học. Đây là Phật hành xứ, bậc thánh chúa xưng tán. Ta
đã tùy thuận nói phước đức, nhóm không lường đem ban cho chúng sanh,
cùng hướng tới nhứt thiết trí. Nguyện người nghe pháp này, chóng đạt
thành Phật đạo.
Tiếp
theo tụng Chú Biến Thực, Cam Lồ, Phổ Cúng Dường… giống
nghi cúng Tổ Đạt Ma, chỉ thay đổi lời bạch như:
- "Cung
kính nghe rằng giới luật còn ở đời, Thánh đạo vững nền. Ngài Ưu
Ba Ly kết tập luật tại Ấn Độ; còn Đại Sư xuất thân nơi
Đông Độ, kế thừa lãnh đạo, truyền pháp tại Chung Nam (Nam Sơn),
Trung Hoa, cùng ngưỡng phục, giới quang tinh khiết được tôn xưng
luật chủ. Cảm kích sự hộ vệ của trời người, nhận rằng Phật (Xá Lợi)
để biểu tượng. Y theo Phật dạy mà lập giới đàn cho đời sau nương
theo mãi mãi; theo lời chư thiên để tập truyền ký, bao hàm tư liệu
thời mạt pháp. Nay gặp ngày húy nhựt tôn sư xin tỏ chút lòng thành
tinh khiết. Lại nguyện, luật nghi vững thạnh, ấn Tổ thêm tỏ rạng,
hương giới phủ che khắp 9 châu; mưa pháp đượm nhuần trong 7 chúng".
Tiếp
theo cử tán:
- "Ưu
Ba Ly tái thế
Luật
học đang phát huy
Giáo
chủ Nam Sơn âm chấn động
Ba tụ (giới)
hai trì biển giới lóng trong
Chánh
pháp mãi mãi hưng long".
Nam
Mô Nam Sơn Tông Chủ Đạo Tuyên Trừng Chiếu Luật Sư (3 lạy).
Chứng
nghĩa ghi rằng:
Tông
chủ húy Đạo Tuyên, tự Thật Tướng, hiệu Trừng Chiếu, là Tổ nguyên sơ
làm hưng long luật tông. Đời Đường Cao Tông sắc phong là Thiên Hạ tự
viện, cho lập đồ hình tạc tượng phụng thờ. Khải Tông sắc phong Ích
Trừng Chiếu Thánh Sư, có đăng tải đầy đủ trong Tống Cao Tăng truyện
quyển 14. Nay dâng cúng tụng Kinh Phạm Võng bài kệ cuối cùng
phân thành 3 đoạn:
Đoạn 1,
16 câu: tánh thưởng ý nghĩa trì giới có lợi ích
Đoạn 2,
24 câu: quán sát thật tướng ý nghĩa giới thể
Đoạn 3,
16 câu: khuyên giữ gìn tịnh giới và ý nghĩa hồi hướng tự lợi cũng
như lợi tha.
Ngưỡng
nguyện nhân lễ dâng cúng này mà niệm nghĩ khắc ghi nơi tâm thức.
Cũng có thể phát nguyện tụng 2 giới, xem chương Trụ Trì ở sau, phần
dâng hương; nên tụng nhuần nhuyễn mới tĩnh tâm mà tự răn dè mình đó.
4.6 Húy
Nhựt Huệ Viễn Tổ Sư
Ngày mồng 6 tháng 8
là Lễ giỗ Tịnh Độ Tông Chủ Huệ Viễn Lão Tổ.
Giống
như nghi thức cúng Tổ Đạt Ma. Trước hết cử tán:
-
"Nam Mô Liên Tông Sơ Tổ Huệ Viễn Tổ Sư" (3 lạy).
Tiếp
theo tụng Kinh Thủ Lăng Nghiêm:
- "Đại
Phật đảnh Như Lai mật nhơn tu chứng liễu nghĩa chư Bồ Tát vạn hạnh -
Đại Thế Chí con đấng Pháp Vương cùng 52 Bồ Tát đồng hàng từ tòa ngồi
đứng dậy đảnh lễ chân Phật và bạch rằng: bạch đức Thế Tôn, con nhớ
trong quá khứ vô số kiếp về trước có đức Phật xuất thế hiệu là Vô
Lượng Quang với 12 đức Như Lai kế tục trong một kiếp. Đức Phật sau
cùng hiệu là Siêu Nhựt Nguyệt Quang, vị Phật ấy dạy niệm Phật tam
muội. Như có một người chuyên tâm nhớ nghĩ, còn một người ưa quên, 2
người ấy, nếu có gặp nhau cũng như không gặp, hoặc có thấy mà như
chẳng thấy nhau. Còn nếu cả hai người cùng nhớ nghĩ và cả 2 nghĩ sâu
sắc, như thế từ kiếp này sang kiếp khác như bóng theo hình không thể
rời nhau. Mười phương chư Phật thương nghĩ chúng sanh như mẹ nhớ
con, nếu con có mất đi, mẹ nghĩ không biết con đang làm gì. Lúc con
nhớ mẹ, mẹ nhớ con; mẹ con dù sanh ở đâu không phải là quá xa cách.
Cũng như tâm chúng sanh nhớ Phật niệm Phật ở hiện tại hay trong
tương lai, quyết định thấy Phật, cách Phật không xa. Không mượn
phương tiện tâm tự khai ngộ, như người xoa nước hoa, thân thoảng mùi
thơm. Đây gọi là hương thơm trang sức. Nhân gốc của ta là dùng tâm
niệm Phật nhập vô sanh nhẫn. Nay ở cõi này, người nhiếp tâm niệm
Phật sanh về Tịnh Độ.
Phật
bảo Bồ Tát Viên Thông:
- "Ta không
chọn lựa mà đều giữ gìn 6 căn tịnh niệm liên tục đạt được tam ma địa
(đại định) đây là đệ nhứt".
Tiếp
tụng Chú Vãng Sanh (3 lần), niệm Phật (108 hiệu). Kế
tụng Chú Biến Thực, Cam Lồ, Phổ Cúng Dường. Duy Na quỳ gối
chấp tay bạch rằng:
- "Cung
kính nghe rằng tịnh nghiệp Tông Chủ tên thật là Viễn Công,
hiện dấu tích còn tại Nhạn Môn, mở pháp xây nền thống nhất 123 người
cùng một ý sanh Tây phương. Duy chọn ngày 28 tháng 7 là ngày hiệp kỵ
tại Đông Lâm Xã mà thiên hạ tôn ngưỡng phong cách cao vời của các
Ngài. Giáo thuyết Tây phương mãi mãi thơm hương, muôn đời thấm nhuận
hồng ân. Nay là ngày tốt sen đang đua nở, chúng con chí thành dâng
nén tâm hương cúng dường tưởng niệm".
Lại
nguyện:
- "Không
quên bổn thệ theo Đức Di Đà dẫn dắt thuyền từ độ khắp, đưa
rước chúng sanh về nơi an dưỡng quốc".
Tiếp
theo cử tán:
- "Đại
nguyện thứ nhất, quán tưởng Di Đà
Bốn
mươi tám nguyện độ Ta Bà
Chín
phẩm hiện liên hoa
Lưới
vàng giăng bủa khắp
Cứu
chúng sanh vượt ái hà (sông ái)".
Nam
Mô Tịnh Nghiệp Tông Chủ Viễn Công Tổ Sư (3 lạy).
Chứng nghĩa
ghi rằng:
Tông
chủ ghi trong các liệt truyện Xuất Cao Tăng Truyện quyển 6, ở đây
không nêu ra hết. Dâng cúng tụng phẩm Đại Thế Chí
chương niệm Phật Viên Thông. Lấy chương này khai thị rất là
chánh đáng. Ngài U Khê giải thích rằng, niệm Phật tam muội là người
niệm Phật đem tâm duyên với Phật, lấy Phật buộc tâm; tâm tâm tương
tục không hề gián đoạn. Lúc đó một tâm không khởi, ngoại cảnh không
xâm. Tự quay trở lại ban đầu hoàn toàn đảo ngược. Đúng không thọ
những gì phải thọ mà được sao? Thọ đúng nên gọi là niệm Phật tam
muội. Trước nêu ra thí dụ: như một người chuyên nhớ nghĩ, ví như
Phật nghĩ tới chúng sanh, làm thế nào cứu ra khỏi 3 cõi. Một người
ưa quên, dụ chúng sanh chỉ vì tham 5 trần cảnh mà chịu khổ trong 6
đường. Giữa 2 người đó dù gặp nhau cũng như không gặp; có thấy nhau
cũng như không thấy. Cũng như Phật luôn thấy chúng sanh mà chúng
sanh thường không gặp thấy Phật. Thí dụ này cho thấy chúng sanh bỏ
mất không niệm Phật. Hai người nhớ nhau, dụ như khi Phật nhớ chúng
sanh, chúng sanh lúc đó cũng nhớ Phật mới gọi là 2 bên nhớ nghĩ sâu.
Nên niệm nghĩ như thế thì đời đời thường thấy Phật, nơi mỗi quốc độ
thấy được Như Lai. Nên nói rằng, như thế cho đến từ đời này sang
kiếp khác giống như bóng với hình không lìa nhau. Kế tiếp thí dụ
người mẹ và đứa con là đúng nhất. Như Lai thương nghĩ chúng sanh như
mẹ nhớ con, hợp nhau ở điểm chuyên nhớ nghĩ. Như con có chết mẹ nghĩ
không biết con đang làm gì. Hoặc giả như một người ưa quên, đây dụ
cho người bỏ mất không niệm Phật. Kế đến người chuyên niệm Phật, như
con nhớ mẹ. Chỉ cách để nhớ mẹ đang lúc mẹ nhớ con. Người niệm Phật
dùng công phu miên mật không một khắc nghĩ tới 5 món dục thế trần
đây gọi là buộc niệm, mới gọi được là như lúc mẹ nhớ con. Mẹ con dù
ở đâu cũng không xa cách nhau vậy. Lại nhớ Phật là luôn niệm nghĩ
tưởng; niệm Phật là tâm chú ý một cảnh thì trong hiện tại và tương
lai quyết định thấy Phật. Trước mắt như Ngài Viễn Công, thấy 3 loại
Thánh tướng, tương lai là lúc lâm chung được Phật tới rước, cho đến
như hoa nở thấy Phật, cách Phật không xa, vì người niệm Phật không
chỉ thấy Phật mà cũng thấy gần Phật, chẳng lâu sau chắc chắn thành
Phật. Không mượn phương tiện tự tâm đạt khai ngộ, có nghĩa tự cất
tiếng niệm, là duyên với cảnh Phật. Sự lý viên dung, năng-sở dứt đối
đãi, có nghĩa ta là nhân chính dùng tâm niệm Phật nhập vô sanh nhẫn.
Nếu không như thế cũng khó chứng ngộ vô sanh. Không mượn phương tiện
là tin không sai, như người xức nước hoa, dụ chúng sanh vốn không
phải Phật, nhân niệm Phật mà có hương thơm của Phật gọi là hương
trang sức. Phật tròn đầy do niệm Phật mà hiển bày; niệm nhờ Phật mà
huân sâu. Có nghĩa lấy hương pháp thân chư Phật mà trang sức chăng?
Sắc thân chúng sanh vốn nhân 3 câu. Kết tự hành nhân quả tương ứng
nay ở cõi này có 3 câu mà quả ấy về sau lợi người, lấy đó làm tự độ.
Lấy đây dạy người cũng như lấy lực này mà nhiếp hóa chúng sanh. Ta
không chọn lựa mà đều thu nhiếp 6 căn. Niệm thuộc về ý căn nên nhận
biết, tu tập cũng đều thâm nhiếp các căn, căn căn niệm Phật vậy. Ý
căn nếu thanh tịnh hẳn các căn đều thu nhiếp cho nên nói không chọn
lựa là vậy. Trong thời gian hành trì chỉ niệm Phật Di Đà, và
cầu sanh Tịnh Độ, niệm không gián đoạn, tức niệm
thanh tịnh liên tục. Niệm Phật theo phương pháp đó thật
là vượt hơn các pháp môn khác, nên nói rằng nhập tam ma địa, là như
vậy.
Phàm
gặp ngày giỗ Tổ Khai Sơn bổn tự hay ngày giỗ lịch đại chư Tổ,
tri khách phải cho chúng biết trước, bạch qua vị Trụ Trì và ra thông
báo gởi đài phát thanh, đăng báo. Thông báo viết:
- "Ngày
mai là ngày… tháng… năm… gặp ngày kỵ Tổ, xin đại chúng sáng sau thời
Kinh Lăng Nghiêm vân tập vào chánh điện lễ Phật, cúng ngọ".
Thị giả
vào hậu Tổ thiết đặt hình hoặc tượng Tổ trang nghiêm, dâng hoa quả,
một vài món thức ăn để gọi là cúng tiến thực. Sắp đặt hương đèn, trà
bánh buổi tối đó, nghe 3 hồi kiểng đại chúng tập họp trước bàn thờ
Tổ, thầy Trụ Trì niệm hương, dâng trà cúng, lạy 3 lạy. Duy Na xướng
cho đại chúng cùng lạy Tổ 3 lạy. Lạy xong, lui ra hoặc dự thời tụng
Kinh. Thầy Duy Na và Tri Khách phải mời các thầy tham gia lễ tụng.
Nghi
thức giống như cúng Tổ Đạt Ma trước. Tới giờ cúng ngọ, đại
chúng vân tập đại điện, thầy Trụ Trì niệm hương, xong, lạy 3 lạy.
Duy Na cử tán bài Lư Hương… Tiếp theo hoặc tụng Kinh Di Đà
hay chỉ cúng ngọ. Xong tất cả đến nhà Tây. Trước Trụ Trì chúng đứng
2 bên, đứng theo thứ tự, mỗi bên 6 người thành một ban trên dưới,
gần phía trước cửa đứng ngay ngắn. Thủ Tòa vào nhà Tây, Thầy Trụ Trì,
Duy Na 3 người quỳ để , 2 thầy Tri Khách đứng hầu 2 bên tượng, tuần
tự dâng thức ăn lên cúng Tổ, các thầy tiếp đồ hiến cúng để lên bàn
thờ; kế dâng trà, thứ tự từ vị đầu mỗi người châm trà một lượt
truyền cho Thủ Tọa. Thủ Tọa bưng ngay ngắn đưa sang Thầy Trụ Trì.
Thầy Trụ Trị châm trà xong chuyền sang ban phía Tây theo thứ tự, tới
điểm phạn xong, tụng chú biến thực, cam lồ thủy, phổ cùng dường…
Mời Hòa
Thượng Phương Trượng đứng chính giữa, đại chúng đứng 2 bên, tụng
Kinh Di Đà xong mới tụng chú và niệm danh hiệu Phật
108 biến. Duy Na cử tán, tùy nghi tán bài nào thích hợp và đợi
Thầy Trụ Trì châm trà và lạy xong, bài tán chấm dứt. Duy Na xướng,
đại chúng lạy Tổ 3 lạy. Lễ Tổ xong, xướng đảnh lễ Hòa Thượng xong,
đại chúng lui về chỗ. Đây chỉ cho Tổ Khai Sơn, các Tổ
Trung Hưng (kế thừa), kế thừa thọ học như Thầy thế độ (xuống tóc
cho ta) cũng như vậy. Các Tổ khác không có tụng kinh, cũng không
nhất nhất quỳ cúng mà chỉ dâng cúng trà mà thôi. Song Tổ Khai Sơn
là người có công với bổn tự và chỉ định trụ trì mới vào đúng vị;
nhận sự lễ lạy của đại chúng. Không thể so sánh giống nhau, các lễ
kỵ khác làm đơn giản, không nên lầm lẫn.
Chứng
nghĩa ghi rằng:
Đây là
báo đáp ân đức sáng lập, cùng kế thừa để duy trì pháp mạch. Uống
nước nhớ nguồn, ngày lễ cúng giỗ không nên quên sót.
4.8 Lễ
Cúng Thầy Nối Thừa Pháp
Phàm
gặp ngày giỗ bổn sư nối thừa pháp. Những phẩm vật cúng đã nói đầy đủ
phía trên. Riêng Phật sự này Thầy Trụ Trì phải tự xuất tiền chi dụng,
và mở kho lấy vật liệu thiết trí đầy đủ. Nhờ thư ký viết một lá sớ,
giả như không có lòng sớ nào đầy đủ hơn nên dựa sớ này mà viết; phải
ghi đầy đủ quê quán, năm sanh, ngày mất của Thầy như sau:
- "Kính
ôn lại bổn sư, tánh người hiền hậu, dứt tuyệt tướng ngã nhơn, nối
giòng mô phạm tòng lâm, hạnh giống như Tổ Bách Trượng, đường đường
tăng tướng, đức vượt cao phong, truyền tâm đăng đời thứ… giòng Lâm
Tế; ngón tay vạch mây thấy trăng; nương dấu tích mà hạ sanh hưởng
thọ… năm trong trần thế, đáp tạ trần lao mà quay gót quy thân. Nay
gặp ngày húy nhựt, môn nhơn đệ tử chúng con rất trân quý ví như mầm
non được thừa ân y bát. Do vậy vân tập chúng tụng kinh… nhứt diên,
trải tâm thành trước Từ Tôn bày pháp tịch của nhơn thiên.
Nguyện đem công đức này kính mong đền đáp phần nào công ơn trong
muôn một. Lại mong trên đỉnh Linh Thứu trước kia Đấng Diệu Giác
Cao Siêu chiếu ánh quang vào cõi này thân thường lạc phi tướng.
Môn nhơn chúng con chí thành dâng sớ. Phật lịch 2551.. ngày… tháng …năm
2007".
Chứng nghĩa
ghi rằng:
Đây là
việc báo ân truyền pháp. Cha mẹ sanh ra sắc thân ta, bổn sư sanh
pháp thân huệ mạng cho ta. Sắc thân giả tạm không thật; huệ mạng lợi
ích vô cùng. Đó là ân cha mẹ mà còn báo đền, huống nữa ân Thầy lại
càng khó đáp báo hơn. Mạo muội dâng chút rau dưa tâm thành mà chẳng
lưu ý đó sao? Cũng như Ba Lăng ba lần chuyển ngữ làm cho Vân Môn lễ
giỗ cúng thầy. Bậc tiền bối dụng tâm sâu sắc như thế, nhưng ngày nay
trong thời mạt pháp không nghĩ tới sự cúng tế, lại càng lạnh nhạt
như chẳng quan tâm. Rốt cũng chỉ bọn ưa danh vị, quên gốc phụ lòng
mà lãnh truyền pháp cho người khác, thật là đáng buồn thay!
Sách
Thiền Tông bí yếu ghi rằng:
-
Diễn Thiền sư Ngũ Tổ ngồi bên dưới có một học giả tên là Khai
Thánh Học. Đầu tiên tham vấn đi hành cước với Trường Lô Phu Thiết
lâu ngày mà không đạt ngộ. Nghe uy đức Diễn Thiền sư bèn tạo một chỗ
ngồi. Một ngày kia vào thất hỏi rằng:
- "Thích
Ca, Di Lặc là do người khác chọc giận, vã đạo để cho ai?"
Giác
đáp:
- "Râu
Trương ba chòm, bốn cây mận trước sân".
Sư Diễn
nghe liền ngộ. Hòa Thượng ngồi nguyên, Sư lặp lại câu nói trước, hỏi:
- "Ngộ
không?"
- "Tốt
thì có tốt, nhưng e chưa phải thật, không nên buông phóng".
Bèn
ngay đó tìm tòi, hôm sau tới thất bạch hỏi như trước. Giác nói:
- "Việc
hôm qua Hòa Thượng hiểu không?"
Sư Diễn
hỏi:
- "Đạo
là gì?"
Giác
đáp:
- "Râu
Trương ba chòm, bốn cây mận ngoài sân".
Sư Diễn
nói:
- "Không
đúng, không đúng".
Giác
nói:
- "Hòa
Thượng hôm qua thật đã hiểu đạo".
Sư Diễn
đáp:
- "Hôm
qua hiểu, hôm nay không hiểu".
Giác
nhân lời nói đó mà đại ngộ. Sau này Giác ra làm Trụ Trì chùa Khai
Thánh, thấy đạo tràng Trường Lư hưng thịnh bèn nối thừa Phu Thiết
Cước, nguyên chẳng đạt ngộ sở đắc. Lúc niệm hương bổng cảm biết ngực
trước đây như bị đâm, liền cảm thấy đau nhói thành nhọt có lỗ; dùng
bột sữa thơm trét lên lâu không hết, rồi sau qua đời. Ôi! cô phụ bốn
trọng ân mà được phó pháp như thế để chịu khổ báo! Kẻ hậu học chớ
dẫm lên dấu vết ấy.
Ngoài
ra, sách Vân Thê Sùng Hành Lục ghi rằng:
Đời
Tống có người tên Hoài Chí người Kim Hoa, lúc nhỏ đang đi học, nhân
gặp một thiền tăng cổ võ, bỏ học đi tham phương cầu đạo. Sau đến
Động Sơn được đắc pháp với pháp hiệu là Chân Tịnh Văn Thiền Sư. Lâu
sau đó viên tịch. Sư Chân Tịnh phó chúc rằng: Thiền ta tuy miễn cách,
tích lục chẳng đâu hơn. Chí bái thọ rồi đi tới Viễn Châu, người
trong vùng mời trụ trì chùa Dương Kỳ, Ngài khoát tay đi luôn. Rày
đây mai đó tới Tương Thượng, Đàm Mục mời trụ lại phong Bắc thiền, từ
chối không nhận. Ở ẩn nơi Hành Nhạc hơn 20 năm, Ngài có bài kệ:
- "Vạn
duyên bặt dứt cảm như người si
Tung
tích lờ mờ khác chi nai lạ
Thong
dong cởi áo gác tay làm gối
Hết đời
mộng mơ ẩn cư duyên hội
Tối ném
long án, long án một nơi
Hưởng
trọn tuổi già, nơi nhà rất vui."
Ngài
Liên Trì tán thán rằng:
- "Người
đạt sở cầu tuân theo di mệnh mà sức mạnh địch lại những sự thỉnh mời
đó không khó sao? Người bây giờ háo danh đắm lợi bỏ phế lễ nghĩa,
không mời mà đến, là những phần tử như thế! Há không tức lắm sao!"
Vâng mạng lệnh thầy đi vào nề nếp.
4.9 Lễ Giỗ
Hai Thầy Thế Độ và Giáo Thọ
Gặp
ngày giỗ 2 Thầy thế độ và giáo thọ, theo như nghi trên, Trụ Trì cũng
lại xuất tiền lo lễ. Thiết trí lễ phẩm, viết sớ cúng đại ý như:
- "Thiết
nghĩ rằng, con tên…trăm kiếp nghìn đời trôi lăn trong dòng sanh tử,
may được cạo bỏ tóc râu (thầy giáo thọ nên đổi lời là “dạy nghiêm từ”),
được vào cửa Phật (đổi lời là pháp môn), nghĩ ân đức sâu dày thật
khó báo đền. Từ những ngày xa vắng chân linh quy tịch, thật là một
sự xao động của hải triều; chỉ ngày giỗ hôm nay chúng con nội tự
thống thiết nghĩ trời cao khó báo đáp ân sâu. Do đó vân tập chúng
lại tụng Kinh nhứt diên biểu tỏ chút lòng thành, cúi xin thầy chứng
giám".
Lại
nguyện:
- "Phật
nhựt phóng quang chiếu phá tội chướng đời này, gió từ phủ khắp quét
sạch oan khiên kiếp trước; trong khoảnh khắc sanh về Cực Lạc Quốc,
được ngồi đài liên hoa. Bồ Đề tâm bất thoái, trí bát nhã thường sáng
soi. Toàn thể hiếu đồ đệ tử chúng con chí thành dâng sớ. Phật lịch…ngày…tháng…năm".
Chứng nghĩa
ghi rằng:
Thầy
thế độ và y chỉ là 2 trong 5 bậc a xà lê nêu ở trước. Những vị này
tuy không làm cho ta đắc pháp nhưng ta đã từng theo xin cạo tóc hoặc
học kinh điển. Nêu lên đây chứng tỏ ta không quên nguồn gốc vậy…Người
đệ tử ngày xưa thầy mất mà niềm tin vẫn kiên cố, đệ tử ngày nay thầy
còn sanh tiền nhưng vẫn xem nhẹ, huống gì nhớ ngày lễ giỗ cúng kính
chứ? Lý do dễ hiểu lúc đầu xuất gia thật không muốn y chỉ bậc chân
sư, lao theo sanh tử mà chỉ nhất thời tùy tiện (tùy hứng) mà thôi.
Tâm người như thế thấy lợi thì dễ sa, gặp bạn ác lôi kéo cũng dễ ngã.
Cẩn thận lời dạy của thầy làm đúng thời dễ nhưng lại bỏ chánh theo
tà; hình tướng là tăng nhưng tâm lại theo tục. Như thế, làm sao Phật
Pháp không suy đồi cho được! Y cứ trong luật Phật dạy, đệ tử lìa
thầy quá sớm. Nếu thầy thật bất minh hoặc không giữ giới mới tìm
cách xa thầy.
Sách
Vân Thê Sùng Hành Lục ghi rằng:
Đường
Thanh Giang lúc ấu thời ngộ lý vô thường giả ảo, lạy Luật sư Đàm
Nhất làm thầy y chỉ, nhờ tụng Kinh Bái Sám giáp mặt mà thông.
Kẻ thức giả nói rằng:
- "Sư
này tài năng trác tuyệt, luôn cùng với thầy hơi ngang ngược, bỏ đi
du phương qua các đạo tràng và tự trách rằng, nửa hạnh của thiên hạ
như thầy tôi là tuyệt vậy".
Bèn trở
về lại Thầy xưa đương lúc chư tăng nhóm họp, xử phạt đề nghị rằng:
- "Thanh
Giang trở lại nương nhờ Hòa Thượng, mong Ngài nhận cho".
Lúc đó
có một thầy chế nhạo cho rằng:
- "Thanh
Giang lấy 2 giọt nước mắt sám hối tạ tội. Niệm trước vô tri, tâm sau
tỏ ngộ, mong Hòa Thượng đại từ hoan hỷ tha thứ, thương xót lại lần
thứ tư".
Luật sư
thương tình tha thứ nhận làm thầy như lúc ban đầu. Sư Đàm Nhất tịch,
hầu hạ thầy hết lòng và được truyền tâm pháp. Tổ Liên Trì ca tụng
rằng:
- "Bỏ
Thánh hiền mà biết lỗi trái, đang bị nhục mạ mà không thoái tâm,
đáng gọi là thành thật sáng suốt, sau được truyền tâm ấn, chẳng có
lý do hay sao?"
Bọn
thiếu tin kia, ngờ vực thời đi mất hút không trở lại; bị mắng đuổi
ắt giận không nguôi. Không gặp minh sư chung cục có lợi ích gì, như
gặp minh chúa mà không giữ được 3 chức quan, đáng tiếc thay!
4.10 Phụ:
Cúng Giỗ Cha Mẹ
Cúng
giỗ cha mẹ, nghi thức đơn giản, không giống nhau. Chỉ người thân
không phải những quan chức. Thầy Trụ Trì dự định ngày, sai thị giả
đi thông báo, thay thế cho thiệp mời nghi cúng. Nếu có tụng kinh,
thị giả bạch Thầy Duy Na ở phòng khách cùng dán thông báo tại đây
hay tại trai đường.
Thông
báo rằng:
- "Ngày
mai (mấy) là lễ giỗ thân phụ Hòa Thượng đàn đầu hoặc thân mẫu (tùy
theo đó đổi chữ thích hợp), tụng Kinh…, mời bao nhiêu vị Kinh sư nêu
danh tánh như dưới đây:
Vào
thời Kinh tối tại chánh điện, Thầy Trụ Trì sai thị giả hầu bên trái
Hòa Thượng Phương Trượng. Sắp xếp đầy đủ vật cúng như hương hoa, trà
quả đặt trước bàn thờ linh. Khóa lễ xong, đại chúng trở lại trai
đường. Vị Trụ Trì ra trước sơn môn đến bàn linh tỏ lời mời như sau:
- "Tôi
là… ngày mai nhân ngày giỗ phụ (mẫu) thân của Hòa Thượng bổn sư. Vì
thế bổn tự có thiết lễ cúng Phật, tụng kinh cầu siêu mong cho chân
linh cụ ông (cụ bà) nhờ lực bất tư nghì của Phật, chư tôn Bồ Tát,
Thánh hiền, long thiên hộ pháp chứng minh tiếp độ. Tôi là … , đây
mời chân linh tới chùa ngày mai lúc 10g sáng để được cầu siêu độ".
Nên
thỉnh 3 lần như thế, phải quán tưởng hình dung, tiếng nói của cha,
hoặc mẹ, nương nhờ uy đức lời thỉnh mà đến. Nghĩ cha, mẹ đã đến chùa
thực sự. Nghĩ họ, cùng theo về chùa, rồi đem đặt vào vị trí, xá 4 xá
niệm hương, dâng trà. Nghĩ rằng cha mẹ đang ngồi đó rất hoan hỷ an
lạc; lại xá 4 xá rồi lui. Đêm đó, Thầy Trụ Trì tự lấy bồ đoàn trải
ngồi trước bên dưới bàn thờ, trì niệm danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát
(10 ngàn lần). Sáng hôm sau, sau thời Kinh Lăng Nghiêm,
Thầy Trụ Trì một mình tới trước bàn thờ đốt hương, cúng trà. Buổi
trưa, mời đại chúng cúng ngọ, cúng linh. Nghi cúng như các phần trên,
nhưng không cần phải quỳ cũng như không lạy mà chỉ xá. Thỉnh một
thầy thuyết pháp, đợi thuyết pháp xong tụng hồi hướng. Duy Na xướng:
- "Đảnh
lễ Tam Bảo xong, đảnh lễ Hòa Thượng xong lui về chỗ. Buổi tối,
tụng kinh xong, phục nguyện, hồi hướng. Trong đó lời lẽ đại loại như
sau:
- "Cúi
mong Thích Tôn điều ngự, đấng đạo sư toàn giác hàm 3 tạng,
Kinh văn, chữ vàng, bậc đại sĩ lục hòa, giám trông chứng minh tấc
lòng thành, ngưỡng vọng oai thần gia hộ (tiếp nhập tục định cư tại….),
phụng Phật tụng kinh tiến phụ (hoặc mẫu) hay tiến Tỳ Kheo (tên…)
chuyên vì truy tiến hiển khảo (cha)… ở số… đường…vùng…quận…tỉnh…
nhứt vị chân linh (nếu mẹ đổi lại là) hiển tỷ tánh danh, ở số… đường…
vùng… quận… tỉnh… , hoặc cúng chung phụ mẫu truy tiến 2 người đều
đọc tên cả hai. Hôm nay chí thành dâng hương, quy mệnh 2 bậc Giáo
Chủ Di Đà, Thích Ca nơi Cực Lạc Quốc, Chư Phật, các bậc Thánh
hiền tọa trên đài sen, xin cảm thông tình cảnh. Lại vì, hiển
khảo hưởng thọ… tuổi, nguyên tạ thế ngày.. tháng…năm" (hoặc cúng mẫu
thân hoặc tiến cả 2 theo đó mà đọc cho đúng). Tha thiết nghĩ rằng
cha nghiêm (mẹ từ) đức trọng tợ non thái cao vòi vọi, ân dưỡng dục
khôn dò dường như biển cả khó mong đáp đền. Bất hạnh thay sớm mất,
con chưa được đền ân trong muôn một. Ngày tháng qua nhanh, bóng
quang âm biền biệt. Hôm nay ngày… tháng…năm… nhân gặp tuần húy nhật,
ngưỡng mong ân đấng đại giác, trên đền đức cù lao (khó nhọc); do vậy
mời chư tôn đức tăng già tụng kinh… cầu siêu độ, lấy đây làm vân lộ
đưa lối chân linh sớm thoát cảnh u đồ mà siêu sanh thoát hóa".
Lại
nguyện:
- "Ở
cõi trời người được tăng 5 phước, mãn ý tùy tâm, nếu chưa thoát ra
các thú, cầu được lên 9 phẩm sen tùy thời an trú. Dâng sớ, cung
thỉnh Tam Bảo chứng minh. Phật lịch 25…ngày... tháng…năm… Đệ
tử Tỳ Kheo…"
Chứng
nghĩa ghi:
Việc
báo đáp ân đức dưỡng dục của cha mẹ và nghe lời nhắc nhở ân của
người xuất gia, theo Kinh Đại Thừa Bổn Sanh Tâm Địa Quán ghi:
"Phật dạy bốn ân mà ân cha mẹ là đứng đầu".
Lương Hoàng Sám pháp ghi:
- "Kế
lại nên nghĩ tưởng đến ân dưỡng dục của cha mẹ, bế ẳm, cho bú mớm,
ái trọng tình thâm, thà mình chịu nguy hiểm để cho con an ổn".
Phật
dạy:
"Ân
trong thiên hạ không gì hơn ân cha mẹ, luận người bỏ tục xuất gia,
chưa thể đắc đạo chỉ cần việc học hành, làm thiện chớ bỏ, tích đức
không ngừng, ắt cảm được ân đức khó nhọc”. Lại nói rằng, trong đó có
ân cha mẹ, kẻ mồ côi từ nhỏ khó thể gặp lại, tưởng không lo lắng sao!
Chưa đắc thần thông thiên nhãn không biết được cha mẹ xả báo thần
thức đi về đâu, sanh ở chốn nào? Chỉ nên lo tạo phước để đền đáp
thâm ân, làm thiện không ngừng, công thành ắt đạt được. Kinh dạy
rằng, vì người mất mà tạo phước như tặng tiền người đi xa; nếu sanh
cõi trời, người công đức càng tăng thêm, như gặp 3 đường ác hoặc bị
tám nạn(6) vĩnh viễn lìa được các sự khổ. Nếu người đủ tín tâm chân
chánh học chánh pháp làm cho bảy đời cha mẹ siêu ngộ, bà con quyến
thuộc nhiều đời lo sợ đều dứt trừ và được giải thoát. Là mẫu người
trí nên thành tâm chí hiếu hết lòng báo ân. Sự truy tiến cúng hương
linh nên vâng lời Phật dạy.
Sách
Vân Thê Sùng Hành Lục ghi:
Lương
Pháp Vân người Dương Tiện, xuất gia năm lên 7 tuổi là đệ tử Bảo
Lượng pháp sư Chùa Trang Nghiêm; Cấu Lãng Anh Tú ở chùa Diệu Âm
giảng 2 Kinh Pháp Hoa, Duy Ma. Học giả qui tụ lại có người
tên Thành Hiếu ham sắc khiến cho mẹ lo lắng, đến đổi thân gầy gò quá
đổi, qua nhiều ngày không ăn uống. Lượng pháp sư nói rằng:
- "Thánh
nhân dạy lễ, bậc hiền cúi trông không để thất thố sai sót. Vã ngoài
tánh bất diệt còn phát xuất từ Nho giáo huống nữa Phật có lời chí
thiết "muốn báo ân sanh thành, gần thời phụng dưỡng chăm sóc đúng
nghi cách, xa khuyên cha mẹ phát tâm Bồ Đề để hướng dẫn thần thức
nên sớm nghĩ việc xa". Giả sử gặp việc đến làm sao trở tay cho kịp!
Đang trong lúc còn sanh tiền, gần gũi chia ngọt xẻ bùi, hầu hạ cháo
cơm".
Ngài
Liên Trì ca tụng:
- "Mẹ
Tăng Tử chết, cơm cháo không vào miệng trong 7 ngày là việc cư tang
của Vân Công, dù sao với Tăng Tử ai làm sao hơn chứ?"
Tục ngữ
có câu:
- "Thích
Tử từ bỏ đấng thân đâu có như vậy sao?"
Lại nữa,
đời Hậu Chu Đạo Không ở Trường An mà trọng bao tử hương lý, tức kẻ
có thế lực địa phương (phép vua thua lệ làng). Đường Tôn Thất xuất
gia năm lên 7 tuổi, năm 19 tuổi may đỗ đạt được kỳ thi ở Trường An;
lại gặp thời binh biến, phải cõng mẹ vào Hoa Sơn dừng lại tại một
hang núi lánh nạn. Lúc bấy giờ lúa gạo, củi nước đều quí hiếm chẳng
kiếm ra gạo ăn, ông chỉ đi xin ăn nuôi mẹ. Mẹ hỏi:
- “Con
đã ăn gì chưa?”
Vì sợ
mẹ động lòng lo nên đáp là đã ăn rồi. Mẹ nói:
- “Cha
con chết trận ở Hoặc Sơn (Nam Nhạc - Hành Sơn), con có thể tới đó
tìm lấy cốt đem về chôn cất được không?”
Thất
vâng lời mẹ đi Hoặc Sơn thu nhặt hài cốt. Qua nhiều ngày đêm trì
tụng kinh chú chí thành những mong đạt mục đích. Người xưa có tâm
thành mà cảm, chích máu đổ xuống đống xương, mong cho trong đống
xương ấy cái nào cục cựa là đúng hài cốt cha mình. Nhất tâm chuyên
chú mắt không tạm rời mà chỉ chăm chăm nhìn đống xương. Qua nhiều
ngày như vậy, có một hài cốt từ trong đống xương nhô ra, lay động.
Thất kiệt sức một hồi rồi tỉnh lại, nhặt cốt đựng trong bình lớn
mang về gặp mẹ. Đêm đó, bà mẹ mộng thấy chồng về, sáng hôm sau quả
nhiên hài cốt đã về tới nhà. Con người do lòng hiếu mà cảm được như
thế! Người sau dạy đạo, luận kinh phần nhiều y cứ gốc xưa lấy cội
nguồn làm trọng. Việc này Ngài Liên Trì có 2 câu thơ tán thán rằng:
- "Nhịn
ăn nuôi đói mẹ hiền,
Tụng
Kinh cảm động phăng tìm cốt cha!"
Có thể
nói đại hiếu gồm việc còn mất đấy mà lòng chí thành đã vượt cả cổ
kim vậy. Than ôi! lạ thay và sau đây là câu chuyện Tăng Đạo Kỷ rất
gần gũi mẹ, cung kính các bậc tôn túc, dệt vải may áo dâng mẹ. Hiếu
của con nhà họ Thích đối bậc thân sinh khác xa với người đời. Sách
truyện đăng tải đủ nêu những gương hiếu hạnh người xưa. Đời nay do
bịnh, con nhà Thích không trọng người thân có 3 loại bất tài là cái
tội của ông Tăng; hưởng của thập phương cúng mà không nhớ nghĩ tới
ân cha mẹ. Ba loại bất tài đó là:
1-
Ngồi tòa cao nhàn hạ mà không đoái tới cha mẹ lao khổ như người làm
công
2-
Cắt lìa núm ruột xuất gia mà nhận người khác làm cha mẹ nuôi
3-
Sống đã như vậy, chết không cúng kiến thật là không còn lời thống
thiết nào hơn.
Vong
bản đến thế còn mong gì chấn hưng Phật Pháp chứ?
Phàm
vào dịp Tết đêm trừ tịch (30 Tết) hoặc tiết đông chí có thể tùy đó
thay đổi, là định kỳ cúng tháp. Nơi trai đường, phòng khách dán
thông báo cho chúng biết, chẳng hạn, thông báo như sau:
- "Sáng
mai, sau công phu, dùng điểm tâm xong, nghe hiệu lệnh chuông, đại
chúng đắp y chỉnh tề vân tập tại trước tháp Tổ".
Hôm
trước cho dọn dẹp quét tháp, lau chùi sạch sẽ các tháp trước sau,
dọn sạch cả lối đi vào tháp. Tới giờ, thầy Tri Khách thỉnh 3 hồi và
3 tiếng đại hồng chung (xưa), bây giờ dùng 3 hồi 3 tiếng khánh đồng
hay bảng gỗ. Đại chúng đắp y vào thiền đường, vào Tổ đường lễ Tổ,
lên Phật điện đảnh lễ Tam Bảo, sau theo thứ tự đến trước tháp Tổ
Khai Sơn đứng theo vị trí. Đốt nhang đèn, thầy Trụ Trì niệm hương
xong lễ 3 lạy. Đại chúng xá 3 xá, xong tất cả đi nhiễu tháp 3 vòng.
Niệm hương lần nữa, đại chúng đứng theo thứ tự, dẫn khánh, đọc Kinh,
trì chú, xướng lễ Tổ sư 3 lạy. Lần lượt đi các tháp cũng làm như vậy.
Tại các tháp thầy Trụ Trì không niệm hương mà thầy Giám Viện niệm
hương, xướng lễ 3 lạy xong lui vào (không phải đi nhiễu nữa). Nếu
như con đường cong queo hoặc gặp mưa, đại chúng tề tựu trước Tổ
đường lạy Tổ 9 lạy, chờ trời tạnh ráo hãy tiếp tục hành lễ. Hay chọn
ngày khác hẳn lễ thế, tuy phải cho kiểm điểm cây nhánh rơi rớt, bùn
đất, đường đi tới tháp… có hư hỏng gì không.
4.12 Thiết
Đặt Cúng Dường
Tiết Thanh Minh
thường là tháng 3 âm lịch,
đúng ngày hoặc trước đó một ngày, buổi tối cúng tiên thường, sắp
thức ăn cúng chưng bày ra bên trái. Vị Khai Sơn bổn tự là lão Tổ
thượng…hạ…thiền sư; kế tiếp là các bực tôn sư kế thừa Tổ đức và qua
các đời chư vị trụ trì. Trên thiếp vị: chính giữa viết dòng
như trên, 2 bên ghi phương danh các bậc tôn sư; phía dưới là các vị
Trụ Trì, là thiếp thứ nhứt.
- Thiếp
thứ 2, chính giữa đề 2 chữ: Bổn tự, 2 bên ghi: tiền hiền hậu triết
chư tôn đức hữu công giác linh chi vị; và bên trái: chư vị kế vãng
khai lai kế thừa Tổ nghiệp chư vị giác linh chi vị.
- Thiếp
thứ 3 ghi: bổn tự liệt vị tôn đức hữu công, bên phải ghi: tiên vong
hậu hóa chư vị tỳ kheo; bên trái: chư Sa Di hậu bối giác linh chư vị.
- Thiếp
thứ 4 ghi: chư tôn sư đồng bổn tự, chư sư thế độ, phú pháp bên phải,
tam sư: đàn đầu Hòa Thượng, Yết Ma, giáo thọ sư, bên trái: 7 vị tôn
chứng và dẫn thỉnh sư giác linh chi vị.
- Thiếp
thứ 5 ghi: bổn tự nhất phái từ lâu xa về trước đến nay môn nhơn pháp
quyến, và thầy thế độ cùng chư quyến thuộc giác linh chi vị.
- Thiếp
thứ 6 ghi: hiện tại cùng ở chung, đại chúng tỳ kheo mỗi thầy đều có
song thân: nam công xử sĩ, nữ thị phụ nhơn chi vị.
- Thiếp
thứ 7 ghi: bổn tự quý vị ra công của, quý vị cúng đất đai, quý vị
quyên góp lập chùa, hết thảy đàn na; nam công xử sĩ, nữ thị phụ nhơn
chi vị.
- Thiếp
thứ 8 ghi: bổn tự khai sơn từ xưa đến nay ở chốn tối tăm thọ giới
quy y đệ tử tại gia cùng chư vị hộ pháp: nam công xử sĩ, nữ thị phụ
nhơn (vợ các quan) chi vị.
- Thiếp
thứ 9 ghi: bổn tự địa chủ, khác tánh tiên linh, tiền hậu, viễn cận
cao lân: nam công xử sĩ, nữ thị phụ nhơn chi vị.
- Thiếp
thứ 10 ghi: bổn tự cận sự, từ trước đến nay, những vị tịnh nhơn,
chấp lao phục dịch chư phương xử sĩ chi vị.
Trở lên
10 thiếp vị từ số 6 đến 9 thích hợp cho nam nữ chân linh hữu công
với chùa, cũng thích hợp cho 2 giới tại gia hoặc xuất gia ngày đại
lễ. Sau đây là phần phụ lá sớ:
-
"Lại vì đấng đại sĩ xuất thế, rộng mở các hội âm dương. A Nan thỉnh
giáo khai mở pháp cam lồ, trời, người, quỉ, thú hàm đủ trong đó được
siêu thăng. Tôn thân chư vị xuất gia hướng về đây gội nhuần ân giải
thoát. Phật lịch… Úc Đại Lợi… (thành phố)... ngày… tháng… năm… chùa…
Thừa Thích Ca Như Lai di giáo vâng hành, chính nay giỗ Tổ
pháp diên, đệ tử sa môn...nay y bổn tự mỗi năm vào tiết Thanh Minh
tươi đẹp thiết lễ phổ tiến cúng hậu duệ Tổ. Trụ Trì, sa môn… Giám
viện tỳ kheo… ở chùa cùng chúng tăng tất cả. Hôm nay chí tâm niệm
hương đảnh lễ, quy mệnh Hội Chủ Du Già Thích Ca Văn Phật,
trên hội hiển mật, chư Phật cùng Thánh hiền trên tòa liên hoa, xin
cảm thấu cho lòng tỏ bày mà nghĩ tưởng chúng con. Thọ ơn cha sanh mẹ
dưỡng sâu dày, nhờ Thầy giúp đỡ, hồng ân của việc hộ thí đã nhiều
năm mà hoàn bị tư lương, và đồng thời xin xót thương; mong nhờ nước
cam lồ thấm đượm khô khát của u tuyền, thừa ân pháp lạc đều được lên
đài sen. Do vậy đáng ghi dấu ngày mấy tháng này nhằm lễ… trước hết
tối nay lập đàn như pháp cúng tiến".
Lại
nguyện:
- "Hóa
Phật tới tiếp nghinh giũ lòng từ chiếu giám phóng quang dẫn dắt vô
số ngạ quỉ hướng quy về pháp diên bình đẳng, thí thực khắp 6 đường,
tứ sanh thọ dụng vô biên cam lồ pháp vị. Tông môn giòng Thích cố
chẳng phù hư tiêu hao của tín thí, chóng nhuần lợi lạc, đồng về
Tịnh độ, cảm thọ Thánh thai. Hồi hướng công đức này cho kẻ âm
siêu thoát, người sống được an lành. Cúi xin Tam Bảo thùy từ
chứng minh gia hộ (3 lần)".
Tới giờ
cúng, chuẩn bị sẵn hương đèn, hoa quả bày biện ngăn nắp. Các pháp sư
ở trước đàn cúng thí thực, đốt hương khấn nguyện, niệm danh hiệu
Phật tới trước đài cúng cô hồn niệm hương, xướng lễ, tụng Chú
Vãng Sanh (3 biến), xong đọc tiếp:
-
"Nam Mô Diện Nhiên Đại Sĩ Bồ Tát" (3 lần)
Chấp
tay đứng trước tượng đại sĩ bạch lời này:
- "Cực
sáng thanh tịnh dung thông vắng lặng hàm cả hư không, tới lui xem
xét thế gian cũng như việc trong mộng. Ngưỡng bạch Diện Nhiên Đại
Sĩ thống lãnh pháp giới 6 đường, thống ty mười loại cô hồn, tự
tha tiên linh và các quyến thuộc của các vị. (Pháp sư một lần han
hỏi rằng); chỉ mong đồng thừa lực Tam Bảo, mỗi người ngộ nhất
chân tâm, linh minh không mê muội thọ được pháp vị no đủ trong lúc
này. Nghiệp thức buông thả, xa thoát trần lao trong nhiều kiếp, sự
lợi ích này mong nhờ thần minh dẫn dắt".
Đọc
xong, đại chúng cùng cử tán rằng:
- "Phật
tử cô hồn, chớ ở suối hương (thôn)
Vương
theo nước pháp ngộ chân thường
Thẳng
tắt tự đảm đương
Phản
chiếu hồi quang
Nơi nào
chẳng thiên đường".
Tán
xong, niệm Phật:
-
"Nam Mô A Di Đà Phật"
(108 biến).
Xong đi
tới niệm hương trước mỗi bàn thờ, đọc câu thán văn trên và quay trở
lại trước đàn để cúng thí thực (nghi thức thông thường). (Biện giải:
Chương Trụ Trì sau, phần chứng nghĩa thí thực).
Chứng nghĩa
ghi rằng:
Nghĩa
của phổ tiến là vì cha mẹ, sư trưởng v.v.. chưa ra khỏi 3 cõi, nên
phải sắm sửa đồ cúng tiến vào những dịp lễ Thanh Minh, Rằm tháng 7,
theo thế tục mà làm, nhằm mục đích mở thức thần của người quá cố,
nhưng đó là ý nghĩa tận hiếu của nhân sinh. Thậm chí như việc cúng
tuy không phong phú (thịnh soạn) nhưng cốt là ở sự thanh khiết. Cho
nên mới có câu rằng: thờ lúc chết như thờ lúc sống vậy. Đức Khổng
Tử nói rằng:
-
“Không phải việc ăn uống mà chí hiếu sao?”
Quỉ
thần xét luận lời chí hiếu thì tự làm dù tiết chế, cúng tế hẳn đầy
đủ mới là biết vậy. Gần đây thấy tăng tục, do người có chỗ không
kham nổi cái ăn để cung cấp, là ý của tâm không hiếu kính mà chuốt
lấy tội càn rỡ cao ngạo, thật đáng lấy làm buồn thay!
Tiết
Thanh Minh tại phòng khách, trai đường chùa viết tờ thông cáo dán
cho biết ngày quét dọn tháp. Thông cáo viết: ngày mai là lễ Thanh
Minh quét tháp. Chư tăng sau khi nghe hiệu lệnh, đắp y chỉnh tề đến
trước tháp Tổ để làm lễ và quét dọn. Thầy Tri Sự phân phối người
quét dọn các tháp từ trong ra ngoài cũng như con đường tới tháp.
Thầy Tri Khách lên phòng Phương Trượng hỏi thầy Trụ Trì thời giờ,
phân định giờ giấc và thông báo cho Duy Na biết lễ tiết, chuẩn bị
mọi việc.
Đúng
ngày Thanh Minh sau thời Kinh sáng hoàn tất, đại chúng điểm tâm,
công tác xong. Khi nghe hiệu lệnh, tất cả tập trung tại Tổ đường lễ
Tổ, Thầy Trụ Trì có thể nói sơ về công hạnh Tổ hoặc cắt đặt lau quét
tháp. Hòa Thượng Phương Trượng chỉ định việc phải làm. Sắp xếp đồ
cúng trên bàn thờ Tổ, bàn thờ chư hương linh đàn na đều bày đồ cúng,
hương hoa, đèn nến, thức ăn. (Xem 2 chương đầu, trong điều chấp sự).
Đến giờ hành lễ, đại chúng vân tập lên chánh điện. Thầy Trụ Trì niệm
hương (nghi thức xem nghi lễ tháp có đầy đủ), lễ 3 lạy xong. Thầy
Trụ Trì cầm chổi quét tháp từ trên chóp đến dưới nền, bỏ chổi, quay
lại bàn, tái niệm hương.
Thầy
Duy Na cử tán:
"Lư
hương…"
Nam
Mô Thanh Tịnh pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật (3 lần).
Kế tụng
Tâm Kinh, Chú Biến Thực, Cam Lồ Thủy, Phổ Cúng
Dường… Cúng xong, Thầy Trụ Trì thuyết pháp. Tháp Tổ Khai Sơn và
các vị kế thừa, ngoài ra tùy nghi. Thuyết pháp xong, kết thúc hồi
hướng. Dẫn khánh tiến ra ngoài cúng tháp. Nghi thức như trên. Sau
khi cúng xong, đại chúng phân đều ra thăm các tháp, Thầy Trụ Trì lui
về.
Thầy
Giám Viện niệm hương, lễ tháp, đại chúng tụng Kinh Di Đà,
Chú Vãng Sanh (3 lần), cúng ngọ. Cuối cùng xướng:
- "Nơi
pháp hội liên trì
Có Đức
Phật A Di
Và Quan
Âm, Thế Chí
Rước
người lên sen quí
Xin giữ
nguyện kiên trì
Cõi
trần quyết thoát ly".
Nam
Mô Tịnh Độ Phẩm Bồ Tát (3 lần).
Đại
chúng cùng lạy 3 lạy rồi lui. Ban Kinh sư tới bàn cúng cô hồn tiếp
tục cúng thí hoặc tới các tháp Tổ, hoặc một ngày khác, chỉ Thầy Trụ
Trì và 2 thầy có phận sự quét tháp và dâng đồ cúng, đại chúng không
cần đi. Như chi phái chính hoặc có giới tử hay đệ tử thế độ (xuất
gia) từ nơi khác đến tảo tháp, nên tiếp ở phòng khách; hỏi họ tôn ti
mối liên hệ, nếu là đệ tử cả của Trụ Trì xử lễ như bậc tôn túc (xem
chương Trụ Trì ở sau, điều nói về các bực tôn túc). Nếu như đồng
hàng trở xuống thông báo cho Thầy Trụ Trì, thủ khố, Duy Na biết và
mời ấn định thời gian theo nghi cúng đầy đủ như nghi tảo tháp có
cúng ngọ như trên. Nhưng mời đại chúng cùng tụng kinh, Trụ Trì phụ
quét hay chỉ quét một tháp hoặc 2 tháp tùy theo sự thích hợp của cá
nhân; hoặc tách riêng đại chúng không phải tụng kinh, hoặc trừ Trụ
Trì không dám phiền sự lao nhọc, cũng tạm đủ. Việc lễ các bậc tôn
túc tùy nghi sắp xếp, vị tri khách nên hỏi rõ ràng trước (phải cho
thật tế nhị việc này).
Chứng nghĩa
ghi rằng:
Lễ Tháp,
quét dọn tháp đều thích thời
tôn kính tổ tiên; thấy đá tháp hư hao, xem xét cây cối suy tàn. Trên
do Tổ linh, dưới đặt mối liên hệ thường trụ không thể bỏ lơ là được.
Gần đây phần nhiều bỏ việc tảo tháp, chẳng phải chỉ làm mất gốc lại
còn là nổi lo tổ ấn khiếm khuyết không còn người nữa. Là đệ tử của
Tam Bảo, ta nên cúng kiến chư Tổ chu đáo để mong ân đức Tổ
gia hộ tâm thành của hàng hậu bối.
Hết
quyển 4
Ghi Chú
1- Bích
quán Bà La Môn: người Bà La Môn nhìn vào vách để chỉ Tổ Bồ Đề Đạt
Ma. Ngài tới Trung Quốc năm 520 không hội được ý vua LươngVõ Đế, nên
tới dãy Tung Sơn tu thiền quán và xoay mặt vô vách chín năm và sau
đó đạt thành Sơ tổ Thiền Tông Trung Quốc và là vị Tổ thứ 28 của phái
Thiền nói chung.
2- Ba
minh: ba sự sáng suốt: 1. Túc mạng minh: biết rõ tất cả kiếp sống
trước của mình và của những người khác; 2. Thiên nhãn minh: mắt
thiên biết rõ đời mình và những chúng sanh khác sẽ diễn tiến ra sao;
3. Lậu tận minh: đoạn sạch hết phiền não, đau khổ và mê lầm trong
đời sống hiện tại.
3- Lục
thông: 6 phép thần thông: phép thông của thiên nhãn, phép thông của
thiên nhỉ, thông đạt tâm kẻ khác, phép thông vận hành (thần túc
thông), thông suốt các kiếp trước của mình và sạch hết phiền não
trói buộc dù nhỏ nhiệm đến đâu (lậu tận thông).
4- Tam
bạch yết ma: Tăng già hòa hợp chúng làm pháp Bố Tát hay truyền giới
đều phải làm phát yết ma hỏi ba lần mới hợp luật và đạo lý. Hỏi lần
thứ nhất, hỏi lần thứ hai và hỏi lần thứ ba. Khi hội đồng tăng biết
chắc là trong chúng không còn ai có ý kiến khác, tức là tất cả đồng
thuận việc mới thành tựu viên mãn.
5-
A-Xà-Lê: Tàu dịch là giáo thọ tức vị Thầy dạy đạo pháp. Trong đại
giới đàn 3 vị ngồI trên cao. vị chính giữa là đàn đầu Hòa Thượng, vị
bên phải là Yết Ma A-Xà-Lê, vị bên trái là Giáo thọ A-Xà-Lê.
6- Bát
nạn: 8 nạn trong đời sống là: 1. sanh vào cõi địa ngục; 2. sanh
trong loài ngạ quỉ; 3. sanh vào loài súc sanh; 4. sanh lên cõi trời
Trường Thọ; 5. sanh miền Bắc Cu Lô Châu (giá băng suốt quanh năm
không có ánh mặt trời); 6. sanh trước Phật hay sanh sau Phật cũng
đều bất hạnh; 7. giỏi luận biện bác làu thông theo thế trí; 8. đui
(mù), điếc, ngọng, câm.