LUẬT TẠNG

QUYỂN NĂM
 
Trụ Trì
---o0o---
           
            Lời thuật rằng, Trụ Trì gọi là chủ trì Phật Pháp; lập trụ trì ở Tòng Lâm là mượn người gìn giữ pháp làm cho tồn tại lâu ở đời không diệt. Luận về pháp là đạo của bậc đại thánh; có giới - định - huệ để duy trì được pháp; người làm việc trong tăng viện, duy trì là việc giữ pháp. Gốc có đứng vững thì mọi việc mới yên; việc yên nên gốc càng bền chắc. Cho nên người trụ trì có quan hệ rất trọng đại đối với Phật Pháp. Đáng đảnh lễ Linh Sơn Trụ Trì là Ngài Ca Diếp thống lãnh hết; trụ trì Trúc Lâm Tinh Xá là Xá Lợi Phất trông coi.
            Từ khi Phật giáo du nhập Trung Quốc trải qua 400 năm rồi Tổ Đạt Ma đến, lại truyền đến Tổ Bách Trượng; thời gian đó chỉ đem đạo truyền dạy, tuy cùng chúng đồng sống chung nhưng luật lệ lại đơn giản, qui tắc chưa hoàn bị, chưa có từ gọi Trụ Trì của thiền tông. Tổ Bách Trượng làm cho thiền tông hưng thạnh, trên từ vua tôi dưới đến sĩ dân đều hướng về học đạo. Thống nhất đưa Thiền về một gốc, thế chẳng thể không chuyên môn một người mà người này tạm chẳng xưng vị thì đạo chẳng sáng, chẳng được người tôn sùng thể đạo ắt pháp không lập được.
      Trong khi đó mới cống hiến một mu người lỗi lạc là Trụ Trì thiền tông, nhưng gọi là Trưởng Lão, vì đức độ rộng đáng tôn. Dần lại tạo nhà rộng để chúng ở lập thành hai dãy; chia phân người trông coi mà chế độ nấu ăn bắt đầu cụ thể. Nhưng cái thế của Trụ Trì tuy tôn trọng mà đến như làm việc chúng cũng chia đều làm việc. Như Ngài Bách Trượng, hể một ngày không làm việc là một ngày không ăn (nhất nhựt bất tác, nhất nhựt bất thực), là qui tắc hàm ý nghĩa mà Trụ Trì phải biết. Cho nên đương thời do chúng thúc đẩy hoặc do lệnh quan trên, do lời mời cất nhắc đưa lên mà Trụ Trì không nhận chức. Trọng trách thật nặng mà không đáng hâm mộ tới việc quan; thậm chí như ngày nay nhờ sự dồi dào của thuế má, chiếc xe chở an ổn đều là việc của Trụ Trì không lạ sao? Sang giàu lấn xen như món hàng kỳ lạ. Than ôi! Trụ trì chẳng phải người như thế. Một ngôi chùa bỏ hoang phế phương hại đến đời sau như thế nào rồi, thậm chí trong vòng một nghìn năm mà không có thể phục hồi được không đáng tiếc lắm thay! Người sau cử người vào Trụ Trì thật là may mắn thay! Xử lý vai trò Trụ Trì nên phải thận trọng; chọn người thành thật hơn là ở cho có người đạo pháp mới mong sáng tỏ. Thành lập Ban Điều Hành mọi việc sẽ được giải quyết êm đẹp.
            5.1  Thượng Đường
            Phàm có Phật tử tới chùa cúng dường nên định ngày, chùa ra thông báo mời, hoặc sau khóa lễ Tịnh Độ tối có buổi họp chúng. Tại phòng khách, gõ 3 hồi 3 bảng tập họp chúng, chuẩn bị thức ăn đầy đủ. Tri Khách mời người cúng dường ra trước đại chúng lễ chư tăng 3 lạy xong, Tri Khách bạch chúng: "Hôm nay, tỉnh… phủ…huyện…, tên họ thí chủ tới chùa", đặc biệt thỉnh 2 liêu chúng, tới thỉnh Hòa Thượng Phương Trượng, ngày mai thượng đường. Bạch xong, gõ 3 hồi khánh và 3 tiếng, chúng 2 dãy phòng trước hết tới phòng Hòa Thượng Phương Trượng, sắp hàng đứng 2 bên; kế trai chủ bưng khay lễ để lên pháp tòa Phương Trượng. Tri Khách hướng dẫn trai chủ chấp tay tác bạch Hòa Thượng Phương Trượng. Thị giả báo chư Tăng hay, Thầy Phương Trượng đến chư tăng xá một xá, nhưng vẫn đứng nguyên hai bên. Tri Khách hướng dẫn trai chủ ra phía trước đứng chính giữa xá 3 xá rồi lui phía sau. Tri Khách một mình đứng giữa tác lễ, chấp tay bạch rằng: ngưỡng bạch Hòa Thượng từ bi nhẫn nghe, nay có trai chủ (tên) hộ pháp, vì việc… đến bổn sơn tự cúng dường trai phạn. Kính mời đại chúng hai liêu và cần cầu thỉnh Hòa Thượng ngày mai thượng đường, vì đại chúng thuyết một thời pháp. Ngưỡng mong Hòa Thượng mở lượng từ bi mặc nhiên hứa khả (chấp thuận) đến chứng minh. Bạch xong, chờ Hòa Thượng đáp:
            - "Mô Phật, được ngày mai Thầy sẽ đến". Lễ 1 lạy rồi lui.
            Mời trai chủ vào cầm nhang lên vái, lạy 3 lạy. Thầy Trụ Trì đáp từ xong. Thầy Duy Na nói: 2 hàng đại chúng chư tăng, đảnh lễ Hòa Thượng 3 lạy. Lễ xong, người sau cùng đi trước lui ra phòng khách, mời trai chủ cảm tạ, đại chúng lui về chỗ.
            Sáng hôm sau, công phu xong, điểm tâm, công tác hoàn tất, nghe hiệu lệnh đại chúng vân tập Tổ đường lạy Tổ. Phân 2 bên đi vào chánh điện chấp tay nghiêm chỉnh. Thị giả thỉnh Hòa Thượng Phương Trượng chứng minh, Hòa Thượng niệm hương, cắm hương lên lư. Tiếp theo, trai chủ niệm hương, cắm hương lên lư, đảnh lễ Tam Bảo. Đốt 3 cây nhang cắm lên thảo lư, chuông trống bát nhã trổi 3 hồi, 4 tiếng. Đại chúng tránh qua 2 bên, thỉnh Hòa Thượng... Duy Na hô hàng sau đi trước vào phòng khách. Tại phòng khách mời 2 vị là Duy Na, Duyệt Chúng hướng dẫn lễ. Thị giả bưng khay lễ đi trước, kế đến lư nhang, kế nữa là bê tích, lọng 4 hoặc 6 người bưng. Trụ Trì cầm chuỗi Như Ý, chống tích trượng; thị giả theo sau; đại chúng tới pháp đường hay Phật điện, phân ra đứng đều 2 bên. Tri Khách mời trai chủ đứng một bên phía dưới. Trụ Trì tiến ra chính giữa phía trước lên tòa ngồi; thị giả đứng bên cạnh. Duy Na câu chung bảng, trống, tán:
            - "Lư hương…".
            Tri Khách mời trai chủ niệm hương, Trụ Trì niệm hương, thị giả đỡ hương cắm vào lư.
            Duy Na xướng:
            - "Nam Mô Vân Lai Tập Bồ Tát Ma Ha Tát" (3 lần).
            Lễ 3 lạy xong, chúng đứng đối diện 2 bên; duyệt Chúng gõ 3 hồi, 3 tiếng khánh. Duy Na bạch:
            - “Pháp diên chúng long tượng, đương quán đệ nhứt nghĩa”.
            Trụ Trì mở lời, tùy cơ mà khai thị. Hàng hạ tọa (thấp) muốn thỉnh vấn nên thành tâm chân thật tham cứu; phải chấp tay hỏi bằng giọng nhỏ nhẹ hòa nhã, xong rồi Trụ Trì thuyết pháp hoặc mời một thầy khác. Chờ cho thời pháp xong, Duy Na bạch rằng:
            - “Quán kỹ pháp Phật, Phật Pháp như thị”; nhập một hồi khánh.
            Chúng lui ra, người sau cùng đi trước. Khay lễ, bê tích, phất trần ra trước đến liêu phòng Hòa Thượng Phương Trượng. Tri Khách hướng dẫn trai chủ đảnh lễ tạ Hòa Thượng và chư tăng.
               (Phần Cúng Ngọ…Xem thêm nghi thức phạn tăng ở sau.)
            5.2  Các Ngày Thánh Tiết
            Tết Nguyên Đán, Lễ Phật Đản, Phật Thành Đạo, Kiết đông, giải hạ (ra hạ sau mùa an cư) không thường cũng phải ở Phật điện. Thầy Giám Viện được mời điều động nghi thức trên, duy chỉ không hương tín, tự thẩn, tề thẩn, công thẩn. Khi vào chánh điện, tu tập mùa đông chúng phải bỏ nón ngũ ngoài không nên đem theo bên mình. Thí chủ mời pháp sư thăng tòa thuyết pháp.
            Chứng nghĩa ghi rằng:
            Phàm người thăng tòa thuyết pháp phải chí tâm nghe kỹ không nên gây khó khăn cho đại chúng làm cho mọi người thoái tâm, cũng như không làm động chúng mà nên dung dị. Nghe tới những sự thành bại, ắt có cơ hội phát sanh. Đó không phải là ngôn ngữ của người có học. Chỉ nghe miệng bàn luận có thể như rắn uống nước thành nọc độc; bò uống nước thành sữa; người tin tưởng học thành Bồ Đề, kẻ ba lơn học thành sanh tử là vậy. Pháp không phải là người; cũng như không được sanh nơi cao mà có tư tưởng khinh thường, ngược lại làm ngăn ngại tự tâm. Do vậy nên nói rằng, y theo pháp chứ không y người là vậy. Cho nên lúc nghe pháp, phải lắng lòng thanh tịnh mà nghe, thu nhiếp các căn, trần để lãnh hội. Giá có nghi vấn phải tìm hỏi ngay không nên che dấu, lấy đạo làm tâm niệm; trừ sạch mọi thói xấu, giữ cho được nhất tâm. Cần tu quán dùng lực chuyển sâu, rèn luyện mà tu tập để đạt lợi ích thanh tịnh. Như thế, một thời gian lâu định huệ phát hiện ngay nơi tự tâm. Người chí thành thuyết pháp phải đưa ra điểm chính để cho giới có học nắm được lợi ích; bằng hình thức vấn đáp, nói chung vì vấn đề sanh tử là việc lớn phải chặt đứt mối hồ nghi; không thể dùng người mù dắt người mù, người ngu dẫn người ngu. Giá tự mình thấy kém không bằng người, chẳng cần phòng giữ mà có thể chuyển qua; mời một vị pháp sư hiền đức thay thế. Như có thiền khách nêu hỏi, nên thành thật trả lời, chân thành bày tỏ ý mình. Ví mua tài lộng ngôn hẳn chiêu lấy ác báo.
            Sách Thiền tông bí yếu ghi:
            Căn cứ theo sách thiền tông Thiên Thai, dưới tòa Thiều Quốc Sư có Hòa Thượng Minh Hưng giáo hỏi rằng:
            - "Ẩm Quang mặc y 6 trượng của Thích Ca, vào núi Kê Túc chờ Phật Di Lặc hạ sanh. Y dài 6 trượng đắp lên thân một nghìn thước hợp cở là dễ dàng. To lớn như Thích Ca thân cao 6 trượng, Di Lặc 1000 trượng, phải thu thân ngắn lại ư? Hay y mở rộng thêm ra?"
            Quốc Sư trả lời:
            - "Ông không lãnh hội, ngày mai cuốn áo đi ra".
            Sư nói tiếp:
            - "Thằng con nít, sơn tăng nếu trả lời ông không đúng, phải có nhân quả; nếu ông không đúng ta phải thấy đó".
            Ngày hôm sau trở về chỉ ngày đâm ra thổ huyết. Phù Quang Hòa Thượng khuyên rằng:
            - "Ông mau tới sám hối".
            Sáng hôm sau Sư bèn tới liêu Phương Trượng (Quốc Sư), khóc kể rằng:
            - “Mong Hòa Thượng từ bi cho con sám hối”.
            Quốc Sư nói:
            - "Như người ngã xuống đất, từ đất mà đứng lên, không hiểu lời ta dạy, ông đứng lên ngã xuống, mai lại nói tiếp. Nếu hứa cho sám hối thì một người suốt đời cứ dựa thế". Quốc Sư bèn nói một hơi:
            - "Phật Phật đều đạo
            Chẳng có thấp cao
            Thích Ca, Di Lặc
            Như ấn, đóng vào".
            Căn cứ vào câu chuyện này cho thấy nêu lên vấn nạn không phải là dễ. Lộng ngôn xão ngữ như lưỡi búa trong miệng há không thận trọng hay sao ?
            5.3  Phần phụ: Năm Cách Tham Vấn
            5.3.1  Tham Vấn Tối - Tiểu Tham
            Công việc hằng ngày của Trụ Trì là hoằng pháp, trừ ngoài giờ thượng đường ra, ngày rằm giữ theo lệ thuyết pháp hẳn việc này không thể lơ là buông lõng được. Nếu tham vấn lúc thuyết pháp, hai dãy ghế ngồi bên dưới chúng đứng lên. Thầy Trụ Trì đăng tòa (vào chỗ ngồi) trước khi ngồi phải lạy Phật, để chúng tham chiếu học theo. Phàm nhóm chúng khai thị đều phải tham cứu cổ nhân. Khuôn rập theo khiến chúng sớm tối không buông lung; không phải thời mà chẳng kích bác đạo. Mỗi tối phải có thời tham vấn riêng gọi là tham vấn tối, hoặc sáng sau khóa lễ, chúng tới phòng Hòa Thượng Phương Trượng tham vấn. Nghi thức giống như thượng đường, gọi là tiểu tham. Ngoài ra, gặp khi an cư, giải hạ, đêm đông, tiết đông, đối trước chư linh v.v.. đều nói tiểu tham (một bài khai thị ngắn gọn, ý nghĩa sâu sắc). Mới đầu không định nơi chốn, mà xem số chúng nhiều ít, hoặc tại phòng Ngài Phương Trượng, hoặc tập trung nơi giảng đường, trước trai đường v.v.. chuẩn bị cuộc tiểu tham. Hoặc tại chánh điện, quét dọn sạch sẽ chúng cùng ngồi dưới đất hoặc trải tọa cụ, xong đâu đó một vị đi mời Hòa Thượng hoặc một vị pháp sư đăng tòa ban lời khai thị. Chúng nêu nghi vấn những gì không hiểu để Thầy giải đáp về việc tu tập, công phu, bái sám, việc chùa, việc chúng v.v…
            Chứng nghĩa ghi rằng:
            Xưa ở Phần Dương, Chiêu Thiền Sư ở viện Thái Tử tại Phần Châu, vì một phần đất sông Phần quá lạnh nên bỏ tham vấn tối. Có một tỳ kheo lạ chống tích trượng đi tới gọi Sư hỏi:
            - "Trong chúng hội đại sĩ có 6 người, tại sao không thuyết pháp?"
            Nói xong lẫn vào hư không mà biến mất. Có để lại Sư bài mật kệ, ghi rằng:
            - "Hồ tăng cầm tích trượng vàng
            Vì pháp đến đất Phần Dương
            Sáu người là bậc Đại sĩ
            Khuyến thỉnh vì pháp tuyên dương".
            Lúc bấy giờ Sở Viên giữ vườn hiệu Thượng Thủ mà Sở Viên từ là Từ Minh. Về sau có một thời ở Thạch Sương, là Giám tự Hội Công tại Dương Kỳ, chúng mời thuyết pháp ban đêm. Từ Minh nói rằng;
            - "Tối mà thăng tòa, quy tắc này từ đâu có?"
            Hội chúng đáp:
            - "Phần Châu tham vấn tối, không phải là mực thước sao?"
            Từ Minh lãnh hội được ý.
            5.3.2  Phụ: Trà Đàm - Ngày Rằm, Mồng Một
            Mỗi tháng 14 và 30 cạo tóc, sám hối, mặc y phục sạch sẽ. Sau giờ ngọ trai, có chỉ tịnh (nghỉ ngơi), tắm rửa. Buổi chiều, giờ học xong, dùng dược thạch. Đại chúng nghe hiệu lệnh y hậu chỉnh tề lên Tổ đường lễ Tổ, vào chánh điện lạy sám hối hồng danh. Sau khi sám hối xong đại chúng lui ra giải y, chờ có hiệu lệnh vào Thiền đường hoặc trai đường dự buổi trà đàm hay tiểu tham. Qui tắc buổi tiểu tham như sau: Hòa Thượng Phương Trượng mời 2 liêu chúng tham gia: một bên quán sát hỏi chỗ kiến giải; bên kia bình luận công việc thường trụ (y luật kỳ Bố Tát vào 2 ngày này).
            5.3.3  Lễ Thù Ân Vào Sáng Rằm, Mồng Một
            Sau thời Kinh Lăng Nghiêm, tới "thượng lai hiện tiền…" đảnh lễ Phật, Bồ Tát, Tổ Sư, ân Thầy, cha mẹ, thí chủ, quốc vương, những người làm công quả, chư vị thiên thần giữ gìn ủng hộ già lam v.v…
            5.3.4 Vào Thất Thỉnh Giáo
            Mỗi tháng các ngày mồng 3, 8, 13, 18, 23 và 28 là những ngày Hòa Thượng Phương Trượng treo bảng nhập thất. Nhập thất có nghĩa là người kham nhẫn chuyên tu học đạo. Văn sách người ấy chưa đạt đến, điều chánh bị tà chấp, như lò luyện kim, bao nhiêu quặng, chất chì lọc sạch không còn lưu lại gì. Người ngọc sánh với ngọc, đá ngọc bỏ hết không nệ tối sáng, không chọn nơi chốn ở đâu cũng có thể thực hành được. Người học vào thất thỉnh giáo phải thành tâm, đắp y tề chỉnh mang theo tọa cụ. Trước phải thưa cho Thầy Trụ Trì biết để Thầy ấy cho người dẫn tới thất Hòa Thượng. Người hướng dẫn thường là thị giả, thị giả đứng trước cửa khảy ngón tay 3 lần hay bấm chuông 3 lượt. Ngài Hòa Thượng mở cửa, xá chào rồi đưa người tham vấn vào, lạy 3 lạy quỳ gối chấp tay cầu xin khai đạo nói:
            - "Kính bạch Hòa Thượng, con tự nghĩ suốt đời tham học chưa tỏ ngộ được hết, chưa khám phá được một tơ hào chỗ bí tàng, chưa đủ hiểu biết cái vọng chấp của tự thân, ngang tạo dị thuyết, múa may quay cuồng".
            Hòa Thượng đương nhiên sẵn từ tâm xót xa nghe đệ tử như kim châm vào mình. Ngài đề cập gìn giữ duy trì sự tiến bộ là điều trước nhất. Hòa Thượng khai thị xong, đứng lên lạy tạ rồi lui ra; theo thị giả về phòng khách không nên tự ý không theo khuôn khổ. Không để thì giờ trống không mà cô phụ chí phát tâm xuất gia ban đầu.
            Chứng nghĩa ghi rằng:
            Việc nhập thất, là người có học nên thật thận trọng thỉnh giáo. Vị Thầy nhập thất nên tận tâm chỉ bày để không phụ người hỏi. Nếu người học tham vấn không thật tâm, vị thầy đạo nhãn thiếu sáng suốt nào có khác chi nương hình dáng vẽ mèo, chỉ phỏng dựa đáp ứng sự tích xưa mà thôi. Thời gian gần đây các Ngài trừ một vài vị chân tu ở thiền lâm, chuyên việc nhập thất ra, đa số thiếu hành, thật là đáng tiếc thay.
            5.3.5 Đi Tuần Liêu
            Theo Thanh Quy cổ mỗi tháng ngày mồng 3 và 28 chùa tụng Kinh Nhân Vương. Một năm bốn dịp đi tuần liêu. Trước tăng xá dán bảng tuần liêu, thông báo để chúng các liêu biết. Chuẩn bị hương đèn, trà nước, chúng nghe hiệu mộc bảng tập trung trước liêu, đợi Thầy Trụ Trì đến cùng đi vào các liêu. Liêu trưởng đốt nhang đưa cho Thầy Trụ Trì niệm, xong toàn chúng đều xá xuống 3 lần. Tất cả cùng ngồi xuống hỏi thăm nhau về sức khỏe, việc học hành, ăn uống, tu tập, kiểm điểm việc thiếu đủ ra sao; mỗi việc Trưởng Liêu cứ tình thiệt trình bày để chùa bổ túc, cải thiện, nếu việc bất cập. Xong rồi chúng đứng lên tiển Thầy Trụ Trì lui về. Cũng có thể tuần liêu vào 2 ngày Rằm và Mồng Một không cần treo bảng. Ngày nay tuần liêu tháng 4 lần, ngày mồng 3 và mồng 8 tụng Kinh cũng không làm. Mỗi khi gặp ngày Rằm, Mồng Một lễ thù ân chúc Thánh có nơi thay vào tụng Kinh; nói chi việc tuần liêu, Trụ Trì mỗi ngày sáng chiều 2 thời khóa tụng, lúc lạy Phật đi chung quanh lạy các thánh tượng, tùy nghi đi tới các liêu hỏi thăm huynh đệ, kiểm điểm việc chùa viện…
            Chứng nghĩa ghi:
            Luật Tăng Kỳ ghi rằng; Thế Tôn lấy 5 việc, thường nên 5 ngày một lần đi tuần các tăng phòng vì:
            1- Sợ đệ tử đắm việc đời
            2- Sợ mắc vướng luận bàn thế tục
            3- Sợ đắm mê ngủ
            4- Vì để xem xét chúng bịnh
            5- Làm cho các tỳ kheo nhỏ tuổi quán oai nghi Phật, sanh lòng hoan hỷ.
            Ngày nay vị Trụ Trì tuân lời Phật cũng đi tuần các liêu chúng như vậy. Đó là lý do đi tuần liêu mỗi tháng 4 kỳ.
            5.3.6 Giữa Chúng
            Nói công khai là nghi cách khởi sự dừng lại cùng với tiểu tham, tương tự gần giống tiểu tham. Chỉ có Trụ Trì nói lời khai thị ngay tại thiền đường; trong khi nói công khai có nhiều loại không giống nhau. Như Trụ Trì nói, hoặc cáo hương, hoặc thông báo trước khi kiết hạ, giữa hạ, hay làm một Phật sự gì đặc biệt. Hoặc nhân thỉnh khai thị, hay cầu thầy giải quyết nghi vấn, vì hành giả mà thuyết, hoặc cảnh sách để khuyên bảo hành giả, hoặc khích lệ đạo đức cổ nhân… Vì lời văn dài ý nghĩa đầy đủ nên gọi là nói rộng (hay công khai). Bắt buộc hoặc ra lệnh khiến mọi người đều phải nói, tùy theo lời của họ mà bàn luận. Dùng giấy bút viết thành câu văn thật đàng hoàng nghiêm chỉnh ghi lại những ý chính quan trọng.
            5.4  Cáo Hương
             Tòng lâm cổ y theo luật kiết hạ, mỗi lần trước kiết hạ có phần cáo hương, chưa làm lễ cáo hương không cho nhập thất. Lễ cáo hương ở phòng Phương Trượng hoặc tại thiền đường. Nay theo thiền tông trong mùa kiết đông có thêm một ngày. Khi có hiệu lệnh cáo hương, chúng đắp y hậu chỉnh tề vào bàn Tổ hay trước điện Vi Đà hộ pháp. Trụ Trì niệm hương, cắm hương lên lư, lễ 3 lạy.
            Duy Na xướng tán:
            - "Lư hương…"
            Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát (3 lần).
            Chúng đứng thành 2 hàng đối diện nhau. Thầy Trụ Trì bạch lớn giữa chúng rằng:
            Nhà tối tâm giảm, mắt thần như điện sáng; thiện ác báo ứng như bóng theo hình chỉ có đến sớm hay chậm mà thôi, trọn không trót lọt được. Cẩn bạch đại chúng, nghĩ kỹ mỗi sự thực càng nơm nớp càng kinh sợ thêm, hầu răn dè cẩn thận đó.
            Bạch xong, đến trước tượng Vi Đà niệm hương, lạy 3 lạy, quỳ gối chấp tay bạch rằng:
            - "Con tên… Trụ Trì, như tòng lâm không thông suốt, Phật pháp không lưu truyền là do chúng yểm che, tổn hại của tín thí, cho con đang trong số đó, bớt lộc giảm thọ, tật xấu bao vây thân, hoặc gặp nạn dữ, chỉ cho đại chúng thấy rõ. Khi mạng chấm dứt đọa vào trong 3 đường ác thú. Chỉ thần giáng lâm, lấy đó cảnh báo người sau".
            Từ đây trở đi, mỗi vị nên chuẩn bị nhuần nhuyễn cho lời đọc cáo hương. Cáo xong xá một xá rồi lui về vị trí. Các chúng trưởng tiến vào niệm hương, quỳ bạch rằng:
            - "Chúng con là… các chúng trưởng chúng A, B, C… Nếu 3 nghiệp không tinh chuyên, 4 oai nghi không toàn vẹn, buông lung thô tháo, nợ của thường trụ khiến cho chúng con hiện đời bị chìm đắm trong 3 đường ác. Ngưỡng mong oai quang chứng giám gia hộ chúng con tội báo tiêu trừ, căn lành tăng trưởng".
            Kế tiếp, Duy Na niệm hương, quỳ gối chấp tay và đọc lớn tiếng:
            - "Con… Duy Na: như do tư tâm tà chấp, ỷ thế khinh khi áp đảo, cô phụ nhiều người; chấp sự không tròn khiến con hiện đời…"
            Tiếp theo các vị Đô Giám, Giám Viện, Phó Trụ Trì, đệ tử kế thừa v.v… tiến ra trước điện Vi Đà đứng giữa niệm hương, xá 3 xá, quỳ gối chấp tay bạch rằng:
            - "Con Giám Viện, nếu dung chúng hẹp lượng, tâm thương chúng mỏng bạc, xâm công lợi tư, mê mờ nhân quả khiến con đời này…"
            Kế Phó Trụ Trì, Tri Chúng, Tri Khách, Chúng Trưởng, đệ tử kế thừa v.v... hể người điều hành việc chúng đều ra bạch cả:
            - "Con… Tri Chúng, nếu ghét nghèo chuộng giàu, trọng tục khinh tăng, phí của thường trụ (Tam Bảo), do ý đồ ưa thích, khiến con hiện đời ..."
            Kế thiền đường thanh chúng… Nếu người điều hành nhiều lên 10 người cùng ra trước bạch giống như vậy:
            - "Con… Thanh chúng, nếu giải đãi (biếng nhác) tìm nhẹ lánh nặng, không làm xong việc, tốn hao của tín thí, nợ của thường trụ…"
            Kế các chức sự khác 5, 10 người cùng lên tác bạch:
            - "Chúng con… (nêu chức vụ đảm trách trong chùa), nếu không hết lòng làm phận sự, cố hiểu lầm chúng, phí của thường trụ mà giữ cho riêng mình an, khiến chúng con hiện đời v.v…" Cáo còn có nghĩa kính cáo, bày tỏ cho bề trên biết, hương là thơm, là tinh khiết. Người dâng hương tỏ bày tận tấm lòng mình trong lúc làm việc không tránh khỏi va chạm, mục đích là để thần minh chứng minh; cho đại chúng hiểu rõ phận sự điều hành của mình, và cũng để tự thân khắc phục sửa sai lỗi lầm sái phạm. Tất cả chức sắc điều hành viện đã ra dâng hương bày tỏ xong, đứng thành 2 hàng chúng xây mặt đối nhau. Duyệt Chúng lấy mõ nhỏ tất cả cùng ngồi xuống tụng Kinh Phạm Võng về 2 giới không phát thệ nguyện, như sau:
            - "Phật thuyết Kinh Phạm Võng, phẩm Bồ Tát tâm địa, nếu Phật tử, thường phải phát nguyện hiếu thuận với cha mẹ, sư tăng, mong gặp được thầy hay, bạn tốt, bậc thiện tri thức, thường dạy ta Kinh Luật Đại Thừa về 10 phát thú(1) , 10 trưởng dưỡng(2) , 10 Kim Cang(3) , thập địa(4) , khiến cho ta khai mở, như phát tâm tu hành, kiên trì giữ giới luật Phật chế, thà bỏ thân mạng, niệm niệm không rời tâm. Nếu Bồ Tát không phát tâm nguyện như thế, phạm khinh cấu tội".
            Nếu Phật tử phát 10 đại nguyện rồi, gìn giữ cấm giới của Phật, đọc lời phát nguyện này:
            - "Thà đem thân này ném vào lửa dữ hừng cháy; hầm lớn, núi đao trọn không hủy phạm Kinh Luật 3 đời chư Phật; và cùng tất cả người nữ làm hạnh bất tịnh". Cũng nguyện rằng:
            - "Thà lấy lưới sắt nóng buộc nghìn vòng quấn quanh thân trọn không để thân phá giới này".
            Nhận của đàn việt tín tâm tất cả y phục cũng phát nguyện rằng:
            - "Thà dùng miệng này nuốt hòn sắt nóng và chịu lửa dữ cuốn đi trải qua trăm nghìn kiếp trọn không để miệng phá giới này".
            Ăn của tín thí đàn việt trăm vị thức ăn, lại phát nguyện rằng:
            - "Thà để thân này nằm trên lửa dữ lưới bao quanh sắt nớng trên đất, trọn không để thân này phá giới".
            Nhận của tín tâm đàn việt trăm loại giường, tòa ngồi lại cũng phát nguyện rằng:
            - "Thà để thân này chịu 300 kim nhọn đâm vào mình qua một kiếp, hai kiếp, trọn không để thân này phá giới".
            Thọ của tín thí đàn việt trăm vị thuốc thang cũng phát nguyện rằng:
            - "Thà đem thân này ném vào vạc đồng sôi trải qua trăm nghìn kiếp trọn không đem thân này phá giới".
            Nhận của tín thí trăm loại phòng xá, nhà cửa, ruộng đất, vườn tược, rừng cây cũng lại phát nguyện rằng:
            - "Thà lấy dùi sắt dùi thủng thân này từ đầu đến chân khiến thành tro bụi, trọn không để thân này phá giới".
            Nhận của tín thí đàn việt sự lễ bái cung kính lại cũng phát nguyện rằng:
            - "Thà để trăm nghìn mũi dao sắt cháy đỏ đâm vào 2 con mắt, trọn không để tâm này phá giới".
            Thấy người hiếu sắc cũng lại phát nguyện rằng:
            - "Thà lấy trăm nghìn dùi sắt đâm thủng nhãn căn trải qua một kiếp, 2 kiếp, trọn không để tâm này phá giới".
            Nghe âm thanh hay cũng phát nguyện rằng:
            - "Thà lấy trăm nghìn mũi dao nhọn cắt bỏ mũi đi, trọn không để tâm này phá giới".          
            Tham nếm các mùi thơm cũng phát nguyện rằng:
            - "Thà lấy trăm nghìn mũi dao nhọn cắt đứt lìa lưỡi ra, trọn không để tâm này phá giới".
            Người ăn trăm món cao sang cũng lại phát nguyện rằng:      
            - "Thà lấy búa bén bửa rả thân ra, trọn không để tâm này phá giới".
            Tham đắm vuốt ve xúc chạm cũng phát nguyện rằng:           
            - "Nguyện tất cả chúng sanh đều thành Phật, thành Bồ Tát; nếu không phát nguyện ấy là phạm khinh cấu tội".
            Tụng xong, đại chúng cùng đọc bài kệ hồi hướng:
            - "Cúi lạy Vi Đà Tôn Thiên,
            Oai linh thưởng phạt phân minh,
            Kẻ thiện hay giáng phước,
            Người gian ác gặp tai ương.
            Cúi lạy Vi Đà Tôn Thiên,
            Oai thưởng phạt phân minh,
            Người trung thường giáng phước,
            Kẻ nịnh bị cực hình.
            Cúi lạy Vi Đà Tôn Thiên,
            Oai linh hộ tòng lâm,
            Người nào phá quy tắc,
            Ương họa gặp tức khắc.
            Cúi lạy Vi Đà Tôn Thiên,
            Xét tra chân giả tình,
            Hiện tại người bạch hương,
            Thề ghi nhận tinh tường.
            Cúi lạy Vi Đà Tôn Thiên,
            Tuần tra chúng phân minh,
            Một câu hợp một câu,
            Mỗi câu đáp rành rành".
            Phật thuyết Kinh Phạm Võng:
            - "Vì có người phát nguyện thọ giới, giữ giới nhân đây khuyên gắng giữ gìn; kẻ phá giới nhân đây chữa lành (bịnh). Nếu nói tâm chân chánh cần dùng lời thề nguyện làm gì. Đây với người ngôn từ hoa mỹ muốn lung lạc tâm kẻ khác để thủ lợi, sợ đứng thề trước thần, tại sao phải tại tòng lâm? Vi Đà thiên cầm chày đáng sợ nên cẩn trọng chớ tự dối mình mà phụ lòng người cáo hương. Bướng bỉnh ngẩng đầu banh da khấn lạy thần linh hiển gia tăng gấp 3 lần làm cho tòng lâm sắp suy hoại bại, gian tà dần tiến tới; khấn cầu lực Thần Thánh chóng ban ân phước để trừ sạch".
            Tụng xong cử tán bài:
            - "Thần Vi Đà Thiên Tướng
            Là Bồ Tát hóa thân
            Ủng hộ Phật pháp nguyện cao thâm
            Cầm Bảo xử trừ ma quân
            Công đức thật khó lường
            Tùy loài giúp quần sanh.
            Nam Mô Phổ Nhãn Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).
            Chứng nghĩa ghi rằng:
            Cáo hương lập thệ;  lời thệ hẳn là tâm phải bền vững; mới đầu tâm còn yếu nên phải cần hành trì. Nên phát thệ nguyện để giữ mình. Nếu không phát tâm thệ nguyện  đạo do đâu thành chứ ? Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển 38 ghi rằng: "Tỳ kheo không phát thệ nguyện trọn không thành Phật đạo. Phước của thệ nguyện vô cùng không thể kể hết, như vị cam lồ rưới sạch chỗ nơi.  Muốn duy trì  tòng lâm hẳn cần nên cáo hương để chứng tỏ  sự thanh bạch.  Nhưng thanh bạch cùng không chỉ mình tự biết, người khác không biết được.  Con người không biết nhưng thần minh biết rất rõ. Giá như  có ngu tăng dối láo  đối với  thần  tự cho rằng  thần là gỗ, bùn đất;  nếu  tỏ ra khinh  thường  tham  muốn  bưng bít ắt rơi vào  quả  báo  xấu ác.  Giả sử  hiện thời chưa bị quả báo, cuối cùng hẳn thọ nhận lấy họa tai. Không ai chạy trốn được,  không  đáng sợ  hay sao!"
            Hỏi:
            - "Nguyện phần nhiều là mong đợi, thề là loại nguyền rủa, dường như không thích hợp với người tu hành?"
            Đáp:
            - "Thề, nguyện là ý chí vô cùng mạnh mẽ; trong khi nguyền rủa có hàm chứa ý thâm độc oán hận bên trong. Cớ chi cho tâm dũng liệt, mạnh mẽ là độc hại chứ? Cũng như 4 nguyện sâu rộng chẳng phải thệ ư? Bồ Tát tu hành không có 4 lời thệ nguyện đó hẳn không có cơ sở thành Phật; cũng đâu giống như đem lời nguyền rủa để nghi sao?"
            Tóm lại, điển tích cáo hương quan hệ ở tòng lâm không nhỏ vậy. Hành cáo hương là người biết sợ. Giả sử người có lời hoa mỹ cũng bỏ bớt được. Cáo hương phế bỏ nên lỗi nhỏ cũng không chừa. Vì vậy, tòng lâm được hưng thịnh do hành cáo hương; tòng lâm sắp suy, vì bỏ cáo hương vậy. Thẹn hưng suy là ở điểm này.
            Ngu Am Chích Cổ ghi rằng:
            - "Từ Thoàn Phốc thiền sư chủ trì Thiên Đồng 20 năm ăn không trái chúng, dù bịnh cũng không trái chúng vâng theo rất là chặt chẻ, đãi chúng thật là tốt đẹp. Có một sư chú tri khố (coi thủ kho ở chùa) biết trong kho đã cạn, đến xá sư bạch:
            - "Con đã hết sức xoay xở thêm được một lần; kho trống trơn không dám tự chuyên xin nạp vào Tam Bảo". 
            Sư Phốc giận nói:
            - "Ông để kho trống rỗng ắt giữ theo cái xảo ngôn vô nghĩa đối với vật; tiền bạc của Tam Bảo dung túng cho Ông làm việc bất nghĩa ư?
            Không nạp vào là tranh của người khác, đâu phải của riêng tiểu sư? Nạp vào của thường trụ đã hiếm nghe thấy; còn giận không nạp đều là tranh đoạt của người khác. Duy trì việc cáo hương đây rất là trong sáng. Người xưa như thế kham nhẫn làm sư biểu (thầy người) mà cáo hương cần phải biết đó.
            5.5  Tụng Niệm
            Việc tụng Kinh hoặc chúng ở chùa tụng, hoặc thí chủ phát tâm tụng cũng phải nên qui định trước. Nay dựa theo thí chủ nêu thí dụ: Quan chức tới chùa; Thầy Tri Khách và Thầy Trụ Trì tiếp đón ( như tiếp khách tăng vậy). Nếu không phải nhân vật quan trọng, tiếp tại phòng khách như vị tăng khách. Dự định ngày lập đàn tràng trang nghiêm (xem chương Chúc Diên), viết thông báo như sau:
            - "Tháng này ngày… quan chức… hộ pháp, vì việc… xin tụng Kinh… hồi hướng công đức, đảnh lễ…sám hối, cùng chư sơn thiền đức; ngày kế luân phiên mỗi ngày… vị như bên dưới: Thầy A Thủ Tọa, Thầy B dãy nhà Tây, Thầy C dãy nhà Đông."
            Hoặc dành ngày khác, hoặc 3 ngày thay đổi một lần, từ Chúng Trưởng đến đại chúng, trong ngoài đều tham gia. Lúc vắng, Kinh sư trước hết lên phòng Phương Trượng đảnh lễ Hòa Thượng. Thỉnh Ngài khai thị (cho tôn ý) trước khi vào nghi. Tri Khách mời thí chủ niệm hương thành kính trang nghiêm, cắm hương lên lư, lễ 3 lạy; Thầy xướng cho thí chủ đảnh lễ chư Tăng 3 lạy. Nếu nhân vật quan trọng thì tùy nghi không cần đảnh lễ. Ngày kế khai Kinh. Mời thí chủ niệm hương, cắm vào lư, lễ 3 lạy.  Hôm nay chính lễ có đọc sớ, cúng ngọ. Thời tụng Kinh viên mãn trở lui về phòng Phương Trượng để trai chủ hậu tạ Sư, không nên tạ bên ngoài làm mất trang nghiêm.
            Nguyên sách về tụng niệm sau, tiếp theo phần cúng thủy lục qui định 9 môn. Nay để lại sau cuối quyển.
            5.6  Qui Ước Tụng Niệm: 11 Điều
            Tòng lâm cổ ẩn nơi non cao không liên hệ với thế tục; ngoài nghi chúc Diên (Ly) ra, không theo thông thường đáp ứng. Đúng là đại sự không rõ, việc nhỏ cũng bận tâm; cứ chạy theo thù ứng làm tán thất đạo niệm. Ngoài ra, như chưa tự độ lấy gì độ người, nên kinh ghi rằng:
            - "Chỉ một việc Du Già cũng là việc lợi sanh của đăng địa Bồ Tát, không phải việc thích nghi của phàm phu sơ tâm. Song sợ đời sống tòng lâm thanh đạm thiếu thốn làm cho nhà tu giải đãi; lui sụt pháp tu không đạt được, nên cần phải tụng niệm để được tinh tấn. Nhờ đạo tràng đối trước kinh tượng, tưởng như đối trước Phật vậy".
            Tụng Kinh văn nghĩ tới nghĩa Kinh; làm việc gì cho đạt kết quả ắt làm cho thân, miệng, tâm hợp nhau, không hôn trầm (ngủ gục), không tán loạn, không giải đãi, không tham lợi; biết nhân quả, biết tàm quí, sợ nghiệp lực. Nếu như thế không cần độ người mà tự độ người; không chờ lợi ích mà tự lợi ích. Cho nên nói rằng:
            - "Người lấy của cho ta, ta đem pháp cho người, so ra 2 việc bố thí không khác mà do nơi ta có thể quyền phương tiện làm, như đánh trống".
   Không đọc ra tiếng hoặc không biết chữ mà xem Kinh, lễ sám như chày giả gạo. Không quán tưởng nên tâm không thành thật; thân đối trước tôn tượng mà mắt nhìn hướng khác, miệng tụng kinh sám mà tâm dấy niệm riêng tư. Như thế cho thấy trước mắt đạo tràng tòng lâm suy vi, tương lai chính ta chịu khổ. Lấy pháp tự lợi làm lợi người; trái lại lấy cái sai lầm của mình gán cho người tội sai lầm, há không cẩn thận sao?
            Những qui định (11 điều) ghi rõ như dưới đây:
            1- Người tụng Kinh, ngày hôm trước thấy tên mình có nêu trên bảng lo tắm gội sạch sẽ, sáng hôm sau tụng kinh sám hối. Nên để mắt, để miệng và để tâm đến lời Kinh, không nên lúc tụng kinh sám mà nói bàn tạp nhạp; cũng không được ngưng tụng để nói chuyện. Nếu bàn tạp đùa cười trong lúc tụng kinh sám sẽ bị phạt tiền là một tiền 8 phân (khoảng US$10,- bây giờ). Người ở sau mình bàn tạp phạt 8.01 phân. Lúc tụng niệm không được quay đầu liếc xem người, trông vật 2 bên.
            2- Nhứt tâm tụng Kinh chữ chữ rõ ràng, tụng không ra tiếng, sau khi khóa lễ xong, phạt rất nặng. Nếu làm mất sự nghiêm tịnh không chí thành phạt 3 phân tiền; tụng lớn tiếng một mình át chúng phạt 6 phân tiền. Kinh sám nên tụng hòa nhau với chúng.
            3- Người chủ lễ không được tán tâm vọng tưởng mà phải nhứt nhứt đúng kinh văn, chí thành niệm quán.
            4- Chỉ cho Phật tử không nên gấp gáp giản lược mà nên nhứt nhứt theo văn, tụng có thứ tự. Xử dụng chuông trống cũng phải nhẹ nhàng trang nhã không nên làm phiền người khác.
            5- Tụng kinh và thí thực, khóa lễ chưa xong, không được thâu tượng Phật, dọn đồ đạc trước, làm mất trang nghiêm.
            6- Cúng thí thực nhất nhất theo văn chí thành kết ấn, tụng chú, quán tưởng. Ba nghiệp hợp nhau không nên sân si cải lẫy; đọc nhanh cho xong khóa lễ, văn bạch cũng vậy.
            7- Người phụ trách việc hương đăng trong ngoài đều phải thanh khiết, chú ý tới đèn nến. Giữa đàn tràng thủy lục lại càng phải thận trọng hơn về đèn đuốc.
            8- Hương đèn, quả phẩm v.v... nếu có rớt dưới đất không dùng; đồ đã cúng cũng không dùng lại.
            9-  Rau dưa, cơm nước v.v. phải nấu chín có vị, không được thêm các mùi, không nên cúng đồ khô, vật sống.
            10- Người phạm tranh cải phạt tiền 8 phân. Nếu tranh cải làm mất oai nghi phạt 1 tiền 8. Người không tuân hành cho ra khỏi chùa. Khoản tiền phạt đó cho ghi vô sổ tài chánh để chùa tu sửa tượng Phật, kinh điển.
            11- Kho lẫm nên để tâm trông coi sắp đặt các đồ dùng ngăn nắp, không nên bỏ bừa bãi.
            Những điều qui định trên nên chấp thuận tuân hành; nếu không như vậy, tự chuốt lấy hoạn họa mà việc trước mắt là phạt người phạm Thanh Quy, và về sau ắt chịu nhân quả, há không thận trọng hay sao! Ngày…tháng…năm…, Trụ Trì….sao lục.
            Chứng nghĩa ghi rằng:
            Phàm tụng niệm là chuyển pháp luân. Xưa tăng chúng xưa nay phần nhiều hay cẩu thả, tội lỗi không nhỏ. Vân Thê Pháp vựng ghi:
            - "Xưa tại Ô Trấn có vị tăng chùa Lợi Tế, hai thầy trò đều nổi tiếng được khen rất nhiều, nhờ tụng kinh sám ngày càng lợi nhiều. Nhân vì đầy đủ sung túc nhưng lại dè xẻn không hưởng cũng không bố thí. Về sau, mắc bịnh người nhà đón về trị bịnh, chẳng bao lâu bèn qua đời. Khi sanh tiền lo tích chứa, rốt cuộc để thân tộc hưởng. Mười năm sau ông hiện về báo mộng cho người thân biết rằng, Kinh tụng chưa đủ, âm phủ hạch tra rất gấp, khổ không thể tả hết! Người đời còn truyền tụng câu rằng:
            - "Điện chớp ánh sáng thấy chữ đọc hết không lừa dối!"      
            Ghi câu chuyện ấy để nhắc nhở cho người hữu duyên. Ngoài ra, cúng thủy lục trước sau có liên quan tới tụng kinh bái sám tiếp tục không gián đoạn; kế làm gấp gáp như chọn quan chức, mời Kinh sư, bận rộn như báo tin mừng…Tụng Kinh sám ngày càng thịnh; đạo đức ngày càng suy. Tòng lâm đến như thế, không báo động hay sao! Quả là đáng buồn!
            5.7  Lập Hộc lường đồ cúng
            (Đóng hộc đong lường đồ cúng)
            Phàm tiết Thanh Minh, Trung Nguyên, rằm tháng mười, đêm trừ tịch… lập hộc cúng. Trước tiên ngay hôm lễ buổi chiều dán thông báo ở phòng khách. Thông báo rằng: tối nay… tại giảng đường thiết hộc (hoặc thí chủ có việc tùy đó thay đổi). Chính giữa là Hòa Thượng hay Sám Chủ (tùy theo thay đổi), tả bạch Thầy A, B; hữu bạch Thầy C, D, 4 vị. Tòa chính giữa do chức sự mời vị chủ sám trình bày rõ tại trai đường. Mời các chức vụ Duy Na, Duyệt Chúng, Tri Khách, công văn (viết sớ, giấy tờ), ẩm thực, hương đăng, hầu đàn, trà nước, tiếp tân, thủ quỷ… đều chiếu theo các pháp cựu lập.
            Chứng nghĩa ghi rằng:
            Việc thiết hộc đến nay phần nhiều là ngụy tạo, nói tóm có 10 điểm. Chiếu theo Mật bộ nghi quy:
            - Sắp sửa muốn cúng thí thực, trước hết phải kiết giới hạn để trở thành nơi thanh tịnh. Phép kiết giới hạn: Lấy cây cắm 4 góc làm móc, lấy dây giăng làm cho người, vật không vào được phạm vi; sau đó lập đàn thí thực, đàn quỉ thần. Tục thường gọi là đài Hàn Lâm cũng còn gọi là đài Cô Hồn; và lập 2 bên giới nội bàn chư tiên linh. Đàn thí thực đến đàn cô hồn khoảng giữa lấy 3 mét vải trắng ngăn ra 3 đường. Đợi cho tới đầu giờ Tuất, pháp sư cùng vào ngồi đàn. Trước hết tụng CĐại Bi, chủ sám sái tịnh bốn góc đàn tràng, quán tưởng giới nội dùng lực thần chú và lực quán tưởng biến thành tịnh địa. Vì nền đàn tụng 3 biến CĐại Bi, vị pháp sư trước bàn thí thực đứng ngay chính giữa; tả bạch, hữu bạch xướng, Kinh sư theo đó quán tưởng giới nội đất tịnh rộng lớn vô cùng. Trống phách khua vang sáng tỏa 7 vì sao, như xướng:
            - "A Di Đà Phật thân kim sắc...".
            Tất cả đồng xướng kệ tịnh địa như sau:
            - "Hết thảy cạnh vuông chỗ có đất
            Ngói, sỏi, cát, sa mạc đều không
            Lưu ly đất báu như bàn tay
            Vi diệu uyển chuyển mong an trụ
            Như cõi Cực Lạc thật trang nghiêm
            Đất báu hoa phô trổ sắc hương
            Vườn rừng, ao rạch không thiếu chi
            Vì đại pháp âm mong đầy đủ
            Vượt ngoài thế gian lại hay hiện
            Vô số thất bảo đều thành tựu
            Vô lượng ánh sáng chiếu khắp nơi
            Mong chư Phật, Bồ Tát an trụ".
   Xướng xong, hồi 1 hồi 3 tiếng trống; pháp sư đọc kệ:
            "Trước kết đại luân minh vương ấn
            Gia trì đàn tràng thảy thanh tịnh
            Con nay y giáo tụng mật ngôn
            Cho con đều đạt thành tâm nguyện".
            Đọc rồi, liền thầm đọc Chú Đại Luân Minh Vương (21 lần). Chú nêu rõ nghi cách cúng thí thực.
            Đọc chú xong, tiếp tán:
            - "Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát" (3 lần).
            Đây là Mật bộ không ảnh hưởng, không theo kết giới là một sự thất cách. Lại theo Kinh bổn Phật thuyết tại nước Ma Già Đà, có chỗ dùng hộc, vì đồ ăn, đồ uống này lượng như pháp giới; thức ăn vô tận. Nay y cứ theo nước ta (Tàu) một hộc tương đương với 5 đấu (thăng). Phàm thí thực phải dùng 5 đấu gạo nấu cơm để thành núi cơm; 5 đấu bỏ thùng hấp chín có mùi thơm, để thành núi rau. 5 đấu nước trong thanh khiết để thành biển sữa mới hợp lời Phật dạy. Cúng xong, sáng sớm hôm sau đem cơm này chia thành 3 phần:
            1- Cho loài sống dưới nước tức tại hồ phóng sanh hoặc sông lớn, hay biển
            2- Cho loài bay tức chỗ phóng sanh hoặc nơi núi vắng
            3- Cho phương khác, tức cho kẻ ăn xin hay những người nghèo khổ.
            Nếu không có chỗ phóng sanh, đem cho người thiếu thốn nơi biên địa; thấy cơm không đầy một chén, rau không trải một đôi đũa hoặc ăn ngấu nghiến quả một ít thì gọi là 7 hạt biến 10 phương; nhưng nước hoàn toàn không có; còn hơn là chẳng biết 7 hạt biến 10 phương, đó là phép cúng thí xuất sanh 2 bữa ăn mỗi ngày. Lúc chư tăng dùng bữa, nhưng luôn thực hành là di th nht.
            Lực hành động, cúng xuất sanh không cần nhiều, thí thực chuyên làm vậy để duy trì. Phải cần hình tướng hoàn bị nên y lời Phật dạy, dùng pháp Ma Già hộc nên gọi là thiết hộc tu trai. Thêm pháp lực thần chú có thể làm cho một món ăn biến thành vô số thức ăn cung cấp cho hết thảy mọi loài đều được no đủ. Lại sợ các loài lấy sang khinh hèn, lấy mạnh hiếp yếu, lấn át kẻ cô thế yếu đuối khiến không được ăn làm mất sự phân đều, vượt ngoài tâm từ của Phật nên thỉnh Tam Bảo và chư thần linh gia tăng sắc lịnh duy trì của bố thí cho ta. Hết thảy vô ngại, không cao không thấp, không chọn lựa oán thân mà cho đều bình đẳng. Xưa nay phần nhiều không theo đúng pháp chỉ dùng đấu (hộc) bằng tay, không đong lường cơm. Đúng là đồ ăn chưa phân đều, hoàn toàn thành hư thiệt, đó là điểm lấp lững thứ hai.
            Lại việc thí thực hoàn toàn chú trọng vào tự răn có quán Định, quán Huệ, có thủ ấn, có chân ngôn, cho đến ca xướng nhằm trợ giúp đạo mà thôi. Đây không đắc giới định, không quán tưởng kỹ, tay ấn bắt sai, chân ngôn mơ hồ, nhằm xướng không cốt để làm đúng việc ứng phó mà vị tăng không cần làm như thế. Đạo đức tòng lâm cũng bắt chước mà không tế nhận, thậm chí lấy rượu làm đồ trọng kính, đào lựu cung hiến mà không biết lỗi. Đó là ngụy tạo gian dối thứ ba.
            Lại tế cô hồn nguyên là để gọi việc thí thực mà chú trọng tới cơm rau nhiều. Nước nhiều, có thể biến khắp nơi làm cho đỡ khát tới cõi âm; vật cúng loại như áo giấy mà cũng đem bố thí nhưng nay thì đã chấm dứt. Nay ngược lại, cơm rau, thức uống không hợp nghi cúng Phật dạy; nhưng gia chủ ham uống mua sắm tốn phí thật nhiều mà không thành tâm tạo niệm cảm thông; không cứu khổ được cô hồn đói khát. Mãi theo tục cố nhiên đều điên đảo, là điều ngụy dối thứ tư.
            Lại lập đàn tế cô triệu mời các hồn đến, quan trọng nơi 3 đàn thí: đàn thí ăn uống, những vật tư sanh, thí các thứ đó phá ngục trừ dứt các tội; vô úy thí là cho 3 pháp quy y 7 đức Phật; và pháp thí là ban cho giáo pháp giải thoát. Song 3 môn thí này có đủ trước đàn pháp để chúng được lợi ích, có chiếc đỉnh u minh cũng nên đặt trước đàn; đợi tụng xong chú Tôn Thắng sau mới đem đốt. Sắp đầy đủ các thức ăn, đúng pháp, đủ đồ vật là đã cứu đói khát rồi. Lại chuyển sang con đường thiện mới là điều hữu ích. Nhưng trước cúng Diệm Khẩu chưa triệu quỉ xong mà đã tới trước che lối đốt đĩnh u minh khiến bọn quỉ không được đầy đủ 3 pháp. Vì chúng quỉ thọ đồ minh khí nên không nghe được pháp; thọ thức ăn, yêu pháp là quỉ mất đồ minh khí. Ngoài ra, không đốt đồ minh khí trước đàn thì không linh kỳ, giám quan tin bọn quỉ kia ỷ mạnh khi yếu giành lấn không trừ, thí không bình đẳng. Hoặc cây đào lựu ở bên, liền hóa giấy tan đồ ăn là quỉ sợ khiếp không dám tới nhận, hoặc đốt lửa chưa cháy hết mà quét tro, làm tan bột không dùng. Ngay việc đời chẳng biết đó là trái, là dối thứ năm.
            Lại nữa, thí đàn pháp thực toàn phát xuất từ Mật bộ (Mật giáo) nay chỉ nói sơ lược. Dùng 2 chiếc bàn vuông lớn, một cái phía trước thiết bàn Phật cao hơn, rồi tới lư hương, chân đèn, bình hoa, dĩa quả. Ở bàn thứ nhì, hoa, hương đèn, đồ quả, nhạc. Tượng Mẫu lục thiên hoặc lấy gỗ chạm, hoặc dùng đồng nhuyễn đúc với nhan sắc y trang đẹp. Sáu vị mỗi vị một màu, một mặt, 4 tay đồng kiết ấn; 2 chân, chân trái múa, chân phải quỳ. Hai tay, mỗi tay cầm sách dâng lên, mặt hướng về Phật. Hoa Mẫu cầm hoa, áo màu hồng nhạt, tiêu biểu ban thí. Hương Mẫu cầm hương, áo màu vàng, áo giới. Đăng Mẫu cầm đèn, áo màu hồng, tiêu biểu nhẫn. Đồ Mẫu bưng nước, áo màu trắng,tiêu biểu tấn. Quả Mẫu cầm quả, áo vàng hồng, tiêu biểu định. Nhạc Mẫu cầm nhạc khí, áo màu xanh lục tiêu biểu huệ. Duới chân tượng đạp lên hoa sen, dưới hoa đều có chữ Án hồng. Chữ đứng ở mặt đài. Đại chúng xướng chữ "Hồng phát ra dõng xuất". Lúc tán, pháp sư tay không cần bắt ấn, chỉ lắng lòng nhắm mắt tưởng sắc tướng 6 mẫu thiên theo mỗi hướng một chữ "Hồng". Chữ "Án dõng xuấ"t, đã hiện rồi mặt tay phóng quang. Mỗi mẫu cầm hương, hoa v.v... cúng dường Tam Bảo, đây gọi là vận tưởng cúng dường. Hàng thứ ba kiệu Phật ở giữa vẽ giống như hình bảo tháp, bên trong đặt hình Phật Tỳ Lô Giá Na. Sau kiệu Phật đặt một cành tre trên có móc nhỏ treo một lá phan, viết chính giữa Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Ngoài ra, ở 4 hướng đặt 4 tượng Phật mặt hướng vào Phật chính giữa. Sau ngọn lửa liên tòa đang cháy cũng có một cành tre trên đầu có móc nhỏ, 4 phía đều treo mỗi bên một lá phan trên đó viết:
            - “Đông phương A Súc Như Lai, Nam phương Bảo Sanh Như Lai, Tây phương Vô Lượng Thọ Như Lai, Bắc phương Bát Không Thành Tựu Như Lai”.
            Hai bên Phật giữa lại đốt một cây đuốc lớn. Sau Phật trung ương tức là sau bàn bát tiên, hàng thứ nhất dùng giá để một kiếng lớn lên tượng trưng cảnh đàn, chỗ Chuẩn Đề thuyết pháp. Trước tấm kiếng là bàn Mạn Đát, sở dĩ nói Mạn Đát vì gọi theo tiếng Phạn, Trung Hoa gọi là Đàn. Đàn này dựa theo một thế giới mà luận chung, không phải chỉ nói có một châu Nam Thiệm Bộ; đàn như núi Tu Di của trung thế giới. Chỗ tòa pháp sư ngồi như châu phía Nam, 4 châu đều chầu núi Tu Di. Châu Nam ngồi phía Nam hướng về phía Bắc; sau đây dựa theo phương Nam mà luận. Núi Tu Di ở phía Bắc, vị trí của Nam Bắc đã định thì châu phía Đông hợp bên phải, châu phía Tây hợp bên trái. Nương theo đây bày gạo nhập quán. Trước Kinh sư là bàn đặt hoa, gạo, chày, linh; 2 bên theo nghi thức có 4 bản khác nhau, đây là bản quy định chính. Trước kia phía trước đàn, ngụy dùng 5 phương đồng tử, giữa đàn bày cúng nước, trái cây, chẳng biết Phật quá ngọ không dùng; sao còn dùng quả, thức ăn đặt bày ra trước đàn? Lầm hướng Nam trên hướng Bắc dưới; Tây bên phải, Đông bên trái, là ngụy tạo thứ sáu.
            Lại, văn thí thực một cuốn dày, phần sau nửa cuốn trong đó có cả kệ văn, ấn chú đều nên tụng chậm rãi. Nửa quyển trước từ phần mở đầu đến triệu thỉnh Địa Tạng đều là cầu Phật Pháp Tăng Tam Bảo chứng minh, xin tế độ bạt trừ khổ mà thôi. Chỗ có kệ có thể cao giọng xướng tụng khoan thai trầm bổng. Ngày nay trái lại trước tiên ở dưới đàn tất cả thiết trí phía trước, mọi phần tụng niệm, thậm chí thượng đàn và nhẫn đến thỉnh riêng biệt than kể mỗi mỗi cao xướng, hòa hưởn lúc yên vắng; ngay đến phá ngục triệu thỉnh ngạ quỉ, cũng như đọc chú Tôn Thắng, nên phải vận tâm quán tưởng tụng hòa hưởn đi đến gấp rút như gió thổi. Thậm chí tụng Kinh chưa xong mà thu dọn đàn, trên là khinh mạn Phật thánh, dưới dối trá quỉ thần. Cả việc đời không biết đó là điều dối thứ bảy.
            Lại việc thí thực, kiết giới thượng đàn hợp tại cuối Dậu, đầu Tuất trong khoảng 2 giờ Tuất, Hợi hoàn toàn thuộc ban đêm (âm) là thời gian quỉ thần không sợ. Thí thực cho họ lúc đó hẳn thọ được nhiều lợi lạc hơn. Giờ giao nhau là đầu giờ Tý dương khí chuyển thạnh nhưng khí âm suy, quỉ sợ hãi, cúng thí pháp thực, bọn quỉ không dám tới thọ. Sát tới gần giờ Mậu, Mùi còn chưa đăng đàn đến canh 5 mới xong, hoặc một đêm đăng đàn 2, đăng đàn 3 là hao tốn đồ vật, lừa đảo quỉ thần. Chỉ biết rõ tâm nguyện không nghĩ tới âm linh, đó là điều dối thứ tám.
            Lại thí thực là kết duyên rộng cùng chúng quỉ, trước hết nên ban cho họ pháp vô úy. Vì thế trước kết giới hạn không cho người vật nhập vào giới nội để làm cho đàn tràng được thanh tịnh; lợi ích người còn sống và loài quỉ cõi âm. Âm thường sợ dương nên trước đàn thí thực không người nào được chạy qua lại. Giá như bất đắc dĩ nên đứng phía sau đàn. Gần đây hoặc vì ngày Vu Lan Thắng Hội tiêu biểu, hoặc vì cầu được bình an là chính mà kết đầy đèn giấy treo khắp chỉ thần, mời gọi nam nữ tụ tập như xem trò vui chơi, quán sát những màn lạ mắt, đôi khi cả đại nhạc hội làm náo nhiệt; thuần lấy khí dương của người lấn át đó, xua đuổi quỉ thần tránh xa, không dám tới theo lời mời thỉnh; còn tổ tiên của bản địa cũng sợ mà lánh sang một nơi khác. Như thế dù cho có bày đồ vật cúng cũng khó mà kết nạp quỉ tới thọ hưởng; trái lại còn làm quỉ giận nữa. Việc đời chẳng biết, đó là điều dối thứ chín.
            Lại khảo cứu nơi kinh tạng, duyên khởi ban sơ của việc thí thực, chỉ Phật thuyết Kinh cứu bạt diệm khẩu ngạ quỉ Đà La Ni, do Ngài Bất Không dịch. Ngoài ra, Ngài Thật Xoa Nan Đà dịch là Kinh Phật thuyết cứu diện nhiên ngạ quỉ Đà La Ni thần chú, tức dịch trùng Kinh trên, mà đầy đủ chỉ có biến thực chân ngôn mà thôi. Ngài Bất Không lại dịch: Du Già Tập Yếu, Kinh cứu A Nan Đà La Ni Diệm Khẩu nghi quỉ. Nối tiếp A Xà Lê lại cũng dựa Kinh này đưa vào chi tiết là Du Già Tập Yếu, Diệm Khẩu thí thực nghi quỉ. Quyển này hiện còn thấy trong Đại Tạng, đơn giản quan trọng chỉ một điều là triệu thỉnh chung pháp giới 6 loài, và nghi triệu thỉnh ngạ quỉ ấn chú v.v.. Không nại người đời, thích trau chuốt miệng lưỡi thêm triệu thỉnh riêng, thán kể v.v.. những việc đời, thường gọi là Hải Thượng Diệm Khẩu là đây vậy. Thậm chí như tìm lục trong Đại Tạng nguyên bổn tra xét nhưng không gặp. Nối pháp có Thiên Cơ đại sư mắt thấy đi trên biển là trái lời Phật dạy. Lược bớt, bỏ chỗ phức tạp rườm rà không hợp ý người sau. Nhưng thêm vào phức tạp là sách lưu thông tới ngày nay. Ngoài ra, y cứ sách Vân Thê, khảo cứu bản chánh đều không thấy có kết giới ngũ phương. Xưa nay việc tốt hơn hết nên mời 5 vị pháp sư thiết 5 đàn đông, tây, nam, bắc, trung ương 5 đàn pháp. Đương nhiên gọi là 5 phương kết giới; nên như phần trên nói về kết giới để kiết giới; tức 4 phương 4 vị pháp sư, mỗi vị nên trì một bài chú: Đông Bắc chú Lăng Nghiêm, Đông Nam chú Đại Bi, Tây Bắc chú Tôn Thắng, Tây Nam chú Tùy Cầu. Ngày nay 4 phương bỏ trống mà chẳng trì chú, dối xưng niệm quán, đó là điều ngụy thứ mười vậy.
            Trên đây là 10 điều dối; thiếu nghĩ suy không lợi ích mà còn e có tổn hại nữa. Tục ngữ có câu:
            - "Đoản thọ miệng lửa", đúng là đây vậy.
            Người cúng thí thực há không thận trọng ư? Vì thế, muốn học cúng thí thực, ngoài phải đổi 10 điều dối này thành 10 điều chân thật, trong phát tâm vô thượng Bồ Đề, trước tập quán chiếu và các ấn chú đều làm cho thuần thục không được sai lầm. Nếu như lỗi lầm không thành khế ấn, hiền thánh không hoan hỷ. Phàm việc cầu nguyện mà không đạt thành tựu, người chủ trì phải biết đó. Sách chư gia thí thực sớ có giải thích điểm này.
            5.8  Xông Hương Tháp
            Xông hương tháp, trai chủ và quý Thầy, mỗi vị cầm hương mà đi nhiễu tháp, nên gọi là xông hương tháp. Nay chỉ tụng kinh mà không cầm hương làm mất chỗ cung kính.
            Trai chủ đến phòng khách nên tiếp mời cơm nước giống chư tăng; lập tức thông báo như sau:
            - Hôm nay… giờ, có đạo hữu… tới xông hương tháp, xin mời …vị như danh sách dưới đây…A, B, C, D…liền báo cho tháp chủ, trên dưới trong ngoài tháp quét dọn sạch sẽ. Cử 2 người vô kho lấy đèn dầu, đèn bảo, đèn bàn, chén nhỏ các thứ. Mỗi chén để dầu đầy, đèn bảo 7 ngọn. Tới giờ tập họp chúng để xông hương tháp, Thầy Tri Khách mời trai chủ niệm hương, Thầy Duy Na cử tán bài:
            - "Lư hương…"
            Thí chủ lễ 3 lạy xong, Duy Na bắt tán bài kệ nhiễu tháp sau:
            - “Cung kính quán tháp
            Nguyện cho chúng sanh
            Người và chư thiên
            Cùng được chiêm ngưỡng.
            Đi nhiễu bên hữu tháp
            Cầu nguyện cho chúng sanh
            Bước đi không trái nghịch
            Thành tựu nhứt thiết trí.
            Nhiễu tháp 3 vòng
            Nguyện cầu chúng sanh
            Đạt thành Phật đạo
            Tâm không giải đãi".
            Tán kệ xong, Duy Na cử nhịp, đại chúng tụng hòa như:
            - Nam Mô Đa Bảo Như Lai,
            - Nam Mô Bảo Thắng Như Lai,
            - Nam Mô Diệu Sắc Thân Như Lai.
            - Nam Mô Quảng Bác Thân Như Lai,
            - Nam Mô Ly Bố Úy Như Lai,
            - Nam Mô Cam Lồ Vương Như Lai ,
            - Nam Mô A Di Đà Như Lai.
            - Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật.
            Vừa tụng vừa đi nhiễu, bắt đầu từ hàng đầu đi phía tay phải, tiếp theo hàng thứ hai cho tới hàng sau cùng, đều đi nhiễu 3 vòng. Rồi từ trên xuống dưới cũng đi nhiễu 3 vòng như vậy. Xong Duy Na dứt niệm Phật, liền bắt sang bài kệ tán thán tháp:
            - "Đảnh lễ tôn tháp
            Nguyện cho chúng sanh
            Hết thảy nhân thiên
            Không thể thấy đảnh".
            Tán xong Duy Na xướng lễ:
            - " Nhứt tâm đảnh lễ…"
            Nam Mô Đa Bảo Như Lai,
            Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Như Lai,…
            (7 Chư Phật như trên)
            Chúng đều lạy 48 lạy, ít nhất là 12 lạy. Trước giờ ngọ phải cúng ngọ, nếu sau ngọ, không phải cúng. Mỗi ngày 3 lần hoặc 2 lần tụng Kinh tùy ý, tối lại đốt đèn để cho tới sáng hôm sau, lại đi nhiễu xông hương tháp như trên một lần nữa.
            Duy Na đọc sớ như sau:
            - "Lại vì, thấy ánh sáng của xá lợi lung linh trải cùng khắp pháp giới, cao rộng như cõi Diêm Phù Đề phảng phất biến chiếu cõi nhân thiên. Rưới nước thơm xin quét bụi bặm, đốt đèn sáng mà giao bái, hết lòng thành khẩn thiết, ngưỡng mong chiếu soi". Kế đến vào hương quán (đền miếu làng), ngày… tháng… năm… vì việc…Thành tâm niệm (tên)…trải qua bao kiếp trôi lăn không ngộ nhập cảnh giới thay đổi của Pháp Hoa, nhiều đời đắp đổi gặp được ánh sáng tàn nơi hai cây song thọ, may nhờ ở đó có bảo tháp nguy nga, tin pháp thân Như Lai thường trụ; vui mừng tu tập hạnh nguyện, dùng đ chí thành cung kính. Hôm nay ngày…tháng…năm… chuẩn bị đầy đủ hương hoa, đèn nến cung tựu (tên) chùa, đảnh lễ bảo tháp, xưng dương Phật hiệu…lần, đốt đèn…đêm; kết nạp nhân lành này mong đáp đền ân đức sâu dày".
            Lại nguyện:
            - "Lọng báu che không, nhạc trời tấu khúc, phạm âm vi diệu. Sen vàng vọt khỏi đất, hoa chiên đàn tung rải đó đây, Phật hiện thân tướng đẹp ở Ta Bà, khiến chúng sanh đều biết quy ngưỡng. Phật phóng hào quang ở cõi trần sát, đưa muôn loài vượt khỏi biển khổ. Nhân lễ xưng tán hôm nay, mong kết thành quả vị Bồ Đề". (Như có việc nguyện cầu gì nên cho vào đây. Chỉ một điều là không được gần việc thế tục mà xa rời Phật pháp; phải chí thành suy nghĩ cho kỹ).
            Sớ như trên là cung thỉnh Tam Bảo chứng minh, văn sớ xông hương tháp, ngày…tháng…năm.. (tên) cẩn sớ.
            Đọc xong, đốt sớ như thường lệ. Tiếp đọc hồi hướng:
            - "Xông hương tháp công đức hạnh nhiệm màu…."
            Phục nguyện và cuối cùng là 3 tự quy y.
            Chứng nghĩa ghi:
            Trong nghi nhiễu tháp này có 4 bài kệ, trích từ Kinh Hoa Nghiêm phẩm Tịnh Hạnh. Lại trong Đại Tạng có Kinh Công Đức nhiễu tháp 1 quyển. Phật dạy việc nhiễu tháp thù thắng cao quý không thể nghĩ bàn. Người xưa nói rằng, không có việc gì đừng lên điện Phật, đợi lúc rãnh mới đi quanh tháp, nếu không quét dọn rưới nước thơm, dù phước như vua chuyển luân cũng tiêu sạch. Bởi bảo tháp là nơi gìn giữ pháp thân chư Phật nên phải tin và ngưỡng mộ. Lúc hiện đời tăng thiện giảm ác, mà lại lễ lạy được phước không thể đùa cợt, giởn chơi được. Viết ra đây để cảnh cáo những ai ngày nay vui đùa trước điện Phật cũng nên cẩn thận vậy.
            5.9  Đốt Đèn Tháp Dược Sư
            Đốt đèn tháp Dược Sư như Kinh ghi rằng, nếu có người bịnh muốn thoát khỏi bịnh nên vì người ấy mà thọ 8 pháp trai giới 7 ngày 7 đêm. Phải sắm đồ ăn thức uống và các thứ tùy sức mình đem cúng dường tỳ kheo tăng; ngày đêm 6 thời lễ lạy tu tập, cúng dường Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, do tụng Kinh Dược Sư 49 biến, đốt 49 ngọn đèn, tạo 7 hình tượng Dược Sư Như Lai, trước mỗi tượng để 7 ngọn đèn cho đến 49 ngày ánh sáng cháy mãi. Làm tràng phan 5 sắc, phải phóng sanh các loài chúng sanh, đến ngày thứ 49 thoát khỏi mọi hoạn nạn khổ ách, không bị các hoạnh họa, ác quỉ làm hại.
            Y cứ theo Kinh này, đàn tràng cúng rất là đơn giản dễ thực hiện. Nay đổi lại đốt đèn tháp Dược Sư. Đó là y cứ theo Đại Quán đảnh bộ hình thành. Nếu không có đèn tháp, nhưng theo Kinh vẫn đốt đèn cúng được. Lại nếu không có tượng 7 đức Phật bên trên phải treo hình 12 đại tướng Dược Xoa, phan 5 sắc và các thứ trang nghiêm khác. Hoặc tụng Kinh hay lễ sám, một ngày, 3 ngày, 7 ngày cho đến 49 ngày, tùy ý trai chủ. Sau đó đọc sớ hồi hướng như sau:
            - "Mong vì, mặt trời trí tuệ sáng soi khắp 10 phương thế giới; đèn trí sáng ngời phá tan u tối của địa ngục theo 12 lời nguyện, vượt biển khổ ba kỳ (ba đời). Tiếp theo: đình làng…ngày…tháng…năm.. cầu việc gì…"
            Cung kính:
            - "Mười hai nguyện thệ độ hết trầm luân,
            Bốn mươi chín ngọn đèn soi rọi ánh sáng tới khắp chốn u minh,
            Bảy từng thấu tận tới thiên cung,
            Ba đức gội nhuần khắp mọi cõi.
            Mạng sống lâu đến vô cùng,
            Đức rộng sâu khó so lường.
            Nay ngày… tháng… năm… cung tựu tới (tên) chùa…"
            Lại nguyện:
            - "Vô minh phá sạch, tánh giác hiển bày, thường chiêm ngưỡng Kim dung (Phật) như trăng rằm, luôn thấy xe ngọc cõi trời rợp bóng từ khắp chốn, tai nạn hoàn toàn tiêu dứt. Nguyện giáo pháp lưu truyền mãi mãi bền lâu. Cung thỉnh Tam Bảo chứng minh xét soi chứng sớ. Ngày…tháng…năm… đệ tử…chí thành dâng sớ".
            Đọc xong, đốt sớ. Tiếp theo tụng:
            - "Đốt đèn công đức hạnh nhiệm màu…"
            Ngoài ra, cũng có thể đốt đèn cúng vong linh người quá cố, có ghi đầy đủ như trong Kinh Bổn.
            Chứng nghĩa ghi rằng:
            Có thể cúng đọc danh hiệu bảy Đức Phật, y cứ theo Kinh Dược Sư,  bảy Đức Phật đó là:
            1- Thiện Minh Xưng Kiết Tường Vương Phật,
            2- Bảo Nguyệt Trí Nghiêm Quan Âm Tự Tại Vương Phật,
            3- Kim Sắc Bảo Quang Diệu Hạnh Thành Tựu Phật,
            4- Vô Ưu Tối Thắng Kiết Tường Phật,
            5- Pháp Hải Lôi Âm Phật,
            6- Pháp Hải Thắng Huệ Du Hý Thần Thông Phật,
            7- Dược Sư Lưu Ly Quang Phật.
            Mười hai tràng phan tên 12 Vị Thần Dược Xoa như sau:
            1-   Đại tướng Cung Tỳ La - Kim Long Thân Thủ Oai Quang Đồng Vương
            2-   Phạt Chiết La Đại tướng - Chấp Kim Cang xử đồng nhan trường thọ
            3-   Mê Sý La Đại tướng - Yêu Thúc Kim đới đa chủng phước thiện
            4-   An Để La Đại tướng - Trú Trì 10 đại danh sơn
            5-   Át Nể La Đại tướng - Thân như cõi tịnh châu hương quang nghiêm
            6-   San Để La Đại tướng - Thủ quang hoa mấn hiện hình thạch nữ
            7-   Nhơn Đạt La Đại tướng - Hay vì thiên chủ hộ trì điền địa
            8-   Ba Di La Đại tướng - Danh hiệu Kình ngư đủ các huyễn thuật
            9-   Ma Hổ La Đại tướng - Hành đồng long mãng chấp nhựt hý nhạc
            10- Chân Đạt La Đại tướng - Đầu có một sừng, người thấy liền khởi nghi
            11- Chiêu Đỗ La Đại tướng – Oai nghiêm như sát thân sáng như nguyệt
            12- Tỳ Yết La Đại tướng - Rộng tìm thiện nghệ giáo hóa tự bổn.
            Lại Kinh bổn ghi rằng, đem thiện căn này nguyện sanh về cõi Tây phương Cực Lạc, của Phật Vô Lượng Thọ, được nghe chánh pháp mà chưa quyết định. Nếu nghe danh hiệu đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai thời lúc lâm chung có 8 vị đại Bồ Tát theo hư không hiện đến dẫn đường người đó liền sanh về Cực Lạc quốc; tự nhiên hóa sanh hoặc nhân đây được sanh lên cõi trời, nhẫn đến sanh trở lại làm người nhân gian. Y cứ theo đó, niệm danh hiệu Phật có thể độ thoát vong linh mà tiến bạt vãng sanh. Đốt đèn cũng có thể độ thoát hương linh mà tiến bạt vãng sanh; không những hiện đời tai họa tiêu, mạng sống kéo dài thôi đâu. Nghi cúng bên trên, xem chương báo bổn ở trước, như nghi thức lễ Khánh Đản Phật Dược Sư.
            5.10  Phổ Phật
            Tiếp đón trai chủ như đã ghi rõ giống tiếp mời chư tăng, liền ra thông cáo là Phổ Phật, đến giờ thỉnh đại hồng chung 3 hồi 3 tiếng hoặc hiệu lệnh thường nhật như mộc bảng, vân bảng hoặc khánh (bảo chúng). Đại chúng vân tập chánh điện, Tri Khách chỉ trai chủ niệm hương, lễ Tam Bảo.
            Duy Na cử tán:
            - "Lư hương sạ nhiệt…", tụng Kinh Di Đà, Đại Sám Hối Hồng Danh Chư Phật, nhiễu Phật kinh hành niệm Phật 1000 lần, lạy 12 lạy Phật A Di Đà, Quan Âm, Thế Chí, Địa Tạng, Hải Chúng (mỗi vị 3 lần); đọc sớ, tụng Bát Nhã, hồi hướng, phục nguyện, 3 tự quy y. Phần đọc sớ có thể đưa ra trước, sau bài tán lư hương…
   Nếu siêu độ hương linh, sau phần niệm Phật, tới trước bàn linh cúng tiến hương linh.  Đốt sớ, hồi hướng xong, Thầy Tri Khách hướng dẫn trai chủ lễ tạ chư tăng.
            5.11  Bạch Giữa Chúng
            Phàm tòng lâm có việc công, tại phòng khách gõ 3 hồi 3 tiếng bảng, 2 dãy liêu chúng tề tựu nơi phòng khách, tuân theo quyết định trình vị Trụ Trì rõ, Trụ Trì chấp thuận mới làm; nếu không chấp thuận nên bàn thảo lại. Nếu có người tranh cải, thủ chúng đứng lên dàn xếp. Tri Khách đem xử tội v.v.. Mỗi trường hợp chiếu theo sự tình mà xử phạt nặng hoặc nhẹ. Nếu phạm giới căn bản tội trọng hoặc gây sự, gây họa trầm trọng, bạch Hòa Thượng Phương Trượng đưa ra xử trước chúng hoặc báo với tư pháp, hay tự tuyên bố đuổi khỏi chùa. Sắp đuổi chúng phải dán niêm yết rõ trước cửa sơn môn. Lúc dán giấy tẩn xuất phải thúc trống lớn 3 hồi 3 tiếng họp chúng để đưa ra khỏi chùa. Người bị đuổi, phải theo lối đi nhỏ bên cửa mà ra. Nếu có bọn đảng xấu tới ủng hộ, đồng lúc tống ra khỏi viện. Nếu vung tay chửi thề, xỉ vả không luận hữu lý vô lý đều mời ra khỏi viện. Nếu lớn tiếng xăn tay hung hăng, tốt nhứt nên làm thinh không phản ứng. Cứ theo lý luận lý đuối, chỉ còn biện pháp cho ra khỏi viện là hợp lý nhất; hay lặng thinh không phạt. Nếu đuối lý làm thinh đối lại kẻ lớn lối đều là cách phạt công khai giữa chúng. Kẻ ương ngạnh đuổi ra khỏi chùa hoặc phạt sám hối, lạy trước đại chúng, quỳ gối ở trai đường, trị nhựt phục vụ cơm nước chư tăng, tác bạch như:
            - "Hôm nay, con.. phạm lỗi gì? Ở trước chư tăng cầu xin sám hối".
            Đại chúng cùng đáp:
            - "A Di Đà Phật"
            Thầy Trụ Trì khai thị với người phạm nội quy.
            - "(Tên)… Thầy đã ở tòng lâm phải giữ gìn Thanh Quy (nội quy) cẩn thận, rộng tu thiện pháp. Tại sao trái lại làm việc không biết hổ thẹn như thế này! Nay Thầy (huynh) đã cầu xin chúng sám hối, phải thành thật sửa đổi lỗi lầm để làm mới lại. Nếu tái phạm căn cứ theo Nội Quy sẽ phạt cho Thầy ra khỏi viện. Ngoài đời luật pháp xử phạt, chết đi thọ báo nơi 3 đường dữ há không đáng sợ sao? Thầy có thật sự sám hối sửa đổi lỗi lầm không?"
            Đương sự đáp:
            - "Mong Hòa Thượng từ bi thương xót, con… con xin thật lòng sám hối".
            Đáp xong, đứng dậy lạy Hòa Thượng Phương Trượng 3 lạy (hoặc Trụ Trí) và xá đại chúng 3 xá. Xong kết trai hồi hướng và chư tăng đồng đứng lên lui ra khỏi trai đường.
            Nếu người phạm tội nhẹ, phạt quỳ một cây nhang hay phạt làm việc nặng trong chúng. Ngoài ra, phạm xâm vào sự yên tịnh đều theo qui định phạt quỳ hương, hoặc để sửa lại lỗi lầm, bắt gióng chuông, đắp y quỳ trước trai đường hầu chúng thọ trai, hoặc tại phòng Phương Trượng, trước các liêu chúng, tại chánh điện cầu xin sám hối chừa lỗi. Phàm quỳ hương là phạm qui củ thiền môn; quỳ tại chánh điện là phạm ngoài tòng lâm. Quỳ hoặc nơi điện Phật, hoặc trai đường phải là nơi chúng cùng thấy rõ. Quỳ ắt chấp tay quỳ gối cảm nghe như người buông lung dùng roi gậy phạt đòn vậy. Phần này có trình bày đầy đủ ở mục nói về qui ước các đường ở sau. Lại nếu phạm việc ngoài do Tri Khách phạt, nếu phạm bên trong nội tự do Duy Na phạt, phổ biến ra ngoài không thể được. Lánh nặng tìm nhẹ không nghe lời tri chúng, giám viện phạt căn cứ theo tuổi tác. Như ở non cao không tuân Nội Quy, trước hết do Tri Khách cử tội và trình Hòa Thượng Phương Trượng dạy dỗ.
            Chứng nghĩa ghi rằng:
            Tăng chúng nên tôn trọng gìới luật Phật dạy, đâu thể vi phạm Thanh Quy. Nếu như có phạm, trừ tội danh nặng hình sự ngoài cơ quan tư pháp xử ra, nếu ông tăng tự mình can phạm nên đem Thanh Quy xử phạt. Nếu phạm việc tranh cải, hoặc phạm hạnh ô uế buông lung, hay nhũng lạm của thường trụ, hoặc dối đoạt tiền vật tư nên nhờ gia đình khuyên không cho tiếng xấu ra ngoài. Bởi lẽ, được gọi là con giòng họ Thích làm mẫu mực đâu giống người thế tục, nên giữ gìn phép Tổ, tùy theo phạm giới trọng họp chúng để tẩn xuất; nếu nhẹ phạt công tác, phạt quỳ, nhưng chỉ rõ để người ấy thấy. Tội liên quan tới tiền, đồ vật như nợ, tìm cách bồi thường, song thẳn thắn mà thành thực khiến đương sự tự cải hối. Cổ Thanh Quy có bài tụng:
            - "Trộm của và đánh nhau
            Tửu sắc nhiễm tăng hạnh
            Mau lìa chúng tịnh thanh
            Dung dưỡng bại hoại sanh".
            Lại cũng nói:
            - “Phạm trọng đốt y bát
            Phải họp chúng xem xét
            Dây núi hờ lay trốc
            Cửa chùa mời ra gấp".
            Ngày xưa Đại Huệ thiền sư ở chùa A Dục Vương đưa tới công đường xử, vì tăng chúng cải chỗ vô minh. Hẳn đó không phải tăng hữu lý hay vô lý đều cho ra khỏi viện. Nếu xét thấy hữu lý mới nên đuổi, hoặc còn nghi chưa quyết chắc chẳng biết tăng đó như thế nào nên nhẫn nhục. Nếu chấp lý mà tranh cải tức là vô minh, cho nên cũng cho ra khỏi chùa, nhẳm để tôn trọng qui cách tăng đoàn vậy. Sách Ngu Am Chích cổ ghi rằng, xưa đệ tử Ngài Viên Thông Pháp Vân thiền sư là Minh Thủy Tốn làm thị giả (hầu cận), gặp Lâm Thiền Sư quảy chiếc áo; Tốn mời khách tới dùng trà. Thiền sư Lâm bảo y đi ra, Tốn lấy tay nâng giường ông tăng kế bên lên di động một lúc bỏ đó luôn, tới gặp Ngài Phương Trượng. Chỗ ngồi không thấy Lâm, sư Viên Thông đi mời đến bèn khiến chỗ ngồi mất đi. Đứng trước đại chúng Ngài trách rằng:
            - “Sơn môn lễ kính để bày tỏ sự tôn trọng, lại khinh nhờn, tại sao?”
            Thiền sư Lâm nói:
            - “Cái trống lịnh rỗng bên trong…”
            Cho nên về sau không dám khinh thường nữa.
            Ngài Viên Thông ban lời khuyên nhưng có ý trách rằng:
            - "Cái trống của Ta chẳng phải ba đậu đánh trúng nước tiểu Ngài chăng?
            Tốn ra trước thỉnh thị rằng:
            - "Con thất lễ, nên phải phạt.
            Ông tăng giường bên đứng lên nói:
            - "Việc này không phải lỗi của thị giả, tội mới xảy ra cũng chẳng biết, tôi nhận đỡ giúp nhưng sơ ý, nên phạt cho ra khỏi chùa.
            Ba người bàn tính không dứt, Viên Thông nghĩa cử cao đẹp rộng dung tha thứ đó. Ôi! tiêu biểu chúng như thế đó, nhận lỗi như thế đó! Cao vòi vọi đáng ngưỡng phục, xứng đáng gọi là sư biểu. Hoặc cũng nói, có ác tăng phải can ngăn thời không theo phép tẩn xuất nên không thể thí dụ được. Việc cương thường - luân lý - ở đời theo pháp quốc gia không thể lấy pháp tăng xử được, phải ứng xử ra làm sao?
            Trả lời:
            - "Việc này nên tùng quyền tùy nghi, không nên chấp nhất. Chấp nơi hộ trì pháp mà ngược lại làm pháp diệt vậy. Vì cầu toàn nơi một người mà làm thiệt đến Tam Bảo; thà giữ Tam Bảo toàn vẹn mà chỉ làm hại đến một người. Nếu ít không có phương hại nên dựa Thanh Quy lượng xét từng việc, nếu có phương hại ương ngạnh gian xảo không thể cải hóa được nên đưa ra pháp luật, chiếu theo vương pháp xử trị, không được tha thứ".
            Như cho rằng, tâm Phật là nhân từ, nay áp dụng Thanh Quy quá nghiêm khắc, há chẳng không theo ý Phật sao?
            Đáp:
            - "Người không biết nghiêm khắc của Thanh Quy, không nghiêm nhưng khích lệ đó là nghiêm, là nghiêm của nghiêm chính. Lấy nghiêm chính khiển tăng, tăng chúng trang nghiêm; lấy nghiêm chính duy trì pháp, pháp đứng vững. Lấy nghiêm chính nhiếp tâm tâm địa chánh, cho nên khiển trách đó, tẩn xuất đó đều là từ bi vậy. Lấy nghiêm làm từ là đại từ vậy. Nếu như dùng bất cứ một mưu toan nào có tính hung bạo để thị uy; lấy nghiêm chính của Thanh Quy xử phạt thật là cốt lõi vậy. Không thể chẳng bàn câu hỏi này trích từ sách Vân Thê Pháp vựng".
            5.12  Dạy Hành Đồng (Chú Tiểu)
            Cổ Thanh Quy biết phỏng theo tâm lý khách quan người đời nên gọi là hành đồng. Ngày nay ở tòng lâm dùng chữ tăng nên không cần phải gọi là hành đồng, cần phải biết.
            Hành đồng mà ở tòng lâm tùy theo hạng tăng, cũng gọi là tùy chúng. Xưa, người ở ngoài phát tâm xuất gia hay người muốn xin cầu học; sợ họ gian, thật - giả khó lường cho nên trước phải cho 3 pháp quy y gọi là hành đồng. Cũng còn gọi là Tịnh nhơn. Chứng tỏ người đó có hạnh thanh tịnh vào Tam Bảo mà không bị 5 món dục ràng buộc. Từ đó được giao công việc phục dịch công quả thừa hành phận sự. Lạm gọi là đạo nhơn (tịnh hạnh nhơn) nói theo thuyết vô vi; Tam Quy là vui khoái vậy. Phật Ân thiền sư dạy rằng: từ lúc nhỏ lìa cha mẹ trước hết quy y Phật Tổ, sáng sớm kinh kệ chuyên cần, ban đêm mặc niệm tham thiền; được giao công việc nên chu toàn; vật của thường trụ phải yêu quí giữ gìn, một hạt gạo nặng ngàn cân. Có người hỏi nên đáp ra tiếng; nếu phải tiếp xúc không nên càn rỡ suồng sã. Phát ngôn nhỏ nhẹ ôn tồn; ra vào nên thúc liễm thân tâm; bước đi oai nghi nghiêm túc. Ra khỏi chùa gặp chư tăng nên hỏi thăm, vẫy tay chào tiễn. Đã xả tục tất nhiên phải tôn trọng quy tắc tòng lâm, lúc vị thầy lớn dạy khuyên, không được lớn tiếng cải lại. Ban ngày rảnh việc nên đọc sách học hỏi những điều kinh điển dạy, ghi lại cho dễ nhớ. Cẩn thận cùng thay nhau làm việc đừng coi thường Tam Bảo. Áo ngắn đen, áo dài chớ khoe mới tốt, phải tế nhị bó buộc thân tâm, chớ để nhiễm sâu tình đời. Nghĩ kỹ 6 đường luân hồi đáng khiếp mà lo tự răn nhắc. Người xuất gia cần phải vâng lời Phật dạy, không tin là thọ khổ trong 3 đường ác. Để tâm phụng sự chư tăng, kính tôn Tam Bảo ban ân phước; tuổi nhỏ phải kính trên hòa dưới, tửu nhục, đỏ đen chớ nên rình mò la cà; rãnh nhàn không nên bàn nhiều mà luôn luôn nghĩ tới lời Phật dạy. Đâu thể để luống qua tấc bóng, sau khi chết trông cậy vào đâu. Không khéo chỉ cô phụ bốn ân, lại cũng phiền lụy đến tiên tổ. Từ bỏ gia đình cắt đứt yêu thương, tìm thầy học đạo là ý muốn xuất trần cứu độ; khẳng khái quyết chí tu hành, luôn luôn tỉnh giác luân hồi nơi tâm niệm. Muôn kiếp mới làm được thân người nên biết hổ thẹn kiếp sau mà trừ bớt ham mê ngủ nghỉ. Điều phục thân tâm nhẹ nhàng từng giới một áp dụng thật cẩn mật. Trưởng thành là bậc thầy vững vàng lo tham thiền để báo đáp ân đức Phật mà quyết cần tu pháp môn đốn ngộ. Đời này may mắn được xuất gia, khó gặp mà gặp được, trong mỗi niệm không lui sụt thiện căn, tâm luôn trưởng dưỡng giác đạo. Nếu tu hành được như thế ắt chứng đạo Bồ Đề không lâu.
            Lời dạy trên đây nên chép dán nơi liêu phòng để mắt nhìn thấy mà cảnh tỉnh tâm thân trong mỗi niệm.
            Chứng nghĩa ghi rằng:
            Kẻ đồng chơn học đạo tu hành cố chấp ủng hộ tăng nên cũng gọi là đạo nhơn hoặc người thanh tịnh. Do vậy ngay lúc niên thiếu cần phải khép mình nghiêm chỉnh, hầu như không làm ác. Sơn Am tạp lục ghi rằng: Vu Lại ở Gia Hưng thuộc phủ Thiên Ninh, có vị tăng trộm chó của người trong khu phố giết hầm cho thịt ăn. Vu Lại được thịt chó hầm. Ngoài ra, Hình Thạch ở Cô Tô, Thừa Thiên chèo thuyền tới nhà tín chủ giảng Kinh ở một biệt thự sang trọng. Có Ông Tăng trộm dê của người lối xóm giết hầm cho ăn. Hình Thạch được ăn thịt dê ấy. Ôi! trộm chó, trộm dê chỉ có hạng người thấp kém mới làm thế, cớ sao Trụ Trì phải mang danh xấu ác kia? Bởi vì việc tầm thường làm mất hết nghĩa giáo huấn. Vả chăng phải lưu tâm xem xét kỹ, là trụ trì luôn luôn phải nên thận trọng đó!
            5.13  Vì Hành Giả Mà Nói Rộng
            Hành giả có chung có riêng; chung là không chỉ có bên ngoài biết riêng rẻ, nhưng hể tất cả người tu hành đều gọi là hành giả, cho nên phải nói Phật sự chung cho tất cả biết; còn riêng là chỉ giữ riêng biệt nơi phương trượng, những người làm công quả ở chùa. Nhưng trước hết dạy các chú tiểu, rồi tới số chúng nhỏ tại gia. Hành giả nói đây là cho chúng xuất gia cần phát tâm cầu giải thoát đích thật. Trước đây gọi là lời phổ thuyết nhưng không có văn phổ thuyết. Đại khái, do vị Trụ Trì tùy cơ dạy khuyên hành giả đều chấp tác hay làm công việc chùa.
            Phụ thêm:
            Sáng sớm có lệnh 4 tiếng bảng, đốt đèn nơi chánh điện, đốt nhang, lấy nước tịnh (trong) cúng Phật. Trụ Trì lễ Phật, cầm đèn rọi sáng sớm, cho quét dọn trong ngoài, lau bàn, gánh (bơm) nước, nấu ăn, trông coi phòng khách trong ngoài, giường nệm, bàn ghế v.v... nên cho gọn gàng sạch sẽ; đến các việc bưng trà, lấy cơm v.v... sau khi dùng xong, dọn dẹp, rửa chén bát… Hể có gọi là đến ngay; làm sai bị phạt, nên cần kiệm ngăn nắp, đừng tránh việc nặng, để tâm thực hiện cho hoàn tất.
            Chứng nghĩa ghi rằng:
            Ba đời chư Phật, chư đại Bồ Tát đều từ thực hành mà thành tựu. Phàm người có tâm đạo chưa ai từng không lao tâm dụng lực làm việc cả. Ngu Am Chích Cổ ghi rằng: câu chuyện Tuyết Độc là khách lúc sáng. Ban ngày cùng bàn chuyện với khách ban đêm về đủ chuyện cổ kim và chuyện Ngài Triệu Châu, 2 bên bàn mãi không dứt. Người đứng bên, là kẻ tu hành che miệng cười. Khách lui đi. Tuyết Độc gọi hành giả tới trách rằng:
            - "Đối với tân khách dám làm như vậy sao?"
            Đáp rằng:
            - "Tôi nghe khách bàn chuyện đông tây kim cổ: nam mô định cổ kim ngân nên mới dám cười chứ".
            Tuyết nói:
            - "Ý Triệu Châu, ông hiểu không?"
            Hành giả dùng bài kệ trả lời rằng:
            - Chú thỏ ngang thân đường cổ lộ       
            Ưng xanh vừa thấy vồ đớp ngay
            Rượt theo chó chậm khôn linh tính
            Hướng không nghe rụng một cành khô".
            Tuyết Bảo rất lấy làm kinh ngạc, liền cùng người nói chuyện văn chương. Hoặc cho rằng, hành giả là kẻ vâng ý trời, hay còn gọi là Hàn đại bá. Ôi! cổ nhân có đủ tri kiến như thế, tiềm ẩn nơi cốt cách của hành giả. Phải thấy nơi các hành giả, không nên lấy việc chấp lao phục dịch mà khinh thường đó. Thân tuy là hành giả nhưng chí cũng cầu xuất thế; mượn việc để giúp đạo không thể yên chỗ phục vụ lao tác mà không có chí lớn cao xa đâu.
            Phàm có người sứ đem pháp y đến trước hết mời vào phòng khách, chào khách rồi mời uống trà, xin phép khách cho Thầy Trụ Trì hay. Trụ Trì hoặc ngay lúc đó đích thân tới phòng khách tiếp hoặc hẹn giờ mời tới phòng khách riêng. Sớm tới hỏi han khách trước hết lấy mâm để pháp y, là vật đáng giá đặt lên chỗ cao, xong rồi tiếp mời khách. Gặp Trụ Trì xin làm lễ, cho người sứ trình bày: "Tôi… (tên) đem pháp y này dâng lên Hòa Thượng thượng A hạ B xin được dâng cúng Ngài". Thầy Trụ Trì hướng dẫn người sứ tới gặp Hòa Thượng, Hòa Thượng mời dùng trà, nói chuyện xong đưa tiễn khách.
            Hôm sau, thời công phu xong, Hòa Thượng khai thị phép nhận y hoặc ngồi trên tòa hoặc đứng tại chánh điện. Nếu nhận vật riêng không cần nói pháp. Nếu thờ thầy bổn sư đã viên tịch nên ở bên phải chánh điện có thiết bàn linh đầy đủ. Khi thuyết pháp xuống là cúng tiến giác linh và tụng Kinh Chú, như đọc lời di thư… xem phần sau có nói rõ.
            Chứng nghĩa ghi rằng:
            Đây là lễ cúng tôn sư, không phải chỉ có pháp y là đủ, ngay cả thầy ban cho lời dạy nào cũng phải thành kính mà nhận mới tỏ ra lễ của người đệ tử cầu pháp. Vân Thê Sùng Hành Lục ghi rằng:
            - "Đời Tấn có Thầy Pháp Ngộ tôn Ngài Đạo An làm thầy, sau tới ở chùa Trường Sa tại Giang Lăng giảng thuyết các Kinh. Người tới học có hơn 400 trong số có một ông tăng phạm giới uống rượu, Sư Ngộ bắt phạt nhưng không nghe. Ngài Đạo An nghe chuyện lấy ống tre đựng một cây gậy dán lại gởi cho Sư Ngộ. Sư Ngộ nhận được mở ra xem thấy cây gậy liền nói:
            - "Đây do ông Tăng uống rượu tôi dạy bảo không nghe, ở từ xa Ngài nghĩ ban ân cho".
            Bèn đánh kiểng họp chúng, đem ống tre đặt ở phía trước, đốt hương thành tâm quỳ xuống, sai Duy Na đánh 3 gậy, rồi rơi lệ tự trách thầm. Trong chúng tăng tục không ai là chẳng tức tối cho vị tăng kia. Nhân đấy mà khuyên chúng, nên người tới học rất đông. Ngài Liên Trì ca ngợi rằng:
            - "Ôi, khiến người đời nay mở phong bì của lão Đạo An, người không gởi cây gậy xếp mà là lời trách. Độc đáo thay! Bậc thầy là đệ tử thánh hiền mấy thưở ra đời, tôi do 2 vị mà công bố cho số đông trong đại chúng biết".
            5.15  Đóng Cửa Tịnh Tu (Yểm Quan)
            Cách thức việc đóng cửa khóa tu khởi đầu từ Kinh Viên Giác, Phật vì hành giả tu thiền quán mà qui định thời gian tu tập. Nhưng thường kỳ (dài nhất) phải ngưng ở 120 ngày (4 tháng ) đến nay ở Đông độ việc đóng cửa tịnh tu phần nhiều lấy 3 tháng làm một kỳ để tăng hành cước nghỉ ngơi trong vấn đề tu tập. Đến giờ nhóm chúng tại chánh điện hay điện Vi Đà, phần chính cúng ngọ. Duy Na cử bài tán: - "Lư hương…", Quan chủ niệm hương, đảnh lễ. Đại chúng cúng ngọ, đọc sớ, quan chủ quỳ phía sau Duy Na; văn sớ nội dung như sau:
            - "Từng nghe rằng (lại vì): nghiền chân bỏ vọng, ngôi cao ở tận non sâu. Quán chiếu minh tâm giữ chí lánh mình nơi thanh tĩnh, cần tu không bao giờ thối chuyển, được điều thiện nhập môn, phóng túng buông lung là gốc của khổ đau hoạn nạn. Đọc tên người cúng, tuổi và cầu việc gì…"
            Nhiếp niệm, đã lìa tục nhiễm phải xa lánh nơi phố thị phồn hoa, mới tăng thêm tuổi thọ; đang trong cảnh thanh nhàn bày một cửa thí, chuyên vì việc gì… Ba tháng là thời kỳ nhiếp niệm tu trì, lễ bái, tụng kinh. Nay là "ngày…tháng…năm.. bắt đầu cho đến ngày...tháng…năm… chấm dứt, tại chùa…", bế quan như pháp tu hành.
            Lại nguyện, nghĩ suy do tịnh mà đạt, nhất chân bản tánh hiển nhiên, tuệ từ đó mà sanh; vạn hạnh tô bồi thêm tăng trưởng. Một mảy trần chẳng nhiễm, đóng cửa cũng như ở trong núi sâu; 10 trí toàn chân, lìa niệm liền lên bờ giác. Nay chí thành dâng sớ, cung thỉnh Tam Bảo chứng minh gia hộ cho đạo tràng chúng con.  
            - "Ngày…tháng… năm…"
            Đến phần chính cúng ngọ xong, Quan chủ đắp y tới phòng ngài Phương Trượng, thầy Trụ Trì mời Hòa Thượng khai thị đóng cửa tịnh tu. Trụ Trì cùng Quan chủ lễ 3 lạy rồi lui ra. Mời thầy Trụ Trì ra cổng ngoài, đứng chính giữa, tung phất trần lên rảy một cái; chúng đứng 2 bên, Quan chủ đứng sau Trụ Trì. Duy Na cử bài tán:
            - "Dương chi tịnh thủy…".  Tán xong gõ khánh mời thầy Trụ Trì thuyết pháp, thuyết pháp xong, tụng Bát Nhã, hồi hướng, phục nguyện… Trụ Trì dẫn Quan chủ ra đóng cửa. Sau khi khóa chặt cửa xong, trở vào tụng 3 tự quy y.
            5.16  Mở Cửa Kết Thúc Khóa Tu
            Khi tới thời mở cửa (mãn hạ) bèn nhóm chúng ra trước cổng, trước hết nói ý nghĩa mãn hạ xong mới mở tung cửa ra, đại chúng tiến vào chánh điện cúng ngọ. Duy Na đọc sớ viên thành tâm nguyện như sau:
            - "Từng nghe rằng, an cư thâm diệu, ắt đạo hoằng truyền rực rỡ qui mô. Nhập định Na Già thể hiện oai nghi tấn chỉ thường hằng bất biến. Đâu cần phòng cơ duyên ứng dụng, cực tịnh mà thông đâu ngại đi vòng khắp pháp giới. Ghi tên người cúng vào đây và cúng cầu việc gì…Nhiếp niệm (tên): hình vóc thô phù, trí như lửa phừng, hướng nhứt thừa mà cầu đạo, như đứa cùng tử xa xe trâu. Đóng 3 tháng cửa không như thỏ châu mà mê tượng kính, tốn hao của tín thí, vùi lấp tháng ngày thân tạm yên nơi nhà bé nhỏ, toàn thọ ơn Phật để hộ trì. Hạ kỳ kết thúc được mở cửa, đặc biệt gia tâm lễ sám mà đáp tạ thâm ân".
            Lại nguyện:
            - "Đem công đức kết thúc kỳ hạ viên mãn này, trên chúc quốc gia bền vững, đạo lý xương minh, dân an vật thịnh, mưa hòa gió thuận; 6 đường đều nương nhờ 6 độ, ba cõi dứt hết 3 tai. Tiên vong chứng quả vãng sanh, đàn na gội nhuần quả phước. Thứ cầu cho Trụ Trì (tên) đạo phong ổn cố, Phật pháp uyên thâm, tòng lâm hưng thạnh, chúng lý an hòa, đức nghiệp tu đồng, phước huệ viên dung. Chí thành dâng sớ, cung thỉnh Tam Bảo chứng minh viên mãn đáp tạ sớ cầu an. Ngày…tháng…năm…"
            Tụng Bát Nhã, hồi hướng, phục nguyện, tự quy y… như nghi thông thường.
            Chứng nghĩa ghi cổ nhân nói rằng:
            Triệu Châu 80 tuổi còn đi hành cước, chỉ vì tâm đầu chưa đốt cháy; cứ theo đó với nửa bài kệ; tin việc đóng cửa, nên sau khi ngộ đạo chọn việc tu dưỡng. Vân Thê Sùng Hành Lục v.v... đều đăng tải: Cao Phong Diệu thiền sư sau khi đốn ngộ ẩn tại Long Tu 9 năm, kết gỗ làm nhà dưới núi, mùa hạ một áo. Về sau tạo thiên mục Thạch động Tây Nham, mở rộng căn nhà nhỏ như chiếc thuyền, ngoài đề bảng “Cửa Tử”. Trên nước chảy xiết, dưới bùn lầy, gió mưa xiêu vẹo, không người hầu hạ, căng quần áo che chắn; ngày ăn một bữa, an nhiên như vậy. Hang động không có thang để lên, vứt thang là dứt duyên; dù đệ tử muốn được lễ Thầy. Ôi! bế cửa quan như thế này là cái đạo thánh hiền, đâu chẳng thành tựu chứ? Hiệu quả việc bế quan ngày nay trăm màu sắc tạo thành thật là vô vàn quái dị, tổn hại đạo làm sao!
            5.17  Nghinh Tiếp Bậc Tôn Túc (có 6 phép)
            Nghinh tiếp bậc tôn túc phải đủ lễ nghi, phép tắc. Có 6 phép như sau:
            5.17.1 Cung Nghinh Bậc Tôn Túc
            Phàm bậc tôn túc chùa khác đến, người trông cửa liền báo cho Tri Khách, Tri Khách bạch cho Hòa Thượng Phương Trượng. Cử 3 hồi chuông trống bát nhã nghinh tiếp. Tăng chúng y hậu chỉnh tề tiếp mời; Trụ Trì rước Hòa Thượng lên phòng Phương Trượng. Mời khách ra hậu Tổ cho đại chúng đảnh lễ:
            - "Bạch trên Hòa Thượng thượng… hạ… hôm nay tăng chúng bổn tự chúng con có duyên sự đầu thành đảnh lễ xin tác bạch. Kính bạch Hòa Thượng:
            - "Chúng con từng nghe rằng: Nhứt tăng đáo, nhứt Phật lai, được nhân duyên hiếm có Hòa Thượng tới thăm thầy chúng con, chúng con xin thành tâm đảnh lễ cúng dường tam bái, ngưỡng mong Hòa Thượng dũ lòng từ bi nạp thọ và ban bố cho chúng con những lời giáo huấn thực tế để chúng con lấy đó làm tư lương tu hành. A Di Đà Phật".
            Chờ Hòa Thượng ban pháp ngữ xong, bạch tiếp:
            - "Trên Hòa Thượng đã hoan hỷ hứa khả cho rồi, chúng con xin y giáo phụng hành." (3 lần).
            Tất cả đồng lễ 3 lạy rồi hướng lễ Hòa Thượng Phương Trượng 3 lạy. Đại chúng giải y. Thị giả trị nhựt pha trà bưng tới phòng khách để hai Hòa Thượng dùng trà. Rồi lui ra lo cụ bị phòng ngủ tươm tất mọi thứ mùng mền, gối nệm, và tọa cụ xong, trở lại phòng khách:
            - “Bạch Hòa Thượng, con xin thỉnh Hòa Thượng về liêu an nghỉ”.
            Buổi tối, sau thời kinh, thỉnh Hòa Thượng tôn túc thuyết pháp. Đại chúng nghe chuông đến trước tòa Hòa Thượng tôn túc, chờ Hòa Thượng niệm hương, lễ Phật xong, thỉnh Hòa Thượng đăng pháp tòa. Giới thiệu Hòa Thượng tới đại chúng. Trong lúc Hòa Thượng khai thị nên lắng lòng nghe ghi nhớ những điều cần yếu quan trọng để học hỏi noi gương.
            Chứng nghĩa ghi nhận:
            Từ khi tiếp mời đến lúc tiễn chân khách ra về đều tỏ lòng tôn kính như thầy mình. Trọng lễ nghi đạo đức. Sở dĩ xưng tôn túc vì người đạo đức đáng tôn vậy. Đạo đức tuy không thể biết được nhưng đã thuộc khách quí, phải phân biệt chủ-khách, nên giữ lễ nghi phép tắc. Vã để làm cho chúng tăng học thói quen quí kính đạo đức của bậc tôn trưởng; mà bỏ tánh cao ngạo.            
            Ngu Am Chích Cổ ghi rằng:
            - Ngài Tuyết Nham Mãn thiền sư cùng Thắng Mặc là bạn tham thiền, thường quỳ nhận khăn ban hay hỏi những việc lạ. Sư nói:
            - "Nay các vị hoặc tư cách ông thầy thuộc về pháp, rồi tranh cải đôi co như vi trùng trong thân sư tử. Chỉ sư tử mới tự ăn thịt nó được, đáng buồn thay!"
            Tôi suy nghĩ để khuyên quý vị đó. Ôi! Người xưa đối với bạn như thế tiếng tốt lưu lại thiên cổ, đối bậc tôn túc ờ xa tới lại coi thường ư? Không những thế mà còn luôn gần gũi để học hỏi nơi bậc tôn túc, không khá cẩn trọng lắm hay sao?
            5.17.2 Thăng Tòa (thuyết pháp)
            Sau khi xem xét giường nằm đâu đó xong, Tri Khách tới trước bậc tôn túc lễ một lạy rồi chấp tay bạch rằng:
            - “Phương Trượng Hòa Thượng thượng A hạ B cùng đại chúng sáng sớm ngày mai thỉnh Hòa Thượng từ bi thăng tòa thuyết pháp". Bậc tôn túc hứa khả bèn lạy một lạy. Hoặc Trụ Trì đích thân thỉnh không luận cao hay thấp.
            Sáng hôm sau, thời Kinh vừa xong, thị giả cầm y đỏ tới liêu Hòa Thượng tôn túc, rồi báo hiệu cho chúng sẵn sàng đón bậc tôn túc. Lúc Hòa Thượng tới đại chúng xá một xá. Trụ Trì thỉnh Hòa Thượng thăng tòa, giới thiệu với chúng:
            - "Thưa đại chúng, hôm nay có Hòa Thượng thượng A hạ B, là bậc kỳ lão đạo cao đức trọng, Ngài trú tại…là hàng tôn túc trong hàng chúng trung tôn, Hòa Thượng vì Phật sự đến đây, nhờ đại chúng có túc duyên mới gặp Ngài, chúng con xin có đôi lời giới thiệu và kiền thỉnh Hòa Thượng khai đạo".
            Đại chúng đồng lễ một lạy rồi ngồi xuống nghe Hòa Thượng ban lời pháp ngữ.
            Chứng nghĩa ghi:
            Đây là việc kính trên trọng dưới, là nghi cách hổ tương cho việc khích lệ. Chích Cổ có câu chuyện rằng:
            - Xưa có Duyệt thiền sư đến thăm sư Tuyết Bảo, cung cách nghiêm trang, luận bàn kỳ đặc. Thiền sư Tuyết Bảo bước xuống tiếp mời trà, sẵn dọn giường tôn kính khác thường. Việc đó tiếng đồn rất xa, ngăn cản được Sư Duyệt ra đời. Có Thượng Tọa Lan từ thiền sư Tuyết Bảo đến bàn Sư Duyệt xét lại việc của mình rồi từ bỏ ý định, do cảm mến đức độ người pháp lữ. Ngu Am tán thán rằng:
            - "Sư Duyệt móng vút dường sư tử
            Tuyết Bảo trước nghiêm khiến phản tỉnh
            Thấy hiền bất kính là phi lễ
            Cánh nhạn khai diên tấn dịch hương
            Trống ta khua hề Ngài gảy đờn
            Gió lành vọng đạo hóa Mán Mường
            Lan Công Lan Hương tới Vân Phong
            Tuyết Bảo tiếp trà nay còn vương…"
            5.17.3 Tại Phòng Hội
            Quả như có bậc đại tôn túc tới phải mời tới phòng hội. Buổi chiều, sau khi dùng cháo xong, Trụ Trì chính thức mời Ngài tôn túc khai thị; nếu hứa khả liền cho thị giả trị nhựt thông báo nơi phòng khách rằng:
            - “Có Hòa Thượng…tối nay khai thị tại phòng hội, mời đại chúng đến dự nghe đông đủ.”
            Tới giờ Hòa Thượng đến, đại chúng đứng chắp tay xá chào. Duy Na mời Ngài lễ Phật. Lễ Phật xong, mời Hòa Thượng sang thiền đường tới phòng hội, mời nhị vị Hòa Thượng đăng pháp tòa. Chủ khách nhường nhau ngồi. Duy Na xướng:
            - “Đại chúng đảnh lễ nhị vị Hòa Thượng tam bài”.
            Lạy xong, đứng sang 2 bên quay mặt vào nhau. Trụ Trì thưa bạch rằng:
            - “Nhơn vật đặc biệt đến đây chúng ta một lòng khiêm cung đón rước, ta không ngại đó là người trí thiển lực mỏng, không thể vì quý Thầy có tư kiến mà phụ lòng người đến. Nay có Hòa Thượng… quang lâm tới đây, thật là đầy đủ túc duyên vinh hạnh cho chúng ta đón tiếp. Trong đạo Ngài là bậc thâm niên tu hành nghiêm mật, đầy đủ pháp lực. Chúng ta phải suy nghĩ trong tư tưởng khó gặp Ngài. Giờ này đại diện chúng, đạo tràng… chúng con xin kiền thành cung thỉnh Hòa Thượng ban lời khai thị, ngưỡng mong Hòa Thượng dũ lòng từ bi mà hoan hỷ cho chúng con.”
            Hòa Thượng dõng dạc khai đạo ngắn gọn, súc tích trong vòng 10-15 phút. Xong Duy Na hướng dẫn đại chúng đảnh lễ Hòa Thượng và tụng hồi hướng. Tiễn Hòa Thượng và Phương Trượng về hậu liêu. Thị giả lo trà trước để Hòa Thượng Phương Trượng tiếp ở phòng Ngài, dùng trà xong, thỉnh về liêu nghỉ.
            Chứng nghĩa ghi rằng:
            Ngày xưa Trụ Trì tiếp các vị học giả, duy đưa thêm việc này vào để chủ khách hợp nhau. Lúc mới nhập môn (vào đạo) nên coi việc tiếp khách là quan trọng, thay vì huấn luyện, sao chùa vẫn chấp hành vậy. Ngày nay pháp tu không đạt, chủ khách bàn lung đủ mọi vấn đề mà đại để nói toàn việc thế gian. Khai thị là cách thuyết đạo hy hữu cô đọng, có hiệu quả đối với người nghe. Giả như có kẻ học thức từ xa tới thăm dự nghe, cũng không uổng phí việc tham vấn. Đẹp thay qui cách người xưa! Ôi, biết ngày nào mới phục hồi được cung cách như thế?
            5.17.4 Thỉnh Thọ Trai
            Phàm thỉnh bậc tôn túc thọ trai, trước nhất thị giả tới phòng Phương Trượng sắp đặt bàn ghế, ly chén, đũa muỗng, cơm nước, bánh trái… thứ tự ngăn nắp. Trụ Trì cho thị giả mời 2 Hòa Thượng đến, rồi cung kính thưa: 
            - “Chúng con xin cung thỉnh nhị vị Hòa Thượng thọ trai”. Hai Hòa Thượng xá chào nhau, rồi ngồi vào chỗ ngồi. Thị giả đảnh lễ Hòa Thượng, nếu Ngài cho miễn thì khỏi lạy mà chỉ xá một xá. Rồi trông coi quan sát mâm cơm chu đáo, mỗi bàn 2 thị giả, lo như đơm cơm, sớt thức ăn, dâng trái cây, trà nước, bồi thêm nước tương, giấy lau mặt … Tất cả đều làm nhẹ nhàng oai nghi để hết tâm hầu hạ, không được đi giày lớn tiếng, không khua chén đũa, không khạc nhổ v..v… Dùng cơm xong, chủ khách uống nước, mật niệm hồi hướng, rửa tay, xỉa răng, súc miệng xong, đưa các Ngài ra phòng khách. Thị giả dâng trà và đứng hầu khi các Ngài nói chuyện.
            Chứng nghĩa ghi rằng:
            Xưa Cao Am nói rằng, giáo hóa quan trọng nhất không chi bằng trước hết là lễ nghi đạo đức. Trụ Trì tôn trọng đạo đức thời người học mới cung kính; thi hành lễ nghi để chúng ganh đua cho kỳ được. Trụ Trì không có oai nghi thiếu tư cách nên tăng chúng mắc phải cái tệ hung bạo; Trụ Trì xách động tranh biện thời học chúng mắc họa kình chống nhau. Các bậc tiên thánh biết chúng chưa được thuần bèn chọn bậc minh triết mô phạm tòng lâm, khiến cho người chiêm nghiệm chẳng phải thí dụ mà để giáo hóa. Lễ nghi kính trọng khách chính là cách tiếp đãi nhỏ nhẹ, lời nói ôn nhu, đều đáng làm mô phạm cho hậu thế, là chỗ dụng ý sâu xa vậy. Thời buổi gần đây lại quá giản tiện, chủ khách xem thường lễ nghi đạo đức nên dần dần bỏ mất hết. Đáng tiếc thay!
            5.17.5 Viếng Thiền Đường - Tuần Liêu
            Phàm bậc tôn túc đi thăm đường thiền, tuần các liêu, trước tiên phải thông báo tại phòng khách rằng chiều nay sau 2 giờ có Hòa Thượng…A, B …tới thăm thiền đường, tuần các liêu. Kế cho Duy Na biết, Duy Na thưa trong chúng:
            - “Hôm nay có Hòa Thượng A… tới thăm thiền đường, quý thầy nên giữ oai nghi.”
            Nơi thiền đường chuẩn bị sẵn 1 chiếc ghế ngồi, Tri Khách đưa bậc tôn túc tới đứng đợi ngoài thiền đường. Chúng đứng 2 hàng đón Hòa Thượng vào bên trong. Hòa Thượng lễ Phật, đại chúng tác lễ Hòa Thượng. Duyệt Chúng đem chiếc ghế đặt ngay chính giữa, thỉnh Ngài an tọa. Duy Na giới thiệu Hòa Thượng, nếu như Ngài cho miễn nên thôi không phải giới thiệu. Sau khi thăm hỏi chúng, Hòa Thượng khuyến tấn, an ủi xong, Hòa Thượng rời thiền đường. Tri Khách dẫn khánh thỉnh bậc Tôn túc đến các liêu hỏi thăm chúng; Tri Khách cho biết:
            - “Thưa quý huynh đệ, hôm nay có Hòa Thượng…chùa…đến tuần liêu, thăm hỏi quý huynh đệ. Thăm hỏi xong, mời tôn túc về phòng Phương Trượng dùng trà, luận đạo".
            Chứng nghĩa ghi rằng:
            Tiếp đãi bậc tôn túc hoặc đưa vào lễ Tổ, lễ Phật. Nhưng trong khi đáp lễ phải có sự linh động uyển chuyển thăm phòng khách, trai đường, thiền đường, nhà kho; hoặc chỉ thăm các liêu mà không đưa tới nơi chúng thọ trai. Đây là nghi cổ, nay không theo như vậy. Ôi, quá đơn giản khiến chúng không còn cẩn trọng lễ nghi phép tắc như trước nữa!
            5.17.6 Tiễn Khách Hồi Sơn
            Bậc tôn túc sắp hồi sơn, Tri Khách thông báo như sau:        
            - "Ngày mai… Hòa Thượng A, B…hồi sơn lúc… giờ, đại chúng y hậu chỉnh tề tới đảnh lễ tiễn chân Hòa Thượng". Tới giờ, nghe hiệu lệnh đại chúng vân tập đảnh lễ Hòa Thượng một lạy, Trụ Trì bạch:
            - “Thưa đại chúng, sơn môn… chúng ta hôm nay kính tiễn Hòa Thượng… hồi sơn, cầu chúc Hòa Thượng thọ mạng lâu dài để cho chúng con được gội nhuần ân đức".
            Hòa Thượng chúc chư tăng tinh tấn tu hành rồi Ngài xá chào từ giả. Trụ Trì, đại chúng đưa Ngài ra tới cửa sơn môn, đứng thành hàng chắp tay xá tiễn. Chờ một lát cho tới khi khách khuất dạng chúng trở vô chùa. Sau đó tuần tự giải tán về lại liêu mỗi người.
            Chứng nghĩa ghi rằng:
            Lễ bậc tôn túc lúc đến, khi đi là tôn trọng đạo đức, không phải trọng danh vị. Quả thật bậc tôn túc tuy không danh vị cũng nên trọng pháp mà lễ kính phải đạo để khuyến khích người học đạo.
            Sách Ngu Am Chích Cổ ghi rằng:
            Xưa có vị La Hán là Nam thiền sư thọ pháp Ngài Vân Cư chưa được nhiều người biết đến. Sau tới thăm chùa Đông Lâm, Sư Chiếu Giác gióng chuông tập chúng ra nghinh đón tới bờ Thanh Khê. Chúng vô cùng kinh ngạc mới phát hiện ra là Sư Nam. Ngoài ra, Ngài Phật Ấn có lúc cũng ở chỗ Vân Cư, Linh Nguyên Tầu thiền sư từ chùa Long Sơn tới thăm, dấu tung tích, chỗ ở. Phật Ấn biết thăng tòa mời Linh Nguyên ngồi vào giữa, kính lễ rất mực, chúng thấy vậy đều cảm kích. Đạo học ngày mới, lại đời Tống giữa niên hiệu Thiệu Hưng, Trúc Am Khuê thiền sư vâng chiếu khai sơn Chùa Năng Nhơn tại Nhạn Thang. Lúc đó có Chân Hiết Liễu thiền sư ở bên sông nghe Sư Trúc đến sợ sắc xanh chưa chín (đạo hạnh chưa nhuần), bèn qua sông đón Sư Trúc về phương trượng trải tọa cụ lạy 9 lạy, để nhắc nhở nhiều người và đương nhiên được mọi người kính mộ. Ôi! Như 3 vị Trụ Trì trên đây đáng gọi là người trọng đạo đức mà hết lòng nghinh tiếp lễ lạy các hàng tôn túc.  Người sau nên lấy đó mà bắt chước vậy.
            5.18  Hộ Trì Pháp
            Phàm quan chức tới chùa, người trực phải báo cho Tri Khách biết, Tri Khách bạch cho Ngài Phương Trượng. Trụ Trì lãnh chúng và Giám Viện ra trước cửa tiếp đón. Chúng đắp y đứng sắp hàng trước chánh điện. Mời quan niệm hương, dâng hương và đảnh lễ xong, mời xuống dùng trà cùng Hòa Thượng Phương Trượng. Trụ Trì tiếp mời trà thân mật. Khi khách ra về, chức sự tiễn ra tới cổng sơn môn. Ngoài ra, tất cả những đàn na hộ pháp tới chùa đều phải đầy đủ lễ nghi phép tắc, không thể xem thường mà làm cho việc ngoại hộ lơ là thiếu sót.
            Nếu có cư sĩ nổi danh ở xa đến cũng ân cần tiếp đãi như đàn tín hộ pháp vậy. Sau khi chỉ phòng nghỉ, đơn (giường) xong cho đi tham quan một vòng và viếng các liêu chư tăng, có bàn về đạo pháp cũng đừng để lỗi quấy; tất cả đều nên lấy phép chủ khách mà tiếp đãi.
            Chứng nghĩa ghi rằng:
            Tòng lâm ở gần phố xá đa phần đều có việc tiếp rước này. Nói chung nên giữ oai nghi đàng hoàng làm cho người sanh tâm kính nể; thậm chí như việc khách đến thình lình thời cũng phải giữ lễ với người.
            Sơn Am tạp lục ghi rằng:
            Pháp sư Phụng Sơn Nghi tại Hàng Châu có sang Ấn Độ trong khoảng năm Diên Hựu nguyên niên; sau có Cao Lệ phò mã Phan Vương được chỉ đến tham lễ Quan Âm tại Phổ Đà Sơn. Qua khỏi Hàng Châu Phan xuất tiền tới chùa Minh Khánh thiết lễ trai tăng, mời chư sơn trụ trì các nơi; Phan Vương ngồi tòa cao, các quan ngồi dưới thấp. Chư sơn sắp thành 2 dãy để Phụng Sơn ngồi ở đầu, Sơn hỏi vương rằng:
            - "Hôm nay trai tăng vì việc gì?"
            Vương đáp:
            - "Cúng dường chư sơn."
            Phụng Sơn nói:
            - "Đại Vương đã biết cúng dường chư sơn, trai chủ không sắp chỗ mà Vua tự choán ngồi chỗ cao, còn chư sơn ngồi 2 bên; đến đổi có người trải chiếu ngồi dưới đất, có khác gì Bà La Môn! Đối với lễ nghi e không đúng phép như thế được!"
   Vua nghe thế hoảng hồn xin lỗi và bước xuống khỏi tòa ngay, nhường trước cho các bậc tôn túc để phân biệt ngôi chủ khách; các quan lui ngồi sang 2 bên. Thọ trai xong, vua nắm tay Phụng Sơn nói:
            - "Không nhờ thầy, Ta đã không giữ đúng lễ".
            Đây gọi là cơ hội thi thiết mà có thể mở rộng được nhơn tâm, đó là Phụng Sơn vậy. Người đời nay ưa mắc lỗi quấy, phép tắc đây không thể khinh suất được. Song phong cách cổ nhân sáng ngời lan xa cũng không thể không biết như thế.
            5.19  Đến Chùa Khác
            Phần tiếp bậc tôn túc bên trên có 6 cách, là lúc họ tới thăm. Còn đây là việc đến thăm các chùa chư tôn túc, là ta tới họ. Họ và ta tuy khác nhưng lễ giống nhau. Xem thêm phần tiếp bậc tôn túc ở trên để biết rõ. Có sự dị đồng. Xem Chương Trụ Trì tiết xuất nhập ở dưới có nói rõ, ở đây không ghi hết.
            5.20  Mừng Sinh Nhựt
            Mỗi khi gặp ngày sinh nhựt Hòa Thượng Phương Trượng, chuẩn bị trước một ngày đâu đó dọn dẹp, quét tước, sắp đặt hương đèn, hoa quả các bàn thờ chu đáo. Tri Khách tới phòng Phương Trượng hỏi Trụ Trì:
            - “Ngày mai tụng Kinh gì?”.
            Nếu có tụng kinh phải thông báo cho chúng biết để chuẩn bị sắp xếp kinh tụng. Hôm sau đúng giờ nghe hiệu lệnh, chúng y hậu chỉnh tề vân tập chánh điện, đốt nhang đèn, Trụ Trì niệm hương, cắm nhang lên lư, đảnh lễ Tam Bảo. Xong Duy Na cử tán bài:
            - "Bảo đảnh nhiệt danh hương…" Không chúc tán, tụng Kinh Lăng Nghiêm, đi nhiễu Phật như thường lệ. Trở lại chỗ xướng lễ chư Phật, Bồ Tát, Thích Ca, Dược Sư, Văn Thù, Phổ Hiền, Nhựt Quang, Nguyệt Quang, Hải Hội mỗi vị 3 lạy. Khóa lễ xong, 3 hồi chuông và 3 tiếng, đại chúng theo sự hướng dẫn của Duy Na. Thầy Duy Na bạch:
            - “Thưa Đại chúng, giờ này đại chúng chúng ta đến khánh chúc Hòa Thượng Phương Trượng sinh nhựt.”
            Tại phòng Phương Trượng, chúng đứng sắp hàng 2 bên, Duy Na mời Hòa Thượng vào chỗ ngồi. Hòa Thượng ngồi xong, Duy Na xướng:
            - “Đại chúng kính chúc Hòa Thượng thọ mạng lâu dài”.
            Chí thành đảnh lễ 3 lạy. Lạy xong, hoặc khai thị hoặc không; tối hôm trước phải hỏi để quyết định. Nếu thuyết thì theo nghi thức tiểu tham thường lệ; còn không, lạy xong đại chúng lui ra, chuẩn bị dùng điểm tâm. Trưa có cúng ngọ, đặc biệt tại trai đường có thiết bàn đặt lễ phẩm chúc mừng sinh nhựt. Nếu có tụng kinh, theo nghi thức ở trước, chỉ khác tờ sớ như:
            - "Từng nghe rằng, đèn ngọc vừa sáng, ánh vàng chiếu soi, thọ như âm nhạc, ngọc báu hiện lên, mênh mông pháp thủy sóng lung linh nhồi. Nương Phật Pháp thường trụ, mừng nay gặp được minh sư đời này. Ngài sanh quán… năm nay … tuổi".      
            Lại niệm:
            - "Hòa Thượng A-B là hoa sen sáng rỡ của Phật Tổ, y bát có ẩn nơi bảo sát do bản chất phàm phu phân đoạn. Thiện duyên phát khởi nơi tâm từ. Nay nhân ngày sinh nhựt của tôn sư, công lao khổ cực dìu dắt hậu lai.  Nay chúng đến trước Phật đảnh lễ Tam Bảo, hiến tụng kinh…"
            Lại nguyện:
            - "Phật Pháp vững trường tồn, tòng lâm mãi hưng thạnh, sư trưởng, cha mẹ quá cố, hiện đời được ân triêm công đức".
            Lại nguyện:
            - "Tổ Đức Tôn thân thêm phần phước lợi. Đồng cầu nguyện… đạo hạnh tinh chuyên, trí bi nhuần đượm, thân tâm khương thái, tuổi hạc tươi vui. Đời đời vun vạn điều thiện để trang nghiêm, phẩm phẩm chứng 6 thông ung dung tự tại. Kính nguyện đem công đức này mong tình thức đều siêu hàm chứa trong một thiện niệm thành tựu phước đức vô biên. Chí thành dâng sớ, cung thỉnh Tam Bảo chứng minh. Bảy tám chin mươi tuổi chúc thọ văn sớ. Ngày.. tháng… năm… Tỳ kheo… cẩn sớ".
            Sau khi hồi hướng, thầy Trụ Trì thay Phương Trượng cảm tạ các thầy đại chúng tăng.
            Chứng nghĩa ghi rằng:
            Đây là lễ chúc theo đời, tôn kính Hòa Thượng đức báo ơn hoằng pháp. Xưa Đường Văn Hoàng chủ chùa Vạn Thừa, ngày sinh nhựt chẳng lấy làm vui, huống gì chư tăng lại chúc thọ ư? Cho nên có câu nói rằng: "Ở chúng nên làm, ở chủ nên ngưng; làm thì tụng kinh cũng được, ngưng nên chấm dứt mọi duyên ồn náo là chánh, vì không cần thiết đối với người tu từ bỏ các pháp ngoài Phật Pháp".
            5.21  Cúng Trai Phạn Chư Tăng
            Có thí chủ cúng trai phạn chư tăng đến chùa, nên tiếp ở phòng khách và báo cho Phương Trượng ngay, kế mời vào phòng khách rồi hướng dẫn đến gặp Trụ Trì. Gặp Phương Trượng Trụ Trì liền làm lễ; Thầy Trụ Trì lấy lễ tiếp đãi qua mấy lời thăm hỏi ân cần, rồi mời dùng trà. Xong, Tri Khách đưa tới phòng nghỉ hoặc trong ngày trở về thời không cần phòng ngủ. Nếu người cúng dường là quan chức, phải cần gióng chuông nhóm chúng ra cửa đón (Xem nghi hộ pháp ở trước có đề cập). Phương Trượng cắt Giám Viện chỉ vẽ thí chủ chuẩn bị bửa cơm cho đại chúng thọ trai. Không được làm tốn hao của Tam Bảo, không nên buộc đại chúng quá khắc khổ. Căn cứ phần cúng thí có niêm yết trên thông báo như sau:
            - “Đại chúng khi nghe chuông vân tập chánh điện để cúng ngọ. Cúng xong thông báo lễ cúng trai phạn hôm nay. Có gia đình Ông, Bà… từ …. đến xin phát tâm cúng dường cầu … Mời quý Thầy tới trai đường thọ trai”.
            Tới giờ, Tri Khách hướng dẫn trai chủ tác bạch cúng dường (bài tự viết hay nhờ Thầy Tri Khách chỉ dẫn trước). Trai chủ tác bạch, Phương Trượng đáp từ, khuyến tấn tu hành, tán dương công đức cúng dường v.v.. Xong, đại chúng cử bát cúng dường (Đọc bài cúng dường thanh tịnh..) Chư tăng thọ trai xong, Tri Khách hướng dẫn trai chủ đến nhà trù cám ơn sự lao nhọc của ban trai soạn lo chu tất bửa trai phạn rồi cùng đi thọ trai. Nếu cúng tiền tùy hỷ phát tâm, cúng đều mỗi vị; Tri Khách giúp cung cấp bao thơ, nếu chưa chuẩn bị, cúng công khai hoặc cúng đưa riêng từng người tùy ý trai chủ. Nếu số tiền nhỏ, không cần cúng vào quỹ chung mà đưa riêng mỗi vị; số tiền từ $30 - $50 trở lên phải để lại 20% cúng quỹ chung để điều hành Phật sự. Chỉ nói sơ như vậy, tùy trường hợp mà định liệu.
            Chứng nghĩa ghi:
            Theo như Kê Cổ lược ghi:
            Vào đời Tống, cư sĩ Hồng Khánh Thiện làm tiết độ sứ Giang Đông, đêm tá túc ở chùa Ngu Khâu tại Trì Châu được Tông thiền sư tiếp đón. Ban đêm đàm đạo, Hồng cư sĩ hỏi:
            - "Cúng dường trai phạn tăng nói ở Kinh nào?"
            Tông thiền sư đáp:
            - "Trong Kinh 42 Chương dạy rằng: cúng dường trai phạn cho 100 người phàm không bằng cúng cho một người làm thiện; cúng 1000 người thiện không bằng cúng cho một người vô trụ, vô tu, vô chứng. Qui định đó là người chân chánh giải thoát, có thể người ấy là phạn tăng, công đức bằng chư Phật. Tiền bối biết đó là người nhiều công đức vậy.
            Hồng cư sĩ hỏi:
            - "Ai làm được như thế?"
            Sư Tông đáp:
            - "Vả như gần đây nói Tần Thiếu Du châm biếm Đằng Châu làm văn đi điếu, có câu ai là nhà tu phạn tăng áo vàng? Tô Đông Pha nghe Tần cáo phó cũng gởi 5 lạng đi đám, nghĩ Phạm Nguyên Trường là Tần phạn tăng. Tới khi Tô Đông Pha lui về phương Bắc đến ở Lư Lăng, do bịnh không ra làm quan Thái học sinh, túng thiếu ở Đông Kinh. Huệ Lâm cúng trai phạn tăng hoàng phái chọn ra ngôi vị Tô Đông Pha để hàng đầu".
            Hồng cư sĩ hỏi:
            - "Cúng trai tăng có căn cứ tiền không?"
            Sư Tông đáp:
            - "Chỗ công đâu chẳng thấy biết của tơ tóc, thí chẳng thanh tao; giết dê bày yến đãi khách quần thần cho ăn uống phủ phê. Lại còn lụa trắng, thúng mũng là do hậu ý. Bởi ăn uống chưa đủ kính trọng hết lòng mà còn tặng thêm nữa mới tỏ dạ ân cần".
            Hồng nói:
            - "Nay nghe Thầy nói mới biết rõ nghĩa cúng dường phạn tăng, tôi mỗi năm tới chùa cúng phạn tăng một lần vậy."
            Và còn hỏi thêm rằng:
            - "Cúng phạn tăng không cúng tiền là một việc khác, nghĩa như thế nào?"
            Đáp:
            - "Nhân quả chẳng hợp".
             Xưa tại Hồ Nam thuộc Vân Cái sơn có Trí thiền sư, ban đêm ngồi thiền nơi thiền thất bổng nghe tiếng lốp bốp lửa bốc cháy sáng lòa, nên đích thân tới xem mới hay lửa phát cháy (giá) tòa sen, chuôi giá vắt ngang cửa, bèn thất kinh hỏi:
            - "Ngươi là ai?"
            Đáp rằng:
            - "Tôi là… trước kia ở núi này; không thích hợp, lấy tiền cúng chư tăng tạo nhà tăng, sái với tín tâm người cúng khiến không hợp nhân quả nên phải chịu khổ báo này; mong vì tôi đánh, trị tội khi tăng, lấy tiền đó thiết lễ cúng tăng mới có thể khỏi được khổ này!"                       
            Trí thiền sư lấy đó ghi tâm nói là sẽ lo liệu. Một đêm kia mộng thấy có người tới cảm tạ rằng:
            - "Nhờ vào lực Thầy, tôi đã ra khỏi địa ngục sanh vào cõi nhân thiên. Ba đời nữa tôi lại được làm tăng, nay cửa chùa vẫn còn lưu vết cháy".
            Nhân vì lấy tiền cúng tăng làm tăng xá mà tiền đó đúng ra để cho chư tăng dùng; còn chịu quả báo khổ như thế. Ngày nay phần nhiều người lấy của thường trụ làm của riêng, họ thọ báo thích đáng phải như thế nào? Song đây dựa vào việc thọ nhận vật thí mà nói, đến như tín thí phát tâm cúng cũng phải cho bình đẳng.
            Căn cứ theo Trí Độ Luận:
            Xưa có thí chủ cúng dường trai phạn tăng chỉ cúng chư vị trưởng lão mà không cúng chư tăng trẻ. Lúc đó các vị La Hán vì lòng thương xót dùng lực thần thông, liền hiện toàn lão tăng cho thí chủ cung kính cúng dường tất cả chư Tăng. Sau khi chú nguyện xong, sắp sửa thọ trai họ hiện nguyên hình là những tỳ kheo trẻ tuổi. Thọ trai xong theo căn cơ mà thuyết pháp khiến tâm của người thí chủ kia liền nghĩ tới pháp bình đẳng trong sự bố thí cúng dường.
            Ngoài ra, tại Ấn Độ, có trưởng giả Thọ Đề thường thiết đại trai như ý cúng dường 7 ngày, vì muốn cúng dường tôn giả Tân Đầu Lư nên đem hoa tươi đặt dưới chỗ ngồi của vị Thánh tăng này. Lại căn cứ việc cúng dường chỉ một bình hoa tươi như trên cũng đủ, nên lấy đó mà chiêm nghiệm. Nếu Thánh tăng ứng cúng trải qua 7 ngày một tuần mà hoa vẫn còn tươi không héo. Đằng này không phải như vậy, sau 7 ngày cúng hoa đều héo tàn cũng như hoa đã khô rụng. Trưởng giả bất mãn vì nguyện không thành, lại càng lo lắng càng hối tiếc, lại xin cúng dường tiếp để cầu được như ý nguyện. Nhưng kết quả cũng không mãn nguyện, trong lòng lấy làm hổ thẹn, không còn cách nào có thể khả thi được nữa. Ông bèn phát đại thệ nguyện quyết cầu được Ngài giáng lâm, nếu như việc không thành, ông hẹn lấy cái chết làm chứng. Đến ngày thứ 7, ông kêu khóc cầu khẩn để mong được sự cảm ứng; lúc ấy có một hành giả khất thực tới nhà, chỉ tay gọi ông trưởng giả nói rằng:
            - “Đây không phải tôn giả Tân Đầu Lư ư?”
            Trưởng giả vui mừng đảnh lễ, Tân Đầu Lư nói rằng:
            - "Ngày đầu Ta muốn phó hội, nhưng người giữ cửa làm cho Ta vô cùng lạnh lẽo, thân không che y, sức không cự lại nổi, đập đầu xuống đá, thịt rơi thành vết thương.  Ngày thứ nhì Ta lại phó hội người canh cửa thấy Ta áo quần rách rưới phơi da, lại ngăn không cho Ta vào. Nay vì thương cảm đến lòng thành của Ngươi coi Ta như thân hữu, Ta mượn được một cái áo che thân mới tới dự hội đây. Từ nay về sau, Ngươi muốn chọn chân tăng cúng dường nên khởi tâm bình đẳng, không phân quí tiện, bố thí rộng rãi không ngăn ngại, phước không cùng tận vậy".
            Ngoài ra, Hàn Sơn có bài thơ rằng:
            - "Chọn Phật cúng đốt hương
            Lựa Tăng để cúng dường
            La Hán xin trước cửa
            Xua đi lầm Hòa Thượng.
            Không hiểu người vô vi
            Bản lai vô tướng trạng
            Dâng sớ thỉnh danh tăng
            Tiền cúng 3 lạng chẳn.
            Pháp sư tốt Vân Quang
            Đặt sừng ngay trên đảnh
            Tâm Ngươi không bình đẳng
            Thánh hiền nhanh xa lánh.
            Phàm Thánh đều lẫn lộn
            Khuyên ngươi đừng chấp tướng".
            Ngoài ra, Kinh Địa Tạng chỉ bày trai tăng độ hương linh cũng phải tinh thành, càng thanh tịnh cúng dường Phật Tăng, ngõ hầu kẻ còn người mất đều được lợi ích.
            5.22  Cúng Dường Đất Đai
            Cúng ruộng (núi), cúng đất, cúng thuốc, cúng nhà…nghi thức đều giống nhau, chỉ thay vật muốn cúng thôi. Tiếp đãi thí chủ như trên, nghi cách giống nhau, Trụ Trì sai thị giả mời người đứng chủ chốt điều hành biết trông coi trong ngoài, cắt đặt người phụ trách phòng khách, nhà kho, thư ký, tri sản. Đây nói tổng quát, nếu nêu riêng phải gọi người trông coi sơn môn là tri sơn, lo việc đất đai là tri điền, cùng tới Ngài Phương Trượng tạ ơn thí chủ bằng cách lập thành bản văn để dễ dàng sau này làm bằng. Thí chủ, Trụ Trì và luật sư đều ký tờ cam kết (giao kèo), giao bằng khoán bản chính, thân nhân thuận cúng, lúa thu, thuế khóa… đều giao đầy đủ. Phương Trượng vào chánh điện thuyết pháp để đáp tạ ân thí chủ. Sau thời thuyết pháp, mời chúng cùng thí chủ đi xem đất; cũng đem theo 10 cành tre để làm móc ranh giới, cho rõ ràng đất cúng chùa. Không được lẫn lộn phạm vi đất người khác để tránh sự tranh tụng. Mỗi năm, tiết mùa xuân 2 bên cùng tới xem lại hạn giới đất một lần. Trong năm, Giám Viện phải khai báo chủ mới và nộp thuế, tức là đất đã thuộc chùa quản trị, khắc đá làm dấu, lập sổ bộ lâu dài. Ngày viết giấy giao kèo có cúng Phật và đãi cơm chay khách dự. Đọc sớ như sau:
            - "Cung kính vì: Cây Bồ Đề cao lớn tỏa rợp bóng che mát khắp 10 phương; hoa Ưu Đàm ngát hương khôn sánh, biến quốc độ này trải rộng mùa xuân, vui ngắm già lam đại giác, dũ lòng chiếu giám cho đàn na… tên thí chủ..sanh năm… tuổi… làng, xã, huyện… đem sở đất số… cúng cho chùa… Trụ Trì tên… Thành tâm niệm tưởng thí chủ… gia duyên ràng buộc, theo nghiệp luân hồi. Tuy tỏ đường giác 1 trương nhưng chưa ra khỏi trần lao nghiệp hệ. May nhờ vạn đức đấng tôn mở bày thiện pháp, nay vì muốn trồng căn lành nên dâng cúng đất làm tài sản tăng chúng. Vì chọn hôm nay nên cung kính trước điện, kính dâng tấc lòng thành hiến cúng, nguyện đem công đức này hồi hướng nhân duyên, cúi xin Tam Bảo chứng minh".
            Lại nguyện:
            - "Trai chủ… túc nghiệp tiêu trừ, phước thọ càng tăng; cúng Phật và tăng nhờ công đức này không bao giờ cùng tận. Bỏ tham tạo phước, quả báo 3 đời thường tan, toàn gia sum họp vui vầy, cháu con gội nhuần ân đức. Nương nhờ phước điền này cho đến trọn thành Chánh giác. Kính thành dâng sớ thỉnh Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát chứng minh, chúng con nguyện xin hồi hướng. Ngày… tháng..năm… Trụ Trì… dâng sớ".
            Sớ này đọc trước bàn Phật xong, đem trình trước bàn Hộ Pháp Vi Đà rồi mới đem đốt.
            Nếu thí chủ muốn cúng cho tiên linh ông bà, nên ghi tên tuổi vào lòng sớ, hoặc cầu nguyện cho cha mẹ, ông bà còn sanh tiền được sống thọ, phước lộc dồi dào. Cũng chính dịp này tới nơi thờ linh lạy tạ hay thiết trai cúng đầy đủ, như nghi tiến linh.
            Chứng nghĩa ghi rằng:
            Cúng ruộng như trên là cách cúng dường cao thượng để hộ trì Tam Bảo, giúp việc hoằng pháp lợi sanh nhờ đó mà đầy đủ thiện duyên, đây là chân chánh phước điền. Bởi vì thiết trai phạn cúng dường tăng chỉ trong nhất thời hay hiện thời. Còn cúng đất ruộng kéo dài nhiều đời, công đức thật hết sức to lớn. Cúng đất, cúng thuốc, cúng nhà… các thứ như thế mà suy ra. Cho nên phải cúng ngọ, tuyên đọc sớ để đáp tạ ân đức thí chủ.
            Xưa thiền sư Sơ Sơn Tánh vì thí chủ cúng ruộng nên vào Phật điện nói rằng:
            - "Mỗi người ngồi một tọa cụ vuông, tròn trang nghiêm, xưa nay hành tọa chưa từng dời đổi, ngày tiết lạnh mòn kiếp thạch, đêm chẳng thuộc âm dương. Lại cũng không lương dịch, 4 tiết đến phân minh, bằng khoán thấy rõ ràng đủ chứng minh lô đất thật. Mọi việc đều tự tại, nếu vấn đề (giấy tờ) không đầy đủ, xử dụng thật khó khăn. Như vậy nên người bố thí làm sao không cảm kích, trưởng dưỡng Phật tánh 10 phương, thường sanh lòng đại trí, thí thực sang bố thí các bậc phàm thánh công đức không thể nghĩ bàn. Nếu không tâm cầu cũng không tâm đạt được, nên hiểu rõ ý xuân phong chớ nhận lầm ngọc xuân sơn. Đại nhân duyên vô thượng biết nguồn gốc tâm niệm; nhân quả đã hiển nhiên nên mới tồn đạo lực. Phỏng công người đem đến canh cơm, đồng thiếc, nước nôi… mặc nhiên 3 luân vắng lặng (kẻ thí, người nhận, vật thí). Hư không ảnh vô tung tích, đèn lồng mờ tỏ sáng thâu canh, nương cựu sơn chất đá cao; liễu uốn theo chiều gió, hoa hướng dương hướng mặt trời. Thuyết pháp như thế có thể nói là không phụ ân thí chủ vậy".
--o0o--