-
QUYỂN
BẢY
-
-
CHƯƠNG
BẢY
- (Gồm
có 2 phần thượng và hạ)
-
---o0o---
-
-
Phần
Trên - Đại
chúng
- Luận
rằng, nước trở lại hư không, cây thuộc về rừng rậm, tòng lâm là nơi
tập họp đông tăng chúng vậy. Ngày nay nói về chỗ rộng lớn, có số
chúng đông tới cả trăm, nghìn người phải cần kho chứa, chỗ nấu nướng,
bếp núc; cũng như chỗ chúng ở, nơi mà 4 phương quy tựu về. Nếu đã có
nơi ở cố định rồi phải làm gì đây? Bởi vì Phật dạy con người xoay
vần trong 3 cõi, trôi lăn theo dòng sanh tử, mà nghĩ cách dứt khổ
cho chúng sanh được an lạc. Phật dạy môn đồ lấy từ bi giáo hóa hướng
thiện nhân sinh. Tuy không phải hết thảy đều tuân lời Phật dạy,
nhưng tâm ảnh hưởng nơi đạo cũng đủ cho ta nương tựa. Lại vì đạo tôn
trọng đồ chúng nên thiết lập phòng xá làm nơi cư trú yên ổn, cũng
như thâu góp lúa gạo để đủ trong việc ăn uống. Dù phải tiếp xúc mới
có, nhưng chỉ sợ bất cập không vì chúng mà nỗ lực. Đã vậy thì dù chỉ
thước đất, một đấu thóc vẫn có sự tranh chấp phức tạp. Há đem cái
ngu riêng mình mà gán cho số đông chúng ư? Đó là những bửa ăn, do vì
chúng ta ăn, nơi ở ta cần. Việc ăn của ta như thế, việc ở như thế,
thật quả làm sao dứt đây!
- Đời
Đường Hồng Châu, Sa Môn Bách Trượng Hoài Hải biên tập
- Đời
Thanh Tỳ Kheo Nghi Nhuận chùa Chân Tịnh Hàng Châu chứng nghĩa
- Ngài
Diệu Vĩnh Trụ Trì chùa Giới Châu tại Việt Thành nhuận duyệt
- Một số
quy tắc thế độ (cạo tóc): nhận người xuất gia như dưới đây, đại khái
phân làm 4 phần:
- - Tuân
theo người quy định
- - Luận
chánh biện tà
- - Nền
tảng 5 giới
- - Quy
tắc 10 chi.
-
7.1.1.a
Giới đức tuổi hạ vị thầy
- Giới
đức tuổi hạ vị thầy cần có đầy đủ 5 đức(1) và 2 nhiếp hoá
(2) để người nương tựa, phải đủ 10 tuổi hạ. Đồ chúng không dễ dưỡng
thành nếu đứa trẻ còn bú sữa chưa dứt không nhận, bảo đảm nhất là
người tuổi đủ khôn lớn. Luật Phật dạy rất nhiều, làm Thầy đâu có dễ?
Y cứ theo luật tạng phần sau, phần thọ giới kiền độ(3) lúc các Tỳ
Kheo chưa đủ 10 hạ đã độ người mà không biết rằng luật dạy phải mãn
10 tuổi hạ mới hợp pháp; thật quả là không phải phép! Đệ tử không
vâng lời dạy, oai nghi chưa am tường, nên chúng Tỳ Kheo đưa ra bạch
Phật.
- Phật
dạy:
- - "Độ
tăng và cho người thọ cụ túc (tỳ kheo) giới, phải bạch 2 lần yết ma
giữa chúng. Người xuất gia phải ra giữa trước tăng trịch áo bày vai
bên phải, bỏ giày dép quỳ gối sát đất chấp tay lạy chư tăng 3 lạy
chí thành cầu xin (cầu giới). Nếu không theo cách này là không còn
pháp nào khác; cho chí y thực cũng đều tuân hành. Tăng nên nói rằng:
- - “Đại
Đức thôi đi, cẩn thận chớ độ người, nếu có trí huệ. Ngoài ra, lấy 2
việc nhiếp phục là: tăng phải nhóm họp và phép độ người; bạch yết ma
2 lần. Nên biết rằng làm Thầy người hẳn tuân lời Phật dạy và quy tắc.
- Vị Thầy
muốn độ đệ tử mà không khâm thừa lời dạy của Phật, là chưa hiểu
trách nhiệm và bổn phận làm thầy. Cũng như không theo quy tắc làm
sao đủ cơ duyên hướng dẫn đồ chúng trong việc thực hành giáo pháp.
Cho nên tuân lời Phật dạy và pháp, toàn bằng vào nhẫn nại của vị
tăng. Trong luật đâu chỉ có việc truyền giới cụ túc mà còn tuyển
chọn người, tức vị thầy thế độ (y chỉ) cũng phải biết điều này. Vì
không cản trở chí nam nhi thành là pháp khí. Nên nói ân thầy (sư) to
lớn, công dạy dỗ (pháp nhũ) khó đền là đây vậy.
-
7.1.1.b Cơ duyên chọn người tín thành
- Sự
nghiệp xuất gia không phải tầm thường, hẳn người phải có lòng tin
kiên cố mới có thể hoạch định nhập đạo. Và ngoài ra, văn từ, đức
hạnh cũng phải cần thiết trong việc học hỏi; huống nữa học giới -
định - huệ há không thỏa chí trượng phu sao? Người mà niềm tin không
vững, xuất gia chẳng lo nghĩ tới đạo. Thân tuy như con giòng họ
Thích (xuất gia) nhưng tâm duyên thế tục. Tới khi đầu bạc theo bóng
quang âm, đành ngồi đợi già chết. Buông xuôi lãng phí như thế hoàn
toàn không đạt phần nào lợi ích cả. Vì thế, người cầu xuất gia trước
hết biết rõ nhân địa, chí hướng quyết định và thệ nguyện kiên cường.
Vị Thầy, phải trắc nghiệm nhiều lần làm sáng tỏ mới có thể hẹn kỳ
xuống tóc. Nếu người căn cơ thấp kém nghĩ thương muốn giúp đỡ, tạm
gởi một nơi âm thầm tu tập để dò xét, theo dõi chờ một thời gian cho
lòng tin thêm vững. Lúc đó việc khẩn thiết cầu xin xuống tóc vẫn
chưa muộn. Vì thế, cần nhất thầy thế độ phải có cặp mắt tinh vi vừa
trông một người là thấu hiểu, còn với chúng đông thì sao?
- Bồ Tát
Mã Minh nói rằng:
- - "Thầy
và đệ tử phải hiểu tánh tình nhau, nếu trước không quán xét kỹ hẳn
phạm tội vượt pháp".
-
7.1.1.d Xin phép tăng xuất gia
- Tư cách
Thầy trò đủ nhân duyên hội tụ, làm lễ xuống tóc chờ hợp thời, dạy dỗ
tùy căn cơ, ứng dụng lại có khác. Nếu ở một mình không có bạn bè,
đúng pháp ở với Thầy. Ở riêng hay sống chung với chúng, cũng phải
dạy luật lệ phân minh. Y như trong luật, khi các Thầy tỳ kheo muốn
độ người mà cho ở chung trong chúng gồm những người vô tình thân cận
chất vấn đủ điều. Sau bèn thấy đệ tử cạo tóc làm tăng vào làng khất
thực nên sanh tâm hiềm hận. Phật biết quở rằng:
- - "Người
cạo tóc xuất gia nếu muốn ở trong tăng già lam phải bạch cho chư
tăng biết trước. Nếu tăng không hòa hợp, có thể dè dặt với lời khéo
cho chúng biết rồi sau mới cạo tóc. Nếu chư tăng đã hòa hợp chỉ bạch
một lần là xong, kế đó mới xuống tóc".
- Thế
nhưng ngày nay, tòng lâm tạp nhạp lẫn lộn, độ người không theo tiêu
chuẩn, còn mong gì tuân giữ luật tắc? Thật là đời mạt pháp, khéo lắm
mới có thể làm cho chánh pháp tồn tại. Như trên đã nói, bạch yết ma
một lần pháp không hữu hiệu mà trong nghi thức dưới đây nêu rõ.
-
7.1.1.c
Giúp ngăn việc chê trách tỵ hiềm
- Mối
giềng bản thể của tăng là thanh tịnh, trong giữ chí đạo thâm sâu
không tì vết, ngoài nhóm chứa đức học thế pháp để củng cố Phật pháp,
ắt do xuất gia thương giúp người tại gia. Nếu chỉ biết dẫn dắt độ
người thoát tục xuất gia mà không khuyên phép từ cha mẹ, quốc vương
thì nhận đủ lời chê trách của thế gian. Giữ mình làm tăng trong đạo
phải làm gì, trong tăng lợi ích gì? Cho nên gặp người chức vị, kẻ
sang, con nhà danh giá (vọng tộc), lễ Thầy cầu được độ, muốn làm Tỳ
Kheo (tăng). Trước hết phải khéo hỏi cặn kẻ, chính xác để mọi việc
được sáng tỏ. Nếu được song thân cho phép, thoát mọi ràng buộc thế
trần mới có thể tiến lên 4 cấp từng lầu, nhập vào tăng đoàn giữ 6
phép hòa kính được. Lúc này cần phải làm là vọng hướng lên không
trung bái tạ 4 ân: cha mẹ, quốc vương, ân thầy, ân Tam Bảo. Đây
không ngoài Phật pháp mà soi tỏ thế pháp. Nếu hỏi đương sự, duyên
trần chưa dứt, theo lẽ nên khuyên quay về nhà. Tuy hứa nhận xuất gia
học ba tụ giới, nhờ giới sanh định, định phát huệ để tu hành mới có
thể được. Còn người tại gia giữ 5 giới không lìa pháp thế gian mà
kiến lập Phật pháp. Phương tiện giúp đời như thế cũng làm phát huy
Phật pháp.
- Y cứ
theo luật, lúc bấy giờ Vua Ba Tư Nặc có vị đại thần vạm vở tự ý vào
chùa xuất gia mà không xin phép Vua; được một Thầy Tỳ Kheo thâu nhận.
Sau Vua biết được ra luật nghiêm cấm (quan chức đi tu không xin phép).
Ngoài ra, các Thầy Tỳ Kheo phần nhiều độ các đồng tử dễ thương vào
giòng họ Thích. Có người tâu Vua Tịnh Phạn nhờ bạch lên đức Thế Tôn.
Cha mẹ phần nhiều nuôi dưỡng cho bú mớm, săn sóc đợi tới lúc con
trưởng thành muốn được lợi lạc: phụng dưỡng hầu cận cha mẹ, kế thừa
giòng giống không tuyệt. Mong Phật ban lịnh cho chúng tỳ kheo, không
nên cho trẻ cạo tóc xuất gia khi không được sự đồng ý của cha mẹ. Do
nguyên nhân đó, Phật ngăn không được thâu nhận các bậc vương thần,
đồng ấu xuất gia mà không có phép của Vua quan hay cha mẹ. Nguyên
bổn còn dẫn luật Tăng Kỳ nêu ra 4 hạng vương thần hay quan chức;
nhưng xét thấy không cần thiết nên lược. Riêng con cũng có 3 loại:
Con ruột cha mẹ sanh. Con nuôi, được nuôi dưỡng từ nhỏ, dưỡng tử
nương tựa làm con.
- Con
ruột tuổi đồng niên (đồng tử) xuất gia cho dù ở Trung Hoa hay các
nước khác cũng không chấp nhận được, nhưng con nuôi có thể được.
- Nếu dựa
theo tiêu chuẩn trên, riêng hạng con ruột cũng có thể mở rộng 4
trường hợp vì phương tiện tế độ; Thánh hẳn cũng rủ lòng từ cho phép
như: Cha mẹ còn đầy đủ nhưng vì quá đông con không thể nuôi dưỡng
hết. Cha còn, mẹ mất chỉ có một con, cha không săn sóc được. Mẹ còn,
cha mất, gia đình đông con. Cha mẹ đều qua đời chỉ có 1 người con.
- Trường
hợp cha mẹ còn sống hay mẹ còn cha mất mà đông con. Nếu có một, 2
người đi phương xa (sống xa nhà) đủ tín tâm xuất gia, cầu thầy tế độ
(xuống tóc). Lúc đầu mới đến dù chưa có lịnh của người thân vẫn được
chấp nhận; nhưng sau đó đương sự lại trở về trình bày để xin phép
xuất gia. Người thân hoan hỷ cho phép, thầy độ không có lỗi. Nhưng
nếu cha còn, mẹ mất, lại con một, ý nghĩa cũng như trên. Như cả cha
mẹ đều qua đời mà lại con một, đã không còn song thân để thưa trình,
phát tâm tu mong báo đáp thâm ân. Trường hợp này 2 bên đều đồng ý
việc xuất gia. Song luật Tứ Phần ghi rằng: song thân, nhà nước chưa
cho phép không được phép cạo tóc. Y cứ luật Tăng Kỳ ghi, quần thần
lựa chọn mới quyết chí xuất gia. Phàm vị minh sư hiểu biết luật phải
khéo cân nhắc chớ nên mở, ngăn (khai-giá) tự ý sái luật.
-
7.1.1.e Tôn trọng già, trẻ
- Người
xuất gia khác thế tục là bỏ lợi lìa danh; không phô trương giá trị
mình mà chỉ trọng nơi đức. Những việc hầu thầy, công tác, phục vụ
đại chúng, học tập, tụng kinh, tu thiền, quán tưởng… Nếu người nhỏ
quá không am tường, còn lớn tuổi quá lại không kham nổi việc. Tinh
tấn ắt muôn hạnh đều thành tựu; lười biếng hẳn trăm việc không xong.
Y cứ luật Tăng Kỳ ghi rằng:
- - "Người
dưới 7 tuổi hoặc trên 7 tuổi mà hiểu việc tốt xấu; cũng như quá 70
hoặc chưa tới 70 mà còn mạnh khỏe có thể độ cho xuất gia được. Như
dưới 7 tuổi hay trên 7 tuổi mà chưa biết việc tốt xấu, cũng như quá
70 hay chưa tới 70, yếu đuối đứng ngồi cần người giúp đỡ là không
được phép xuất gia. Như gỗ mục không thể khắc chạm làm đồ gì được.
Ôi! thời nay đương buổi mùa thu lời Thánh huấn nhạt mờ, pháp tu chân
chánh bèn thành ngăn trệ! Hoặc vì công việc khiến nên người không có
tóc khó phân già trẻ; hoặc vì bị cảnh nghèo, xuất gia không vì sự tu
hành mà thậm chí họp lại để dưỡng già, mượn Phật pháp để an thân.
Lạm dụng mặc áo nhà tu, tranh cải lấn lướt chúng. Hạng người như thế
căn tánh đã chẳng phải xứng đáng. Bọn họ quả thật là vi trùng trong
thân sư tử, làm sao còn chia liêu phân phòng; chỉ ở chợ nương thành
thôi. Thích nuôi, yêu mến trẻ nhỏ, ưa gần gủi thân thiện bọn nhóc tì;
không thực tâm cùng tấn tu. Chưa am tường việc Sa Di (tức từ) đã
muốn lên cao lại rớt xuống. Bỏ khổ vào khổ, những kẻ hảo tâm xuất
gia là vì sanh tử, là sự may mắn gặp người đồng chí hướng xuất gia
đúng luật.
-
7.1.1.f Ngăn phòng độ người vượt quy
định
- Như
trên đã nêu rõ về người phát tâm xuất gia. Ngoại đạo xuất gia nên
tùy nghi châm chế làm cho tà độc phải nhổ ra hết, mới uống nước cam
lồ được. Kiến chấp chưa trừ, chánh tín khó phát sanh. Như vẫn theo
thói nhiễm lo sợ ngoại đạo mà theo Phật xuất gia rồi phá hoại Phật
pháp, là vượt ngoài sự tế độ cũng gọi là phá nội ngoại đạo. Y cứ
theo luật có phái tu lõa thể Ni Kiền Tử(4) khéo giỏi luận đạo lý;
gặp Ngài Xá Lợi Phất chất vấn thâm nghĩa, họ không thể trả lời được.
Nhân đó, họ xin xuất gia làm Sa Môn và được cạo tóc, thọ giới Tỳ
Kheo. Sau khi được mặc áo cà sa, họ lại nhập bọn ngoại đạo trở lại.
Chúng tỳ kheo đem việc đó bạch lên đức Phật. Phật dạy:
- - “Chấp
thuận cho phép ngoại đạo nhập vào tăng đoàn cùng ở chung mùa an cư
tháng tư, nên bạch 2 lần yết ma. Như trong lúc ở chung mà dấu pháp
ngoại đạo, chỉ trích, chê trách việc bất thiện; chính họ cũng chỉ
trích châm chọc ngoại đạo không kém”.
- Nghe
người hoan hỷ dùng đức tán thán Tam Bảo, bọn ngoại đạo cũng
khôn khéo hoan hỷ tán thán. Như thế mới có thể cho thọ giới làm tăng
được. Nếu như họ vẫn giữ thói quen ngoại đạo và pháp thế gian, nghe
nói sự nghiệp ngoại đạo bất thiện, sự nghiệp Tam Bảo thiện
lành; họ lại nổi sân hận hiện lên nét mặt không hoan hỷ; người như
thế không nên cho thọ tỳ kheo làm tăng. Song ngày nay ở Trung Quốc
dù chưa có đồ đảng của lục sư ngoại đạo luận tà thuyết, hiển điều
quái dị dẫn dắt làm chướng ngăn đạo pháp; vẫn không phải không có 5
bộ 6 sách của phái Bạch Liên, mờ ám thu nạp tuyên truyền làm mê hoặc
nhân tâm. Do tệ hại đó đưa lại làm tà phong lan rộng từ thành thị
tới thôn quê đều bị ảnh hưởng. Nên tuân theo lời Thánh khéo lưu tâm
bảo vệ để cho đạo pháp trang nghiêm và tồn tại hợp trào lưu tiến hóa
của xã hội. Đó là trách nhiệm và bổn phận người xuất gia không nhỏ
vậy.
-
7.1.1.g Cứu giúp vô tư
- Người
xuất gia cắt ái, người tại gia còn tình; giải thoát đạt đạo không
đứng trên nhơn ngã, không tranh biện pháp môn, dứt hết chỗ thân sơ.
Do vậy La Vân lễ Thu Tử (Xá Lợi Phất) làm thầy; Khánh Hỷ
(A Nan) bái Thái Thục làm mô phạm. Con đấng Pháp vương còn buông
xả được như thế, huống gì Sa Môn đời sau lại không theo đó tuân hành
sao? Do vì cách Thánh quá xa, con người phần nhiều do tình ái, hoặc
vì 5 tà chấp nên cứ nơm nớp lo nghĩ đồ vật thiếu thừa; hoặc vì sống
riêng một mình nghĩ tới thân già trơ trọi liền gấp gấp cạo tóc xuất
gia; một hai chiêu nạp đồ chúng. Như vậy đối với Phật pháp thiếu đức
huệ, làm sao kế tục duy trì cho được. Nghiên cứu nguyên nhân ấy lỗi
do nơi chính ta, tự làm hại người khác thật là đáng lấy làm tiếc.
Luật Tăng Kỳ ghi rằng:
- - "Tỳ
Kheo không được có tâm vì mình mà phải độ người, phải niệm nghĩ
khiến người biết nhân của mình để vượt qua; nên tu các thiện nghiệp
để chứng được đạo quả. Việc này hẳn nghe ghi nhận, như mình không tự
hàng phục mà muốn hàng phục người khác, chính mình không tự điều
phục lại khiến người khác điều phục; ta không tự giải thoát lại
khiến người khác giải thoát là không có lẽ đó.
-
7.1.1.h Nền tảng đạo nghiệp
- Tại gia
chìm đắm, u ám muộn phiền không tỉnh thức; xuất gia vắng lặng tuệ
giác soi sáng tận gốc, vì gốc đó là giới-định-huệ do đây phát
sanh.
- Định
sẵn sàng thời hôn trầm chìm lắng, huệ sáng tỏ mê lầm đoạn dứt. Do
vậy, bậc đại thánh lập giáo trước lấy giới luật làm đầu lại giới
nhiếp độ 7 chúng dần lên tứ thánh quả(5). Chân đế-tục đế tuy khác,
nhưng nền tảng không hai. Tát Bà Đa luận rằng:
- - "Nếu
không thọ 5 giới không được thọ 10 giới, không được thọ giới tỳ kheo.
Nếu không thọ 3 loại giới như thế không được thọ giới Bồ Tát. Trong
luật Ngũ Phần Phật dạy:
- - " Xá
Lợi Phất hướng dẫn La Hầu La trước khiến truyền 5 giới Ưu Bà Tắc(6),
sau mới cho cạo tóc xuất gia truyền 10 giới Sa Di. Nên biết rằng
thềm thang có 4 bậc, chỉ cho người hành trì không lẫn lộn để ứng
dụng vào 2 thời: sáng và chiều, phân minh giữa chân và tục, luận
người xuất gia, nếu chưa am tường giới phẩm, thân tuy xuất gia cũng
chỉ là hình giống như Sa Di; hẳn phải cạo tóc theo thầy thọ giới mới
thật sự xuất gia đúng pháp, gọi là Sa Di. Sơ sài giới luật chưa đủ
thanh tịnh, hình thể là bạch y không đủ xứng làm bậc phước điền, bốn
sự cúng dường(7)khó mà thọ nhận".
- Giả sử
không lo tu tập thì ba cõi khó mong thoát khỏi. Kinh Thủ Lăng
Nghiêm ghi rằng:
- - “Mặc
dù đa trí thiền định phát nếu không nghiêm trì giới luật cũng rơi
vào tà ma ngoại đạo”.
- Cho nên
nói giới là nền tảng, phàm người học Phật, há khinh bỏ mà không tin
thọ giới hay sao?
-
7.1.1.i Khổ công dạy khuyên hành giả
- Do vì
thân tâm đắm nhiễm ngũ dục không thấy khổ nhọc, tiếc nuối hình vóc
do thói quen lâu đời, say theo si mê thế tình. Nên biết rằng những
sự vui thú ở thế gian đều là nguyên nhân của khổ; xuất gia tu khổ
hạnh hẳn là quả của an lạc. Luật dạy rằng:
- - "Nếu
khởi sự muốn xuất gia, trước hết vì người xuất gia nói những việc
khổ như: việc ăn uống, sự cư trú, ngủ nghỉ, học nhiều".
- Nếu
thông suốt đó mới xin thầy xuống tóc, còn nghi ngờ không cho thọ
giới xuất gia. Vì làm thầy độ người trước phải y theo luật khuyên
răn, xem xét căn cơ mà sách tấn. Vốn biết vạn sự khởi đầu nan, lúc
đầu chẳng dễ dàng đâu! Thí như người muốn mò tìm châu dưới đáy biển
nhất định chẳng sợ nguy hiểm của gió lớn, sóng to, huống gì cầu Phật
đạo lại có thể sợ khó, khổ của việc tu tập sao? Ở đây không nhắc đi
nhắc lại chỗ buông lung, lỗi lầm đã có thầy; qua lời chỉ dạy nhắc
bảo tường tận. Đương sự phải phấn chấn tinh thần, ngõ hầu không tự
cô phụ linh căn và cũng không trái với lòng từ dạy dỗ của thầy.
-
7.1.1.j Thiết đặt nghi thức
- Có 2
phần:
- - Do
việc hay pháp,
- - Thiết
tòa an vị.
- a. Phàm
cầu nơi xuất gia
- Phải
chọn thế đất tâm hướng ra 4 bên, mỗi bên bước 7 bước rưởi, rảy nước
thơm tẩy sạch dơ uế. 4 góc treo cờ, chung quanh treo phan, đàn tràng
đã lập đủ các nghi, đó là nghi biểu pháp. Dùng hương bày tỏ niềm
tin, nước biểu hiện sự thanh khiết. Không có niềm tin, thanh tịnh
không thể trừ được những phiền não. Cần phải chọn chỗ đất tượng
trưng 3 cõi, nên 4 góc cắm cây treo cờ, tràng phan tiêu biểu hướng
tới địa thế, lần lượt đi qua hết chu vi, 4 hướng mỗi hướng bước 7
bước. Tượng trưng người xuất gia tu hành phải trải qua 40 vị hiền,
phước huệ đầy đủ.
- Kinh
Niết Bàn ghi rằng:
- - "Đức
Phật lúc đản sanh bước đi 7 bước xướng lên lời này: “Ta ở trong trời,
người, a tu la là tối tôn, cao tột".
- Xoay về
hướng Nam đi 7 bước chứng tỏ Phật vì chúng sanh muốn làm ruộng phước
vô thượng; đi 7 bước hướng Tây biểu trưng dứt sanh đoạn lão, và đây
là thân rốt sau, hướng Bắc 7 bước tiêu biểu đã vượt qua các cõi dứt
hẳn sanh tử, 7 bước hướng Đông chứng tỏ muốn làm người dẫn đạo cho
chúng sanh.
- b.
Thiết tòa an vị:
- Chính
giữa đàn tràng đặt hình Phật Thích Ca Mâu Ni, hướng chánh
đông đặt tòa ngồi Thánh tăng, hướng Tây tòa Hòa Thượng, hướng Bắc
tòa Quốc vương, hướng Nam tòa của phụ mẫu. Mỗi nơi bày biện hương
hoa, quả phẩm, đèn nến hiến cúng. Nếu gặp trời mưa hay những trở
ngại khác không thể thiết lập đàn tràng lộ thiên được; có thể thiết
trí tại giảng đường hay nơi phương trượng đủ 5 bàn hiến cúng tinh
nghiêm không thể thiếu được. Nhưng đây là người cầu thế độ xuất gia,
có nghĩa là bỏ nhà thế tục, vào nhà Như Lai; những phàm thường phải
nghiêm túc, cái thể ông tăng mới tôn quí; một việc giản đơn mà người
xuất gia xem thường. Do việc phát tâm hơn hết, nên hoàn toàn dựa vào
các trợ duyên là cần thiết vậy.
- Sở dĩ
nói hưng chánh biện tà, ngay như một việc xuất gia là việc tinh tế
hàng đầu như Phật quy định rõ, chư Tổ có quy tắc hẳn hoi. Đời sau do
nhiều việc dần quên tra cứu luật, có một người ngoại đạo cầu xin
xuất gia, một thầy tỳ kheo nhận cho thọ giới tỳ kheo; về sau y lộ
hiện việc xấu, không muốn làm tăng nữa. Chúng tỳ kheo đem việc này
trình lên Phật, Phật dạy:
- - "Nếu
muốn độ người, cho cạo tóc xuất gia, phải đặt tay lên đỉnh đầu đợi
một lúc rồi hỏi rằng: "ngươi có thể xuất gia được không?"; rồi mới
vì đó mà xuống tóc".
-
Tiếng Phạn là Châu la, Trung Hoa gọi là Tiểu Kết hay còn gọi là
đảnh hiệt (tóc trên chỏm đầu), có nghĩa lấy tâm điểm trên đảnh để
lại một ít tóc lọn thành một chùm nhỏ.
- Luật
quy định như Bách Trượng Hoài Hải thiền sư đời Đường biên
soạn. Bởi vì đoái nghĩ giáo huấn tòng lâm chuyên tu mô phạm mà
nguyên trước Thầy đã đính chính, tự thấy chỗ nghĩa lý đầy đủ. Về sau
do trãi qua các đời bổ túc thêm vào đến đổi sự lý phần nhiều trái
lời Phật dạy. Nếu chỉ nêu lên trong thiên Sa Di được thọ giới thôi,
ở phần lược thuật cũng đã sai lầm giả trá, để chứng minh trong tương
lai, Ngài nói rằng: "chọn kỳ ấn định cho xuống tóc cách đêm trên
đỉnh còn chừa lại một chỏm tóc". Hôm sau nhóm chúng thỉnh thầy khiến
kẻ thế phát quỳ sát đất lễ lạy.
- Duy Na
xướng lễ, đại chúng hòa âm; thần tiên, người đạt 5 phép thông tạo ra
chú thuật khiến cho đương sự hổ thẹn giữ gìn những gì chưa biết hổ
thẹn. Như Lai lập cấm giới mỗi nửa tháng tụng một lần đọc lên những
công đức đã thuyết giới. Cúi đẩu lễ chư Phật, xướng tụng lời hòa hợp;
cạo tóc vừa hoàn tất, áo cà sa mặc đắp lên đầu người thọ pháp. Lấy
10 giới tướng Sa Di ban cho cận sự nam giữ 5 giới, tức liền lãnh thọ
giới luật thâm sâu; ắt hẳn không phải Tổ quy định nghi thức. Có chỗ
cho rằng cách đêm xuống tóc, trên đảnh còn chừa lại một chỏm, hôm
sau thỉnh thầy cạo cho chỏm tóc đó cũng lại là việc sai lầm.
- Nên
biết việc cạo tóc đang diễn ra sáng hôm nay; theo lý không thể để
cách qua đêm được mà phải ở ngay trong ngày xuống tóc. Mở đầu mình
tự thỉnh thầy thăng tòa, nhẫn đến khai thị xong; lễ tạ vua, song
thân hoàn tất, rồi lấy nước rảy lên tóc đương sự. Thầy vừa cầm dao
đưa lên, trước tiên chừa chùm tóc trên đảnh, kế từ đó hớt xuống tóc
chung quanh phía trên tới bên chùm tóc trên đảnh đầu, thầy bèn ngừng
lại, dặn kỹ hỏi 3 lần; đương sự cũng 3 lần đáp mới cho xuất gia và
cạo sạch chỏm tóc còn lại trên đảnh, trở thành là hình đồng Sa Di.
- Duy Na
lại xướng tụng bài kệ quyển đầu trong bộ luật Tứ Phần thuộc
về 186 câu; bài kệ trích 8 câu chót dùng cho lúc cạo tóc. Bài kệ này
do Tôn Giả Ưu Ba Ly cùng với 500 vị tăng A La Hán trong khi kết tập
tạng luật soạn. Trước tiên kính lễ Tam Bảo cầu sự gia hộ, tụng lời
tựa nói sự lợi ích của giới thuộc quyển đầu. Vì lúc Phật còn tại thế
lấy chánh pháp làm đầu mà giới luật là để nhiếp hóa chư tăng, khiến
biết tàm quí giữ gìn đầy đủ phạm hạnh trong sạch.
- Thỉnh
thoảng ngoại đạo bày ra chú thuật, dẫn dắt đi vào đường tà làm gia
tăng tâm tham ái. Vì thế, Phật quy định Bố Tát(8) khiến các tỳ kheo
mỗi nửa tháng tụng một lần, hòa hợp tại một chốn đúng theo lời Phật
dạy. Nói giới tức là tụng giới vậy. Vị Thầy lấy bài kệ tụng giới Bố
Tát này dùng vào việc xướng tụng lễ cạo tóc Sa Di, cũng lại là việc
lầm lẫn nữa. Ngoài ra, cạo tóc xong đem 5 giới, 10 giới tướng đồng
thời trao cho hành giả. Do vì chưa từng tham cứu trong luật Ngũ
Phần, Phật cho người chưa cạo tóc xuất gia, trước nhất phải theo 5
giới Ưu Bà Tắc tại gia. Vì e đương sự có sự hối tiếc ngược lại,
khiến y gieo trồng căn lành, một mực chí thành tin tưởng không thoái
tâm. Tâm đạo phải vững bền mới cho xuống tóc, sau bèn trao cho 10
giới Sa Di. Cho nên không thể lấy 5 giới tại gia mà cho là đồng 10
giới Sa Di được. Hơn thế nữa, đã là người xuất gia hình tướng Sa Di
không phải Ưu Bà Tắc như thế tục buông tuồng đụng đâu bàn chuyện đó,
sự bàn luận nầy mới đáng nói. Luận về người phải có điểm hơn người,
luận pháp là việc xuất gia không phải pháp Bố Tát (tụng giới), nên
đây là một việc, nhơn và pháp là 3 việc đều xem thường trái lời dạy
bậc Thánh, sai phạm không phải chẳng ít.
- Nay như
ta phát tâm xuất gia cầu Thầy thế độ nên tôn trọng theo luật Ngũ
Phần quy định, cũng như không nên xướng bài kệ tụng giới. Như người
đã thọ 5 giới đến cầu xin xuất gia nên tôn trọng luật Tứ Phần,
Tăng Kỳ, Thập Tụng… là những bộ luật căn bản, tức cho thọ Sa Di
thập giới cũng không nhất thiết phải thọ lại 5 giới rồi sau mới cho
thọ 10 giới mà sai lầm theo luật Ngũ Phần, nên biết luật quy định
khó sửa đổi; quy định sai phải nghiệm xét kỹ lại.
- Nền
Tảng năm giới phân thành 10 tiết như sau:
-
7.1.3.a Hướng dẫn
- Phải
xem kỹ luật để biết rõ việc gì nên làm, nếu đúng theo luật cho phép
hầu như phải có lời cầu xin. Nay cạo tóc Sa Di dựa theo luật Ngũ
Phần, Phật dạy, trước truyền 5 giới Ưu Bà Tắc, sau cho xuống tóc thọ
10 giới Sa Di. Phải nêu ra tiêu chuẩn trước, còn nghi cách thêm bớt
tùy theo đó ứng dụng. Nếu có người phát tâm hứa xuất gia, kỳ hẹn như
ấn định trước một ngày, Thầy Tri Khách nên sắp xếp cho người xin đến
gặp Thầy Duy Na và các vị Thầy dẫn lễ; hướng dẫn đảnh lễ các Thầy 3
lạy rồi đứng lên quỳ gối bạch rằng:
- -
"Con…(tên) biết thân là khổ, hiểu rõ đời đều là vô thường, khổ không,
nên không dong ruỗi theo trần duyên, nguyện hướng về Phật đạo. Tâm
tuy chưa thể thay đổi nhưng đối với thói quen chưa hề có, nay khẩn
thiết cúi mong quý Thầy dũ lòng từ dạy bảo, phương tiện dẫn dắt cho
con xuất gia học đạo, tu hành".
- Thầy
Duy Na đáp:
- - Thật
là lành thay! Ngươi đã nhập pháp môn, nghi cách chưa rành, nay tôi
vì ngươi mà tác bạch lên Ngài Phương Trượng, một lòng chí thành cầu
thỉnh. Ngươi nên thành tâm cung kính theo tôi, cùng đi lễ Hòa Thượng".
- Người cầu xuất
gia nghe rồi, lễ một lạy và đứng lên. Duy Na và Thầy dẫn lễ đi trước,
người kia đi theo sau.
-
7.1.3.b Lễ tác bạch
- Các
Thầy dẫn đương sự tới phòng Phương Trượng, đứng bên ngoài cửa, trước
báo cho Thị Giả biết để mời Ngài tư thế chuẩn bị nghiêm túc. Hương
hoa, đèn nến sẵn sàng tới thỉnh Ngài đăng tòa, kế đến 2 vị dẫn lễ
tay nhịp khánh thỉnh Hòa Thượng ra khỏi phòng. Hòa Thượng ra xong,
Ngài đến lạy Phật, niệm hương rồi vào chỗ ngồi. Duy Na xoay về Hòa
Thượng lễ 3 lạy, quỳ gối chấp tay bạch rằng:
- - "Nam
Mô A Di Đà Phật, ngưỡng bạch Hòa Thượng, nay có Phật tử…. (tên và
pháp danh) từng mong mỏi đức từ, hẹn kỳ thế phát, yểm tâm trần thế,
đã quyết chí học đạo vững bền, nên nay cung kính đến trước điện đốt
hương đảnh lễ, ngưỡng mong Hòa Thượng đại từ bi nạp thọ. Trước ban
giới Ưu Bà Tắc làm cho đương sự từ cấp sơ cơ đây mà bước lên 4 cấp,
kế sau xin được xuống tóc, đắp y; bỏ nhà thế tục để nhập chúng xuất
gia, đi lại thắng lướt xông pha, vâng hành đúng luật, phàm tình
không theo đuổi, chí nguyện hướng cầu".
- Đoc lời
tác bạch xong, lễ một lạy rồi đứng lên, lui ra trở về lại chỗ.
-
7.1.3.c Thỉnh sư (nghi này không giống
nhau)
- Nghi
thỉnh sư tùy theo giới trường, đàn giới mà có cầm hương. Nay Duy Na
thay bạch, giới tử đứng ngoài cửa, chỉ chờ gọi mới vào gần rồi dâng
3 cây hương bạch Phật. Nếu giới tử đông cùng lúc nghe gọi tiến lên
chỉ do một vị niệm hương; còn các vị khác đứng sang 2 bên. Đứng theo
vị trí xong, Thầy dẫn lễ xướng rằng:
- - "Này
gã nam tử, nay đã đầy đủ nhân duyên mà tới. Giới tử hãy bước lên,
tới gần trước pháp tòa, chấp tay quỳ gối trang nghiêm tề chỉnh".
- Lễ niệm
hương: cầm 3 cây nhang lên khấn. Duy Na cử bài tán hương, đại chúng
đồng hòa âm:
-
- "Phật
quảng đại từ tâm
- Độ
chúng đức bi thâm
- Chí
thành thọ pháp âm
- Tam Bảo
niệm ân cần
- Cầu thọ
5 giới cấm
- Ngào
ngạt hương diệu vân".
- Dẫn lễ
nhịp khánh đảnh lễ Tam Bảo 3 lạy, xong bảo giới tử quỳ ngay
ngắn và chấp tay lắng nghe kỹ. Thầy Duy Na nói:
- - "Luận
về người tại gia đầy đủ tín tâm giống như trong lửa vươn lên hoa sen;
mang mái tóc quy y như trăng hiện trong nước. Nay ngươi muốn thọ 3
quy y và 5 giới, đây là nền tảng của xuất thế. Lẽ ra phải mời cho
được minh sư để hộ trì cho giới đức căn bản. Nay vì ngươi mà đốt
hương, trải tòa, cầu thỉnh thượng A hạ B đường thượng Hòa Thượng; vì
ngươi mà làm Thầy truyền Tam quy năm giới. Lời thỉnh sư lẽ ra ông tự
trình bày, nhưng sợ ông chưa quen, nay tôi chỉ ông phải đọc tên mình;
còn những lời khác đều do tôi hướng dẫn như sau:
- - "Bạch
Đại Đức một lòng thương xót, con pháp danh là… xin thỉnh Đại Đức làm
Thầy truyền Tam quy, ngũ giới. Ngưỡng mong Đại Đức vì con làm bổn sư
truyền Tam Quy năm Giới, con nương theo Đại Đức được thọ giới thanh
tịnh. Xin thương xót, đoái xin thương xót, hết lòng xin thương xót
con!".
-
7.1.3.d Thầy khai đạo
- Hòa
Thượng vỗ thủ xích bảo rằng:
- - "Này
thiện nam tử, ông đã chí thành 3 lần thưa thỉnh, nên tôi vì ông mà
làm Thầy truyền 5 giới. Như những lời này ông phải lắng nghe, nguyên
vì giới đức khó lường, đứng đầu vượt hơn tất cả, là quy luật của 5
thừa, chính là chiếc thuyền của Tam Bảo. Thiền định, trí huệ lấy
giới đây làm nền tảng; Bồ Đề, Niết Bàn do giới làm gốc, phát ý hướng
cao xa lấy giới đây làm tông yếu, giới là tiền đạo của sự dứt ác, mở
đầu việc nhập đạo. Cũng như xây lâu đài trước nhất nền móng phải cho
thật vững chắc. Nếu xây nhà không xây nền móng như gá ở hư không ắt
không thành tựu. Kinh Di Giáo dạy rằng, nên tôn trọng giới
luật như tối gặp sáng, như người nghèo được của báu; giới chính là
gốc của sự giải thoát. Nếu người luôn giữ tịnh giới hẳn mọi công đức
lành đều được phát sanh, nên biết giới là chỗ an ổn, chỗ phát sanh
các công đức. Song giới có nhiều phẩm loại khác nhau. Nay ngươi cầu
thọ 5 giới đây là đầu mối của việc hướng thiện, ra khỏi bến mê của
khổ. Kinh Thiện Sanh ghi rằng: "giới đây thật là khó đắc, vì
là cội gốc cho giới Sa Di, đại giới tỳ kheo và giới Bồ Tát. Vì vậy,
nay tôi truyền cho ngươi 5 giới Ưu Bà Tắc nên đem tâm cung kính giữ
gìn, ngươi có thể y theo lời dạy mà thực hành không?"
- - "Đáp:
Con xin y theo lời dạy vâng làm".
-
7.1.3.e Thỉnh Phật, chư Thánh chứng
minh
- Hòa
Thượng vỗ thủ xích bảo rằng:
- - "Này
thiện nam tử, ngươi đã y lời dạy vâng làm rồi, ngươi muốn thọ 5 giới
căn bản này, đúng ra phải tự kiền thỉnh Tam Bảo từ bi chứng
minh, thứ nữa cầu chư thiện thần hộ vệ, nhưng vì chưa quen nên tôi
nói thay, ngươi đứng dậy chấp tay nói theo tôi trong sự thành tâm
quán tưởng: nhất tâm khải thỉnh, con pháp danh là …"
- Hòa
Thượng đứng dậy niệm hương bạch thỉnh; Thầy Duy Na, Thầy dẫn lễ đồng
hòa âm cùng đại chúng, nhất tâm chuyên chú một cảnh để được sự cảm
ứng:
- - "Hương
hoa thỉnh, hương hoa đăng phụng thỉnh, đệ tử… một lòng phụng thỉnh:
Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Giáo Chủ cõi Ta Bà,
Đức Phật A Di Đà Giáo Chủ cõi Tây Phương, Đức Phật Di Lặc
từ tôn sẽ hạ sanh tương lai, cùng hết thảy chư Phật khắp hư không
pháp giới. Ngưỡng mong không quên bổn thệ từ bi chứng minh gia hộ
cho con được thọ giới". (Thỉnh 3 lần mỗi lần xá 1 xá).
- - "Hương
hoa thỉnh, hương hoa đăng phụng thỉnh, đệ tử… một lòng phụng thỉnh:
Hai thừa Đại, Tiểu, tạng luật Tỳ Ni, 5 thiên 7 tụ giới luật giải
thoát, 12 bộ chân Kinh, giáo điển quyền thật, ly dục thanh tịnh,
pháp bảo nhiệm mầu, tha thiết một lòng quy y đảnh lễ…"
- - "Hương
hoa thỉnh, hương hoa đăng phụng thỉnh, đệ tử…một lòng phụng thỉnh:
Quan Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, Hải Chúng Thanh Tịnh,
Chư Đại Bồ Tát, Ưu Ba Ly Tôn Giả, Tây Thiên, Đông Độ Lịch
Đại Tổ Sư truyền giáo Nam tông, chư đại luật sư, trung hưng luật
sư Huệ Vân Hân công đại Hòa Thượng. Từ đây trở lui lại thỉnh
đăng tòa đắc giới bổn sư Hòa Thượng: ngưỡng mong không quên bổn thệ
soi chiếu hào quang chứng minh thọ giới".
- - "Hương
hoa thỉnh, hương hoa đăng phụng thỉnh, chúng con… một lòng phụng
thỉnh: Trên hội quang minh, nhờ các vị trời: Phạm Vương, Đế Thích,
Tứ Thiên Vương, Thiên Long, Tám Bộ, Già Lam Thổ Địa, Hộ Giới
Thần Vương, Kim Cang Lực Sĩ, u hiển linh kỳ, ngưỡng mong không
quên bổn thệ giám sát đàn tràng hộ giới".
- Như thế
mỗi lần 3 lượt thỉnh, 3 lần cúi đầu cho tới khi Hòa Thượng ngồi xong;
dẫn lễ xướng:
- - “Quỳ
xuống, chấp tay chí thành lắng nghe…”
-
7.1.3.f Sám hối
- Hòa
Thượng vỗ thủ xích bảo rằng:
- Chuyên
tâm nghinh thỉnh Tam Bảo chứng minh thọ giới rồi nay đây Tam Bảo đã
dũ lòng từ phóng quang soi chiếu, như gương có đài lướt qua không
thấy rõ, riêng sợ ngươi từ muôn kiếp đến nay tạo các ác nghiệp, bị
chướng duyên giới không thể lãnh thọ được, nên gia tăng lòng tin sâu
hướng trước Tam Bảo cầu xin sám hối. Ví như vết dơ dính áo
liền đem giặt tẩy sạch, vị cam lồ tẩy trừ vật uế, lời sám hối ngươi
vừa tự trần, e ngươi không quen, nay tôi dạy ngươi tự xưng tên mình….
- Tôi đọc
lời gì nên đọc theo để cầu xin sám hối. Bài kệ sau đây, Hòa Thượng
đọc 2 câu, Dẫn Lễ hướng dẫn đương sự đọc 2 câu, cứ mỗi 2 câu cúi đầu
xá 1 xá, đọc tiếng lớn rõ ràng như:
- - "Đệ
tử pháp danh… tên là… từ vô thỉ cho đến ngày nay hủy báng Tam Bảo,
làm kẻ phá hoại Phật pháp, chống lại Kinh Đại Thừa,
đoạn dứt tuệ giác, giết hại cha mẹ, làm cho thân Phật đổ máu, làm
nhiễm ô chùa viện, phá phạm hạnh tăng ni; thiêu hủy tháp miếu, lấy
trộm vật dụng của tăng. Khởi bao nhiêu tà kiến, bác không nhân quả,
gần gũi bạn ác, phản bội thầy hiền.Tự làm, dạy người làm, hay thấy
và nghe người làm tán đồng vui theo…Những tội như thế vô lượng vô
biên, cho nên ngày nay con rất lấy làm hổ thẹn, chí thành tỏ bày cầu
xin sám hối. Ngưỡng mong Tam Bảo từ bi gia hộ, phóng ánh tịnh
quang soi chiếu thân con khiến cho các ác tiêu dứt, 3 chướng trừ
sạch, hoàn lại tâm nguyên rốt ráo hoàn toàn thanh tịnh". (Sám hối 13
lần như thế).
- -
"Nam Mô Phổ Hiền Vương Đại Bồ Tát" (3 lần).
- Như
trên đã tỏ trần sám hối, nếu thì giờ không có chỉ dùng 4 câu trong
kinh bổn thôi. Xem phần chính bên dưới, hể thành kính 4 câu đủ tiêu
trừ nghiệp chướng; còn như không thành dù có sám nhiều cũng khó hối
cải.
-
7.1.3.g Vấn già nạn (gạn hỏi trắc
nghiệm)
- Nạn
ngăn chướng bổ đề tâm, Hòa Thượng vỗ thủ xích bảo rằng:
- - "Nay
ngươi đã sám hối xong, tội lỗi về trước dứt sạch nên theo Kinh
Thiện Sanh, trước hết hỏi 7 già nạn, sau mới cho ngươi thọ giới.
Có hay không cứ thật tình trả lời, chớ nên che giấu".
- Hỏi:
- - "Ngươi
có từng trộm cắp vật của hiện tiền tăng không?"
- (Nếu
không, nên đáp không; giả như có nên đáp có, những câu sau đều như
thế cả)
- - "Ngươi
có từng hành dâm với nam nữ trong lục thân không?"
- - "Ngươi
có làm ô nhiễm phạm hạnh tăng ni không?"
- - "Ngươi
có từng thấy cha bịnh mà bỏ đi không chăm sóc không?"
- - "Ngươi
có từng thấy mẹ bịnh mà bỏ đi không chăm sóc không?"
- - "Ngươi
có từng đối sư trưởng bịnh mà bỏ đi không săn sóc không?"
- - "Ngươi
có từng sát hại chúng sanh phát bồ đề tâm không?"
-
7.1.3.h Thọ quy giới
- Hòa
Thượng vỗ thủ xích bảo rằng:
- - "Này
thiện nam tử, ngươi hiện sanh trong đời này không có 7 già nạn, thân
tâm thanh tịnh, đạo quả mới hoàn tất được. Tôi nay cũng vì ngươi
trước truyền Tam quy làm thể, kế tuyên đọc 5 giới để khiến giữ gìn
những lời đã nói về 3 quy y. Luật Tát Bà Đa luận rằng: Tam
Bảo là chỗ nương tựa, người muốn được cứu hộ không được vượt
qua. Nên quy y Phật nương theo pháp thân, là nhứt thiết trí, đạt đến
vô học, đầy đủ công đức, thành 5 phần pháp vậy. Quy y Pháp là
nương chỗ tịnh xứ của tự-tha, là đoạn dục, ly dục, đạt đến Niết Bàn
chân thật. Quy y Tăng là nương theo đệ nhứt nghĩa tăng, có
nghĩa bậc hoàn hảo phước điền, có đủ công đức học và vô học. Nhưng
Tam Bảo đây là chân tịnh đức dụng hay làm cho 3 nghiệp thanh
tịnh, có khả năng ngăn dứt 3 đường ác, có thể phá trừ 3 chướng,
không rơi vào 3 cõi hữu (chúng sanh), hay vượt thoát 3 cõi, hay dẫn
tới chứng 3 thừa. Do đó Phật đạo lấy 3 quy y đây làm gốc, rộng ra
chung cho các giới phẩm khác để thành tựu mọi công đức. Cho nên
ngươi phải lấy ân trọng lòng từ hộ niệm khắp cùng pháp giới, hữu
tình hay vô tình đối với cảnh bị duyên. Nguyện đoạn mọi điều ác, thệ
tu tất cả điều thiện, phát nguyện độ hết chúng sanh. Nếu phát được
tâm rộng lớn vô thượng như thế mới có thể lãnh thọ giới, đó là 3 quy
y và 5 giới nói trên vậy. Nay chính đúng lúc ngươi thọ Tam quy, là
lúc cảm nhận thọ các giới thể. Ngươi nên chí thành quán tưởng, duyên
cảnh phát tâm theo lời tôi mà thọ. Trước xưng danh tánh (nói rồi,
đợi Hòa Thượng nói xong, Thầy Dẫn Lễ dạy giới tử nói theo; đọc từng
câu không được sai trật như sau:
- - "Con
pháp danh… tên là… nhất tâm quy y Phật, nhất tâm quy y Pháp, nhất
tâm quy y Tăng". (Đọc 3 lần như thề, mỗi lần cúi đầu xá 1 xá).
- Hòa
Thượng vỗ thủ xích bảo rằng:
- Trở lên
3 quy y đúng là nạp thể, nay thêm 3 kiết có nghĩa là phép yết ma,
ngươi phải chí tâm nói lên theo tôi. Nhìn xuống đoạn văn đợi Hòa
Thượng đọc một câu, giới tử nói theo một câu; căn cứ theo Kinh Thiện
Sanh, đọc xong cúi đầu xá Phật-Pháp-Tăng 3 xá.
- - "Con
pháp danh… quy y Phật rồi, thà bỏ thân mạng trọn không quy y
các chúng ma Tự Tại Thiên v.v…Quy y Phật, bậc chí chân đẳng
chánh giác, là bậc Thế Tôn của con, xin thương xót cho con".
- - "Con
pháp danh là… quy y Pháp rồi, thà bỏ thân mạng trọn không quy
y giáo thuyết ngoại đạo; chỉ quy y 12 bộ trong 3 tạng mà Phật đã
thuyết, cùng hết thảy Kinh điển, là chỗ tôn kính của con, xin thương
xót cho con".
- - "Con
pháp danh là…quy y Tăng rồi, thà bỏ thân mạng trọn không quy
y ngoại đạo tà giáo; quy y bậc tăng phước điền thanh tịnh, là chỗ
tôn kính của con, xin thương xót cho con".
- Sau
đây là phần đọc các giới tướng, Hòa Thượng vỗ thủ xích nói:
- - "Tôi
đã vì ngươi mà nói rõ 3 quy y xong rồi, để có được thể của 5 giới,
tôi lại vì ngươi đọc 5 giới tướng để làm cho ngươi biết tướng mà giữ
gìn, hầu cẩn trọng bảo hộ giới thể:
- - Giới
thứ nhất là không sát sanh,
- - Thứ
hai không trộm cắp,
- - Thứ
ba không tà dâm,
- - Thứ
tư không nói dối, và
- - Thứ
năm không uống rượu.
- Là
những giới căn bản của Ưu Bà Tắc, ngươi có thể giữ gìn được không?"
- Đáp:
- - "Mô
Phật, con có thể giữ được".
- Này
Thiện nam tử, 5 gìới đây là cội gốc của các giới, là thềm thang của
việc nhập đạo. Đạt đến giải thoát chứng quả Bồ Đề khởi đầu từ giới
không sát sanh cho đến giới thứ năm không uống rượu, ngươi có thể
giữ đầy đủ được không?
- Đáp:
- - "Mô
Phật, con có thể giữ được đầy đủ".
-
7.1.3.i Phát nguyện
- Hòa
Thượng vỗ thủ xích bảo rằng:
- - "Kinh
A Hàm ghi rằng: "đã thọ 5 giới rồi phải cần phát nguyện. Đầy đủ
hạnh nguyện, phước và huệ mới thành tựu đạo nghiệp; cũng như cổ xe
quí, nếu không có bánh xe cũng vô dụng mà thôi, vì không chạy được.
Do vậy, nay tôi bảo ông, ông theo lời tôi nghĩ tướng Tam Bảo,
đối trước Phật, chí thành phát nguyện, đọc pháp danh của mình"; rồi
Thầy bảo rằng:
- - "Nay
con là…chí thành phát nguyện: nhờ công đức giữ 5 giới đây mà không
đọa vào 3 đường ác, rơi trong 8 nạn. Công đức giữ giới như ân ban
khắp hết chúng sanh trong pháp giới đều phát tâm Bồ Đề đồng sanh về
Cực Lạc; hoa khai thấy Phật, được nghe Phật thừa, mong Phật
thọ ký. Nguyện trở lại Ta Bà hóa độ chúng sanh đồng sanh về
Tịnh Độ, xa lìa các khổ, được sanh thượng phẩm hoa sen".
- (Đợi
Hòa Thượng nói dứt 1 câu, giới tử nói theo câu đó, đọc 3 lần như thế
và mỗi lần cúi đầu xá 1 xá).
-
7.1.3.j Kết khuyên hồi hướng:
- Hòa
Thượng vỗ thủ xích nói:
- - "Này
thiện nam tử, do ngươi có gieo trồng gốc đức trước nên nay gặp được
duyên lành, dù cảnh đời xấu ác đủ 5 thứ bẩn trược mà vẫn sanh trong
gia đình chánh tín, quy y Tam Bảo và giữ gìn 5 giới, ưa thích
phòng hộ cẩn thận không thể sai phạm. Như rồng giữ hạt châu nơi cổ,
như trâu mao mến đuôi, như canh giữ đập ngăn nước không để rỉ chảy.
Như bờ ngăn thành cấm không để cho người phá hỏng. Nếu phạm 5 giới
trong đó 4 giới trước là giới trọng, như tử thi (thây chết) không
dung nạp trong đại dương. Người phá giới, giới không dung, cũng
không được thọ 10 giới Sa Di, giới tỳ kheo, giới Bồ Tát…Vì giới căn
bản đã phá nên thiện pháp khó sanh. Nay ngươi có thể nhứt nhứt giữ
gìn được không?"
- Đáp:
- - "Mô
Phật, con y như pháp giữ gìn".
- Hòa
Thượng nói:
- - "Ngươi
đã như pháp giữ gìn, nên đứng trong hàng tăng, nay tôi vì ngươi mà
cạo tóc. Từ ngôi nhà lửa nhưng dọn dẹp sạch đến được chỗ thanh lương,
từ con đường mê mà biết quay về chánh đạo".
- Hòa
Thượng vỗ thủ xích, đứng dậy. Đại chúng chấp tay hồi hướng:
-
- "Nguyện
đem công đức này
- Ban
cùng khắp pháp giới
- Đại
chúng cùng hòa âm
- Niệm
Phật trong nhiếp tâm…"
- Thầy
Dẫn Lễ xướng cho giới tử lễ tạ chư giới sư 3 lễ. Xong đứng qua 2 bên.
Thầy Duy Na xướng tụng hồi hướng và đại chúng đồng tụng:
-
- "Thọ giới
công đức hạnh khó lường
- Bao
nhiêu phước báu đều hồi hướng
- Nguyện
khắp chúng sanh bị thác oan
- Sớm
sanh cõi Phật vô lượng quang
- Mười
phương ba đời các Đức Phật
- Các Đức
Bồ Tát Ma Ha Tát
- Từ Bi
dũ lòng đoái thương xót
- Ma Ha
Bát Nhã Ba La Mật".
- Hòa
Thượng bước xuống lễ Phật xong, kệ hồi hướng dứt, 2 người dẫn lễ đi
trước, giới tử tiếp theo, thỉnh Hòa Thượng hồi quy phương trượng (trở
về phòng nghỉ). Thầy Tri Khách hướng dẫn tân giới tử đến trước Tổ
đường lễ Tổ và lễ tạ các bậc trưởng thượng cho đúng lễ nghi phép tắc.
- Lại nữa,
theo trong luật người nữ xuất gia, nên mời bên ni thuyết 5 giới, 10
giới; Duy Na dẫn lễ cũng đều là ni. Phần tác lễ, thay vì thiện nam
tử, đổi lại là thiện nữ nhơn, dưới chữ Sa Di thêm chữ Ni cho đúng.
- Mười
chi giới pháp phân thành 10 như sau:
-
7.1.4.1 Thông bạch trải tòa
- Trở lên
về việc thọ 5 giới Ưu Bà Tắc, từ đây trở xuống nói về xuống tóc.
Truyền 10 giới Sa Di có trước sau, pháp có 2 thời và các mục riêng
cho việc thiết trí và nhóm họp chúng. Nếu gặp các duyên khác như thì
giờ gấp rút chỉ diễn ra trong một ngày cũng nên phân riêng giờ dần,
giờ ngọ 2 thời. Người xin xuống tóc sáng sớm hôm sau, trước hết tới
gặp Thầy Duy Na và Thầy Dẫn Lễ lễ 3 lạy, đứng chấp tay bạch:
- - "Con
pháp danh là… hôm qua được chư tôn đức chỉ dẫn được ở trong danh vị
cận sự, đã thọ 5 giới và muốn ra khỏi nhà thế tục, song 10 giới chưa
tấn đàn, nay con lại kiền thỉnh chư Đại Đức một lần nữa ban cho
phương tiện, để con là… cạo tóc xuất gia làm tăng, sớm trở thành
nhuần đức không ngằn mé trọn đời con luôn cảm niệm tạc dạ ghi ân".
- Thầy
Duy Na nói:
- - "Này
thiện nam tử, luật quy định có thềm bậc, pháp đương nhiên có thứ tự,
nay tôi vì ông mà chọn nơi trải tòa, thúc hiệu kẻng nhóm chúng, cung
thỉnh Hòa Thượng đăng tòa chứng minh, vì ngươi mà xuống tóc, truyền
giới. Khi nghe tiếng kẻng, ông nên chờ tác bạch".
- Giới tử
xá 1 xá rồi lui ra. Thầy Duy Na cùng với Dẫn Lễ chọn nơi trải tòa,
hoặc chỗ đất trống hay nơi giảng đường hoặc ở phòng Phương Trượng.
Cho người quét dọn sạch sẽ rồi mới trải tòa, như nghi trần thiết
trước có nói rõ.
-
7.1.4.2 Nhóm chúng thỉnh sư
- Người
cầu xuất gia nghe tiếng kẻng báo hiệu, cầm 2 y 5 điều, 7 điều và
bình bát theo sau vị Thầy cạo tóc và đại chúng nhóm đông đủ. Duy Na
sắp cho giới tử để y bát bên phải chỗ tòa vị cao tăng, con dao cạo,
chén nước tịnh (có cành bông) đặt chỗ ngồi của Hòa Thượng. Đồ gội
tóc v.v… nhất nhất đều chuẩn bị sẵn sàng. (Nay có thể không cạo tóc
bằng dao mà cạo bằng tondeur, cũng nên để sẵn vật đó trên bàn). Thầy
Duy Na bảo:
- - "Này
thiện nam tử, pháp tọa đã bày, đại chúng vân tập, ngươi nên chí tâm
hướng thượng, cung cẩn quán tưởng, nhất tâm đảnh lễ: Mười phương
Tam Bảo 3 lạy cần cầu đức từ bi gia hộ".
- - "Lạy
xong lại nói: xoay sang 2 bên tả hữu lạy hiện tiền đại tăng vân tập
mỗi bên 3 lạy".
- - "Lạy
xong lại bảo: ngươi đứng một bên nhờ Thầy Thế Độ (cạo tóc xuất gia)
ra khỏi chúng bưng hương đến cung thỉnh Hòa Thượng Phương Trượng".
- Hai
người dẫn lễ nhịp khánh đi trước, người bưng khay lễ theo sau vào
phòng, đúng như lễ nghi thỉnh Hòa Thượng. Mời Ngài ra đến trước tòa
ngồi, 2 người dẫn lễ tới gần trước Phật đứng đối diện tả hữu, cầm
hương đứng một bên. Hòa Thượng lạy Phật 3 lạy xong, đứng dậy đến
trước tòa Thánh tăng trải tọa cụ lạy 3 lạy rồi Thị Giả xếp tọa cụ.
Hòa Thượng niệm hương. Duy Na xướng, đại chúng cùng hòa theo:
- -
"Nam Mô Vân Lai Tập Bồ Tát Ma Ha Tát" (3 lần).
- Dẫn Lễ
bảo:
- - "Ngươi
cầm nhang đến trước Phật, tới nơi quỳ xuống dâng hương lên lư, cắm
hương xong lui về vị trí".
- Đại
chúng nghe khánh nhịp chí thành đảnh lễ 3 lạy. Xếp tọa cụ, xoay sang
hướng đông trước tòa thánh tăng, đến chỗ trải tọa cụ, nghe nhịp
khánh đảnh lễ 3 lạy. Lạy xong, xếp tọa cụ lui về chỗ, bước lui đứng
sang bên trái.
- Người
cầu xuất gia bước ra ngoài: Thầy Duy Na nói:
- - "Thiện
nam tử, bây giờ Hòa Thượng đã thăng tòa, đại chúng vân tập sẵn sàng,
chuẩn bị tác pháp yết ma (vấn hòa) là cách hỏi để tăng hòa, ngươi
phải đi ra khỏi chỗ đây, đứng chỗ thấy nhưng không nghe, đợi lúc gọi
mới được phép vào".
- Người
cầu giới ra phía trước xá 1 xá rồi lui ra.
- Một
người dẫn lễ hướng dẫn ra chỗ có thể thấy bên trong mà không nghe,
đứng đó chờ. Dẫn Lễ trở vào trong chúng nghe pháp yết ma. Pháp này
tuân theo luật dạy gọi là pháp yết ma không có đương sự hiện diện.
-
7.1.4.3 Pháp yết ma hòa tăng
- Hòa
Thượng vỗ thủ xích hỏi:
- - "Tăng
nhóm chưa?"
- Duy Na
đáp:
- - "Tăng
đã nhóm."
- - "Hòa
hợp không?"
- - "Hòa
hợp."
- - "Người
chưa thọ đại giới ra chưa?"
- - "Đã
ra."
- - "Có
các vị tỳ kheo thuyết dục và thanh tịnh không?"
- - "Nếu
không ai thuyết dục và thanh tịnh, trả lời không."
- Trường
hợp có tỳ kheo thọ dục liền đáp:
- - "Có",
và ra giữa chúng xá một xá quỳ chấp tay bạch:
- - "Bạch
Đại Đức Tăng nghe: có tỳ kheo A, B,… mà con thọ dục, tỳ kheo A như
pháp tăng sự gởi dục yết ma"; trên Hòa Thượng đáp:
- - "Được."
- Vị tỳ
kheo thọ dục đáp:
- - "Vâng",
xá 1 xá rồi lui về chỗ.
- Sở dĩ
gọi dục tức là bận vì việc cần cấp không thể có mặt với chúng nên
nhờ người khác nói thay cho người bận công việc.
- - "Tăng
nay hòa hợp để làm gì?"
- Đáp:
- - "Làm
lễ yết ma thế phát (xuống tóc)."
- - "Nay
trong chúng đây ai có thể bằng lòng pháp yết ma?"
- Vị Thầy
làm pháp yết ma trong chúng chấp tay đáp:
- - "Con,
tỳ kheo A, B bằng lòng".
- Vị Thầy
(trưởng lão) đã chấp nhận tiến ra giữa chúng bạch rằng:
- - "Pháp
yết ma đã thành, chỗ ngồi đã được đầy đủ, chỗ đứng cũng đã đủ xong".
- Nếu
người bạch yết ma đứng, người nghe ngồi, hay người nghe đứng, người
bạch yết ma ngồi, đều phạm việc làm phi pháp. Phép yết ma bất thành
với việc đi, nằm cũng như vậy. Do vậy, Hòa Thượng hỏi người biết
pháp yết ma nên phải đứng nghe; người làm yết ma phải ra giữa chúng
lạy 3 lạy rồi đứng chấp tay bạch rằng:
- - "Đại
Đức tăng nghe, có giới tử A muốn cầu Tỳ Kheo B xuống tóc, nếu tăng
phải thời mà đến, tăng thuận nghe cho A xuống tóc; bạch như thế, tác
bạch có thành không?" (bạch 3 lần).
- Hiện
diện đại tăng đều chấp tay đồng đáp:
- - "Thành".
- Thầy
tác pháp yết ma bạch xong ra giữa chúng xá 1 xá, rồi lui về vị trí.
Vị Thầy cạo tóc nghe tăng hứa khả vâng cho thế độ, liền đứng lên
theo sự hướng dẫn trước chúng hướng về 2 Hòa Thượng lễ mỗi vị 3 lạy.
-
7.1.4.4 Gọi cho người xuất gia vào
- Tăng đã
làm phép vấn hòa xong, Duy Na bước ra bên ngoài nơi giới tử đứng
ngoắc tay gọi:
- - "Này
thiện nam tử, ngươi hãy bước vào".
- Người
kia theo lời gọi mà vào, vào rồi đứng một bên nghe: trong đây tăng
làm phép yết ma xong, đã hứa khả thuận cho ngươi trong tăng già lam
xuất gia, ngươi nên ra chính giữa (người ấy bước ra giữa tăng) tới
trước Phật, chí tâm quỳ gối chấp tay dâng 3 nén hương cần cầu thập
phương Tam Bảo từ bi gia hộ. Đương sự ra trước Phật quỳ dâng
hương xong, Duy Na cử bài Tán hương, đại chúng chấp tay đồng tán.
Dẫn Lễ bảo giới tử đứng lên rồi nghe tiếng khánh chí thành đảnh lễ 3
lạy.
-
- "Phật sanh
Tây Trúc,
- Giáo
pháp sang Đông
- Nghĩa
lý uyên thâm
- Nhơn
ngã đều không
- Nhân
tin thoát lao lung
- Quân,
thân lợi ích đồng
- Khoảng
cách thật khó gần (khó gặp)".
- Nam
Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)
- Giới tử
quỳ gối chấp tay, kế đến phần thỉnh sư. Thầy Duy Na nói: "Luận tâm
phàm là cái thể của việc chứng Thánh, chỉ giáo mới biết được thân
giả huyễn là vật chuyển tải đạo. Nếu chẳng tu không làm sao lo liệu
được, ngươi nay đã đủ tín tâm xuất gia thích tu phạm hạnh, lẽ ra
phải tự cầu minh sư, nương lòng từ làm mẫu mực, nay tôi vì ngươi mà
cung thỉnh thượng A hạ B (tên pháp danh) đường thượng Hòa Thượng
chứng minh, thế phát làm Thầy truyền giới cho ngươi, huống nữa vị
thầy này tinh nghiêm giới luật, khéo dạy kẻ hậu học. Ngươi phải
nghiêm chỉnh nhất tâm theo lời tôi để đích thân thỉnh sư. Ngươi tự
trình bày sợ e chưa quen, nay tôi bảo ngươi tự xưng tên họ, pháp
danh… ngoài ra những lời gì đều theo tôi chỉ dẫn như sau:
- - "Bạch
Đại Đức một lòng thương xót, con pháp danh là… nay thỉnh Đại Đức làm
thầy chứng minh, là bổn sư thế độ, truyền giới cho con; mong Đại Đức
vì con mà chứng minh và làm thầy thế độ truyền giới. Con nương nơi
Đại Đức được thế phát, thọ giới, xin thương xót cho con". (Thỉnh 3
lần, lần sau cùng thêm xin đại thương xót cho con).
-
7.1.4.5 Khai đạo (văn trích nghi thức cổ)
- Hòa
thượng vỗ thủ xích bảo:
- - "Này
thiện nam tử, nay ngươi ân cần 3 lần cầu thỉnh, nên tôi mới vì ngươi
làm chứng minh và thầy truyền giới, thế độ. Tôi nói lời nào ngươi
nên chú ý lắng nghe cho kỹ. Nguyên luận về gốc tâm vắng lặng, biển
pháp khôn dò, người mê muôn kiếp chìm đắm, kẻ ngộ hiện đời giải
thoát. Muốn truyền diệu đạo không vượt ngoài xuất gia, khoáng đãng
như hư không, trong sáng lồng lộng như trăng tròn; tu hành đầy đủ
các duyên, đạo quả không xa. Mới đầu gia công khắc niệm, tất chứng
được vị vô vi, sở dĩ bậc Đại Giác Thế Tôn bỏ ngôi vị đế vương
nửa đêm vượt thành cởi áo bào trân quí, khoát áo vải thô. Vào tận
nơi thâm sơn cắt tóc tu hành, để mặc cho chim làm tổ trên đầu, nhện
giăng nơi mí mắt. Chí tâm tu tịch diệt mà chứng chân thường, dứt
trần lao mà đạt thành chánh giác. Ba đời chư Phật không nói tại gia
thành đạo, trải qua các bậc Tổ sư, chưa ai từng ô nhiễm mà độ được
người bao giờ. Sở dĩ giữa Phật với Phật thông nhau trao tay, giữa Tổ
với Tổ truyền tâm không nhiễm duyên trần mới thành pháp khí (tinh
anh) nên được thiên ma nể phục, ngoại đạo qui hàng. Trên đền đáp 4
ân sâu, dưới cứu khổ quần sanh. Bị trôi lăn trong 3 cõi, vì không
thể xả bỏ ái ân; sâu vào pháp vô vi mới thật là báo ân. Sau khi xuất
gia, lễ vượt thường tình không lạy quân vương, không lạy cha mẹ.
Ngươi nay có thể bỏ chỗ ngồi của tôi mà tưởng nghĩ đến ân đức cha mẹ,
quốc vương lạy đáp tạ từ. Song 1 lạy đây gọi là sau cùng vậy".
-
7.1.4.6 Lời tạ từ đấng quân vương và
song thân
- Thầy
Dẫn Lễ nói:
- - "Này
thiện nam tử, hãy đứng lên hướng về hướng Nam. Lễ lạy tạ từ cha mẹ,
và hướng Bắc lạy tạ từ quốc vương. Trước hết lấy cái lễ của thế gian
từ giả quân thân, sau lấy cái nghi của xuất thế quay đầu về Phật
pháp".
- Thầy
Dẫn Lễ hướng dẫn người cầu thế độ đứng xoay mặt về hướng Bắc, rồi
bảo rằng:
- - "Này
thiện nam tử, ngươi đứng nghiêm chỉnh hướng về hướng Bắc tưởng nghĩ
đến ân quốc vương, đất nước chí thành đảnh lễ 4 lạy".
- Giới tử
lạy xong, lại hướng dẫn xoay sang hướng Nam rồi bảo rằng:
- - "Này
thiện nam tử, ngươi đứng nghiêm chỉnh hướng về hướng Nam niệm tưởng
công ơn sanh thành dưỡng dục sâu dày của cha mẹ chí thành đảnh lễ 4
lạy".
- Chờ cho
đương sự lễ xong, lại hướng dẫn đứng xoay về hướng trung ương rồi
bảo rằng:
- - "Này
thiện nam tử, ngươi đã từ tạ quân vương, bái biệt cha mẹ, quay về
với Tam Bảo làm đệ tử Phật, phải đứng chấp tay ngay thẳng chí
thành quán niệm, nghe khánh nhịp đảnh lễ thập phương thường trụ
Tam Bảo 9 lạy".
- Lạy
xong, hướng dẫn đến trước tòa ngồi Hòa Thượng, Dẫn Lễ bảo rằng:
- - "Này
thiện nam tử, hãy hướng về Hòa Thượng chí thành đảnh lễ 3 lạy, rồi
quỳ gối chấp tay".
-
7.1.4.7 Xuống tóc
- Hòa
Thượng vỗ thủ xích bảo:
- - "Này
thiện nam tử, giờ đây các duyên đầy đủ, tăng chúng đồng chúc mừng,
nay tôi rời chỗ ngồi, trước dùng nước cam lồ rưới lên đảnh đầu của
ông, làm cho tâm địa ông mát thanh lương, phiền não không xâm lấn,
kế dùng giới đao cắt đoạn tóc ngươi khiến cho tình trần của ngươi
dứt đoạn vĩnh viễn; phạm hạnh tăng trưởng. Đây là cái nhân lành của
nhiều đời nhiều kiếp; không phải mới sáng nay ngẫu nhiên mà gặp được.
Ngươi càng gia tâm tin sâu càng sanh lòng đại hoan hỷ".
- Hòa
Thượng một tay cầm tịnh bình rời chỗ đến trước người xuất gia dùng
chén nước trong lấy ngón tay nhúng cành dương (hoa) rảy lên đảnh đầu
đương sự. Một thị giả phụ với Hòa Thượng cầm chén nước, một thị giả
khác lấy dao nơi tòa dâng lên Hòa Thượng. Hòa Thượng cầm dao, đọc
bài kệ chú, đại chúng cùng hòa theo như sau:
- - "Lành
thay đại trượng phu
- Hiểu rõ
đời vô thường
- Bỏ tục
hướng Niết Bàn
- Ít có
khó nghĩ lường".
- (Bài kệ
trích từ nghi thức cổ, nay có thay đổi).
- Hòa
Thượng đọc kệ chú xong, lấy dao cạo trên đầu người cầu pháp 3 nhát,
rồi lui về chỗ ngồi. Thầy Duy Na bảo:
- - "Này
thiện nam tử, nay Hòa Thượng đã lấy dao cạo cho ngươi, ngươi nên
đứng dậy xá một xá, rồi đến trước thầy thế độ của ngươi quỳ gối sát
đất 2 tay nâng dao xin thầy cạo nốt tóc cho".
- Đương
sự tới trước thầy thế độ, thầy Dẫn Lễ xướng:
- - "Lễ 1
lạy, quỳ xuống nâng dao dâng lên Thầy ngươi. Lẽ ra ngươi tự nói lời
cầu xin, sợ ngươi chưa quen, nay tôi chỉ ngươi nói theo như sau:
- - "Đại
Đức một lòng nghĩ, con pháp danh là…. Nay cầu xin Đại Đức làm thầy A
Xà Lê xuống tóc cho con, mong Đại Đức vì con làm A Xà Lê thế phát,
con xin nương theo Đại Đức được xuất gia, xin thương xót cho con.
Nói 3 lần và cúi đầu xá 3 xá".
- Thầy
thế phát bảo rằng:
- - "Này
thiện nam tử, đợi tôi trước lễ Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Thế Tôn và các tôn tượng Đông Tây xong hẳn cạo tóc cho ngươi.
Ngươi hẳn đứng sang một bên lấy nước gội tóc".
- Đương
sự đứng lên gội tóc; thầy lễ Phật và các bàn Đông Tây mỗi nơi 3 lạy
xong, thầy quỳ trước Hòa Thượng chấp tay bạch rằng:
- - "Nay
được Hòa Thượng chủ tọa khai đạo, quán đảnh chứng minh, con tỳ kheo…
đúng vì… mà cạo tóc cho".
- Hòa
Thượng đáp:
- - "Lành
thay y đúng như pháp".
- Thầy
thế độ đáp:
- - "Vâng"
- Xá một
xá đứng lên, xoay vô giữa rồi đứng sang bên tả. Vị xuất gia gội tóc
xong, tay bưng đồ đựng tóc, quỳ gối trước Thầy, Thầy nên chừa lại
một ít tóc trên đảnh y, rồi đưa con dao cạo xuống khắp quanh mái tóc.
Duy Na bắt tụng kệ chú cạo tóc, đại chúng đồng hòa âm theo như:
-
- "Cạo bỏ
râu tóc
- Nguyện
cho chúng sanh
- Xa hẳn
phiền não
- Rốt ráo
thanh tịnh".
- Án
tất điện đô mạn đa ra bạt đà dạ ta bà ha".
- Đọc đi
đọc lại 3 lần, tới lúc cạo tới đỉnh xong, bài kệ chấm dứt. Dừng dao
lại, thầy hỏi đương sự rằng:
- - "Tôi
đã vì ngươi mà dẫy trừ tóc trên đầu, chỉ còn chừa một chùm trên chỏm,
ngươi nên suy xét kỹ để quyết định. Nếu như không thể quên mình tấn
đạo, nhẫn khổ tu tập như chỏm tóc vẫn còn. Cũng có nghĩa là người
thế tục cho ngươi trở lại nhà cũng chưa muộn vậy. Cho nên nay tôi
đứng trước đại chúng đây hỏi ngươi, ngươi có quả thật quyết chí xuất
gia để về sau khỏi có hối hận không?"
- Đương
sự đáp:
- - "Con
quyết chí xuất gia, sau này không có hối hận".
- - "Ngươi
hứa quyết chí xuất gia, về sau không hối hận, phải không?"
- Hỏi 3
lần như thế, đương sự đều 3 lần đáp giống nhau:
- - "Ngươi
đã quyết chí xuất gia mà không có hối hận, mới cạo dứt chỏm tóc còn
lại trên đảnh dưới lưỡi dao như vầy".
- - "Ái
buộc dứt sạch
- Cần tu
phạm hạnh
- Tăng
đoàn thanh tịnh
- Phước
huệ toàn thành".
- Vị thầy
cạo tóc xong, đến trước Hòa Thượng, tay cầm dao bạch rằng:
- - "Con
tỳ kheo...nay được Hòa Thượng từ bi chứng minh, vì…con đã xuống tóc
xong".
- Hòa
Thượng bảo:
- - "Được,
tốt lắm".
- Bạch
xong, để dao lại chỗ cũ rồi lui về vị trí của mình. Đương sự đắc độ
lạy một lạy rồi đứng lên lui ra một bên phủi tóc, sửa lại y phục
xong trở lại chỗ cũ, quỳ gối chấp tay, một vị dẫn lễ tới trước tòa
thánh tăng phía Đông trước hết cầm 2 vật mạn y và một bình bát đặt
trước mặt Hòa Thượng.
-
7.1.4.8 Truyền thọ giới Sa Di
- Hòa
Thượng vỗ thủ xích bảo:
- - "Này
gã thiện nam, đầu của ngươi tóc đã cạo bỏ, hình nghi khác tục, chỉ
tên gọi là hình đồng Sa Di, nếu thọ 10 chi thập thiện, thân ở già
lam nương theo thầy mà học; ăn uống cùng với đại tăng, mặc y mà ăn
uống mới gọi là đồng Sa Di Vì thế nay trước hết tôi chỉ cho ngươi,
y, bát của Sa Di, kế truyền 10 giới để tiện việc hành trì không trái
luật nghi".
- Hòa
Thượng tay cầm mạn y, nói:
- - "Đây
là cái mạn y của Sa Di cần mặc đắp, mạn có nghĩa là không cắt mãnh
khâu lại thành. Không có điều dài ngắn. Y này mặc thường khi ra vào,
tới lui trong chùa, làm việc chúng, trong mọi lúc luôn mang theo
không được lìa y khỏi thân. Do vậy còn gọi là y tác vụ (làm việc)".
- Để y
mạn xuống nâng bình bát lên nói rằng:
- - "Đây
là chiếc bình bát thọ dùng của Sa Di; tiếng Phạn là Bát Đa La, dịch
nghĩa là ứng lượng khí. Phàm lúc thọ trai (ngọ trai) nên dùng. Mỗi
khi ra vào phải mang theo bên vai hữu có dây đeo bên nách trái".
- Để bát
xuống bảo rằng:
- - "Này
thiện nam tử, y bát ngươi như pháp, giới cũng đã thọ, ngươi từ vô
thỉ cho đến ngày nay do vọng tưởng che mờ bản tâm, tình thức tham ái
cảnh trần mà không biết gốc mọi pháp không có tự tánh; trong đó mỗi
mỗi sự thủ xả (lấy bỏ) tạo vô số ác nghiệp đã làm cho thân tâm nhơ
bẩn. Tịnh giới đã thọ nay ngươi lấy đó an tâm tu tập. Hãy đến trước
thập phương Tam Bảo cầu mong cứu giúp, mong từ vô thỉ
chưa làm thiện, từ nay tinh tấn, một khắc lỡ tạo việc ác, hứa không
tạo lại nữa. Ngưỡng mong Tam Bảo dũ lòng thương hầu cho ngươi
thọ giới, ngươi theo lời tôi sanh đại hổ thẹn tịnh tâm sám hối. Tự
nói pháp danh… Xong, đọc kệ sau để sám hối:
- - "Xưa
con vốn tạo các ác nghiệp
- Đều do
vô thỉ tham sân si
- Từ thân
miệng ý phát sanh ra
- Tội
chướng đây đều xin sám hối.
- Xưa con
vốn tạo các ác nghiệp
- Đều do
vô thỉ tham sân si
- Từ thân
miệng ý phát sanh ra
- Nay đối
trước Phật cầu sám hối.
- Xưa con
vốn tạo các ác nghiệp
- Đều do
vô thỉ tham sân si
- Từ thân
miệng ý phát sanh ra
- Hết
thảy tội căn đều sám hối".
- Sám hối
xong, nay tôi trước vì ngươi tuyên đọc 3 quy y, chính là lúc nạp
nhận ngươi, ngươi nên phát tâm phẩm thượng nhận thượng phẩm giới.
Nói tâm phẩm thượng đối với Tam Bảo phát tâm đoạn ác tu thiện,
tâm lợi tha khắp cùng pháp giới. Hết thảy hữu tình, cùng cảnh vô
tình nhưng cùng nơi cảnh sở duyên, nguyện đoạn hết thảy ác. Không có
ác nào chẳng dứt, tịnh tu hết điều thiện; không việc thiện nào chẳng
tu, nguyện độ hết thảy chúng sanh. Không có chúng sanh nào chẳng độ,
có thể phát tâm như thế, là thượng phẩm tâm. Đã được giới Sa Di là
thượng phẩm giới. Ngươi nên trong phát tâm như thế, duyên cảnh như
thế, ngoài theo tôi lắng nghe suy nghĩ kỹ lãnh thọ, không được biết
khác, nghĩ khác, tự xưng đọc pháp danh…"
- Đợi Hòa
Thượng đọc một câu xong, liền đọc theo câu đó, chớ có lẫn lộn như:
- - "Con…suốt
đời quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, con nay theo Phật
xuất gia, nương theo Ngài A làm bổn sư, Như Lai chí
chân đẳng chánh giác là Thế Tôn của con, xin thương xót cho
con. Lần thứ ba thêm:
- - "….xin
đại thương xót cho con".
- Trở lên
3 quy y, chính là nạp thể nơi tâm, lại thêm 3 kết đạt được pháp viên
mãn, có nghĩa là 3 lần yết ma. Tự xưng pháp danh…nói theo tôi như
sau:
- - "Con…quy
y Phật rồi, quy y Pháp rồi, quy y Tăng rồi, nay con đã theo Phật
xuất gia, Ngài thượng A hạ B là bổn sư, Như Lai chí chân đẳng
chánh giác là Thế Tôn của con, xin thương xót cho con, cúi
xin đại thương xót con".
- (Đó là
3 kết đã đọc xong).
- - "Này
thiện nam tử, tam quy y, 3 kết đã xong. Nguơi đã được giới thể thanh
tịnh, nay đây tôi vì ngươi đọc 10 giới tướng, khiến ngươi hiểu qua
thực hành để hộ niệm giới thể, hãy tự xưng pháp danh, con pháp danh…:
- - Giới
thứ nhất: từ đây cho đến suốt đời không giết hại chúng sanh là gìới
của Sa Di, nay ngươi có thể giữ được không?
- - Giới
thứ hai: từ đây cho đến suốt đòi không trộm cắp là giới của Sa Di,
nay ngươi có thể giữ được không?
- - Giới
thứ ba: từ đây cho đến suốt đời không dâm dục là giới của Sa Di, nay
ngươi có thể giữ được không?
- - Giới
thứ tư: từ đây cho đến suốt đời không nói dối là giới của Sa Di, nay
ngươi có thể giữ được không?
- - Giới
thứ năm: từ đây cho đến suốt đời
không uống rượu là giới của Sa Di, nay ngươi có thể giữ được không?
- - Giới
thứ sáu: từ đây cho đến suốt đời không xức ướp nước hoa hương thơm
là giới của Sa Di, nay ngươi có thể giữ được không?
- - Giới
thứ bảy: từ đây cho đến suốt đời không ca múa hát xướng và cố đi xem
nghe là giới của Sa Di, nay ngươi có thể giữ được không?
- - Giới
thứ tám: từ đây cho đến suốt đời không ngồi giường cao tốt rộng lớn
là giới của Sa Di, nay ngươi có thể giữ được không?
- - Giới
thứ chin: từ đây cho đến suốt đời không ăn phi thời là giới của Sa
Di, nay ngươi có thể giữ được không?
- - Giới
thứ mười: từ đây cho đến suốt đời không đeo giữ vàng bạc, đồ trang
sức châu báu là giới của Sa Di, nay ngươi có thể giữ được không?
- Mỗi lần
hỏi, giới tử đáp:
- - "Con
giữ được".
- Đọc 10
giới xong, Dẫn Lễ bảo giới tử cúi đầu, đọc 3 lần xá 3 xá. Xong quỳ
xuống chấp tay, đợi Hòa Thượng khai thị cho đắp y thực hành. Dẫn Lễ
bảo Sa Di, lễ 1 lạy xong đứng lên.
- Hòa
Thượng dạy rằng:
- - "Việc
thọ giới đã xong, nay ngươi đủ thể tánh Sa Di, phải mặc y mạn (trong
sách gọi y 5 điều và 7 điều là y mạn), mang bình bát để tượng trưng
tướng bề ngoài của Sa Di. Đại Đức Dẫn lễ có thể đắp y cho giới tử (người
thọ giới), dạy đọc bài kệ cho biết để hành trì".
-
Phụ:
- Thanh
Qui có phần truyền 2 y 5 điều và 7 điều cho Sa Di, cũng như 2 bài kệ
chú truyền 2 pháp y đó. Nhưng theo truyền thống Đại Thừa Phật
giáo Việt Nam, Sa Di chỉ thọ một mạn y; còn y 5 điều và y 7 điều
là của Tỳ kheo. Thầy Tỳ Kheo thọ 3 y cùng một lúc. Tại sao có sự
khác biệt này? Và khởi đầu từ đâu? Do đó người dịch bỏ hẳn đoạn văn
hai bài kệ đắp y 5 điều và 7 điều. Mong chư vị cao minh cho biết tôn
ý trong vấn đề nầy.
- Thầy
Dẫn lễ đến bàn lấy y, bát, tọa cụ đưa qua, đương sự trước hết tự
mang bình bát lên vai, hướng tới trước tòa trải tấm tọa cụ. Và đại
chúng cùng đọc kệ chú:
-
- "Ngọa cụ
ni sư đàn,
- Nuôi
dưỡng tâm tánh thiện,
- Trải
bày nơi Thánh địa,
- Gìn
mạng mạch Như Lai".
- "Án
đàn ba đàn ba, sa ha" (3 lần).
- Xong
lạy 3 lạy. Thầy Duy Na xướng, đại chúng tiếp:
- -
"Nam mô Bảo Đàm Hoa Bồ Tát Ma Ha Tát".
-
7.1.4.9 Khuyến Tấn Và Hồi Hướng
- Hòa
Thượng vỗ thủ xích dặn bảo:
- - "Này
Sa Di, tóc ông nay đã rơi xuống, Ca Sa mặc nơi thân, được vào tụ
thiện pháp, ra khỏi cảnh trần lao. Mỗi ngày làm cho đạo nghiệp thêm
mới, lìa dứt mọi phan duyên (vướng bận), nay tôi chỉ cho ông 5 đức,
10 số làm phấn chấn đạo tâm nương đó mà hành trì".
- Nói 5
đức theo kinh Phước Điền có ghi rõ như sau:
- 1- Phát
tâm xuất gia luôn giữ mối đạo,
- 2- Phá
bỏ hình tướng đẹp thích mặc pháp phục,
- 3- Cắt
ân ái, dứt mọi gần gũi qua lại,
- 4- Thà
bỏ thân mạng để duy trì đạo,
- 5- Chí
cầu Đại Thừa vì muốn độ người.
- Nói
thập số theo như luật Tăng Kỳ ghi rằng:
- 1- Tất
cả chúng sanh đều nhờ ẩm thực (tới bửa ăn niệm 5 phép quán để ngăn
tâm tham - sân - si ).
- 2- Biết
danh - sắc là giả mới ngộ pháp nhị không.
- 3- Biết
bịnh tưởng khổ đau là vọng phân biệt, trừ dứt phiền não và sở tri
chướng.
- 4- Hiểu
rõ bốn chân lý biết khổ, tập, diệt phải cần tu đạo.
- 5- Soi
tỏ năm ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) đều không.
- 6- Biết
thân hư dối như mây tụ hư không. Sáu cảnh trần: sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp, như chung với giặc.
- 7- Khéo
dùng 7 giác chi tức là khéo chọn lựa pháp tu.
- 8-
Thường thực hành bát chánh đạo.
- 9- Biết
rõ chúng sanh nơi 9 cõi đều không… khổ, không, vô thường, vô ngã.
- 10-
Quán cả 10 người tự bản tánh mỗi người không sanh, chẳng hòa hợp.
- Đây là
pháp Sa di phải ứng hợp như vậy, đã nghe biết rồi luôn luôn ghi nhớ
đừng quên. Nếu hay chuyên học quyết hành thì 10 chi giới Sa Di thanh
tịnh, 24 cửa oai nghi, 5 đức sẵn sàng, 10 số tu tiến trong tương lai
đăng đàn vào hàng thập sư(9), bạch 4 yết ma thọ cụ túc thành giới Tỳ
Kheo Tăng, vào nhà Tam Bảo, nối dõi giòng Thánh, công đức khó
lường. Từ đây trở đi bồi đắp thêm lòng tin thanh tịnh chớ nên biếng
nhác buông lung thân tâm, ngươi có thể nương theo đó phụng hành được
không?"
- Đáp:
- - "Con
xin y giáo vâng làm".
- Hòa
Thượng dạy:
- - "Đã y
lời dạy vâng làm, đem công đức cạo tóc thọ giới này trên đền đáp bốn
ân, dưới cứu ba đường khổ. Đại chúng đồng niệm hồi hướng".
- Hòa
Thượng vỗ thủ xích một tiếng rồi đứng lên chấp tay niệm Phật. Dẫn lễ
bảo tân Sa Di lễ tạ Hòa Thượng 3 lạy, rồi đứng sang một bên. Thầy
Duy Na xướng hồi hướng, đại chúng hòa theo:
-
- "Thọ giới
công đức hạnh nhiệm mầu,
- Phước
báu bao nhiêu con nguyện cầu,
- Nguyện
các chúng sanh đang trầm nịch (lặn hụp),
- Sớm về
cõi Phật vô lượng quang,
- Mười
phương ba đời các Đức Phật,
- Các bậc
Bồ Tát Ma Ha Tát, Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật,
- Ma Ha
Bát Nhã Ba La Mật".
- Hòa
Thượng xuống tòa lạy Phật xong, theo nghi thường lệ tiễn Hòa Thượng
về liêu phương trượng. Đại chúng cùng vui vẽ lạy Phật 3 lạy. Sa Di
thọ giới ra trước chúng lễ tạ đại chúng và Thầy Duy Na, thầy Dẫn lễ
xong; chờ đại chúng đi hết. Thầy thế độ đưa Sa Di đến Tổ đường lạy
Tỗ; lễ xong trở lên Phật điện thu dọn đàn tràng.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Đức
Phật lúc sắp nhập Niết Bàn luôn nhắc đến giữ giới luật khuyên chư Tỳ
kheo lấy giới làm thầy. Nhờ đó duy trì được mạng mạch tăng già,
chánh pháp tồn tại được lâu dài đều do việc giữ giới vậy. Song ban
sơ chế luật, trước hết chế 5 giới khởi đầu của người xuất gia. Trước
tiên nói 10 chi giới mà tổ Bách Trượng sao lục lại trong Thanh Quy
làm mô phạm cho người xuất gia thật là cần yếu vậy. Từ đó trở đi
tạng bản phần nhiều ngụy tạo để lại nơi lầu kinh các. Lưu hành sách
hay đời cũng hiếm thấy,việc cạo tóc, thuyết giới nghe chừng không
nghe, lạ gì Phật pháp không suy tàn chứ ?
- Ở đây
tôi được duyên may thật là hy hữu, gặp thấy sách mô phạm nầy do luật
sư Kiến Nguyệt hiệu chính tại Bảo Hoa Sơn ở Kim Lăng nên
truyền lưu rộng hầu vản hồi lại buổi suy đồi. Cho Sa Di cạo tóc theo
đúng mô phạm tức là Tỳ kheo am tường giới luật; cũng phải suy nghĩ
hàm ý nói tuân lời Phật dạy không để thiếu sót. Muốn nghe thấy, thọ
trì cũng vì bể khổ, bờ giác truyền đúng hạnh Phật, đứng làm trụ cột
vững chắc lâu dài. Trong sùng kính Pháp làm cho Phật pháp hưng thịnh;
ngoài giúp vua trị vì giữ vững đất nước bền lâu. May nhờ không nhẹ
nghi tắc cũng giống như diễn lại tích xưa. Sách này để tiện việc tác
pháp truyền giới nên không ghi phần trích dẫn như chứng nghĩa ghi.
Quí hồ ở cái thể đạt Phật ý mới thật xứng danh, để không phụ ân sâu
giúp (tế độ) bậc quân thân.
- Thành
lập đại tòng lâm là vì thập phương đệ tử xuất gia học đạo tu hành; ở
đây không nuôi chúng khu ô (Sa di nhỏ tuổi đuổi quạ ) sợ thành cái
tệ cho nên tuổi đồng ấu xuất gia đa phần ở am cốc (am tranh cốc lá),
tịnh thất thỉnh các vị trụ trì các tòng lâm tới làm thầy truyền giới.
Thảng hoặc như người trai trẻ có chí hướng muốn làm đệ tử xuất gia
tới tòng lâm xin thế độ (cạo tóc). Sa di này được phép, đây là việc
trên hết của chúng, vì nó có liên hệ rất lớn nên không thể không
thận trọng chọn lọc người làm nền tảng của bực hiền thánh. Do đó mới
qui định 8 điều như sau:
- 1- Cha
mẹ không cho phép, không được giữ đương sự lại. Biết chắc là người
có tâm xuất gia, bảo y nên về nhà xin phép cha mẹ; sau khi được hứa
thuận mới chấp nhận.
- 2-
Không nhận cho xuất gia người phạm pháp bỏ trốn đi tu.
- 3- Kẻ
bị giam giữ (tù tội) không cho tu. Như quan chức cho chí hạng làm
công, nếu đạo tâm vững mạnh, hoặc buộc đương sự xin gia ân thả ra;
hoặc báo cho chủ nhân biết tin lành nầy, được chủ hứa mới nhận.
- 4-
Người theo ngoại đạo trà trộn làm lũng đoạn chánh pháp, không cho
xuất gia. Các đạo tà như vô vi của Bạch liên giáo, thuật trường sanh,
thiên chủ v.v… Nếu người đó hối tâm lỗi lầm trước cho ở chùa thời
gian để xem xét nếu đúng thật, mới cho xuống tóc. Như người quan hệ
đạo Lão muốn cải qua đạo Thích; nhẫn nại không có tâm khác mới có
thể cho xuất gia.
- 5-
Người không có thân nhân, lai lịch bất minh, không cho đi tu. Quán
xét căn cơ định đoạt, nếu không quá xa lạ như người thật tâm cầu
xuất gia nên cho đương sự quy y Tam Bảo trong vòng vài ba
tháng truyền cho 5 giới; đợi đến một năm hoặc 3 năm mới cho xuất gia.
- 6- Sau
khi được chấp thuận ở chùa phải học thuộc các thời khóa tụng; siêng
năng không lỗi lầm mới cho xuống tóc. Khảo sát không thuộc kinh
không cho cạo tóc.
- 7-
Người đã xin xuất gia đối với lễ nghi, phép tắc phải nhất nhất tuân
hành. Nếu buông lung phóng đãng, vô loại sàm sỡ khuyên bảo không
biết cải đổi, không cho tu.
- 8- Xuất
gia ở tòng lâm nên tuân theo lệ cấm xưa. Chỉ y theo một người là vị
trụ trì; Tăng chúng mỗi người đều không được làm khác, nếu trái cả
thầy trò đều ra khỏi viện.
- Ngày…
tháng… năm…
- Trụ trì…
sao lục
-
Lời phụ
- Dâng sớ
phụng cúng lễ xuất gia, nội dung như sau:
- -
"Từng nghe rằng Đức Thế Tôn cắt tóc đi tu, xem ngôi vị đế
vương như áo rách. Thánh Tăng xuất gia như đôi cánh chim sổ lồng,
nhờ… phàm để nhập Thánh. Mong tự độ để lợi sanh, trên truyền rộng
gia phong Phật Tổ mãi mãi làm tai mắt nhân thiên. Nay tại Úc Đại Lợi…
tỉnh… thành phố… chùa… theo nghi cúng Phật, Tỳ kheo thế độ… cầu độ.
Sa Di… hôm nay chí thành niệm hương, hướng về đức giáo chủ cõi Ta Bà
là Phật Thích Ca mâu Ni, chư Phật, Thánh hiền tại hội Linh Sơn, trên
tòa sen báu. Kính cảm thông lời tỏ bày nhân vì cầu xuất gia cho Sa
Di pháp danh… tánh danh… sanh ngày…tháng… năm… giờ… Hôm nay là ngày
tháng năm… tại chùa… quy y, là đệ tử của thầy Tỳ kheo… đổi tên là…
bỏ thế nhiễm thọ giới pháp".
- Lại
nghĩ:
- - "Tân
Sa Di… lâu nay ngụp lặn trong đời, chưa hiểu rõ ý niệm xuất trần,
thân cận tham học giáo pháp Đại thừa để ngỏ hầu biết lối nhập
môn, xé nghiệp buộc ở thế trần, thế thân phàm mắc nơi lưới tục. Phát
tâm thoát trần, lập chí xuất gia, may gặp thắng duyên toại thành đại
nguyện. Do vậy, kính dâng hiến thanh trai một diên, để tỏ trọn tấc
dạ kính thành. Ngưỡng mong hồng ân đoái thương cảm cách. Những
nguyện từ quang tỏa chiếu mưa pháp thấm nhuần, làm cho tân Sa Di,
được đắp y mang bình bát, làm rường cột cho Phật pháp; học đạo tham
thiền, vượt ngoài cõi sanh tử; thân thể kiện khang, tâm tư thanh
tịnh, ma chướng không xâm hại. Thật quả là đạt đến diệu môn bất tư
nghì, làm người xuất thế đủ cơ duyên chấn chỉnh thượng cơ. Tỏ bày
tâm nguyện như trên đây, thật quả như lòng mong mõi. Văn Sớ trên đây
cúi xin Tam Bảo chứng minh gia hộ cho chúng con trọn thành
tâm nguyện".
- Ngày…
tháng… năm….
- Tỳ kheo
thế độ… cho tân Sa Di… dâng sớ.
- Chứng
nghĩa ghi:
- Cổ nhơn
nói rằng xuất gia chính là việc của bậc đại trượng phu, nếu chẳng
phải tướng ấy đâu đảm đương được!
- Ngài
Vân Thê Liên Trì nói rằng:
- - "Tướng
lấy võ công ổn định loạn; văn dùng văn học đem lại thái bình. Việc
trong thiên hạ đều do tay các tướng văn võ cả; nhưng Ngài nói rằng
xuất gia chẳng phải việc làm của văn võ. Nhưng mà xuất gia đâu lại
quá hạn hẹp vậy sao!"
- Dựa
theo lời ngài Vân Thê dẫn mà không luận, bởi vì người xuất gia vì
muốn vượt dòng sanh tử lên bờ giác; trải qua vô số kiếp bị xoay vần.
Một sớm giải thoát được lợi mình lợi người, độ sanh vô số mà khởi
đầu ở một niệm xuất gia. Vì thế, ở đây nói chẳng phải việc nhỏ vậy!
Bậc cao nhơn xưa nêu chỗ thấy nầy nên nói xuất gia đều do đại nhân
duyên 10 phần được đại hoan hỷ. Như cá thoát cạn, chim bay trong bầu
trời; có đủ tâm địa rộng lớn trong hết thảy các hạnh. Nhẫn đến 10
giới, 250 giới, Bồ Tát giới: 10 giới trọng, 48 giới khinh v.v… tuân
thủ thực hành không biết mỏi mệt.
- Nay
thời không được như vậy, cha mẹ hoặc do nghèo khổ mà cho con vào
chùa xuất gia, hay bản thân đương sự gặp việc rắc rối, bức bách mà
miễn cưỡng muốn đi tu, kỳ thực lúc đầu chưa từng phát tâm chân thật.
Cho nên về sau người như thế cũng chẳng thật sự được an lạc. Hoàn
toàn trông nhờ nơi vị thầy, trước hết thầy nhận y cứ theo giới luật,
rồi theo thời gian thêm lời dạy bảo; theo đó bỏ dần thói quen để đạo
tâm kiên cố. Tâm con người do giáo huấn mà thấm nhuần mỗi khi một ít,
ngỏ hầu kỳ vọng tánh tốt ngày càng tiến triển xa hơn.
-
Luật Ngũ Phần,
Phật dạy Ngài Xá Lợi Phất hướng dẫn La Hầu La, trước truyền 5 giới
Ưu Bà Tắc, sau mới cho cạo tóc thọ 10 giới Sa Di. Việc xuất gia thọ
giới là mô phạm đầu tiên. Cớ gì ngày nay xuất gia phần nhiều người
đã chẳng phát tâm mà được làm thầy. Cũng chẳng nhọc suy nghĩ tới
nguồn gốc, thầy có dạy khuyên gì là đệ tử theo học. Những người với
tâm lợi dưỡng háo danh do sự thù ứng ngoài đời. Người thật sự vì cầu
thoát ly sanh tử muốn độ mình, độ người có khác, tức là giá như lúc
đầu không lập nguyện rốt cuộc hỏng phế cả. Nghĩa là vì việc thọ giới
ắt hẳn phải đủ 3 đàn nói chung mới truyền giới. Không cứ y bát thiếu
đủ hay sự cố xảy ra giới đàn phải đình hoản lại chờ một năm sau.
Người chưa thấm nhuần giới, giới thiếu kém nhưng được chính thức
đăng đàn thọ giới và còn nhiều việc nữa, tệ xấu trái với Phật
pháp, là một sự cố. Không dứt khoát một cách miễn cưỡng vẫn tiến
hành thọ giới cho xong việc mà thôi. Ôi ! Thọ giới cả trăm nghìn mà
đắc giới có được mấy người! Phật pháp suy đồi do việc sai trái
truyền giới này vậy. Thiết nghĩ trong đây cả thầy, trò đều phạm sai
lầm cả, nhưng lỗi Thầy hẳn nhiều hơn.
- Sách
Thiền Lâm Bảo Huấn Ngài Hoàng Long nói:
- - "Cha
nghiêm con kính". Sự giáo huấn ngày nay làm mẫu mực cho ngày sau;
cũng giống như sửa sang lại các thế đất; chỗ lồi nên hạ xuống nơi
lõm lấp san bằng. Người sắp leo núi cao nghìn trượng ta cũng có lời
khuyên như thế. Kẻ khốn khổ ở trong 9 châu cũng như vậy. Tài năng
đạt đến cùng, dối gian tự chấm dứt, đến một lúc người ta phải tự
ngừng.
- Cũng
nói: "hoài bão đấy lão luyện ấy; tiết xuân hạ phát dục. Sương đó
tuyết đó mới thấm nhuận thu đông. Thầy không giáo huấn phỏng có được
không?"
- Y cứ
theo Kinh Mục Liên vấn Phật:
- - Vào
thời Phật Ca Diếp có một Tỳ Kheo độ đệ tử mà không dạy khuyên
để làm nhiều việc phi pháp. Người đệ tử chết tái sanh làm hỏa long
thành con rồng lửa, trong bảy ngày lấy lửa thiêu xác, thịt da cháy
sạch chỉ còn lại xương. Sau đó rồng hoàn hình như cũ, lần nầy lại
thiêu cháy mà không chịu nóng nỗi bèn quán thấy đời trước mình làm
vị sa môn không giữ giới luật, thầy không dạy dỗ, liền giận bổn sư
nghĩ muốn làm hại. Về sau, sư cùng với 500 người qua biển bị con
rồng tới cản thuyền. Mọi người trên thuyền hỏi:
- - "Vì
sao cản thuyền?"
- Đáp:
- - "Các
ông hãy ném Tỳ Kheo đó xuống, tôi mới để các ông đi".
- Hỏi
rằng:
- - "Tỳ
kheo can dự gì ngươi? Sao không đòi ném những người khác mà chỉ ném
một người này?"
- Đáp:
- - "Vì y
vốn là thầy tôi không dạy dỗ, nên nay tôi phải chịu thống khổ. Vì
thế, tôi yêu cầu đó. Mọi người thấy tình thế nguy cấp chuẩn bị ném
vị tỳ kheo xuống nước".
- Vị Tỳ
kheo nói:
- - "Không
cần ai ném, để tôi tự xuống nước; rồi tự gieo mình xuống dòng nước
mất dạng".
- Mọi
người đi được an toàn.
- Lấy đó
suy nghiệm:
- - "Không
khuyên dạy đệ tử bị hại không phải nhỏ vậy".
- Ngoài
ra, Kinh Ưu Bà Tắc ghi rằng:
- - "Cho
thọ giới bừa bãi trong một ngày giết vô số mạng sống; cho nên quyết
không nuôi đệ tử mà không dạy dỗ".
- Kinh
Thiện Giới ghi:
- - "Bọn
Chiên Đà La và người hàng thịt, tuy hành nghề ác nhưng không phá
hoại giáo pháp của Phật, hẳn không nhất định đọa trong ba đường ác.
Nhưng làm thầy không dạy đệ tử là phá hoại Phật pháp, ắt đọa
địa ngục".
- Do quán
xét như thế, Sa Di được thọ giới chính là nhân duyên lớn quan hệ của
Phật pháp. Người thọ giới mà không hành trì còn hơn là lỗi
không dạy, huống nữa thầy không dạy khuyên hình đồng Sa Di giống như
bạch y cư sĩ. Nếu không đặt nền móng trước quyết không thể xây lên
lầu cao gác rộng được. Đi càng xa, hại càng nhiều mà còn bị chướng
ngại vượt bực. Đó há chẳng phải là thầy của sự sai quấy hay sao?
- Nay qui
định đúng việc xuất gia như luật sư Kiến Nguyệt hiệu đính tại
núi Hoa Sơn Giang Nam, trên hợp lời Phật dạy, dưới hợp thời cơ, thật
là đẹp, hợp pháp. Như con giòng họ Thích chúng ta nên cùng nhau gìn
giữ mà tuân hành đúng vậy.
- Đàn
giới đủ 3 đàn:
- - Đàn
giới Sa Di truyền 10 giới,
- - Đàn
Tỳ kheo,
- - Đàn
Bồ Tát giới cho cả xuất gia và tại gia.
- Giới tử
chuẩn bị đầy đủ 3 y, bình bát, tọa cụ, học thuộc kinh, luật… Nên đến
bổn sơn sớm ít nhất là 3 ngày để thực tập giới luật, lạy Phật, sám
hối. Đừng để đến ngày thọ giới vội vàng hấp tấp mà nên dự định trước.
- Giám tự
(Giám viện) thông báo giới đàn rộng rãi trên phương tiện truyền
thông đại chúng:
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Giới
đàn nên thông báo trước ít nhất là 6 tháng để giới tử các nơi có thì
giờ chuẩn bị. Dán thông báo ở chùa để mọi người dễ nhìn thấy nhờ đó
có thể thông tin rộng, cũng là việc cần làm. Trên Thông báo có thêm
phần phụ chú: Hội đồng giới sư, Hòa Thượng A làm đàn Đầu, Hòa Thượng
B làm Yết Ma A Xà Lê, Hòa Thượng C làm Giáo thọ A Xà Lê; Thượng Tọa
A, B, C làm tôn chứng.v.v… Nên gởi thư cung thỉnh trang trọng (nếu ở
xa) cũng có thể được, hoặc đích thân tới mời từng vị. Thông báo giới
đàn phải đầy đủ các chi tiết như ngày giờ, địa điểm…
- Tiếp
theo chuẩn bị các thứ: giới tử chuẩn bị 3 y, kinh luật, bình bát,
tọa cụ, đãy lọc nước, đãy đựng bình bát, khăn lau, đồ lót bình bát
v.v… cũng chuẩn bị tiền cúng dường giới đàn, giới sư tùy theo khả
năng. Đây là cơ hội tạo công đức. Thông thường gọi là tiền cúng toàn
đàn giới - cúng chung. Nếu giới đàn tổ chức mà toàn ban chức sự tại
chùa hẳn số tiền cúng chung giảm xuống phân nửa. Còn thừa lại bao
nhiêu chiếu theo đó nhập vào cúng dường trai phạn. Ăn uống, điện
nước, điện thoại, tắm giặt, cạo tóc… cho chí mọi thứ nên tùy khả
năng phát tâm, chứ không nên bắt buộc miển cưỡng. Tiền cúng dường
thập sư có thể tam sư khác và 7 thầy tôn chứng khác, nhưng đều nhau.
Cũng có giới đàn thầy Giáo thọ nhận ưu tiên hơn tùy theo mỗi nơi quy
định.
- Vật
dụng cúng dường chùa cho nhập kho; nhang đèn, tiền sớ giấy giao thầy
Giáo thọ và chùa quyết định. Những bửa điểm tâm theo tiêu chuẩn của
giới trường. Nếu có cúng dường trai tăng, thiết lễ đãi đằng… đều
giao cho nhà trù lo liệu mà không thuộc về công việc của giới trường.
-
Chứng nghĩa ghi rằng:
- Có
sách khác mở đầu nêu rõ thường trụ phải chuẩn bị các thứ tức là giới
trường phải cụ bị các loại pháp khí trang nghiêm. Nếu nêu rõ bổn tự
lo hết nhang đèn, hoa quả các thứ v.v… trừ những đồ dùng riêng của
giới tử. Song hai điểm nầy mỗi nơi có khác không đồng khó mà có được
một điểm chung, nên ở đây lược qua không đề cập đến. Chỉ nêu ra
người cầu giới chuẩn bị các món lễ vật, tiền hương tín; cũng như sẵn
sàng 3 y trước, cùng với các thứ cần thiết. Những thứ nầy hẳn phải
sẵn sàng là việc phải có của người thọ giới.
-
Tổ Kiến Nguyệt núi Hoa Sơn
có viết một bài tản mạn trong mộng tự kể lại rằng:
- - "Một
buổi sáng trước kia tại núi Kê Túc đêm ở chùa Tịch Quang có hỏi vị
minh sư của sơn môn rằng, nghe đâu hang sư tử có nhị vị lão Hòa
thượng Đại Lực Bạch Vân chuyên tu tịnh nghiệp trong 30 năm không
xuống núi. Vào ngày 18 có ngài Diệu Tông Ám Sơ vào động đầu tiên đến
hang lễ lạy xin xuống tóc xuất gia".
-
Đại Lực lão Hòa Thượng hỏi
rõ đầu đuôi và may mắn được Ngài rũ lòng từ chấp thuận; sai chuẩn bị
y bát, Ám Sơ nói:
- - "Được
thừa nhận rất là sung sướng rồi, y bát đệ tử đều đã sắm đầy đủ cả".
-
Bạch Vân lão Hòa Thượng
nói:
-
-
"Tôi xem người này
về sau thành đại khí, không phải chơi đâu, sợ e xuất gia dễ, việc
trì giới không bền. Phải tự y tới gõ cửa tha thiết khẩn cầu mới trừ
bớt ngã mạn, trắc nghiệm xem tâm ý mình may ra được y bát; y tái đến
đây lần nữa hẳn cho xuống tóc".
-
Suy nghĩ của 2 nhà thiện
trí thức, hai lần thu nhận một lần bác bỏ làm cho người ta e sợ. Căn
cứ theo đây cho thấy: ba y, bình bát, tọa cụ ắt phải chuẩn bị đủ đầy
mới nên cầu thọ giới. Trong luật chỉ cho phép mình phải tự sắm đầy
đủ, không được mượn dùng, mượn cũ hư hao phải trả đồ tốt. Gần đây
nghe đâu giới đàn có những việc như thế, việc mượn hay vay mướn đồ
rất dễ. Như vậy việc cầu giới quá dễ nên sanh tâm khinh lờn, mà
không thích hợp, nên để giới tử thấy giới khó hành trì. Thật là thời
buổi Phật pháp suy tàn, điềm này báo trước rồi vậy.
-
7.3.3
Dự
Định
Lập
Các
Ban
Kiến
Đàn
Rõ
Ràng
-
Công việc có sắp xếp trật
tự, pháp mới thành tựu được mà điều cần nhất là sự hòa hơp. Hơn nữa
trọng trách một đàn giới, trên dưới đều hổ tương thảo bàn trước kỳ
giới đàn, cũng như tập dượt nhuần nhuyễn cho tới lúc đăng đàn. Từ từ
hướng dẫn giới tử thành kính chiêm nghiệm mà sanh lòng chánh tín,
làm mô phạm cho người không nên cô phụ kẻ hậu học. Thảng hoặc có
điểm sai trái nên dàn xếp khéo, không nên quở trách ngay trong đàn
tràng, làm mất vẽ trang nghiêm thanh tịnh. Người xướng ngôn (điều
khiển chương trình) nên rõ ràng, giọng phải hòa huởn trong làm cho
người dễ nghe, nhập tâm. Đạo muốn trường cữu, các thầy nên linh động
đọc kỹ những từ sau đây:
- -
Hòa Thượng:
tiếng
Phạn, Trung Hoa dịch là lực sanh hay Trưởng lão hoặc Trụ trì hay
cũng còn gọi là Phương Trượng. Người đời thường xưng Đường Đầu hay
Đàn Đầu Hòa Thượng tại Đại giới đàn.
- -
Yết Ma:
tiếng Phạn là Yết Ma, dịch là tác pháp, tức là nhị sư hay tả sư tại
Đại Giới đàn.
- -
Giáo Thọ: đời Đường gọi là
Bậc tọa vị (thầy dạy Pháp) cũng gọi là nhị sư hay Hữu sư.
- -
Tôn chứng:
một Hội đồng gồm 7 vị hoặc thất chứng hay xưng các sư, ngồi 2 dãy
bàn hai bên tam sư tại đại giới đàn.
- - Khai
đường: tức là đại dẫn lễ hay cũng gọi là bổn đường; còn gọi là thầy
Điển lễ, vì thầy hướng dẫn đàn giới như Duy Na tại Thiền đường.
- - Bồi
đường: tức là người dẫn lễ thứ nhì, cũng gọi là bổn đường hoặc gọi
thầy Phó, giống như Tham Đầu ở thiền đường.
- - Đại
tác pháp: tức là người dẫn lễ thứ ba, gọi là tả ban cũng như Duyệt
chúng ở Thiền đường.
- - Nhị
tác pháp: tức là người dẫn lễ không luận nhiều ít đều gọi chung là
dẫn tán; người đời gọi là chiếm ban dẫn lễ, cùng đi theo 5,6,7, 8 vị
khác mà là sư phó, đều thứ tự làm việc.
- - Hương
đăng trực đàn: hai vị luôn có mặt làm việc tại giới đàn. Phàm tân
giới tử cũng gọi các thầy là sư phó.
- - Phân
công việc: Nhỏ một bậc trông coi một vị lớn, ngồi nhường chỗ, đi
cũng phải nhường bước các vị trước. Hễ Sa Di thấy người thọ giới lâu
tôn kính như Thượng Tọa. Giới tràng đại chúng trọng Ban Chức Sự, Ban
Chức sự quí các ban khác, đều phân tôn ti trật tự; đã có nêu đầy đủ
nơi hai chương ở đầu sách. Phàm giới đàn có việc gì cần, trước phải
trình bày cho Bổn đường, Khai đường bàn tính, nếu không ổn mới đưa
qua chỗ
khác. Công việc qua 3 vị mà đại bộ vẫn không xong mới bạch lên
Phương Trượng. Nếu không trình qua Khai đường hẳn có xáo trộn tranh
cải với lưỡng tự; trình lên Phương Trượng lớn tiếng làm động chúng
nghiêm phạt.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Ngày
xưa truyền giới chỉ luật tông; từ đời lịch triều phân pháp về sau,
thiền tông, giáo tôn đều mở rộng. Chánh tọa thay Phật tuyên dương
làm chủ vị một phương, lưỡng tự phân ba cấp, hai thầy, bảy thầy là
Thánh chấp. Trong giới Bồ Tát, Ngài Văn Thù, Di Lặc làm tôn chứng,
dẫn lễ là hiền chấp; 10 phương Bồ Tát là bạn lữ đồng học. Hương đăng,
trực đàn và chư vị trợ tá là chúng hay làm việc biện sự.
- Thiền
sư Tiêu Sơn Tánh Hải ở Giang Nam trong Thập Di tập có luận việc Trì
Phạm Hoặc Vấn:
- - "Trong
thời mạt pháp người truyền giới thông suốt gọi là Hòa Thượng, người
thọ giới thông suốt giới là tăng mà giới đặt đầy đủ cho bất luận ai.
Người phạm giới không thể vượt được, quả có tội không? Không có tội
sao?"
- Đáp:
- - "Người
không thọ giới, như chẳng phải quan tể tướng mà hành giả lấy quyền
hành để áp đặt cai trị thiên hạ. Người thọ giới mà phạm giới như
nhận chức quan không xứng đáng đi ngược lại dân; vua đặt cho chức
không làm xong phần vụ có bị hình phạt không? Tôi biết rõ việc đó
phải đặt trong hình phạt vậy. Vì thế, người truyền giới có một giới
mới có thể truyền cho người một giới, có hai giới truyền hai giới.
Không có giới nào mà truyền giới, một giới ắt chiêu lấy hậu quả của
một giới, như người đời mà lộng quyền thiên hạ, đâu không bị trừng
phạt ư? Người thọ giới, thọ một giới ắt giữ một giới; phạm một giới
ắt hẳn chiêu báo của một giới. Như làm quan mà không xử công việc
quan há không bị trừng phạt hay sao?"
- Lý đã
rõ ràng, không đợi kẻ trí mới biết. Vì thế, đã có một giới mới có
thể truyền cho người một giới; không có hẳn không truyền giới nào.
Có khả năng giữ một giới thì thọ một giới; nhắm bất khả năng không
giữ được nên trả lại giới sư. Phật có dạy rõ như vậy nên y theo đó
mà làm không nên ham cái danh hão mà chuốt lấy họa.
- Trước
hết nêu 3 đàn:
- - Đàn
một,
- - Đàn
hai và
- - Đàn
ba.
-
7.3.3.a Đàn một
- Đàn một
8 việc:
- 1. Dạy
bưng bình bát, đắp y,
- 2.
Thỉnh cầu xin giới
- 3. Kiểm
tra lại y bát có đủ thiếu
- 4. Lạy
sám hối
- 5. Hồi
tâm
- 6. Giải
thích giới sắp thọ
- 7. Phát
nguyện sẵn sàng
- 8. Ôn
tụng luật Tỳ ni nhựt dụng.
-
7.3.3.b Đàn hai
- Đàn hai
có 13 việc:
- 1. Truyền
Sa Di giới
- 2. Dạy
các oai nghi
- 3. Phát
thẻ
- 4. Cầu
giới
- 5. Chỉ
rõ tên từng món y, bát trao nạp
- 6.
Danh thiếp
- 7. Sám
hối
- 8. Hồi
tâm
- 9. Cúng
ngọ
- 10. Mời
thọ trai
- 11. Giải
thích giới
- 12. Phát
nguyện
- 13. Truyền
Tỳ kheo giới.
-
7.3.3.c Đàn ba
- Đàn ba
có 10 việc:
- 1.
Cầu giới
- 2.
Lạy sám hối
- 3.
Hồi tâm
- 4.
Khai thị pháp tu khổ hạnh
- 5.
Đốt liều
- 6.
Thuyết đại giới
- 7.
Phát nguyện
- 8.
Truyền Bồ Tát giới
- 9.
Cấp phát chứng chỉ
- 10.
Hồi hướng.
- - Tổng
cộng 3 đàn gồm có 31 việc.
- Xem
thêm sách “Tam đàn truyền giới chánh phạm” để rõ.
- Phần
tiếp theo phân thành 4 mục.
- A- Tòa
chính:
- 1- Đàn
thứ nhất: phát lồ sám hối sửa đổi, cầu giới, hồi tâm, giảng ý nghĩa
giới
- 2- Đàn
thứ hai: thỉnh cầu giới, trao danh thiếp, hồi tâm, cúng ngọ, mời thọ
trai, giảng rộng giới
- 3- Đàn
thứ ba: thỉnh cầu giới hồi tâm, chỉ hạnh tu khổ hạnh, giảng rộng
giới. Nêu chung gồm có 16 việc... Ni phát lồ riêng, giảng bát kỉnh
pháp và khai thị riêng. 5 giới tại gia riêng, Bồ Tát tại gia 6 giới
trọng và 28 giới khinh nói riêng (xem thêm Tam Đàn thọ giới).
- B- Phụ
tòa:
- 1- Đàn
thứ nhất: phát lồ, cầu thỉnh giới, sám hối, hồi tâm, giảng rộng giới
- 2- Đàn
thứ nhì: cầu giới tỳ kheo, trao danh thiếp, sám hối; hồi tâm, giảng
rộng giới.
- 3- Đàn
thứ ba: Cầu giới Bồ Tát, sám hối, hồi tâm, giảng rộng giới; 3 đàn
gồm chung có 14 điều. Ni phát lồ riêng 3 đàn riêng, sám hối, vấn già
nạn riêng. Xem thêm phần phụ ba đàn giới.
- C- Bật
tòa:
- 1- Đàn
thứ nhất: dạy bưng bình bát, phần đầu lễ nghi cần phải thuộc rành
việc cầu giới, kiểm tra y bát, thuyết giới, truyền giới; ôn tập luật
Tỳ ni, phát thẻ
- 2- Đàn
thứ nhì: cầu giới Tỳ Kheo, chỉ rõ y bát danh tướng, trao danh thiếp,
cúng ngọ, mời thọ trai, giảng rộng giới, xướng lạy lễ truyền Tỳ Kheo
giới
- 3- Đàn
thứ ba: cầu giới, nói qua về tích trượng, cách thức xướng kệ tụng
kinh, hạ đàn, truyền trượng, truyền Bồ Tát giới, cấp chứng chỉ; gồm
tất cả 19 điều. Ni chúng dạy riêng, cách bưng bình bát, phạm lỗi
luật lệ riêng, giới bổn của Ni riêng, Bồ Tát riêng, cấp chứng chỉ
riêng. Trong giới đàn có việc gì phải thưa bạch, phổ đồng cúng dường
tiền bạc, bàn thảo giới luật. Bản văn cung cấp 2 bên, thẻ thập sư,
lập chứng chỉ, vị trí thiết bàn Phật v.v... đều cần ghé mắt lưu tâm
xem qua một lượt 3 đàn các việc.
-
D- Dẫn lễ:
-
Ban dẫn lễ có 5 phần việc:
- 1- Khai
đường
- 2- Bồi
đường
- 3- Đại
tác pháp
- 4- Nhị
tác pháp
- 5- Trở
xuống đều gọi dẫn tán khai đường.
- Dẫn lễ:
là người hướng dẫn tân giới tử các phần lễ nghi, trước sắp
xếp các vị đồng liêu đến phòng thầy Giáo thọ, lễ thầy Duy Na thỉnh
chỉ dạy nghi lễ. Những việc như đứng vào thứ tự (bài ban), đứng ngay
thẳng (trạm ban), xuất ban, bái (lạy), chấp tay ngang sống mũi, đứng
thẳng hàng, bước tới (tường lộ), quỳ gối, đứng lên, tiến tới, phân
đứng hai bên, ra khỏi đường, hồi đường, đứng nghiêm, ngồi thẳng, xoa
tay, quán tâm, cầm đũa, bưng chén, đặt đũa xuống, để chén xuống,
dùng cháo không gây ra tiếng, che miệng khạc nhổ, lấy tăm xỉa răng
xong; lạy Phật, tụng kinh, mặc áo, đi đại tiện, tiểu giải; cách xưng
pháp danh, đáp tôn hiệu thầy, chắp tay đáp lễ, đứng cung kính nhường
lối, trả lời "A Di Đà Phật", đi lễ thập phương, hô chuông chỉ
tịnh, nhịp bảng chỉ tịnh, dẫn khánh, gõ mõ nhỏ, chắp tay xá, đắp y,
xếp y, mở sách, xếp cụ, nhứt cụ tức tùy cụ đem theo mình trải mở tọa
cụ, cất tọa cụ, ứng dụng bình bát, phương pháp niêm hương, nghi thức
cắm nhang, nhiều người lễ vòng tròn. Phép nhập liêu phòng, giọng
điệu lời thỉnh, âm điệu lời bạch, đáp được đội đầu, đặc biệt thọ
nhận đáp: y giáo phụng hành, lễ một lạy rồi đứng lên, lễ một lễ thu
tọa cụ, sắp ly ra, thu ly lại... cho chí luân vòng trong ngày trị
nhựt, những việc coi sóc v.v... nhất nhất phải ở trước thầy Duy Na
tập dượt. Tập nhuần nhuyễn đến lúc vào đàn dạy các tân giới tử.
- Lại Dẫn
lễ: dẫn khánh đi trước chậm rãi đúng lễ: niệm, dừng, đi, đứng… phải
chỉnh tề. Phàm vị dẫn khánh không quá chậm, nhanh mà giữ mực trung.
Hòa Thượng lạy, 2 thầy Yết Ma, Giáo thọ lạy, đại chúng cùng lạy, dẫn
lễ lạy, tân giới tử lạy, nhịp khánh đều như nhau:
- - Lạy
thứ nhất, thứ nhì… đều nhịp khánh lễ một lạy; nhịp kế đứng lên. Lạy
thứ ba lúc đứng lên nhịp khánh hai nhịp; xá lui nhịp bốn nhịp. Xá
hòa huởn nhịp khánh cũng chậm lại, xá gấp khánh cũng nhịp nhanh. Lời
xướng thỉnh nên hòa huởn khoan thai, đến câu dứt xong nhịp bốn tiếng.
Cầu xin thương xót (từ mẫn cố) dẫn khánh nhặt ở đuôi; trước chậm rãi,
sau nhặt dần, nhịp chừng độ 9,10 lần.
- Phàm
người thủ khánh phải để ý nhịp đều như rước tới - lui phải nhịp đúng
cách. Tới chỗ làm lễ chuyển thân , hai người đều hướng lên Xá Phật
nhịp 4 tiếng khánh. Đi trên đường (dẫn tới lễ đài) hai người thay
phiên nhịp khánh, tiếng lại tiếp tục đến nơi hành lễ không xá. Nhịp
4 tiếng thầy khởi thân; nhịp tiếng một rước thỉnh đến nơi làm lễ.
Trở về vị trí không xá nhịp 4 tiếng rồi lui ra.
- Nói tóm
lại, phần rước trên đường đi tới liêu thầy không nhịp khánh. Trước
tiên vào lễ Phật, kế lễ thầy bạch xong mới dẫn khánh bước ra tới
điểm hành lễ.
- Duy Na
xướng lễ Phật, lễ sư dứt ba hồi khánh xong; rồi chấp tay đi đến
giảng đường lui về chỗ ngồi. Đi tuần liêu theo đúng pháp mỗi một
bước nhịp một tiếng khánh; hiệu lệnh hai hồi khánh; giống nghinh
thỉnh rước đi.
- Phàm
lạy Phật đầu phải chấm sát đất, khánh dẫn đầu đảnh lễ trước; sau gõ
mõ nhỏ cũng giống như đây. Việc dẫn lễ tại đàn giới, giảng đường
không dùng khánh, tới cửa địa điểm chính các tân giới tử vào bên
trong xong. Lạy Phật, đứng lên ra hiệu lệnh xong dấu khánh nơi tay
áo.
- Phàm
nâng bát, cầm luật, nâng y, bưng đứng ngay hàng, nhịp khánh hai hồi
tức là đi ra khỏi nhà không cần gõ cũng không hiệu lệnh. Nếu rước về
nên thủ khánh sẵn trong tay, lại đứng theo hàng ngũ rồi thỉnh đi.
- Giờ chỉ
tịnh lạy Phật 3 lạy, mỗi lạy một tiếng khánh, hiệu lệnh, một hồi
khánh: tiểu tham hai hồi, khai đại tham 3 hồi. Giảng kinh luật, lên
chánh điện, tiểu tham v.v… sau khi tán hương xong đứng xoay mặt vào
nhau nhịp 3 tiếng khánh; nên nhịp hòa hưởn 3 hồi xong mới khải bạch.
Phàm thỉnh Thánh, cúng Phật, cúng chư thiên v.v… đều đặn mỗi chữ
nhịp một tiếng khánh.
- Lên
chánh điện, đi quá đường, trên đường đi không gõ khánh. Làm Phật sự,
ra khỏi chùa, về chùa, đi có trật tự, trừ trên đường thỉnh rước, đều
không dùng khánh. Nơi giảng đường ban hô chung tiếng phải hòa huởn
cao rõ, để tiếng hô dội sang hai bên tả hữu. Nếu hướng miệng phía
bên tả nhưng bên tả hô trước chúng đã dậy không hô nữa.
- Phàm
tập trung nơi giảng đường, Phật điện, trai đường, phòng Phương
Trượng không phải lễ lạy, nếu phải lễ lạy chỉ Dẫn lễ lạy thôi. Khi
sám hối cùng sơ đàn, 3 đàn thuyết pháp, người dẫn lễ trước đến lễ
Phật. Tân giới tử tập trung trước giảng đường không phải lạy Phật
Khai đường, dẫn lễ tùy theo đó quyền biến.
- Phật sự
lễ nghi giới đàn: phải rành rẽ, trước bạch lên tam sư quyết định
thời gian, kế đến cho các liêu biết và sau dạy luật như pháp cho tân
giới tử. Người dẫn lễ bồi đường lãnh chúng vào chánh điện, trai
đường, ngủ, thức. Phàm lo Phật sự tại giới đàn, nói chung khai đường,
làm chủ hoặc có điểm nào chưa thỏa đáng, hòa nhã bàn nhau trong
chúng. Chúng có điều gì bất hòa khéo dùng lời lẽ khuyên nhắc nhẹ
nhàng.
- Người
chủ tác pháp dẫn lễ là thủ lãnh tất cả các ban, các tiết mục. Thỉnh
giới, lời tác bạch sơ đàn, lời bạch xin giới, lời thỉnh chư Thánh
sám hối. Đàn thứ hai thỉnh nội đàn, lời đáp trước luyện 3 lần bạch,
lời thỉnh thuyết giới, lời tác thỉnh, kệ tán lễ, kệ tăng hòa, bài
ban đứng theo vị trí, thỉnh chư Thánh qui đường cho đến phần chót.
Trước hết dẫn chúng giới tử quỳ thỉnh giới. Đàn thứ ba lời bạch
thỉnh giới, lời bạch thuyết giới, lời thỉnh, thỉnh Thánh, lời cầu
xin giới, kệ tích trượng đều phải thuộc làu.
- Tác
pháp dẫn lễ, công việc đây với ban đứng hầu lễ giống nhau, chỉ thêm
ban hô chung hợp cùng với đại tác pháp mà trong đó các tiết mục hẳn
phải am tường. Ban đứng hầu lễ cũng gọi là ban dẫn tán: ba đàn hương
tán, lễ Tổ và tán 3 lần văn sám hối, thỉnh Thánh phần chính, lời
luận bạch. Kệ chú tích trượng, dẫn khánh rước tam sư, khánh nghinh
thỉnh tất cả đều theo nhịp điệu. Tân giới tử theo dẫn khánh, nghi
thức thỉnh từng phần. Nghi thức cung nghinh, trở lên bên trên đều
phải nhuần nhuyễn điêu luyện. (Xem thêm phần bổ túc 3 đàn và các
sách nghi dẫn lễ có nêu rõ).
- Thầy
dẫn lễ này là A Xà Lê thứ năm, dạy kinh điển là A Xà Lê thứ tư.
- Năm
thành phần A Xà Lê như sau:
-
1- Thế độ A Xà Lê
tức là bổn sư xuống tóc thế độ và thuyết giới xuất gia.
-
2- Yết Ma A Xà Lê là
vị thầy tại giới đàn trên được Yết Ma đúng pháp.
-
3- Giáo thọ A Xà Lê,
trong đàn giới thầy dạy các việc oai nghi, giới luật cho giới tử
-
4- Giảng kinh A Xà
Lê tức thầy dạy học kinh, luật, giảng rõ nghĩa lý, cũng là thầy Dẫn
lễ vậy.
-
5- Y chỉ A Xà Lê là
các vị Trụ Trì các tự viện mà ta nương theo học để được thấm nhuần
pháp hoặc nhận sự giúp đỡ thức ăn cho chí nương nhờ ở qua đêm.
- Cứ như
Du Già Sư Địa luận quyển 70 ghi rằng vị giới sư phải
đủ 5 đức:
-
1- Giới hạnh không
thất đức, thà bỏ thân mạng, trọn không phạm tịnh giới mà thường hay
kiên trì không cho mất giới.
-
2- Khéo lập đức
trong luật tạng Phật dạy khéo hay chọn lọc, lấy bỏ cốt lập diệu pháp
làm cho người dễ học không cho vi phạm.
-
3- Khéo lập học đức:
Kinh luật là pháp để học, khéo vun bồi an lập, chú thích rõ ràng
khiến không sai lầm.
-
4- Đức khéo đoạn dứt
nghi ngờ đối với kinh, luật, luận trong đó thiết lập tùy sở học mỗi
người và câu hỏi, khéo giải đáp làm cho người dứt nghi; theo đúng
lời Phật dạy.
-
5- Đức dạy xuất ly
sanh tử, lấy kinh luật Phật dậy dạy người khiến cho người thực hành
để thành tựu thánh đạo lìa dứt sanh tử .
- Đức Như Lai
cho người như thế là A Xà Lê, chính là vị thầy có đủ 5 đức vậy. Lại
luật Tứ Phần quyển 34 ghi rõ có 5 pháp không được dạy giới
cho người như:
-
1- Không tin: ắt
giới không kiên trì. Gốc của vạn thiện đã không, nền tảng đức không
lấy gì đứng vững.
-
2- Không biết xấu hỗ
ắt tự ý phá giới, tâm xấu hỗ còn không có niệm chánh kiến làm gì có.
-
3- Không biết thẹn
hẳn để lộ rõ chỗ tạo nghiệp, phạm giới không biết thẹn thùng. Tâm e
thẹn đã không làm sao cải hối.
-
4- Tính lười biếng
ắt không tu hành nên không biết kinh luật; tà chánh không phân biệt
việc trì - phạm làm gì hiểu nổi.
-
5- Phần nhiều quên
hẳn không nhớ nổi, như quên các giới pháp. Đọc tụng còn kém khuyết
huốntg gì giải nghĩa kinh chứ? Tỳ kheo phạm 5 pháp này, Phật không
cho làm thầy người.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Ba đàn
truyền giới đúng qui tắc nguyên chiếu theo luật tạng. Do luật tạng
văn phong phú nên cổ nhơn toát yếu, tóm lược nghĩa thành qui tắc này,
chẳng qua lâu ngày có sự lầm lẫn. Thấy Tổ Hoa Sơn khắc in sách qui
phạm cổ sửa lại ấn hành. Bản ở Hàng Châu là bản mới nơi đầu sách có
thêm hai chữ “Kiến Tổ” bị thất lạc, y cứ chữ “Kiến Tổ” tự thuật như
thấy trong một giấc mộng nói rằng, năm Sùng Trinh thứ mười tôi ở
trên thuyền con lướt sóng cùng với Tam Muội Hòa Thượng ngồi dưới
truyền giới. Không có tiền mua luật đọc, suốt ngày ngồi yên trên
giường, nghe chúng đồng giới đọc luật, không phạm nội qui. Dẫn lễ
trách rằng: Kiến Nguyệt, chẳng nên ngồi chỗ này để nói thiền, vì sao
không thỉnh luật học cho thuộc v.v… Tới lúc gặp việc 9 người cầm thẻ
đến dạy sư trước lạy xong. Tôi nghe một tiếng lớn phía sau lưng chấm
dứt… Căn cứ chữ Kiến Tổ tự thuyết mà biết rằng “Kiến Tổ” lúc truyền
giới cũng từ nghi tắc chánh phạm đây mà thực hành.
- Đến như
ngoài qui tắc có 3 đàn phụ thêm, bổ sung nghĩa rộng, v.v… cũng làm
linh động, mà lúc gặp việc có thể quyền biến vậy. Như đại đàn tràng
tại Hoa Sơn chúng có đông có thể diễn đúng như pháp; còn như chúng
quá ít đâu có thể làm được. Chỉ cần rành rẻ nghi thức dạy làm cho
tân giới tử tinh tấn phát triển đạo tâm đạt thượng phẩm giới tức là
bước lên đường giác. Nếu tư cách vị thầy giải đãi lánh nặng tìm nhẹ,
hữu danh vô thực tức là dây mực đen nghiệp tà. Cho dù có sửa đổi vạn
nhất cũng không thể cải thiện giản đơn được. Lại từ thỉnh giới,
thuyết giới, ngoài việc thọ trai thì Thiền, Luật có khác. Luật tông
người hộ thất đến trước pháp tọa đợi Hòa Thượng ra thất, hoặc Ngài
tọa thiền xong mới lễ ba lạy. Vị chánh tọa ngồi, người phụ đứng.
Thiền tông chỉ tác lễ một lạy, hoặc chờ tam sư trước sau ngồi ổn
định cùng lạy một lạy. Người phụ lễ ngồi kế bên, trong đó mỗi nơi có
nghi riêng không nên câu nệ. Nếu vị chánh tọa là sư trưởng, người
phụ là thành phần lớp sau phải lễ 3 lạy, Thầy thăng tòa bèn đứng kế
bên để chứng tỏ hậu học biết nghĩa thờ sư trưởng mới đúng phép. Nếu
vị chánh đồng hàng hoặc đồng học, hoặc chánh tọa nhỏ mà người phụ
lớn hơn chỉ nên xá một xá là đủ. Hoặc 3 người cùng ngồi và đồng xá
nhau; 3 vị ngồi giữa để thấy người phụ tôn trọng pháp. Lại như Thiền
Lâm Tế vị chánh tọa là bậc trưởng bối; 9 thầy còn lại đều là đàn hậu
bối, mới thấy rõ sự cao thấp v.v… Vị chánh tọa nhận lạy; tân giới tử
lạy 9 thầy, 9 sư phải khiêm nhường để vị tôn trưởng ngồi trước,
không dám thọ lễ.
- Tân
giới tử lạy 9 sư, 9 thầy nên thọ lễ để tư cách vị thầy được tôn quí.
- Kế tiếp
theo ấn định cho kỳ thọ giới: chiếu theo luật đều không có 3 đàn mở
kỳ thọ giới, cũng như không định ngày giờ mà chỉ trừ quý sư gặp nhau
truyền giới cũng đủ. Lại theo như trong luật Phật dạy giới Tỳ kheo
chỉ cho 3 người thọ một đàn. Nếu 4 người là không được, vì quan hệ
giới không nhỏ phải tuân lời Phật dạy nên ở Đông độ phần nhiều giới
đàn lập 3 đàn.
- Việc
lập đàn giới có thể tùy theo như đông xuân. Đàn giới mùa xuân vào
mồng 8 tháng 2 khai giới trước hết có người trực đàn, hương đăng,
lau quét vệ sinh, trần thiết các thứ… Tri khách cử dẫn lễ lên phòng
Phương trượng rước tới. Như thiền đường, khai đường, bồi đường đưa
vào vị trí. Tiếp theo, người cầu giới vào; dẫn lễ hỏi kỹ lai lịch,
biết rõ quê quán. Đến:
- - Ngày
14 tháng 3 hai thầy dẫn lễ, tri khách báo hiệu chúng các liêu biết
sau khóa lễ Tịnh độ. Ngày 15 tả sư phát lồ, Hòa Thượng Phương
Trượng cử tội. Ngày 16 bắt đầu sám hối; lo liệu các thứ hương đèn.
vật dụng v.v…Thiết sơ đàn, sám hối, viết lời thỉnh giới, thọ giới. -
Đến ngày 20, hữu liêu hướng dẫn đọc lời tác bạch. Ngày 21 hoàn tất
sám hối, nhận phái, ký sổ lưu trang trọng. Ngày 22 vâng mệnh dạy
nâng bát, thỉnh giới, thọ giới. Ngày 23 thỉnh truyền giới, kiểm tra
lại y bát, khuyên giới tử không giữ chứa vật, đêm đó tập dượt nghi
thọ giới. Ngày 24 cạo tóc, tắm rửa, ban đêm lạy sám hối (lễ sám
thông thường). Ngày 25 xem xét lại đàn giới cho trang nghiêm;
thuyết giới, phát nguyện, khuyến tấn, quy tắc áp dụng (xem quy tắc
giới đàn ở sau). Ngày 26 trình bản câu hỏi già nạn (giới sư); ở
chúng phải đọc luật, phát nguyện, tuần liêu.
- - Ngày
27 duyệt qua luật, phát nguyện, tuần liêu. Ngày 27 duyệt qua luật Sa
Di, niêm yết danh sách giới tử, phát nguyện, tuần liêu. Ngày 28 đưa
danh sách giới tử tới ban kiến đàn, tập tác bạch (thưa thỉnh), tập
thỉnh trai tăng. Ngày 29 các bảng niêm yết đã dán đầy đủ hội đồng
giới sư, phát thêm thẻ bài, tổng dợt nghi thức. Ngày 30 thỉnh giới,
chỉ dẫn rõ ràng danh tướng của y, bát, đắp y (mở y), xếp y, tắm gội,
cạo tóc, sám hối - lạy tiểu sám hối, tuần liêu; nếu tháng thiếu
không có ngày 30. Ngày Mồng Một tháng tư trở về (hồi phục) cúng ngọ,
mời thọ trai, bổ túc cho giới đàn trang nghiêm. Đêm đó giảng giới,
phát nguyện, tuần liêu giữ thanh tịnh. Ngày Mồng Hai duyệt luật Tứ
Phần, dán thông báo truyền ba đàn giới. Mồng bốn đại tập dượt. Mồng
5 thỉnh giới; chuẩn bị liều hương, danh sách giới tử, sám hối. Mồng
6 trở về, cạo tóc, tắm gội, mồng 7 khuyên nhắc việc tu khổ hạnh, đốt
liều hương, xem xét lại đàn tràng cho trang nghiêm. Mồng 8 thuyết
giới, phát nguyện, tuần liêu, giảng về kinh Phạm Võng. Mồng 9 cấp
chứng chỉ, ghi sách tịch, mở kho, trở về (hồi phục?), tuần liêu, từ
giả. Đàn một giới đàn xong. Đàn giới mùa đông, ngày 18 tháng 10
khai đàn (xem phần trên có chỉ đầy đủ), đến ngày 10 tháng 11 niêm
yết bảng sau khóa lễ Tịnh độ có tuần liêu… (Xem thêm chi tiết ở
trước).
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Giới Tỳ
Kheo Phật dạy 3 người thọ một đàn, cho đến 4 lần bạch yết ma xong.
Bốn pháp xử sự(10) và bốn chỗ nương tựa(11) của Thầy Tỳ kheo v.v…
nhưng phải họp chúng lại thuyết chung, chỉ bên ni nói riêng.
- Hai kỳ
Xuân - Đông đây, cổ nhơn có qui định dựa theo một giấc mộng bàn chỗ
thấy Tổ đi trên chiếc thuyền nhỏ lướt hải triều âm, có Tam Muội Hòa
Thượng ngồi dưới cầu giới; cũng là: Ngày mồng 8 tháng 2 bắt đầu đến,
Mồng 8 tháng 4 viên mãn đàn giới.
- Nếu y
lời Phật dạy nên tùy thời truyền giới, vào đời Sùng Trinh năm thứ 10
tại huyện Thái Hưng có am Ni lạ lùng mời Hòa Thượng Tam Muội khai
giới: Đó là ngày Rằm tháng 8 bắt đầu giới đàn đến Rằm tháng 11 là
viên mãn.
- Kế
truyền Bồ Tát giới tại chùa Thừa Thiên khởi sự ngày Mồng Một tháng
12 đến đầu mùa xuân Rằm tháng giêng là giới đàn hoàn mãn.
- Lại
ngày 20 tháng giêng giới đàn tổ chức tại am Thiện Khánh cho đến giữa
tháng 3 là viên mãn. Y cứ theo đây có thể thấy cổ nhơn qui định giới
Kỳ ở mùa Đông - Xuân cũng có khoảng thời gian bất định; chỉ tùy nghi,
tùy duyên sao cho thích hợp là được.
- (Lược
tả hữu sư bạch…)
- Qui tắc
thọ giới gồm có 14 điều Ba đời chư Phật đều có ngày xuất gia, thành
đạo; Bồ Tát tu lục độ không bỏ giới châu (trân quí) nên lấy đó
nghiêm tịnh luật tắc mới có thể làm mô phạm cho ba cõi. Kinh Lăng
Nghiêm ghi rằng, nhiếp tâm là giới, nhân giới sanh định, nhân định
phát huệ gọi là 3 môn học vô lậu (không bị phiền não làm khuyết
thiếu), bèn thành căn bản của vạn hạnh, chánh nhân thành Phật. Cho
nên cầu giới như người đãi vàng (nhặt châu) tâm luôn mến quí, niệm
niệm nghĩ đạt cần trì tụng; thúc liễm thân tâm.
- Thảng
hoặc có phạm nên tự trừng phạt không tha thứ, nhiếp tâm làm mô phạm
những điều được liệt nêu như sau:
- 1- Phép
thọ giới phải cầm kinh, luật, 3 y, bình bát, tọa cụ tiến vào giới
trường. Nếu không chuẩn bị các thứ mà đi mượn đều không chấp nhận,
trừ phi y hậu, đồ vật cũ mà giặt ủi sạch cũng có thể được.
- 2- Canh
5 nghe 4 hồi bảng lại 3 tiếng nên vén màn thức dậy ngay, sửa lại áo
quần chỉnh tề rồi bước xuống giường. Như có bịnh phải báo cáo cho
chúng biết. Ban ngày không việc gì làm đừng lười biếng trùm mền, vi
phạm bị phạt quỳ hương.
- 3- Giờ
chỉ tịnh (ngủ nghỉ) đều tập trung lên giường, giữ oai nghi tề chỉnh,
không được cười giởn, nói chuyện. Vi phạm bị phạt quỳ hương.
- 4- Lúc
học tập để tâm ghi nhớ kỹ. Giờ rỗi phải đọc luật, không được tán dốc,
bàn tạp. Phàm luân phiên trực nhựt phải để tâm xem xét, đừng có giao
phó ủy thác người khác, vi phạm bị phạt quỳ hương.
- 5- Chư
tăng ra vào, đứng ngồi, chấp tay; thầy cho ngồi mới ngồi.
- 6- Trên
bàn chỉ để Kinh luật, không được để quần áo, đồ đạc lung tung. Lúc
uống trà, dùng cơm hẳn gấp kinh lại; trong lúc ăn không được nói
chuyện. Không nên khạc nhổ lớn tiếng, vi phạm bị quỳ hương.
- 7-
Giường đặt có hai dãy Đông Tây, đi lại chỗ ngồi giữ chỗ mình, không
được loạn đơn người khác; không được đi băng tắt qua nhà và không
được nói năng lớn tiếng.
- 8- Lên
giường phải cởi giày, đẩy về phía gần chỗ mình không được chiếm lấn
chỗ người khác. Không được cởi đồ lót lúc ngủ, không được nói chuyện
với người giường kế bên, và thở mạnh động chúng. Nằm ắt xây hông mặt,
thế kiết tường, không được thô tháo. Kéo mở cửa ra vào nên đi nhẹ
nhàng, vi phạm bị phạt.
- 9-
Không được giũ mền ra tiếng, gối mền xếp gọn trên giường không để
lòng thòng dưới đất; không được chạy vội thô tháo, vi phạm bị phạt
quỳ hương.
- 10- Lên
Chánh điện, vào trai đường hay làm mọi Phật sự theo y thứ tự mà làm,
không được lẫn lộn trước sau, nên để mắt xem xét kỹ, thân đứng ngay
ngắn, vi phạm bị phạt.
- 11- Có
việc riêng ra khỏi chùa trên đường gặp Hòa Thượng hoặc Thầy Yết Ma,
Giáo Thọ hay các thầy, cho chí vị Thầy niên trưởng giới đức đều chấp
tay lễ bái đứng qua một bên nhường đường cho họ; nếu đồng giới cùng
đi cũng phải có oai nghi nghiêm chỉnh, vi phạm bị phạt quỳ hương.
- 12- Rửa
mặt không được làm vung nước tới người bên cạnh. Không được choán
chỗ quá lâu, vào nhà phải để ý; đồng giới nên tiếp đón, không nên
cải vả ồn ào, vi phạm bi phạt.
- 13- Bậc
thầy lớn tuổi vào chùa nên đứng lên; phải xá liền xá, bảo ngồi mới
ngồi.
- 14- Vì
việc riêng tư ra vào phải thưa trình xin phép, ở ngoài không được
xông vào phòng làm mất oai nghi, vi phạm bị phạt quỳ hương.
- Trở lên
là những quy tắc cần nên tuân hành cẩn thận. Như có ai vi phạm bị
phạt như qui định trên.
- Ngày...
tháng… năm… Trụ trì….. sao lục.
- Muốn
đầy đủ xem 24 thiên oai nghi, Sa Di luật nghi và đại luật Tỳ kheo có
nói rõ 3000 oai nghi 5 hạ trở lại nhứt nhứt đều phải học.
- Chứng
nghĩa ghi kinh nói rằng:
- - "Giới
không thanh tịnh thời thiền định không phát sanh".
- Lại
cũng nói:
- - "Trí
huệ thanh tịnh vô ngại đều do nơi thiền định sanh. Nên biết rằng
giới là mầm của định huệ; giới hạnh không thanh tịnh định huệ không
do đâu phát sanh".
- Vì thế,
Phật dạy 5 hạ về trước chuyên tinh giới luật; chuyên tính há không
từ oai nghi mà có ư? Trong luật ghi rằng việc làm cần yếu số một là
luôn luôn nhiếp tâm. Niệm không tán loạn, có nghĩa là thực hành bốn
niệm xứ vậy.
- Sách
Phật pháp Tổng quan, Linh Phong Tông luận rằng, không huệ niệm xứ
cho dù mặc áo cà sa như phang trên đầu cây thôi; lễ bái như khuấy
trên dưới, lục độ, muôn hạnh đều giống ngoại đạo; khổ hạnh cùng chân
tu làm chi mà không nhiếp tâm tức chẳng giữ giới. Nếu y theo niệm xứ
tu tập công đức giữ giới hiện có thể đạt được 4 quả sa môn (4 Thánh
quả), nhẫn đến viên mãn thập địa tự khắc tránh khỏi không gặp nạn.
Tại sao? Vì do nhiếp tâm mà dễ đạt vậy. Việc cần yếu thứ hai là
trong khi soi sáng 250 giới đặt khai, giá, trì, phạm trong hai thời
ngày đêm, hạng có danh trì giới, trái lại phần nhiều phạm sai lầm.
Như cho rằng Tiểu Thừa nghiêm cấm, Đại Thừa khai mở hay Tỳ kheo có
chỗ chấp, Bồ Tát ắt dung thứ từ đâu phát ngôn ra những lời ấy?
- Đáp:
- - "Linh
Phong Tông luận rằng, khai ấy là mở tâm tự độ của Tiểu Thừa mà phát
tâm thệ nguyện Đại Thừa. Dung là dung người chấp pháp chưa cải hóa
quy về chân lý sâu rộng. Do vậy Bồ Tát xuất gia không có giới riêng
mà cùng dùng chung luật Tỳ Kheo, chỉ phát tâm tự độ gọi là Nhị Thừa,
phát tâm độ người gọi là Bồ Tát vậy".
- Xưa nay
hiểu lầm nên phần nhiều trái luật. Khi Đức Thế Tôn
nhập Niết Bàn có phó chúc cho chư Tỳ Kheo rằng, nên lấy giới
làm thầy. Ngài cũng còn dạy: "pháp Ta nếu hoại trước do
giới luật", thật là lời nói biết trước vậy. Tại sao lại hiểu
lầm sự cởi mở bao dung cũng đồng như hủy báng pháp không khác.
- Mỗi nửa
tháng có trăng hay không trăng các vị Tỳ kheo đều phải Bố Tát. Bảo
Hoa Sơn ở Giang Nam có ngài Độc Thể hiệu đính Luật Tỳ Kheo; nguyên
bổn gồm hai quyển: Quyển thượng bao gồm 27 mục, quyển hạ phần chánh
có 44 mục. Nay ở phần cương mục đó lại rút ra đại cương, ghi gọn chỉ
còn 10 điều như:
- a.
Tiểu thừa
- Tiểu
thừa gồm 7 chúng:
- - Tỳ
Kheo,
- - Tỳ
Kheo Ni,
- - Thức
Xoa Ma Na,
- - Sa
Di,
- - Sa
Di Ni (5 chúng trước thuộc chân đế);
- - Ưu
bà tắc,
- - Ưu
bà di (2 chúng sau thuộc tục đế).
- b. Đại
thừa
- Bảy
chúng Đại Thừa là người phát Bồ Đề tâm thọ đại giới Bồ Tát.
-
Phật dạy mỗi tháng
lấy ngày
Rằm là ngày có trăng giữa tháng Bố Tát; lấy ngày 30 là ngày không
trăng (hắc) giữa tháng Bố Tát. Nếu tháng thiếu lấy
ngày 29 làm ngày không trăng trong tháng Bố Tát.
- Ngày
nay theo lệ đó mỗi tháng 2 ngày Rằm, Mồng Một là ngày có trăng và
tối trời Bố Tát nửa tháng có trăng thay phiên tụng giới; đối với
nửa tháng không trăng thời không có Bố Tát. Tham cứu sâu theo quy
tắc này chưa xác định sai lầm có từ lúc nào, cứ hễ thấy trước làm
khiến sau làm theo do quen đã thành nếp sẵn.
- Căn cứ
theo luật thuyết giới Kiền Độ ghi rằng:
- - "Người
phạm không được tụng giới, cũng không được nghe giới. Không được
hướng về người phạm cầu sám hối; kẻ phạm cũng không được nhận người
khác sám hối. Phải hướng về người thanh tịnh cầu sám hối, tụng và
nghe giới". Phần này nói rõ trước khi Bố Tát phải bày tỏ lỗi lầm qua
phần tác pháp Yết Ma. Cho nên tôi dựa theo đúng luật chỉ đúng chỗ
sai lầm, luôn lấy ngày có trăng giữa tháng nhằm 14 sám hối trước đến
ngày Rằm mới Bố Tát. Nửa tháng không trăng ngày 29 lễ sám hối và
ngày 30 Bố Tát. Nếu gặp tháng thiếu lấy ngày 28 sám hối và ngày 29
Bố Tát như qui định sẵn.
- a. Giới
tác pháp: lấy việc nhóm chúng lập tiêu chuẩn như xướng tướng, vấn
hòa, trình bạch, nhận cho. Trước hết kết nội giới trường và sau đó
kết ngoại (đại) giới trường. Sau hết nêu lên tiêu chuẩn tướng đại
giới trường, nhưng kết chẳng mất theo hạn giới
- b. Tự
nhiên giới có 4 tiết:
- - Thôn
trang
- - Am
thất
- - Đường
đi
- - Chỗ
có nước.
- Bốn
phần nầy mỗi phần có giới hạn thiên nhiên, vì thế không phân hạn
giới, cũng như không nêu tướng giới chỉ tác bạch chấp nhận mà thành
thôi. Riêng Tỳ kheo ni nương tựa hạn giới của Tăng cũng theo tiêu
chuẩn nầy.
- Nếu như: Như
Tỳ Kheo ở trụ xứ phạm luật mà nghỉ Bố Tát, tụng giới. Những người
phàm làm một viêc không có công đức, trái lại còn rước lấy tội. Lấy
sở y cho là phi, nhưng năng y cũng thành phi nốt.
-
Luật Tứ phần
ghi rằng: nếu làm pháp Yết Ma hẳn phải trước khi kiết giới mà căn
bản là luật Tăng Kỳ, Ngũ Phần, Luật Thập Tụng. Tuy 5
bộ luật mỗi bộ còn có tông chỉ, chí như một pháp Yết Ma mà không y
theo tác pháp là việc sai lầm đầu tiên. Song giới có hai:
- Bồ Tát
Tỳ kheo kết giới cũng theo y như trên. Y cứ theo kinh Địa Trì
ghi rằng: Bồ Tát Tỳ Kheo tăng không kết giới là khinh lờn lời Phật;
cũng như không giữ gìn luật Tăng. Như thế phàm chỗ ra làm đều không
thành vậy. Tại sao thế? Vì không kết giới trường thì không hội đồng
giới sư (10 vị) bạch bốn lần yết ma, không truyền giới chỗ công khai.
Không kết đại giới tràng là Bồ Tát tụng giới không thể thuyết dục
hòa tăng được; không kết y giới thời không thâu nhiếp như chim không
có đôi cánh. Nên biết rằng Bồ Tát Tỳ kheo tăng phàm ở chung một trụ
xứ nhưng pháp Tỳ Kheo tăng riêng, bạch hai lần yết ma kiết giới.
Tiểu chúng 3 người tùy thuộc nội giới của đại tăng.
- Định kỳ
tác pháp có nêu rõ Bố Tát ngày không trăng hay có trăng, chư Tăng
vân tập tụng giới, nên chọn người mô phạm có khả năng tụng. Như
người giới đức song toàn, niên lạp hơn 5 hạ, có trình độ hiểu biết
giải quyết được mọi nghi vấn. Nghe trong tăng bạch hai lần yết ma có
khác, nên hễ mỗi chức danh của Nhị Thừa ắt phải nghiên cứu rành
luật Tứ Phần.
- Kinh
Phạm Võng
ghi: “Nhị Thừa chọn khác đã quen như thế rồi. Lại như trong cái hay
thông thường mỗi người có khác, giới hạn thời 7 chúng Tiểu Thừa;
tình cờ đủ duyên gặp chúng tụng bổn giới đã thọ. Nếu như trong nội
giới Tỳ Kheo tăng nên mời riêng một vị đọc giới Tỳ Kheo, Tỳ kheo Ni
cũng vậy, cho chí Ưu Bà Di hẳn không có phần nghe tụng giới, nên nói
giới hạn là vậy. Phổ thông là 7 chúng Đại Thừa gặp duyên tình cờ
nhóm lại tụng Phạm Võng giới. Bất luận tụng giới gì nên mời
một Tỳ kheo Bồ Tát giới đại diện trong chúng tụng giới. Nếu không có
Tỳ Kheo mà chỉ có 6 chúng thôi nên mời Tỳ Kheo ni Bồ Tát trong chúng
như người thay thế tụng giới. Thậm chí nếu không có 6 chúng trên mà
chỉ có Ưu Bà Di Bồ Tát giới liền mời vị ấy đại diện tụng giới thay
chúng. Vì 7 chúng Đại Thừa đều cho nghe tụng giới nên gọi là chung
hay phổ thông là vậy.
- Căn cứ
theo như trong luật ngày Bố Tát phải quét dọn sạch sẽ, trải tọa cụ,
chuẩn bị nhang đèn, hoa quả, đồ đựng nước tại thiền đường… Vị thượng
tọa phải dạy Tỳ Kheo nhỏ tuổi và vị nhỏ tuổi y lời dạy như pháp mà
làm. Nếu trên không dạy, dưới không biết đâu mà làm đều phạm tội
vượt luật tắc.
- Về
thiết tòa có hai loại:
- - Tòa
cao dùng để ngồi tụng kinh hay đăng đàn.
- - Loại
thấp để cho người ngồi nghe hay tọa thiền. Loại tòa cao nên dùng
bông hoa trang trí chỗ ngồi, cần treo đèn đuốc để phòng trời tối.
- Đồ đựng nước có
hai thứ:
- - Nước
rửa chân
- - Nước
rửa tay.
- Sa la
gọi là nhà che mưa nắng, nhưng nay cũng gọi là thiền đường hay tịnh
đường.
- Tuy
cùng tụng giới Bồ Tát, nhưng dựa theo giới Đại Thừa, nếu khi tụng
giới Tỳ kheo nên theo thứ tự tuổi hạ của tăng.
- Giải
thích thêm: Bồ Tát chúng Tiểu Thừa lại nương giới Tiểu Thừa theo thứ
tự mà ngồi; nơi chúng Đại Thừa thời nương giới Đại thừa theo thứ tự
mà ngồi.
- Lại có
người thọ giới Tỳ Kheo trước sau mới thọ giới Bồ Tát thời ngồi theo
giới lạp Tỳ Kheo. Như thọ giới Bồ Tát trước, sau thọ giới Tỳ Kheo,
theo như Đại Thừa dựa theo thứ tự giới Bồ Tát thọ giới Tỳ Kheo mà
theo thứ tự, Tỳ Kheo ni cũng như thế.
- Số tiểu
chúng 3 người thời có 2 trường hợp:
- - Tiểu
thừa tính người lớn tuổi
- - Đại
thừa tính theo giới mà sắp thứ tự, hai chúng tại gia cũng thế.
- Như 7
chúng Bố Tát tập họp tại một giới trường theo thứ tự:
- 1- Tỳ
kheo Bồ Tát
- 2- Tỳ
Kheo ni
- 3- Thức
Xoa Ma Na
- 4- Sa
Di
- 5- Sa
Di Ni
- 6- Ưu
Bà Tắc
- 7- Ưu
Bà Di.
- Giới
tuy có thứ tự như thế, nhưng theo thiền môn việc ra vào có qui tắc
như nêu rõ ở trước.
- 1- Phổ
thông theo thế tục, người đời lầm lẫn nơi già lam gặp ngày Bố Tát
sắp đặt lễ tiết
- 2- Người
nữ tín tâm trí thức, nếu đăng đàn giảng kinh diễn nghĩa phải thật
thấu đáo văn - tư - tu. Còn như trong tăng tụng giới làm pháp Yết
Ma, vị ấy tự biết mà tránh xa đi chỗ khác
- 3- Người
xuất gia nhỏ tuổi, tuy còn thói nhiễm do chưa gần bậc viên giác. Vì
thế hễ lúc làm pháp Yết Ma phải nên đứng tránh chỗ thấy nhưng không
nghe (tăng yết ma) và không được nghe lắng.
- 4- Tỳ
Kheo phạm giới không được nghe tụng giới; phải đợi hối lỗi thanh
tịnh mới được chấp nhận.
- 5- Ni
xưng là á tăng (cải dạng) vào trong tăng Bố Tát thời khác với Tỳ
Kheo tăng. Vì thế nửa tháng Ni phải đến thỉnh tăng giáo giới vào
đúng lúc Tỳ kheo Bố Tát. Ngõ hầu hỏi đáp có được không mới là ngày
của chư Ni tụng giới.
- Luật
ghi rằng: Tỳ Kheo Bố Tát ngày Rằm, Tỳ Kheo Ni Bốt Tát ngày 16 là vậy.
- Y cứ
theo luật, sau khi Đức Phật Thích Ca thành đạo trong vòng 14
năm Di mẫu cùng 500 Thích nữ xin xuất gia. Lúc đầu Ngài không nhận,
A Nan thay lời bạch đến lần thứ ba, Phật mới hứa khả. Phật dạy Ngài
A Nan trao truyền 8 kỉnh pháp. Cho Ni chúng xuất gia rồi còn có vấn
đề khiến Tỳ Kheo Ni nửa tháng vào ngày Bố Tát, phải đến trong Tỳ
Kheo tăng cầu thỉnh giáo giới.
- Lại hỏi:
- - "Có
thể thuận cho không?"
- Chúng
Tỳ Kheo trong khi tụng giới nên hỏi rằng:
- - "Ai
sai Ni đến thỉnh giáo giới?". Nếu có tức theo đúng pháp mà sau đây
sẽ thấy rõ. Nếu có thể y giáo phụng hành (y lời dạy vâng làm ) thời
chánh pháp còn tồn tại ở đời 1000 năm.
- Lấy
giới (đàn tràng, hạn giới) làm sự, là nương nơi pháp; tăng là người
thừa hành pháp sự.
- Theo
Tiểu Thừa qui định như luật Đàm Vô Đức có độ 184 pháp yết ma
bao hàm tất cả thời và phi thời.
- Luận về
Đại Thừa Tỳ Kheo tăng, nghi thức Bố Tát nửa tháng cũng giống như
Tiểu Thừa. Có điểm khác là Đại Thừa trong đó có Ni thuộc 7 chúng đều
được nghe Kinh Phạm Võng; tạm chấp chỗ phức tạp đặt pháp Tiểu
Thừa mà không học thời trọn không phải Phật tử, thật là người si mê.
Kinh Địa Tạng Thập Luân ghi rằng: si mạn cho Đại Thừa
là không có lực trí huệ; còn mê mờ pháp Nhị Thừa huống gì hiểu Đại
Thừa, thì Bồ Tát tăng ấy rốt cuộc cũng không tôn trọng pháp Tỳ Kheo
Tăng.
- Phép
tụng giới đúng có 4 loại riêng biệt:
- 1- Duy
Đại kiêm Tiểu
- 2- Duy
Tiểu kiêm Đại
- 3- Chỉ
có Tiểu không Đại
- 4- Chỉ
có Đại không Tiểu.
- Nay dựa
theo đương thời vã để 3 loại trước, loại bốn chỉ có Đại không Tiểu.
Nếu trong một đàn tràng bao hàm Tỳ Kheo tăng Bồ Tát, gặp ngày Bố Tát,
trước hết phải tập trung tại phòng tụng giới Tỳ kheo, sau đó vào
chánh điện tụng giới Bồ Tát. Giá gặp trở ngại như địa điểm tụng giới
quá xa, trước tụng lược giới Tỳ Kheo, sau tụng đủ giới Bồ Tát. Nếu
nạn xảy ra quá gần Nhị Thừa đều lược giới; như gặp nạn bức bách sát
bên có tụng lược cũng không được nữa, bèn phải thưa rằng: "chư Đại
Đức hôm nay là ngày Rằm Bố Tát mỗi người nhiếp thân, khẩu, ý đừng có
buông lung". Nói như thế rồi mỗi vị tự ý giải tán. Đây là nạn duyên
gấp phải như vậy. Song tuyệt đối người chưa nghe thọ giới mà không
tụng giới không được gọi là Tỳ Kheo Bồ Tát.
- Kinh
Phạm Võng ghi rằng:
- - Nếu
thọ Bồ Tát giới mà không tụng giới thời chẳng phải là Bồ Tát, không
phải là chủng tử Phật. Hơn nữa trụ trì tăng bảo mà không đúng giới
luật Tỳ Kheo thì chẳng thể làm hưng long Phật pháp, vượt qua luật Bồ
Tát thời không được.
- Muốn
giữ giới thanh tịnh phải rành 10 chi giới không nhiễm; từ đó ba tụ
giới mới viên mãn. Nên luận Tát Bà Đa ghi rằng: "nếu người
thọ 5 giới mà phạm không cho thọ 10 giới. Nếu phạm 10 giới thời
không được thọ giới cụ túc".
- Vì thế,
Sa Di dù gặp kỳ Bố Tát mà không tụng giới đúng pháp đến độ lược bỏ
trì phạm khuyên nhắc tu hành nửa tháng nhóm họp một lần, thuận theo
mới đúng pháp, tức là đúng luật. Phàm gặp Bố Tát trước lễ sám hối
cho Sa Di nhập chung là sai. Tăng lúc họp nhau tụng giới cũng cho Sa
Di vào nhà lễ tăng, và xong lui ra rồi mới làm phép tụng giới; làm
cho chúng nhỏ cũng dự với đại tăng nửa tháng một lần hầu sách tấn tu
hành mà nhớ giới để tiến tu.
- Trở lên
bên trên 10 mục đại cương xong, từ đây trở xuống là 10 quy tắc Bố
Tát,
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Giới
luật là thiết yếu, nửa tháng Bố Tát là việc duy trì tổng quát.
-
Luật Thiện Kiến
ghi rằng: "Làm sao để biết chánh pháp trụ lâu, đó là duy trì phép
Bố Tát không mất vậy". Phép Bố Tát nầy luật tạng, đời thường khó mà
giữ hết được. Nay phòng phát hành kinh sách Chiêu Khánh tại Hàng
Châu có sách Sa Di luật nghi thuật nghĩa hai quyển, Tỳ Ni hương nhũ
thiết yếu hai quyển, nghi thức Yết Ma 2 quyển, Phạm Võng sơ tân 4
quyển. Ngoài ra ở Hoa Sơn tại Giang Nam có Bố Tát cương mục quy định
mỗi tháng hai kỳ gồm 2 quyển, lại còn có Đại Thừa nguyên nghĩa 12
môn luật v.v… đều nên thỉnh để đọc.
- Nếu như
ở một phạm vi mà Tỳ Kheo cộng trụ gặp ngày rằm giữa tháng, vào tối
14 phải sám hối, đến nửa tháng tối trời thời sám hối ngày 29. Trường
hợp gặp tháng thiếu sám hối trước vào ngày 28, nên cho Tỳ Kheo mới
một hai năm tới dọn phòng làm Yết Ma trải tòa, đốt đèn, phía sau tòa
để một cái bàn có thư ký ghi danh sách để biết số lượng, sợ trùng
tên sai sót để tiện việc kiểm soát, tới lúc nghe gõ kẻng chúng tập
họp; vị lãnh chúng cầm nhang thỉnh một vị Thượng Tọa thanh tịnh niệm
hương vì chúng sám hối. Niệm xong bước lên tòa ngồi, đại chúng lễ 3
lễ rồi đứng sang một bên. Nếu có chúng thọ 5 giới, 10 giới Sa Di
đứng nguyên tại chỗ. Duy Na gọi: các Sa Di tiến vào đứng theo hàng
từ trên xuống, đảnh lễ đại tăng 3 lạy.
- Lạy
xong quỳ gối chắp tay.
- Thượng
Tọa vỗ thủ xích bảo:
- - "Này
các Sa Di, đã lìa bỏ ngũ dục, gia đình thân quyến, thọ 10 giới răn
làm đệ tử Phật hiệu là Tức Từ; lý phải nên giữ gìn thân khẩu ý
nghiệp cẩn thận để ngăn tội lỗi phi pháp, chăm học luật tắc oai nghi,
giáo pháp. Nếu giới thể thanh tịnh những việc thiện mới sanh; còn
một chút nhiễm ô cũng khó nhập đạo. Hôm nay là ngày 30 (rằm) nửa
tháng trước lễ Bố Tát, chư tăng câu hội trước là sám hối, các vị mỗi
người do chỗ thọ giới mà giữ gìn giới phẩm, nên phải chú ý lắng nghe
kỹ từ nửa tháng trước trở đi đến nửa tháng này trong khoảng thời
gian đó, nếu quý vị có phạm cứ tự thành thật mỗi mỗi phát lồ trước
tôi để tiện y luật tác pháp dứt nhiễm thành tịnh. Nếu phạm mà không
phát lồ (tỏ bày) thời tự dối, càng tăng thêm tội không phải con
giòng họ Thích".
- Thầy vỗ
thủ xích và hỏi rằng:
- - "Này
các Sa Di, giới thứ nhất không sát sanh, trong nửa tháng qua các vị
có phạm không?"
- Không,
liền đáp là không; có thì trả lời có. Sau tiếp 9 giới khác cũng đều
hỏi như thế. Phần 5 giới, 10 giới đã có đủ trong phần quy tắc thế độ
ở trước.
- Mỗi mỗi
trả lời xong, trên tòa, Thầy xét sự lý hợp pháp.
- Nếu có
phạm 4 tánh tội trước, y luật không cho làm phép hiện tiền mà bạch 4
lần Yết Ma rồi đuổi ra khỏi chúng. Đương sự không phải là Thích tử,
không phải là Sa Di nên không được họp chung với Sa Di thanh tịnh;
cũng không được nương tựa ở với Tỳ Kheo tăng. Nếu làm mà không thành
nên phải sám tội đột kiết la(12) , đối thủ làm pháp yết ma sám hối.
Nếu gặp việc khó khăn, luật có dạy rõ, như phạm tội 6 già nghiệp sau;
cố ý là khinh lờn lời Phật, phải cho sám tội đột kiết la đối thủ làm
pháp Yết Ma cải hối. Vô ý phạm lầm là không khéo giữ gìn cho đem tâm
trách phạt tội đột kiết la, phải tha thiết làm pháp Yết ma để trừ
dứt. Nếu phạm 250 giới theo giới luật oai nghi phải xét duyên phạm
từng phần mà sám hối dứt trừ. Nếu không phạm thời làm thinh.
- Phần
tác pháp sám hối xong.
- Thầy
Duy Na xướng rằng:
- - "Này
các Sa Di chí thành lễ 3 lạy rồi tuần tự bước ra. Nghe tiếng khánh
cùng lễ Phật với chúng".
- Pháp
này quy định nêu lên như thế, nếu có Sa Di thời dùng, nếu không có
ngũ giới và Sa Di 10 giới mà chỉ có Tỳ Kheo nên tiến hành sám hối
thường lệ.
- Thầy vỗ
thủ xích hỏi rằng:
- - "Tăng
nhóm chưa?" "Đã nhóm" "Hòa hợp không?" "Hòa hợp" "Người chưa thọ
giới cụ túc ra chưa?" "Người chưa thọ giới cụ túc đã ra" "Tăng nay
hòa hợp để làm gì?" "Để làm Yết ma sám hối".
- Lời
vấn-đáp nầy cùng với tác pháp hỏi việc thông thường không khác nhau.
Chỉ không hỏi thuyết dục mà thôi. Luật dạy phát lồ (tỏ lộ) hẳn tự
nói nếu không tự nói được cũng chẳng phải bị trừng phạt gì. Vì thế
chỉ không hỏi gởi dục là phần khác biệt thôi.
- - "Này
chư Đại Đức, nay là ngày có trăng , không trăng; nửa tháng trước
chưa Bố Tát chúng tập hợp về một chỗ, mỗi người tự lục soát ký ức,
tự suy nghĩ ba lần xem từ ngày tụng giới nửa tháng trước cho đến hôm
nay trong vòng 15 ngày, nếu có ai phạm điều Phật chế làm ô nhiễm
thân giới nên sanh lòng hỗ thẹn, sớm cầu thanh tịnh hướng thẳng lên
đây nói lời tỏ bày sám hối, chớ nên che dấu. Kinh Vị Tằng Hữu ghi
rằng, tâm trước làm ác như mây che mặt trời; tâm sau khởi thiện như
đèn đuốc dứt trừ tối . Thế mới biết tịnh hay nhiễm do tâm; sám hối
dựa theo luật. Nếu không sanh tâm tin tưởng sâu sắc hẳn có niệm sợ
hãi, cho dù Phật tại thế cũng khó sám hối trừ dứt được".
- - "Này
chư Đại Đức nguyện thanh tịnh 5 thiên ba tụ giới(13) , thành tựu 5
phần pháp thân; không bị ràng buộc trong 3 cõi sanh tử. Ai phạm đứng
dậy ra giữa chúng nói lỗi; người không phạm thời yên lặng".
- Vỗ thủ
xích hỏi rằng:
- - "Nay
xin hỏi chư Đại Đức trong chúng đây có ai phạm không?"
- Nếu
người phạm tự đứng dậy lễ 3 lạy quỳ gối chấp tay nói rõ điều đã phạm;
nhưng chư tôn xem xét kỹ tâm cảnh và sự duyên đã phạm. Thư Ký ghi
lại chi tiết rõ ràng. Duy Na xướng rằng:
- - "Đại
chúng đảnh lễ 3 lạy rồi tụng bài hồi hướng, chúng tụng hòa, 3 tự quy
y xong. Duy Na, Thư Ký đưa người phạm giới đến phòng Phương Trượng.
Hai vị đồng lễ một lạy rồi trình bày danh tánh người phạm, phạm điều
gì. Hòa Thượng xem xét xong. Duy Na xướng cho người phát lồ lễ 3 lạy
rồi quỳ gối chấp tay".
- Hòa
Thượng hỏi xong; y theo luật tùy phạm tội nặng nhẹ mà xử như, dạy
đương sự sám hối và khuyên người phạm giới tự phát nguyện gia trì
sám hối nương nhờ lực từ bi của Phật, lực Yết Ma sám hối làm cho tội
chướng tiêu sạch; thiện pháp ngày càng phát triển gia tăng. Dạy như
thế xong, lễ thầy 3 lạy rồi lui ra. Những người không phạm nghe hiệu
khánh đồng vào điện Phật lễ Tam Bảo. Nếu nhờ gia trì lực bổng nhiên
tĩnh ngộ tùy theo cách mà thông thường là lễ tụng để cải thiện;
không che dấu thời sự uẩn khúc lại càng đẹp đẽ hơn.
- Nếu tác
pháp trong đàn tràng có Tỳ Kheo Bồ Tát tăng ở chung trong nửa tháng
Bố Tát trước đã có sám hối; đại lược phân thành hai tiết:
- 1- Tuy
nửa tháng luôn có kỳ nhóm chúng Tỳ Kheo Bồ Tát sám hối, nhưng dựa
pháp Tỳ Kheo tăng làm pháp yết ma, thân giới có bất tịnh. Liệu tâm
giới có thanh tịnh không? Không nên nghĩ rằng bỏ Đại theo Tiểu,
nhưng mà Bồ Tát khéo giữ được tăng chế.
- 2- Thật
là gặp cơ hội lớn tịnh giới tự nhiên phát khởi ở chung nhưng trong
cảnh thuần thục. Giá như có phạm mới tuân theo kinh Phạm Võng, Địa
Trì làm pháp Đại Thừa sám hối, như Đại Thừa thập nhị môn trong đó có
phân biệt rõ.
- Nếu tác
pháp nửa tháng tối trời hoặc có trăng vào đúng ngày Bố Tát trừ 4 vị
tăng trở lên cho đến 100, 1000 tăng cùng ở chung , e gặp thời khó
nhóm. Luật chế trước hết thưa bạch nhóm chúng, sau mới tới họp. Một
vị Thượng Tọa ra bạch chúng giữa bữa cơm trưa hoặc sáng như sau:
- - "Đại
Đức Tăng nghe, đến ngày 15 hoặc 30 Bố Tát tại (địa điểm)… tụng giới".
- Nói một
lần rồi ngưng, nhưng vị Thượng Tọa phải cao niên hơn các Tỳ kheo nhỏ
tuổi; và rằng:
- - "Đến
nơi Bố Tát quét dọn, trải tòa, chưng bày hoa đăng, cụ bị phòng xá,
đặt nước cúng. Tới giờ Bố Tát gõ kiểng tập họp chúng. Người nghe
hiệu lệnh nhanh chóng tới chỗ Bố Tát; không tới dự phải gởi dục".
- Đây có
nghĩa như là một buổi trai tăng nên cùng chúng giữ lục hòa. Người
không dự thời gởi dục cho vị khác, như những trường hợp bịnh, gặp
việc không thể nào đến với chư tăng được; phải đạt một sự thanh tịnh
mà Tỳ kheo nhận gởi dục ra trước làm lễ, quỳ và bạch như sau:
- - "Đại
Đức một lòng nghĩ, con vì Tỳ Kheo… như pháp tăng sự gởi dục thanh
tịnh".
- Nói
xong liền lạy một lạy rồi đứng lên lui ra.
- Nếu
người gởi dục là bậc Thượng Tọa, người nhận gởi dục là một Đại Đức
chỉ xá một xá đứng bạch như trên xong xá một xá rồi lui. Luật Tăng
Kỳ ghi rằng, không nên cao hứng cùng gởi dục cho người; phải gởi dục
cho người có thể mang đến giữa tăng nói thay. Theo Hành Sự Sao ghi,
phàm tăng tác pháp thân tâm hẳn đều phải thanh tịnh mới thành sự hòa
hợp. Giá gặp nhân duyên không mở tâm tập hội thì cơ duyên giáo hóa
chẳng thi thố làm sao cứu tế rộng được. Nên phải truyền tâm để cảm
ứng với tăng sự trên mới có thể làm xong được việc này việc nọ. Vì
nhân duyên như thế nên mở khai cho phép gởi dục. Duy nhứt kiết giới
và yết ma diệt tránh(14) không được phép gởi dục. Ngoài ra, hết thảy
phép yết ma đều có thể gởi dục được. Mỗi vị y theo giới mà ngồi thứ
tự, vị trưởng chúng cầm nhang đợi thỉnh một vị hạ cao có giới đức
thanh tịnh tụng giới. Vị ấy vào thăng tòa xong, chúng trưởng tới
cung thỉnh lễ 3 lạy xong lui về chỗ ngồi.
- Luật
ghi rằng:
- - "Tăng
đã nhóm họp, vị Tỳ kheo tụng giới kiểm điểm số để biết người đến và
người nào không đến. Nếu có chúng Sa Di thầy Duy Na xướng:
- - "Này
các Sa Di hãy thứ tự tiến lên đứng theo hàng hướng lên trên, nghe
tiếng khánh lạy đại tăng 3 lạy rồi quỳ gối chấp tay".
- Thầy vỗ
thủ xích dạy khuyên rằng:
- - "Các
Sa Di hãy lắng nghe, thân người khó được, giới pháp khó gặp, thời
khắc dễ qua, đạo nghiệp khó thành, các vị mỗi người nên giữ thân -
khẩu - ý thanh tịnh, cần học kinh, luật, luận, cẩn thận đừng có
buông lung!"
- - "Y
giáo phụng hành …"
- Duy Na
xướng:
-
- "Các Sa Di
lễ một lạy rồi đứng lên thứ tự lui ra".
- Sa Di
ra rồi đại chúng khởi sự tụng Tứ Phần giới bổn (giới Tỳ Kheo).
- Thầy
Duy Na xướng, đại chúng đồng hòa theo:
- -
"Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật"
(3 lần)
- Tiếp
đọc Kệ khai luật:
-
- "Kinh biệt
giải thoát khó được nghe
- Trải
qua vô lượng trăm ức kiếp
- Đọc
tụng thọ trì cũng như thế
- Như
thuyết mà làm lại khó hơn".
- Hòa
thượng vỗ thủ xích hỏi rằng:
- - "Tăng
nhóm chưa?"
- - "Tăng
đã nhóm".
- - "Hòa
hợp không?"
- - "Người
chưa thọ giới cụ túc ra chưa?"
- - "Đã
ra".
- - "Có
các Tỳ kheo thuyết dục và thanh tịnh không?"
- Nếu
không trả lời là không: còn như có người thuyết dục và thanh tịnh,
vị nhận gởi dục Tỳ Kheo đáp rằng, có rồi đứng lên ra trước chúng lễ
một lạy rồi quỳ gối chấp tay bạch như thế này:
- - "Đại
Đức tăng nghe, con Tỳ Kheo… nhận gởi dục thanh tịnh, Thầy A như pháp
tăng sự gởi dục được thanh tịnh".
- Nói một
lần xong, Hòa Thượng đáp rằng:
- - "Được!"
- Tỳ Kheo
thuyết dục lễ một lạy xong đứng lên trở về chỗ ngồi tụng giới. Nếu
có thể nhớ tánh danh từng vị tùy theo hứa nhận gởi dục bao nhiêu vị.
Nếu không thể nhớ chỉ nói: nhiều chư Tỳ Kheo gởi dục thanh tịnh.
- Như Tỳ
Kheo nhận gởi dục mà có việc bất khả kháng không thể đến trong chư
Tăng nghe giới được nên chuyển dục cho Tỳ kheo khác. Phải đến trước
một Tỳ Kheo thanh tịnh nói đầy đủ như thế này:
- - "Đại
Đức một lòng nghĩ, tôi Tỳ Kheo A có nhận dục thanh tịnh của một số
vị Tỳ Kheo. Các vị ấy và chính tôi như pháp tăng sự xin gởi dục
thanh tịnh. Nói xong, vị thọ chuyển dục ra trước tăng cũng làm y như
trên".
- - "Có
ai sai Tỳ Kheo Ni đến thỉnh giáo giới không?"
- Nếu
không, trả lời trong đây không có Ni đến thỉnh giáo giới. Nếu có, vị
Tỳ kheo Giáo thọ ấy đứng lên ra trước chúng hướng lên lạy một lạy
rồi quỳ gối chấp tay vì Ni chúng mà bạch rằng:
- - "Đại
Đức Tăng nghe, chùa… của Tỳ Kheo ni, Tăng hòa hợp, sai Tỳ Kheo Ni
tới đảnh lễ Tỳ Kheo tăng, thỉnh người dạy Ni".
- Bạch 3
lần như thế xong đứng lên, đến trước Thượng Tọa đệ nhất thỉnh rằng:
- - "Đại
Đức từ bi có thể đến dạy Tỳ Kheo Ni không?"
- Nếu
Thượng Tọa này đồng ý đến dạy, đáp rằng có thể; còn nếu không nhận
dạy, trả lời không thể. Vị Tăng từ 20 hạ trở lên đều được hỏi như
thế.
- Nếu
trong Tăng đều không ai nhận; trở lại Thượng Tọa đệ nhứt lễ một lễ,
quỳ bạch:
- - "Con
Tỳ Kheo… đã hỏi khắp trong tăng không có ai kham nhận giáo giới Tỳ
Kheo Ni, mong Thượng Tọa nên nói lược phép giáo giới bảo cho vị Tỳ
Kheo kia rằng:
- - "Này
Đại Đức trong chúng đây đã không nhận làm giáo thọ Ni, ngày mai Ni
đến thỉnh có hợp thời không?"
- Nên trả
lời vị kia rằng:
- - "Tối
qua vì chúng Ni mà ở giữa tăng đã mời khắp hết, không có vị nào nhận
dạy Ni cả. Tuy nhiên, Thượng Tọa có nói, báo cho chúng Tỳ Kheo Ni
nên phải tinh tấn hành đạo, cẩn thận chớ có buông lung".
- Vị Tỳ
Kheo nhận lời dặn dò đáp:
- - "Xin
vâng!" Xá một xá rồi lui.
- Y cứ
luật qui định người đủ đức mới được đề cử dạy Ni. Ngày nay chỉ hỏi
vị Thượng Tọa thỉnh mời để làm sáng qui tắc đương thời. Việc Ni,
Tăng sai hai lần bạch yết ma tới thỉnh pháp. Muốn biết rõ đợc thêm
luật Tứ Phần trong phần 2 nên đây không ghi ra hết.
- - "Tăng
nay hòa hợp để làm gì ?"
- - "Để
làm Yết ma tụng giới".
- Người
cử tụng giới trước bạch hòa tăng một lần như sau:
- - "Đại
Đức tăng nghe, nay là 15 tháng… có trăng, Bố Tát tụng giới, nếu tăng
phải thời mà đến, tăng thuận nghe hòa hợp tụng giới bạch như thế,
tác bạch có thành không?"
Đại chúng đồng chấp tay đáp:
- - "Thành".
- - "Chư
Đại Đức mùa xuân 3 tháng 90 ngày là một thời; nửa tháng 14 ngày đã
qua. Tháng giêng ngày Rằm ngày tụng giới nửa tháng đã qua, tháng 3
ngày 15, 30 tụng giới 2 lần cũng đã qua. Bây giờ còn mùa hạ, thu và
đông 3 kỳ dựa theo đây mà thay đổi".
- - "Già
chết gần kề, Phật pháp sắp diệt, chư Đại Đức vì muốn đắc đạo nên
nhứt tâm cần cầu tinh tấn. Tại sao phải làm như vậy? Vì chư Phật
nhứt tâm cần cầu tinh tấn nên chứng thành vô thượng chánh đẳng chánh
giác; huống gì là các pháp lành khác. Mọi thú vui trong lúc còn
tráng kiện, nỗ lực cần tu thiện tại sao chẳng cầu đạo; yên phận đợi
già còn mong thú vui gì? Một ngày đã qua, mạng theo đó cũng giảm dần
như cá thiếu nước nào có vui chi…"
- Trong
luật Phật dạy, nếu có vua, giặc, thủy, hỏa, bịnh, các nạn nhân, phi
nhân và những nghịch duyên khác như thiếu chỗ, đường ngập nước, trời
mưa, đêm Bố Tát sắp hết; hoặc tranh biện, thuyết pháp lâu v.v… nên
tụng lược giới. Người tụng khéo biết lúc tùy nghi, nêu lên các nạn
duyên. Đây dựa theo luật Tỳ Ni Mẫu luận rằng, nếu tụng tựa của giới
xong, hỏi có thanh tịnh xong nên bảo chúng rằng:
- Chư Đại
Đức:
- - "Đây
là 250 giới: 4 tội Ba La Di."
- - "13
tội Tăng Già Bà Thi Xa."
- - "2
Pháp bất định."
- - "30
tội Ni Tát Kỳ Ba Dật Đề."
- - "90
pháp Ba Dật Đề."
- - "4 Ba
la đề đề xá ni."
- - "100
pháp chúng học."
- - "7
pháp dứt sự tranh cải."
- Pháp
tăng thường nghe, nửa tháng tụng một lần trong giới kinh chép ra.
Nay xin hỏi chư Đại Đức trong đây có thanh tịnh không?" (hỏi 3 lần).
- Chúng
im lặng, gõ tiếng chuông tiếp:
- - "Chư
Đại Đức trong đây thanh tịnh vì im lặng vậy, việc ấy như thế mà rõ
biết".
- Trên
đây là tụng y nguyên văn. Nếu gặp nạn khó, nghịch duyên nên hỏi phép
thanh tịnh; rồi tụng tới đâu nên nói tụng tới đó như:
- - "Chư
Đại Đức đã tụng đến chỗ … ngoài ra các giới khác tăng thường nghe
tùy nghi" "Chư Đại Đức nay là ngày 15 tháng… có trăng Bố Tát mỗi
người phải giữ thân, miệng, ý chớ có buông lung".
- Nói
xong hồi hướng mỗi người tự giải tán. Song ở đây nói tụng lược tức
là chỉ đọc những giới danh quan trọng, là cách hay nhất. Nếu người
mới thọ giới không am tường luật Tứ Phần như có đọc toàn văn cũng
khó lãnh hội hết huống chi tụng lược mà có thể hiểu rõ. Vì thế, sau
khi thọ giới phải học, học để hành trì, như gặp việc liền thích ứng
ngay, rất có lợi được nhiều mặt. Nay nêu rõ 3 pháp lược, Đức Phật
phương tiện tùy cơ, nhưng làm vị tăng am tưòng sự duyên không có lỗi,
vì việc bỏ Bố Tát.
- Luật
dạy rằng, một Tỳ Kheo ở riêng gặp ngày Bố tát nên dọn phòng sạch sẽ,
trãi tòa ngồi, bày đủ phẩm vật cúng. Nếu có khách tăng đến như 4
người từ 4 người trở lên, dựa theo trước làm phép tăng Yết Ma tụng
giới. Như chỉ có 3 người không được thọ dục, trước hết một Tỳ Kheo
đủ nghi cách đối trước 2 Tỳ Kheo kia lễ 3 lạy, quỳ bạch rằng:
- - "Nhị
vị Đại Đức nghĩ cho, nay là ngày 15 tăng tụng giới, tôi Tỳ Kheo…
thanh tịnh (3 lần) xong lễ một lạy rồi ngồi xuống, hai vị kia cũng
làm như vậy, lần lượt đối thủ nói 3 lần như trên. Nếu có 2 Tỳ kheo ở
chung cũng dựa theo pháp này. Như trong số có người phạm, nên hướng
về vị thanh tịnh tỏ bày sám hối. Trong trường hợp phạm tội không nên
thêm 2 chữ thanh tịnh".
- Luật
chế, nếu một Tỳ kheo vào ngày Bố Tát nên dọn dẹp sạch sẽ, bày đầy đủ
đồ cúng; như không có tăng khách đến tự đủ oai nghi, tới trước bàn
Phật lễ 3 lạy rồi nói:
- - "Nay
là ngày 15 tháng… tăng tụng giới Bố Tát, con tỳ kheọ thanh tịnh" (3
lần).
- Tụng
Bát Nhã, hồi hướng rồi lui ra.
- Luật
ghi rõ Tỳ Kheo thực hành 184 pháp yết ma, trong mỗi một pháp, mỗi
pháp có đủ 7 tội. Vì sai là trái giới luật gọi là băng hoại, việc
tác pháp không thành. Đúng luật gọi là duyên thành, tác pháp có lợi,
có nghĩa là xứng lượng nhơn, pháp và việc phải nên làm cái gì cần
làm mới được. Ở đây nêu lên pháp yết ma Bố Tát. Nêu rõ điều đúng chỉ
việc sai khiến cho kia sanh thiện dấu ác vậy.
- - Thứ
nhất người lỗi: nghĩa là cùng ở chung một chỗ nghe hiệu lệnh nhóm
chúng nên đến; không đến phải gởi dục.
- Không
gởi dục, đến cũng chẳng chọn người trong chúng, nhập chúng đem số Ni
vào, hoặc tụng giới có người phạm, họp bạch vấn hòa. Hoặc 3 người
ngồi chỗ cao cùng làm việc Bố Tát hay mỗi người ở phòng riêng, tụng
riêng một mình không có chúng, gọi đó là duyên hoại, việc Bố Tát bất
thành. Trái lại là thành việc tụng giới có lợi ích.
- - Thứ
nhì pháp lỗi: có nghĩa là 4 vị tăng, trước bạch nhóm chúng, sau cùng
tụng giới. Hơn 4 người không bạch nhóm chúng, chỉ cùng hòa tụng;
hoặc có 3 người mà nhận dục người thứ tư gởi. Hay trong trường hợp
tuy chúng tăng đông mà gởi dục hơn phân nửa, tức là không hòa chúng.
Tụng giới đảo lộn, câu văn sai sót, lời tiếng không rõ, việc vô bổ,
tự ý tuyên bố lược giới, gọi là duyên hoại, việc Bố Tát bất thành,
tụng giới đúng pháp.
- - Thứ
ba việc lỗi: chúng tăng cùng ở chung không kết hạn giới, hoặc trước
kết giới rộng (đại), sau kết giới tràng (tiểu). Nếu địa điểm là đất
già lam nên xướng danh kết giới theo phạm vi nhẫn đến tiểu giới cũng
vậy, cắm dấu mốc cho còn, đại giới - giới rộng - không cần cắm dấu
tướng. Tuy phạm vi như pháp, nhưng việc tụng giới có khuyết gọi là
duyên hoại, việc Bố Tát bất thành. Trái lại là thành việc tụng giới
được lợi lạc.
- - Thứ
tư nhơn pháp đều lỗi: có nghĩa hợp luật chế, cả hai nhơn pháp đều
sai. Như đã nêu trên nên tự hiểu ở đây không nhắc lại nữa.
- - Thứ
năm sự pháp đều sai: có nghĩa người hòa hợp với duyên, song sự -
pháp đều hoại. Lấy ở trên để chứng minh ở đây, việc Bố Tát không
thành.
- - Thứ
sáu pháp không lỗi nhưng nhơn sự lại phạm lỗi: như trên đã qui định,
hoàn toàn chẳng có lợi ích gì.
- - Thứ
bảy nhơn - pháp-sự lỗi: có nghĩa là cả 3 đều phạm luật. Một đã không
thể thành, huống chi tập họp Bố Tát lại nhọc công vô ích.
-
Đối thủ Bố Tát cũng nêu rõ 7 lỗi như:
- 1- Nếu
có chư tăng không nhóm lại, cố ý nắm giữ riêng gọi là người lỗi
- 2- Hai
và ba người tụng hết lại bảo lược gọi là pháp lỗi
- 3- Ba
người và hai người kết tiểu giới riêng gọi là sự lỗi
- 4- Thứ
tư là nhơn - pháp lỗi
- 5- Thứ
năm: sự - pháp lỗi
- 6- Thứ
sáu: nhơn - sự lỗi
- 7- Thứ
bảy: pháp - sự lỗi.
- Lấy 3
lỗi trước hợp chung cùng 4 lỗi sau; ngược lại duyên thành việc Bố
Tát đúng luật.
-
Tâm niệm Bố Tát cũng có 7 lỗi như:
- 1- Nếu
chúng đông người, mỗi người nắm riêng đó là nhơn lỗi.
- 2- Tự
vấn hòa hợp: đọc hết giới mà tự mình lược là pháp lỗi.
- 3-
Trước Phật điện niệm tưởng như thế … là việc lỗi.
- (Bốn
pháp sau xem ở trên) chung lại thành loại trái mà giản lược bớt nên
biết.
- Nếu như
cùng một địa điểm mà đại giới và tiểu giới chung, Tỳ Kheo Bố Tát
tăng trước hết cho chúng Tỳ Kheo tăng cùng họp chung Bố Tát. Như
pháp tăng Bố Tát ở trước tụng luật Tứ Phần giới bổn xong, hồi hướng,
các Đại Đức giải tán. Lại trong một lúc khác tại Phật điện trải tọa
cụ, sẵn sàng mọi thứ, nhóm chúng Bố Tát, tụng Kinh Phạm Võng Bố
Tát.
- Nếu
không có chúng Tỳ Kheo, chỉ có chúng Bố Tát, trước cũng nhóm chúng
Tỳ Kheo Bồ Tát tăng tới điểm Bố Tát, tụng luật Tứ Phần. Sau đó lại
họp chúng Bồ Tát trước điện Phật tụng Phạm Võng Bồ Tát giới.
- Giá gặp
trở duyên thì trước tụng lược Tứ Phần giới bổn, sau tụng đủ Kinh
Phạm Võng. Nếu nạn duyên xảy đến không thể trong vài giờ nhóm
chúng được, hai chúng mỗi chúng đều tụng, nhóm chúng trước Phật điện
lược tụng Tứ Phần, sau nhóm chúng Bồ Tát lược tụng Kinh Phạm Võng.
- Tuy
tụng Luật Tỳ Kheo trước điện Phật, nhưng phương tiện khai cho tụng
lược trong trường hợp có nạn .
- Bố Tát
không nạn duyên, tụng đầy đủ giới Bồ Tát, một vị Thượng Tọa Tỳ Kheo
Bồ Tát ngay trong bửa ngọ trai hay tiểu thực ra trước bạch chúng
rằng:
- - "Chư
Đại Đức Bồ Tát tăng nghe, nay là 15 tháng… có trăng ngày Bố Tát,
thưa chúng Bồ Tát vân tập Phật điện (hay thiền đường, giảng đường)
để tụng giới Bố Tát".
- Bạch
như thế một lần xong, liền sai Sa Di Bố Tát hoặc Tỳ Kheo Bồ Tát nhỏ
tuổi cũng được, tới chỗ tụng giới dọn dẹp sạch sẽ, trải tọa cụ ngay
ngắn, chuẩn bị đầy đủ hương đèn, nước cúng Phật xong. Đúng giờ tụng
giới, một Tỳ Kheo Bồ Tát gõ hiệu lệnh 3 hồi (3 tiếng) nhóm chúng Bồ
Tát. Các Tỳ Kheo Bồ Tát trước phải y hậu chỉnh tề vào chánh điện,
theo thứ tự hạ lạp đứng xong, một vị lãnh chúng cầm hương mời một Tỳ
Kheo Bồ Tát đầy đủ giới đức niệm hương và tụng giới. Vị ấy bước lên
lễ Phật rồi ngồi. Mỗi vị ngồi theo chỗ của mình. Thầy Duy Na xướng,
đại chúng cùng tụng theo như:
- -
"Nam Mô Thiên Hoa Đài Thượng Lô Xá Na Phật."
(3 lần).
- Kệ khai
luật:
-
- "Thăm thẳm
cao siêu pháp nhiệm mầu
- Trăm
nghìn ức kiếp khó tìm cầu
- Con nay
nghe thấy chuyên trì niệm
- Nguyện
tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu …"
- Vị chủ
trì vỗ thủ xích hỏi:
- - "Tỳ
Kheo Bồ Tát tăng nhóm chưa?"
- - "Đã
nhóm"
- - "Hòa
hợp không?"
- - "Hòa
hợp"
- -
"Người chưa thọ Bồ Tát giới ra chưa?"
- - "Đã
ra"
- - "Có
các Bồ Tát thuyết dục và thanh tịnh không?".
- Không
có đáp: "Không".
- Có đáp:
"Có".
- Trong
đây không cần hỏi Ni thỉnh giáo giới, giả sử có Tỳ Kheo Ni, nếu chưa
thọ giới Bồ Tát, nên phải cho ra trước là hợp lý nhất. Tỳ Kheo Ni đã
thọ giới Bồ Tát, cho họp nghe chung trong Bồ Tát tăng.
- Nếu Tỳ
Kheo Ni Bồ Tát ở gần chùa tăng và gặp tăng Bố Tát lúc chung họp tụng
giới; nửa tháng không đến thỉnh giáo giới thời phạm 3 lỗi:
- 1-
Khinh tội ba dật đề,
- 2- Nếu
bịnh và các duyên khác không đến lễ tăng, phạm tội vượt giới luật,
- 3- Tự
tiện bỏ việc nhỏ không giữ tăng chế, phạm khinh cấu tội. Tỳ Kheo Ni
biết đối với việc nhỏ nên thỉnh nên hỏi; với việc lớn thì không hỏi
không thỉnh.
- - "Tăng
nay hòa hợp để làm gì?"
- - "Để
yết ma tụng giới Bồ Tát".
- - "Đại
Đức tăng nghe, nay ngày 15 (30) tháng có trăng (không trăng) là ngày
Bố Tát, nên tăng phải thời mà đến, tăng thuận nghe hòa hợp tụng
giới, bạch như thế, tác bạch có thành không?" (hỏi 3 lần).
- Đại
chúng chấp tay đáp:
- -
"Thành".
- Vị tăng
chủ trì vỗ thủ xích nói:
- - "Chư
Phật tử chấp tay lắng nghe, nay tôi sắp nói lời tựa đại giới chư
Phật; chúng nên yên lặng lóng nghe, tự biết mình có tội nên sám hối;
sám hối thời được an vui, không sám hối tội càng thêm nặng. Người
không có tội thì yên lặng, vì yên lặng nên biết trong chúng đây
thanh tịnh. Chư Đại Đức lắng nghe, sau khi đức Phật diệt độ trong
thời kỳ tượng pháp, nên phải tôn trọng ba la đề mộc xoa (giới
luật), ba la đề mộc xoa chính là giới nầy. Người trì giới này
như tối gặp sáng, như người nghèo được của báu, người bịnh được
lành, người tù được thả, người đi xa được về… Nên biết giới này là
đại sư của đại chúng, như Phật còn tại thế không khác vậy. Tâm sợ
sệt phát sanh, thiện tâm khó phát, cho nên kinh ghi rằng: "chớ khinh
thường lỗi nhỏ cho là không hại. Giọt nước tuy nhỏ nhưng rỉ rả dần
thành đầy chum lớn; tích tắc tạo tội đọa vô gián địa ngục. Một khi
mất thân người muôn kiếp khó được lại, sắc trẻ không dừng dường như
ngựa chạy. Mạng người vô thường nhanh hơn nước dốc; ngày nay dù còn
khó bảo đãm được ngày mai. Đại chúng mỗi người nên nhất tâm cần cầu
tinh tấn cẩn thận chớ có giải đãi biếng lười ngủ nghỉ mặc sức. Ban
đêm phải nhiếp tâm niệm Phật
tham thiền, chớ để thời giờ trống rỗng, đâm ra bãi hoải, sau hối
ăn năn. Đại chúng mỗi người nên nhất tâm nương theo giới này tu hành
như pháp nên cần phải học. Kính lễ Lô Xá Na Mười Phương Kim
Cương Phật, kính lễ trước luận chủ Đức Chánh Giác Từ Thị
Tôn Phật. Nay tụng ba tụ giới Bồ Tát đều cùng nghe, giới như
ngọn đèn sáng phá tan đêm tối tăm; giới như gương báu sáng, soi
chiếu hết thảy pháp, giới như châu ma ni, rưới của giúp kẻ nghèo,
lìa thế chóng thành Phật, chỉ giới này là hơn hết. Vì thế các Bồ Tát
nên phải siêng năng hộ trì".
- Vị
Thượng Tọa đọc chậm rãi Kinh Phạm Võng từ đầu chí cuối xong,
tụng Bát Nhã, hồi hướng. Thầy Duy Na cử tán kết thúc .
- -
"Nam Mô Thiên Hoa Đài Thượng Lô Xá Na Phật". (3 lần).
- Nên
phải châm chước giữ không có chỗ phạm mới thành đúng pháp theo Đại
Thừa Bố Tát có 7 lỗi:
- 1-
Người lỗi: có nghĩa không lọc ra chúng chưa thọ Bồ Tát Tỳ Kheo mà
ruỗi theo Sa Di đã thọ giới Bồ Tát đáng nhóm mà không nhóm, đáng gởi
dục mà không gởi dục. Giới lạp không có tôn ti, ngồi lộn xộn như
binh nô, xen tạp dung tục theo thiểu số ở trong chúng gọi là duyên
hoại, việc Bố Tát khó thành. Nếu trái lại như đây là đúng luật, tụng
giới mới thành.
- 2- Pháp
lỗi: không làm pháp hòa chúng, hỏi thỉnh giáo giới thức Xoa ma na Bồ
Tát, Sa di Bồ Tát, Sa di Ni Bồ Tát, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di. Đơn bạch (1
lần) yết ma hòa tăng, hoặc nghe tụng không hiểu, câu văn lộn xộn.
Hoặc 3 người cùng ngồi cao, hòa xướng âm tốt là một việc vô bổ tự ý
lược tụng giới hoặc mọi người cùng quỳ tụng giới, bỏ hẳn chỗ ngồi
tụng theo qui định. Cũng như làm pháp đối thủ, tâm niệm, ba đơn bạch
thay đổi, xem giống như việc nhỏ v.v… gọi là duyên hoại, tụng giới
khó thành. Nếu trái lại như đây là hợp pháp, việc Bố Tát bèn thành.
- 3- Việc
lỗi: địa điểm Bố Tát không theo
hạn giới, hoặc phòng các nạn duyên. Tuy kết tiểu giới nêu danh xướng
tướng; kết nhưng không giải v.v… gọi là duyên hoại, Bố Tát bất tịnh.
Nếu trái lại như đây là giữ theo đúng luật, tụng giới được thiện
lợi.
-
4-
Nhơn pháp lỗi: việc hạn giới khéo giữ, nhơn pháp đều trái theo tiêu
chuẩn trên biết là thành, như hoại (phá) là lược bớt (xứng lượng)
-
5-
Việc - pháp lỗi: có nghĩa người không có lỗi; việc – pháp đều trái,
liệt nêu chỉ rõ, làm xong được lợi ích
-
6-
Người - việc lỗi: pháp đúng thánh giáo, người - việc khinh nhờn thủ
việc đắc thất trước tự biết rõ nên thất bại
-
7-
Người - pháp - việc lỗi: có nghĩa là một đã không hợp luật mà cả ba
thành ra có lỗi. Trái lại là đúng luật như trước, Bố Tát mới thành.
Ở đây lược nêu luật Tỳ Kheo qui định chọn lựa sự thành hoại. Các
việc: đối thủ, tâm niệm …luật Đại Thừa không có các pháp này, nên
không nêu dẫn hết.
- Đại
Thừa hai chúng tại gia đã thọ giới tướng thù thắng.
- Phạm
Võng 10 giới trọng, 48 giới khinh, đây là chân tục Bồ Tát. 7 chúng
cùng thọ là Ưu Bà Tắc giới kinh, có 6 giới trọng và 28 giới khinh.
Giới nầy chỉ người tại gia, không bao hàm người xuất gia nhưng
Đức Thế Tôn hợp căn cơ chế ngăn. Thí pháp do người, nếu thọ 10
giới trọng và các giới khinh, nửa tháng Bố Tát phải đến chỗ Tăng Bố
Tát nghe tụng giới. Thảng hoặc như ở gần không có chùa Tăng, tại gia
có bàn Phật cũng tự tụng được. Nếu thọ 6 giới trọng 28 giới khinh
chỉ ở nhà mình quỳ trước bàn Phật tụng. Giả sử gần nhà có chùa tăng
cũng không được nghe tụng giới, vì giới tướng không giống nhau. Đây
khác với giới trọng khinh nêu trên; vì sau là 6 trọng và 28 khinh.
Cần biết rõ điều khoản để tiện cho việc Bố Tát. Hai kinh trên đều có
ghi rõ giới tướng và qui định 3 đàn truyền giới.
- Tỳ Kheo
tăng có 250 giới thêm Thâu Lan Giá 17 điều; Ni có 348 giới thêm Thâu
Lan Giá 25 giới.
- - Bốn
pháp Ba La di, Tỳ Kheo Ni có 8 Ba La Di. Đây là giới căn bản vì tánh
nghiêm trọng. Cũng gọi đệ nhất tụ gắn liền tới chết thuộc thổ giữ
giới này được sanh cõi trời Tha Hóa, nếu phạm sẽ đọa vào địa ngục
nóng bức (thiêu đốt).
- - Thiên
thứ hai là 13 pháp Tăng già bà thi xoa; Ni có 17 pháp tăng già bà
thi xoa cũng gọi là tụ thứ hai: gắn chặt lưu chuyển thuộc thủy. Giữ
giới này thời sanh lên cõi Hóa Lạc thiên; nếu phạm sẽ đọa vào địa
ngục kêu thét.
- - Tụ
thứ ba: pháp Thâu Lan giá, Tăng có 17 pháp. Không phải Ni của luật
Tứ Phần, Tát Kỳ Ba Dật Đề 30 pháp. Ni có 25 pháp (không phải luật Tứ
Phần 30 pháp). Đây chỉ có tên từ khi sanh gọi là luận tụ. Giữ giới
này thời sanh lên cõi trời Đâu Suất; nếu phạm sẽ đọa địa ngục khóc
gào.
- - Thiên
thứ ba pháp Ba Dật Đề, tăng có 120 pháp luật Tứ Phần, phần hai ,
trước có 30 pháp gọi là Ni tát Kỳ Ba Dật Đề. Ni có 208 pháp (Luật Tứ
Phần cũng phần 2, trước có 30 pháp cũng giống Tỳ Kheo). Cũng gọi là
tụ thứ tư. Gắn chặt thuộc kim. Giữ giới này thời sanh lên cõi trời
Dạ Ma; nếu phạm sẽ đọa địa ngục chúng hợp.
- - Thiên
thứ
tư
Ba la Đề
Đề
Xá Ni; Ni có 8 pháp, cũng gọi
là tụ
thứ
năm. Gắn
bó như
chiếc
gậy
thuộc
hỏa.
Giữ
giới
này thời
sanh lên cõi trời
Đao Lợi;
nếu
phạm
sẽ
đọa
địa
ngục
hắc
thằng
(dây đen).
- - Thiên
thứ năm 100 pháp Thức xoa Ca la, tức là 100 pháp chúng học, nên cũng
gọi là cần phải học. Quy định Tỳ Kheo Ni giống như đây, cũng gọi là
tụ thứ sáu. Gắn bó nở hoa ngầm thuộc mộc. Giữ giới này thời sanh lên
cõi trời Tứ Thiên Vương; nếu phạm sẽ đọa địa ngục đẳng hoạt.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Tổ Hoa
Sơn giải thích 5 thiên 6 tụ như, các bộ luật Tỳ ni đều không dịch
đúng chỉ dùng nghĩa phiên dịch. Dựa theo luật Tăng Kỳ chỉ nêu rõ 5
thiên, còn y cứ luật Tứ Phần mở ra là 6 thiên. Cũng nói rằng, bảy
chúng giữ luật nên biết thiên, tụ mới có thể mở - ngăn (khai, giá)
chỗ đạt được; giữ gìn đúng cách, làm thanh tịnh ba nghiệp. Đây là
việc đầu tiên nói thiên; thiên tức là biến khắp vậy. Vì biểu tỏ sự
rõ ràng mà cùng khắp; còn tụ tức là hội vậy. Có nghĩa thâu những gì
lưu xuất họp lại mà thành.
- - Thứ
nhất: Ba La Di, Trung Hoa gọi là bỏ lìa, tức vị tăng ở trong bốn
pháp này lìa bỏ. Nếu phạm một giới tức là bỏ ra ngoài biển Phật
pháp, vĩnh viễn không đạt đến đạo quả. Ni có 8 pháp bỏ, luật Tăng kỳ
định nghĩa là rất cực ác. Lấy 3 ý đó giải thích như sau: thoái mất:
do phạm giới này lui mất không dự phần chứng quả, không được ở
chung: không những chỉ mất đạo quả cũng không được thuyết giới yết
ma ở trong hai bộ tăng (ni), đọa lạc: bỏ thân này xong đọa vào địa
ngục A Tỳ, nên là giới căn bổn của Hữu Bộ. Cũng còn gọi là Ba La thị
Ca, dịch nghĩa là tha thắng, có nghĩa lúc vừa phạm bị người tịnh
giới khác khi dễ hơn. Lại bị người khác quấy rầy thật đáng thương
hơn . Xuất gia thọ giới Tỳ Kheo vì để trừ phiền não, nay bị cấm
giới, lại bị người chế nhạo tiêu diệt thiện pháp; trở lại có thể
sanh nơi ác thú, nên gọi là tha thắng.
- Kinh
Ngũ Bách vấn ghi rằng, phạm tội Ba La di như tuổi thọ của trời
Tha hóa Tự Tại đến 16,000 năm rồi đọa địa ngục nóng bức. Ở nhân gian
là 1600 năm thì ở cõi trời kia là một ngày một đêm. Căn cứ theo đây
biết được số năm, số tuổi đọa trong địa ngục. Nên nói rằng nghĩ tới
địa ngục khổ phải phát tâm Bồ Đề. Người giữ giới há chẳng cẩn thận
hay sao! Đây là tụ thứ nhất.
- - Thứ
hai: Tăng già bà thi xoa, đây dịch là sơ tàn. Như phạm tội này,
trước hết ở trước tăng che dấu làm pháp sám hối, sau cùng đưa tội ra
yết ma. Luật Tỳ Ni Mẫu luận rằng tăng tàn như bị người khác chặt đứt
ngang cuống họng gọi là tàn. Theo lý nên sớm cứu độ. Kinh ghi rằng,
phạm tội tăng tàn như không kể trời thọ mạng 8000 năm rồi đọa đại
địa ngục gào khóc. Số năm ở nhân gian 800 năm bằng một ngày một đêm
ở cõi trời kia; lấy đây tính để biết được số năm tuổi ở địa ngục.
Đây là tụ thứ hai.
- - Tụ
thứ ba: Thâu Lan giá, đây dịch là thô quá, có nghĩa là không y giới
Phật dạy mà hành trì. Tội thô (thô quá) có hai loại: một là tội
nặng, phương tiện do thành 2 thiên tội trước, có thể đoạn mất thiện
căn, là thô ác bất thiện. Cũng có độc đầu Thâu Lan Giá chia nặng nhẹ
làm 9 phẩm.
- Như ở
thiên tùy cơ Yết ma sám hối có nêu. Ni Tát Kỳ Ba Dật Đề ở đây dịch
là: Xả đọa. Có nghĩa là 30 pháp này đa phần do tham ái mà đọa, nếu
xả tham ái tức là không đọa, nên gọi là xả đọa. Kinh ghi rằng, phạm
tội Thâu Lan giá như tuổi thọ cõi trời Đâu Suất là 4000 năm đọa địa
ngục kêu gào. Một ngày một đêm cõi Đâu Suất bằng 400 năm ở nhân
gian. Căn cứ vào đó để tính có thể biết được số năm ở địa ngục.
- - Thiên
thứ ba: Ba la đề, đây dịch là đọa. Luật Thật Tụng ghi rằng đọa địa
ngục thiêu nấu ngăn chướng, 8 lớp nhiệt xông làm thiêu đốt, 8 lớp
hàn băng bưng bít làm che chướng. 30 pháp xả đọa trước họp với 90
tội đọa này thành 120 tội. Kinh ghi rằng, phạm tội Ba Dật Đề như
tuổi thọ trời Dạ ma là 2000 tuổi đọa địa ngục Chúng Hợp. Một ngày
đêm cõi trời kia bằng 200 năm ở nhân gian. Lấy con số này làm chuẩn
có thể tính biết được số năm ở địa ngục. Đây là tụ thứ tư vậy.
- - Thiên
thứ tư: Ba La đề đề xá ni, đây dịch là hướng bỉ hối. Luật Tăng Kỳ
ghi rằng, tội này nên phát lồ. Nói phát lồ tức hướng về một Tỳ Kheo
nói lời hối lỗi. Kinh ghi rằng, phạm tội Ba la đề đề xá ni như tuổi
thọ cõi trời Đao Lợi 1000 năm rồi đọa địa ngục hắc thằng. Một ngày
đêm ở cõi trời Đao lợi bằng 100 năm ở nhân gian. Lấy đây làm chuẩn
có thể biết được số năm đọa ở địa ngục. Đây là tụ thứ năm.
- - Thiên
thứ năm: pháp chúng học cũng gọi là đột kiết la, đây dịch là ác tác
hoặc là thủ giới gồm 100 giới. Giữ điều vi tế (nhỏ nhiệm) rất khó
nên học theo đó giữ điều cần phải học. Kinh ghi rằng phạm tội đột
kiết la như tuổi thọ cõi trời Tứ Thiên Vương 500 năm đọa địa ngục
đẳng hoạt. Một ngày đêm ở cõi Tứ Thiên Vương bằng 50 năm ở nhân
gian. Lấy đây làm chuẩn có thể biết được năm tuổi đọa ở địa ngục.
Đây là tụ thứ sáu vậy. Hoặc là tụ thứ bảy tức đem tụ thứ 6 này chia
làm hai tụ; ở thân gọi là ác tác thuộc tụ thứ 6, ở miệng gọi ác
thuyết thuộc tụ thứ 7. Lại trong hai pháp đó bất định hàm trong 3
thiên trước và 4 tụ trên. Sau cùng, 7 pháp diệt tránh hàm trong 90
pháp ba dật đề. Ngoài ra trong tụ thứ ba Thâu Lan Giá rút từ luật Tứ
phần, ngoài 250 giới. Lại năm thiên giới đây phán định phân 3 chi
nếu phạm 2 thiên đầu gọi là phá giới, nếu phạm 3 thiên sau gọi là
phá oai nghi. Nếu phạm trong 90 pháp như pháp 68 tà kiến sanh hủy
báng giới, gọi là phá kiến. Giảng rộng như trong luật về tác - trì
và chỉ - trì , quy định Bố Tát đại cương có giải thích rõ. Theo Ngẫu
Ích đại sư có Trùng Trị Tỳ Ni sự nghĩa tập yếu hành thế; lại còn có
Tứ Phần giới bổn tân yếu, Như thích toát yếu, lại có Phạm Võng trực
giải hiệp chú phát ẩn v.v… Dù chưa đưa vào tạng cũng nên tìm đọc cho
biết.
- Tiếng
Phạn là Bố Tát Trung Hoa dịch là ngã đối thuyết (nói với tôi), có
nghĩa nhắm tướng thuyết tội; bèn phỏng theo nửa tháng sám hối mà
dịch. Cũng dịch tịnh trụ thiện túc, có nghĩa bỏ xấu ác mà chứng pháp
thiện lành, thân tâm được thanh tịnh y giới mà trụ. Cũng dịch là
thuyết giới, có nghĩa là nửa tháng nhóm chúng tụng giới làm cho tăng
trưởng pháp lành, giữ gìn tự tâm, nên biết Bố Tát đúng là điều quan
trọng của việc hộ giới.
- Kinh
Phạm Võng ghi rằng, nay tôi mỗi nửa tháng tụng giới pháp của chư
Phật, hết thảy các vị phát tâm Bồ Tát cũng tụng, cho đến 10 phát
thú, 10 trưởng dưởng, 10 Kim Cương, thập địa chư Bồ Tát cũng tụng
như vậy. Vì thế giới quang từ miệng phát ra; có duyên chẳng phải
không nhơn nên gọi là quang. Quang này chẳng xanh, vàng, đỏ, trắng,
đen; chẳng sắc, chẳng tâm, không hữu chẳng vô, chẳng phải pháp nhân
pháp quả. Là bổn nguyên của chư Phật, là căn bổn của Bồ Tát đạo, là
căn bổn của chúng Phật tử. Vì thế chúng Phật tử nên thọ trì, phải
đọc tụng, nên cần học… đây gọi là hộ giới vậy. Hộ giới có thể tướng
riêng biệt nửa tháng Bố Tát, cho chí đạo cụ, hộ giữ các tướng đó.
Thọ giới chỉ một lần, giữ giới suốt trọn đời. Tân giới đối với các
điều răn như 10 giới Sa Di, 24 oai nghi, Tỳ Kheo 250 giới, Bồ Tát 10
giới trọng, 48 giới khinh v.v… Tại giới trường đã đọc kỹ khai - giá
- trì - phạm cũng như nghe giảng giải sơ phát tâm đâu chẳng tuân
giữ. Vì lo sau khi ra khỏi giới trường dần dà gần gũi người xấu, dần
nghe tà thuyết vi phạm không Bố Tát, không trì giới làm rối loạn
chân tâm, bèn thành việc ma. Bắt đầu ăn phi thời, kế tiếp uống rượu,
thậm chí ăn thịt, lại còn dâm dục… không việc gì mà không làm cả,
thương thay!
- Dưới
lớp áo cà sa đã đánh mất nhơn thân. Nghĩ lại xuất gia thọ giới những
gì phải làm? Vì thế, Phật dạy:
- - "Tỳ
Kheo các con phải tự sờ đầu mình. Sờ đầu để biết đầu mình cạo bóng,
biết ta là con Phật, nên theo lời Phật dạy lấy giới làm thầy, y theo
pháp 4 niệm xứ mà an trụ. Thà giữ giới mà chết chứ chẳng bằng phá
giới mà sống! Giới luật thanh tịnh thì thiện pháp phát sanh".
- Kinh
ghi rằng, tinh tấn giữ giới thanh tịnh, gìn giới như giữ châu sáng.
Đó là y tướng giữ giới vậy.
- Kế nói
về y thế mà hộ giới, khởi đầu là 5 giới, cuối cùng là 3 tụ giới, tất
cả các giới tướng so đồng nhất thể. Luật qui định phàm trước khi
thuyết giới đều nói: "nay vì ngươi mà tuyên đọc Yết ma Tam quy làm
cho ngươi tự cảm phát giới thể, cho chí lời kết rằng, trở lên Tam
quy chính là dung cái thể nơi tâm, nên biết Ba Quy là hết thảy giới
thể, vì thế nói là thể".
- Ba quy
y theo sách Chánh Phạm ghi rằng: "Đem huệ thật tướng hiểu rốt
ráo các pháp là phi không phi hữu; cũng không cũng hữu; cả hai đều
quên, cả hai đều chiếu, 3 trí tròn sáng, đó là tự tánh Phật bảo,
biết rõ lý của Pháp tánh. Ba đế đầy đủ là tự tánh Pháp bảo; trí hiểu
biết nầy cũng hòa hợp sự lý là tự tánh Tăng bảo. Ba quy y như thế
gọi là giới thể".
- Lại
thỉnh Tỳ Kheo giới, sách Chánh Phạm ghi rằng: "Thập sư trên
tòa vừa đến sáng nay nắm giữ vai chính lúc yết ma làm cho giới tử
phát tâm thượng phẩm nghĩ tới nghiệp lực dụng tưởng khắp pháp giới,
biến khắp các cảnh trần. Nhưng cảnh tùy tâm hiện; song chỉ hiện
cảnh, chẳng có biểu sắc tức là giới, cái thể của cảnh trần cũng được
cái nhân của giới. Nếu chưa đủ duyên nghĩ tới việc lãnh thọ như
trên, thể của cảnh trần này không buộc nơi ngươi. Chỉ một khi phát
tâm sau khi suy nghĩ lãnh thọ rồi, đây là thể cảnh trần pháp giới
luôn nương tự tâm các ngươi, niệm niệm chẳng quên mất; luôn luôn giữ
gìn là lấy giới làm năng y, tâm làm sở y. Tâm - pháp hòa hợp gọi là
giới thể".
- Cái thể
này như Kinh Phạm Võng cho rằng chẳng xanh, vàng, đỏ, trắng,
đen, chẳng sắc, chẳng tâm, phi hữu phi vô, chẳng phải pháp nhân pháp
quả, vốn không thể hộ, do bội giác hiệp trần (xoay lưng với giác
hiệp theo trần), mê mất bản chơn, chấp nơi tà kiến như thân kiến,
biên kiến, tà kiến, giới thủ, kiến thủ. Do 5 món kiến này sanh ra 62
kiến, do các kiến chấp đó nên không dứt sanh tử. Vì thế, giữ giới
phòng ngăn nó không cho gần. Đó là y thể mà hộ giới vậy. Nơi mười
triền(15), mười sử(16) cho chí tám vạn bốn ngàn trần lao vọng tưởng
phiền não đều nên hộ trì làm cho vắng lặng.
- Kinh
Lăng Nghiêm ghi rằng: "Hết thảy chúng sanh đều do không biết
thân tâm thường trụ theo các vọng tưởng; tưởng đây không thật nên bị
luân chuyển (xoay vòng)".
- Kinh
Hoa Nghiêm ghi rằng: "Ta thấy khắp hết thảy chúng sanh có đủ trí
huệ, đức tướng Như Lai. Chỉ vì vọng tưởng chấp trước nên không thể
chứng được. Nếu lìa vọng tưởng thì nhứt thiết trí, vô sư trí tự
nhiên hiện tiền. Nên nói tri kiến biết tức là gốc vô minh; tri kiến
không thấy nữa, đây là Niết Bàn vậy".
- Nghiệm
xét như thế là hộ giới, như người chưa thể đạt đến rất khó, vã cần
nương 4 niệm xứ quán, ngỏ hầu cũng có thể đạt được.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Điều
răn trong 7 chúng, nay đơn cử Tỳ Kheo là một chúng mà biết các chúng
khác. Trong đây lấy giới làm thầy, y Tứ niệm xứ mà trụ, "thà giữ
giới mà chết còn hơn không giữ giới mà sống". Bốn lời nói trên đã
bao hàm hết thảy các điều giới. Nay thử lược nêu vài điều để chứng
minh việc hộ giới, trong đó có thô - tế - khinh - trọng đều nên tinh
ý giữ gìn không trái phạm.
- Kinh
Lăng Nghiêm Phật bảo Ngài A Nan rằng: "Con tu thiền định để ra
khỏi trần lao mà tâm dâm không trừ thời trần không thể thoát được.
Giả sử đa trí, thiền định hiện tiền, nếu không đoạn dâm ắt rơi vào
ma đạo. Thượng phẩm là ma vương, trung phẩm là ma dân và hạ phẩm là
ma nữ. Chúng ma kia mỗi loại tu Tam muội để ra khỏi trần lao mà tâm
sát hại không trừ thời trần không thể thoát được. Giả sử đa trí,
thiền định sẵn sàng, nhưng không đoạn sát sanh ắt rơi vào thần đạo.
Thượng phẩm làm người, làm đại lực quỉ, trung phẩm làm dạ xoa phi
hành, điều khiển các quỉ, hạ phẩm làm la sát địa hành. Các loại quỉ
thần cũng có đồ chúng, mỗi loại tự cho rằng đã thành vô thượng đạo
v.v…"
- Phật
lại dạy: "Con tu tam muội để ra khỏi trần lao mà tâm trộm cắp không
trừ trần không thể thoát được. Giả sử đa trí thiền định sẵn sàng,
nếu không đoạn trộm cắp hẳn rơi tà đạo. Thượng phẩm làm tinh linh,
trung phẩm làm yêu tinh, hạ phẩm làm người tà tâm. Các loài yêu tinh
chấp chặt vào những tà pháp của chúng; chúng cũng có đồ đảng, mỗi
bọn họ tự cho rằng đã thành vô thượng đạo v.v…"
- Phật
lại dạy: "Ba hành đã tròn đủ, nếu đại vọng ngữ cho là thiền định
không đạt thanh tịnh, thành ma ái kiến mất chủng tánh Như Lai
(Phật). Cho nên chưa đắc bảo đã đắc, chưa chứng nói chứng… là một
điên ca tiêu diệt giống Phật. Như người dùng dao chặt cây Đa La,
Phật bảo người đó vĩnh viễn mất hết thiện căn v.v… Đây là vấn đề hộ
giới rất rộng, rất sâu vậy".
- Sách Thiền Tông
bí yếu ghi, xưa có trạng hỗ Ngũ Vân gặp vị thiền sư một hôm đi dự
tiệc; có một thần nhân quỳ gối phía trước. Sư hỏi rằng ngươi là ai
vậy?
- Đáp:
- - "Thần
hộ giới".
- Thiền
sư nói:
- - "Cái
họa của ta kiếp trước chưa hết, ngươi có biết việc đó không?"
- Hỏi:
- - "Sư
có tội gì? Chỉ có một lỗi nhỏ thôi mà!"
- Sư hỏi:
- - "Là
lỗi gì?"
- Phàm đổ
nước bình bát cũng là vật của thí chủ, sư bèn đổ bỏ đi, "chẳng phải
việc nên làm", nói xong liền biến mất. Từ đó thiền sư rửa bát
lấy nước uống hết.
- Ngoài
ra Luận Đại Trí Độ ghi rằng:
- - “Có
một vị Tỳ Kheo ở trong rừng đi kinh hành bên bờ ao sen, nghe mùi
thơm của sen, sư kê mũi hửi, tâm ưa đắm thích. Vị tri thần hiện ra
nói:
- - "Sao
ông bỏ thiền lấy trộm hương?"
- Chỉ đắm
mùi hương mà các kiết sử lắng (chìm) xuống nay đều khởi lên. Khi đó
có người canh cắt hoa, đào gốc mang đi. Thần không nói một lời nào
cả. Tỳ Kheo hỏi rằng:
- -
"Người này phá ao lấy hoa, ngươi không nói; ta chỉ hửi mùi thơm liền
bị quở trách là tại sao?"
- Địa
thần nói:
- -
"Người ác ở đời thường bị lấm phân dơ, bất tịnh mất đầu, ta đâu đề
cập tới làm gì. Ngươi là người tốt hành thiền mà còn đắm mùi thơm
làm hỏng mất điều tốt. Vì thế phải trách ngươi, ví như tấm đệm mới
trắng sạch mà bị một chấm đen vấy vào, ai thấy cũng lấy làm tiếc.
Người ác kia cũng như chiếc áo đen dính mực, ai thấy tiếc bao giờ?"
- Việc hộ
giới đây cũng thế rất là tinh vi tế nhiệm. Ôi, há không cẩn thận
sao! Trước nhất gọi là trì giới mà khởi sự sơ tâm không chịu cầu
giới, nhẫn đến dựa thể mà gìn giữ, nên học rộng Kinh Bát Nhã, Hoa
Nghiêm Phẩm Phạm Hạnh, Kinh Niết Bàn Phẩm Phạm Hạnh,
cho chí kinh điển của Thiên Thai tông đều nên thực hành. Như nói
"nhân giới sanh định, nhân định phát huệ" còn chưa theo kịp.
- Trước
hết quán Tứ niệm xứ:
- 1-
Quán thân bất tịnh
- 2-
Quán thọ là khổ
- 3-
Quán tâm vô thường
- 4-
Quán pháp vô ngã.
- Quán
bốn pháp niệm xứ này là điều căn bản của sự tu hành, là khí cụ của
hộ giới; vì thế mượn đó đây kết lời khuyên này.
- Đạo cụ
là vật riêng của Tỳ Kheo Bồ Tát tăng dùng, thuận đạo là vật làm gia
tăng pháp thiện. Y cứ theo Kinh Phạm Võng có 18 loại đem so
với luật có hơi khác. Nay phải hiệp chung mà thuật như sau:
- 1- An
đà hội là y 5 điều
- 2- Uất
đa la tăng: y bảy điều
- 3-
Tăng già lê: đại y có 3 phẩm:
- Phẩm
thượng y 25, 23, 21 điều,
- Phẩm
trung, y 19, 17, 15 điều,
- Phẩm
hạ, y 13, 11, 9 điều gọi là y phước điền.
- Luật
Tăng Kỳ ghi rằng:
- - Phật
ở trước động đá Đế Thích thấy ruộng lúa có bờ ngăn phân minh, nên
bảo A Nan rằng chư Phật quá khứ y hình tướng như vậy; từ nay dựa
theo hình này may y.
- Sách
Tăng Huy Ký ghi rằng:
- - Bờ
ruộng giữ nước cho lúa mạ sanh trưởng để nuôi thân mạng; ruộng pháp
y thấm nhuần vì 4 điều lợi của nước, làm tăng 3 mầm thiện để nuôi
pháp thân huệ mạng, nên gọi là y phước điền.
- 4- Ni
sư đàn: tọa cụ trải ngồi thiền cũng gọi là tùy tọa y. Luật Ngũ Phần
ghi rằng: vì hộ thân, hộ y, hộ giường nệm nên sắm tọa cụ.
- 5-
Tăng kỳ chi: áo đơn (lót) cũng gọi là áo che trong hay áo lót mồ hôi
- 6- Nê
phược ta la: quần thiền thường gọi là kim cang khố (quần đùi), tọa
thiền nạp tử, làm cho được tiện lợi
- 7-
Trực chuyết: áo dài chấm sát đất, thường gọi là bào tử, cũng gọi là
hải thanh. Trở lên 3 món trích từ luật Tỳ Ni.
- 8- Bát
Đa la: bình bát, Trung Hoa dịch là Ứng lượng khí. Y cứ theo Tây Vức
(Ấn Độ) chư tăng đều đi trì bình khất thực. Bát này tùy sức dùng của
mỗi người mà có nhỏ lớn khác nhau. Lấy một bát ăn no là lượng, cho
nên gọi là đồ lường thích hợp.
- 9- Tỏa
khí la: tích trượng. Căn cứ theo kinh có 2 loại: một loại 4 đốt 12
khoen mà thời nay dùng; một loại là 2 đốt 6 khoen (vòng) hình nhỏ,
nặng một cân mà hồi Phật tại thế Tỳ Kheo hay dùng.
- 10- Trụ
trượng: gậy chống. Luật Tỳ Nại Da ghi rằng Phật nghe tiếng lắc
cắt
gậy chống, vì biết già lụn mất sức, hay người bịnh khổ thân nên phải
dùng.
- 11-
Phất tử: phất trần (bụi). Luật ghi rằng Tỳ Kheo sợ bị cỏ, côn trùng
nên làm đồ phủi bụi (phất trần). Luật Tăng Kỳ ghi rằng, Phật cho làm
tuyến phất, quặc phất. Nếu đuôi ngựa hay vật kim ngân báu quí trang
trí đều không nên cầm.
- 12- Sổ
châu: chuỗi tràng hay tràng hạt niệm Phật, phần nhiều lấy gỗ tiện 18
hột, 108 hột làm một xâu đeo nơi thân. Trở lên 3 vật trích từ luật
Tỳ Kheo
- 13-
Quấn trĩ ca: bình đựng nước (quân đội dùng) thường chứa nước mang
theo mình dùng uống hay rửa tay. Ký Quy truyện ghi rằng bình chứa
nước quân nhân có 2 loại: bình bằng đất nung, nhôm dùng để uống và
bình bằng đồng, thiếc để rửa.
- 14-
Táo đậu; (xà phòng) tạo giác dùng để tắm rửa
- 15-
Thủ cân: khăn tay
- 16- Hỏa
toại: hộp quẹt, dao lửa, đá lửa, giấy mồi lửa v.v…
- 17- Lự
thủy nang: đãy lọc nước. Tăng Huy Ký ghi rằng, đồ vật dù nhỏ nhưng
công dụng rất lớn để bảo vệ sanh mạng, cho nên dùng lụa thật nhuyễn
may đó; lọc vi trùng trong nước mới có nước sạch để uống.
- 18-
Giới đao: dao cạo tóc. Căn cứ theo Kinh Phạm Võng có thêm:
tăm xỉa răng, giường dây, nhiếp nhổ râu, lư hương, hộp kinh luật,
tượng Phật, tượng Bồ Tát. Kinh Phạm Võng lặp lại: "đi hành
cước xa nên dùng Kinh - Luật - Tượng. Luật tạng trọng ở phân ra khu
phố khất thực nên dùng cây gậy, phất trần, chuỗi tràng hợp dùng
chung là 26 thứ. Tăng hành cước có 26 món nầy như chim có đôi cánh
thường đem theo bên mình nên gọi là đạo cụ vậy.
- Chứng
nghĩa ghi:
- Luật
Học Cương Duy nêu rằng đạo cụ hộ giới có 18 loại thường mang theo
bên mình như: nhành dương, đậu tắm thoa mình, thắng nhiễm tục thời,
3 y vải vụn; ăn tạm thực thời một bát nuôi thân, đủ khai đất thánh.
Bình đựng nước suối, tích trượng tiêu biểu hiền Thánh. Lư hương chỉ
cái thể thanh tịnh, đãy lược nước cứu vật, khăn lau, đồ phất trần,
dao dùng để hàng ma, đèn pin soi chỗ tối, nhiếp nhổ râu nhổ sạch
phiền não; giường dây để dứt bỏ tánh cao ngạo. Tiến trình đãi lọc
thành tâm giữ gìn 3 nghiệp. Tượng Phật biểu hiện quả, Bồ Tát làm
sáng tỏ nhân.
- Ngoài
ra, y cứ theo Ngài Ngẫu Ích sách Giới Y biện ngụy ghi rằng:
- - Người
xuất gia có y pháp, cũng như quan có đồng phục vậy. Giới của 7 chúng
không đồng, còn y cũng khác biệt. Phật dạy 3 y: tăng già lê là 9
điều hoặc 13 điều; 25 điều gọi là phẩm rốt sau, không phải là trên
thượng phẩm, Uất Đa La tăng là y 7 điều và An Đà Hội chỉ y 5 điều.
Ba y này đều gọi là Ca Sa phải là vải hoại sắc, không phải sắc são
nên cũng gọi là y phước điền, vì hình chiếc y giống như ô ruộng
phước. Ngoài ra cũng còn tượng trưng vị Tăng làm ruộng phước cho thế
nhân.
- Là Tỳ
Kheo nên có đủ 5 y, 3 y như đã nêu trên thêm áo lót mồ hôi và áo che
cánh tay. Sa Di chỉ có 2 y: y trên tức y không có sọc ngang cũng gọi
là mạn điều y, màu giống như Tỳ Kheo, giới là khác Tỳ Kheo, chỉ may
thẳng không cắt thành ô (vuông).
- Luật
ghi rằng: "Người cầu vắng lặng mặc lấy mạn y thường thường mặc y cắt
mãnh mắc tội lạm dụng nặng. Bởi Sa Di tuy đã xuất gia vẫn chưa nhập
vào hàng Tăng bảo. Vì thế, y 5 điều do không cắt mãnh, huống chi là
7 điều, 9 điều ư? Nội y tức là áo mặc bên trong để che lót mồ hồi.
Là Bồ Tát tại gia tức là Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di thời không cho may y 5
điều mà qui định giống như Sa Di. Y của Bồ Tát tại gia chỉ mặc nơi
đạo tràng lúc tu tập hành đạo, còn bình thường không được mặc đắp".
Vì thế có khác Sa Di, ngày nay y của Tăng sai luật bày ra 9 điều
cho thọ giới Sa Di làm cho có đủ 3 y, là một việc dối vậy.
- Sa Di
cho đắp y 7 điều đâu có khác gì Tỳ Kheo là một việc dối thứ hai.
- Người
trước không biết làm sai thường hay cho người cận sự đắp 3 y; người
sau kiêu mạn phạm lỗi lầm, đều cấm cận sự không được đắp y 5 điều,
là một việc dối thứ ba.
- Hết
thảy qui định y đều lấy chiều đứng 3 khung, ngang 5 khung làm độ,
giả sử có tăng giảm đôi chút cũng chỉ để cho phù hợp với tay và
thân. Nay chiều đứng 3, chiều ngang 6 khung đó là điều sai lầm, là
một việc dối thứ tư.
- Y phước
điền chỉ tương tự hình thửa ruộng nay nhầm lẫn cho rằng, phải thông
đường nước là điều dối thứ năm.
- Y 5
điều, 7 điều cũng tùy có loại vải cũ rộng hẹp mà may thành điều
nhiều ít, nay lầm cho rằng, khối đó tượng trưng cho núi Tu Di, khối
kia biểu tượng mặt trời, khối nọ tượng mặt trăng, khối đây tượng
trưng Tứ Thiên Vương v.v…là điều dối thứ sáu.
- Tăng
Già Lê dịch là Đại Y hoặc hợp trùng y hay còn dịch nghĩa là y tạp
sắc do kết nạp nhiều mãnh vải lại may thành. Nay lạm dùng vải nhuyễn
mịn, lại còn thêu hoa lên trên nữa, gọi là y thiên hoa, là điều dối
thứ bảy.
- Quy
định 3 y của thiên Phật có điểm đồng nên gọi Y Nghìn Phật. Sách Vân
Thê Chánh Ngoa đã luận, nay còn thêu Phật nơi y, là điều dối thứ
tám.
- Người
xuất gia dùng tất cả y phục, tọa cụ đều hoại sắc; nay ngược lại lấy
5 màu may y rực rỡ, là điều dối thứ chín.
- Lại y
cứ tấm tọa cụ xứ Tây Vức chỉ dùng riêng cho việc tọa thiền ở Đông Độ
dùng để lễ bái, không biết phát xuất từ lúc nào. Dựa theo luật Tứ
Phần thứ 15 trong pháp xã đọa: "phàm may tọa cụ mới đều phải dùng
cái cũ may lên cái mới". Nay lầm dùng sắc mới vải mới viền 4 góc gọi
là Tứ Thiên Vương, thật là quá sai lầm!
- Bát Đa
La dịch là ứng lượng khí, cái bát để lường thức ăn của tăng. Phật
cho xử dụng sắt, đất nung v.v… tạo thành; nay lạm dụng bằng đồng,
thau hoặc nhôm hay gỗ đều trái với quy định. Lại luật có ghi rằng
bình bát dùng thuốc thơm xông kỹ khi đựng đầy vật vẫn không nứt,
không rỉ chảy dầu mở v.v… cho nên ngày nay ta biết ăn canh không làm
dơ bát, nhưng không biết dùng thuốc xông bèn cho đũa vào bát lấy
thức ăn đưa vào miệng, thật là mất oai nghi. Ngoài ra, giới cấm
không cho mang bát bằng vàng bạc, châu báu.
- Tràng
hạt: Kinh Đại Thừa Man Thù hiệu lượng số châu ghi rằng, lấy
cây mộc liên tiện thành hạt, hạt Bồ Đề là tốt nhất. Ngày nay chuỗi
tràng phần nhiều dùng vàng châu, vật quý giá, để như một phần làm đồ
trang sức. Điều này làm tăng trưởng tham lam, lại dễ bị đánh cắp.
Đây đều là dối trá không thể không luận cho đúng. Ngoài ra cho chí
những đạo cụ khác tuyệt đối không dùng.
- Trong
không có tâm hộ giới, ngoài không oai nghi gìn luật, làm gì không
phạm qui chế tăng chứ? Mong sao hàng Thích Tử chúng ta cùng nhau duy
trì chánh pháp ngỏ hầu vãn hồi (vớt vát) tệ nạn, làm giềng mối tăng
già mới là tuân lời Phật dạy. Mong sao đối với việc tự lợi, lợi tha
đừng cho rằng đây là chấp tướng, mà ẩn mình nơi nhãn hiệu vô tướng.
Cũng không nên cho rằng ta là thiền tông dùng những đồ tu hạnh đầu
đà này làm gì? Nghĩ sao không suy kỹ Ngài Đại Ca Diếp là Sơ
Tổ thiền tông tại sao hành hạnh đầu đà đệ nhứt?
- Ngày
nay việc truyền giới lầm dối rất nhiều, thậm chí như Thức Xoa Ma Na
là một, thật là hết sức sai lầm. Ở đây không thể không bàn đến Ni y
cứ theo thời Phật còn tại thế. Thường thường độ người xuất gia cho
thọ giới mà không biết giới tướng tạo ra nhiều điều phi pháp.
- Phật
dạy: "phải cho hai năm học giới đúng pháp khiến hành giả trước là
tập học rồi sau mới cho thọ giới đầy đủ. Hết thảy chúng Ni đều phải
học giới, trừ tự tay lấy thức ăn, đưa thức ăn cho người khác".
- Trong
các kinh luật hay ngay cả Lương Hoàng Sám, 5 chúng xuất gia
thứ tự thì Thức Xoa đứng trên Sa Di, bởi vì vị này chuẩn bị
học giới Đại Ni; cho nên gọi Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Thức Xoa Ma Na, Sa
Di, Sa Di Ni là vậy. Thậm chí lúc chúng nhóm họp, Phật dùng nghi
thức bất tiện mặc dù Đại Ni cũng phải ở sau Sa Di; Thức Xoa phải sau
Đại Ni nữa.
- Luật
Tăng Kỳ ghi rằng, Tỳ kheo Ni ngồi dưới, Sa Di ngồi trên có từ giữa
thời Minh; khai mở giới đàn, qui tắc luật lệ cơ hồ chẳng còn nghe
thấy chăng? Chỉ phép học giới bỏ phế đã lâu mà danh nghĩa Thức Xoa
cũng không nghe biết tới; đến độ có người nữ lưu chưa xuống tóc xin
thọ 5 giới liền cho thọ Thức Xoa Ma Na, là đem sai truyền sai tới
nay chưa cải đổi.
- Y cứ
luận Đại Trí Độ khi Phật tại thế có một vị trưởng giả, vợ ông không
hay có thai, xin xuất gia thọ giới Cụ Túc, sau đó thân bà ta mỗi
ngày càng lớn ra nên những nhà quý tộc (giàu có) chê trách Tỳ Kheo
Ni. Nhân đó, Phật chế Ni phải thọ 6 pháp học giới hai năm, sau mới
cho thọ cụ túc. Căn cứ theo đây người phụ nữ cũng có thể thọ Thức
Xoa Ma Na mà không phải chỉ đề cập tới đồng nữ không.
- Cũng
Trí Độ luận rằng, Thức Xoa Ma Na có 2 loại:
- 1-
Đồng nữ 18 tuổi thọ 6 học giới
- 2- Bé
gái (phu gia) 10 tuổi được thọ 6 học pháp. Đây nói riêng giới đồng
nữ.
- Phu gia
10 tuổi có thể hiểu là người hoặc nhân mẹ mất, hoặc nhà nghèo khổ
không đủ sức nuôi dưỡng bèn đem bé gái cho phu gia nuôi dưỡng 10
năm. Tình trạng bé dần dần phát triển lại ở nhà người bão dưỡng thật
khó nên không muốn việc đó. Ngoài ra đồng nữ đến tuổi 18 dù chưa lấy
chồng, nhưng tuổi đã lớn nên phải dự phòng vậy. Nhưng không hẳn đồng
nữ hay phụ nữ mà đã là kẻ xuất gia thì quyết định không còn hồ nghi
thậm chí địa vị họ. Thức Xoa trước Sa Di và sau Tỳ Kheo Ni, với chí
xuất gia cầu thọ giới cụ túc; không thể nên có ý hiềm nghi đó. Thức
Xoa tạm huởn 2 năm để có cơ sở học giới; không so sánh với Sa Di
chưa thọ giới Cụ Túc. Lại Thức Xoa thọ 6 pháp không giống năm giới
của Ưu Bà Di. Nay ghi đủ phép học giới của Thức Xoa để giữ gốc
nguồn. Cứ theo Luật sư Đạo Tuyên dẫn lục trong luật Tứ Phần tùy cơ
yết ma phần 3, thiên thọ các giới pháp.
- Trong
phần truyền giới Ni cũng ghi:
- - "Sau
thọ giới Sa Di Ni kế tiếp mới truyền pháp Thức Xoa Ma Na. Lại ở
trước thập sư ni truyền bổn pháp rồi đến trước đại tăng thọ giới cụ
túc. Chỉ tùy lúc yết ma truyền giới Thức Xoa phỏng dựa theo đây là
thuận hợp. Gọi bổn pháp, là giới căn bổn của đại Tỳ Kheo Ni phải
thọ, là học giới nữ, trước thời kỳ lên thọ giới Tỳ Kheo Ni. Nên đổi
tên gọi là pháp bổn Ni; lại Thức Xoa Ni thăng tiến lên một bậc".
- Sa Môn
Đàm Đế đời Tào Ngụy có biên tập pháp yết ma quyển hạ, trong đó có
chữ “phụ nữ” thuộc quyển 9 như: Sa Di Ni sau khi thọ giới rằng, nghe
đồng nữ 18 thọ giới Sa Di Ni 2 năm học đủ giới tới năm đủ 20 tuổi
cho thọ giới Tỳ Kheo Ni. Xem thêm trong tăng thọ thiên giới v.v…
Ngoài ra, Thức Xoa Ma Na thọ 6 giới như sau đây: Sa Di Ni phải đến
giữa chúng Tỳ Kheo Ni trịch y bày vai hữu, lễ Tỳ Kheo Ni, Tăng xong,
quỳ ngay ngắn chấp tay tác bạch như thế này :
- - "Đại
tỉ tăng lắng nghe con Sa Di Ni … nay từ chư tăng xin 2 năm học giới
với Hòa Thượng Ni thượng A hạ B mong tăng tế độ cho con, xin thương
xót cho con 2 năm học giới". Lần thứ hai, lần thứ ba cũng bạch
như vậy mới hợp pháp Sa Di Ni. Sau khi bạch xong lễ xuống 3 lạy rồi
lui ra chỗ có thể thấy mà không thể nghe (phép yết ma) đợi đại Ni
làm phép yết ma xong, cho vào mới bạch rằng:
- - "Đại
tỉ tăng lắng nghe, con Sa Di Ni… từ tăng xin 2 năm học giới, Hòa
Thượng Ni A, nếu tăng phải thời mà đến, tăng thuận nghe; nay cho Sa
Di Ni 2 năm học giới; với Hòa Thượng Ni A, bạch như thế, tác bạch có
thành không?"
- - "Đại
tỉ tăng lắng nghe, đây là Sa Di Ni … nay từ tăng xin 2 năm học giới
với Hòa Thượng Ni A…; nay cho Sa Di Ni 2 năm học giới với Hòa Thượng
Ni A, mong chư Đại Tỷ lắng nghe, Tăng cho Sa Di Ni…2 năm học giới
với Hòa Thượng Ni A, nếu bằng lòng thì im lặng; ai không bằng lòng
thời nói. Đây là pháp yết ma thứ hai, bạch như thế tác bạch có thành
không? (lần thứ 3 cũng như vậy)".
- Tăng đã
thuận cho Sa Di Ni … 2 năm học giới với Hòa Thượng Ni A xong, tăng
đã bằng lòng thì im lặng. Việc như thế mà suốt biết. Nên như thế mà
truyền cho 6 pháp.
- - Giới
thứ nhất:
"Này giới tử: Đây là 6 học giới, hãy lắng nghe cho kỹ, Như Lai vô sở
trước đẳng chánh giác nói ra 6 pháp không được có phạm hạnh bất
tịnh, tức là dâm dục. Nếu Thức Xoa Ma Na hành dâm dục, chẳng phải là
Thức Xoa Ma Na, chẳng phải con giòng họ Thích; cùng với người nam có
tâm ô nhiễm, thân xúc chạm nhau. Mất giới, giới kém nên cho thọ giới
lại trong đó nên giữ suốt đời không được phạm, con có thể giữ được
không?”
- Đáp:
- - "Mô
Phật, con giữ được".
- - Giới
thứ hai: “Không được trộm cắp cho chí cộng cỏ lá cây, nếu Thức Xoa
Ma Na lấy của người giá 5 tiền, hoặc quá 5 tiền; hoặc tự lấy, khiến
người lấy; hoặc tự đẳn hoặc bảo người đẳn; hoặc tự phá, bảo người
phá, hoặc đốt, hoặc chôn, hoặc hoại sắc, chẳng sắc… Như thế Thức Xoa
Ma Na chẳng phải con gái giòng họ Thích. Nếu lấy dưới 5 tiền giới
kém phải nên thọ giới lại, từ đây cho đến suốt đời không được phạm,
con có thể giữ được không?”
- Đáp:
- - "Mô
Phật, con giữ được".
- - Giới
thứ ba: “Không được giết hại chúng sanh, cho chí con sâu, con kiến.
Nếu Thức Xoa Ma Na cố tự tay giết chết người, cầm dao đưa người bảo
giết chết, khuyên chết, tán dương chết, như cho uống thuốc, hoặc phá
thai, yểm bùa, chú thuật hoặc tự làm, hay dạy người làm không phải
là Thức Xoa Ma Na, không phải là con gái giòng họ Thích. Như giết
loài súc sanh không thể biến hóa hình được nữa. Giới khuyết phải nên
thọ lại, từ đây cho đến suốt đời không được phạm, con có thể giữ
được không?”
- Đáp:
- - "Mô
Phật, con giữ được".
- - Giới
thứ tư: “Không nói dối cho đến giởn đùa. Nếu Thức Xoa Ma Na không
nói chân thật, chuyện không nói có, như tự nói được pháp bậc thượng
nhơn, nói chứng thiền, đạt được giải thoát, được tam muội chánh thọ;
đạt quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm; nói trời đến, rồng đến,
quỉ thần đến … cúng dường tôi. Đây không phải là Thức Xoa Ma Na,
không phải con gái giòng họ Thích. Nếu giữa chúng cố nói dối, giới
kém phải nên thọ lại, từ đây cho đến suốt đời không được phạm, con
có thể giữ được không?”
- Đáp:
- - "Mô
Phật, con giữ được".
- - Giới
thứ năm: “Không được ăn phi thời. Nếu Thức Xoa Ma Na ăn phi thời;
giới kém phải nên thọ lại, từ đây cho đến suốt đời không được phạm,
con có thể giữ được không?”
- Đáp:
- - "Mô
Phật, con giữ được".
- - Giới
thứ sáu: “Không được uống rượu. Nếu Thức Xoa Ma Na uống rượu phạm
giới phải nên thọ lại, từ đây cho đến suốt đời không được phạm, con
có thể giữ được không?”
- Đáp:
- - "Mô
Phật, con giữ được".
- Thức
Xoa Ma Na đối với hết thảy giới của Ni trong đó phải học; trừ Tỳ
Kheo Ni tới dùng bửa, cho ăn mới nên ăn. Trong đây 4 giới trước nếu
phạm gọi là phạm 4 giới nặng nên cho ra khỏi chúng. Nếu phạm với tâm
ô nhiễm đụng chạm thân người nam, trộm cắp dưới 5 tiền; dứt mạng
loài súc sanh, nói dối, ăn phi thời, uống rượu gọi là khuyết giới.
Trở lên các giới quy định, nếu làm đều phạm phải sám hối xin hai năm
học pháp, mà vẫn phạm trở lại. Nếu phạm các giới căn bản của đại Ni
tất phải như pháp mà sám hối trong 2 năm học giới thanh tịnh rồi mới
đưa ra giữa 2 bộ Tăng Ni cho thọ cụ túc giới.
- Chứng
nghĩa ghi:
- Nếu
Thức Xoa Ma Na phạm 6 giới ắt phải như pháp sám hối. Ba lần truyền
giới vẫn phạm, lần thứ ba phán giới ngăn như ở trước, có nêu rõ hạng
người thứ hai rằng, nếu là Thức Xoa Ma Na, đây gọi là học giới nữ,
Phật dạy khiến cho học 3 pháp. Như lúc sám hối nên mỗi mỗi hỏi kỹ.
Một là học căn bản: 4 giới trọng; hai là học 6 giới, như tâm nhiễm
xúc chạm, trộm cắp dưới 5 tiền, giết sanh mạng, nói dối, ăn phi
thời, cố uống rượu. Ba là học hành pháp có nghĩa là các giới đại ni
trong những oai nghi. Nếu Sa Di, Sa Di Ni chỉ ban 10 giới căn bản
trong đó 7 già trọng tội cả 3 chúng đều phải hỏi. Trong 3 chúng đây
hoặc căn bản có phạm 7 già tội mỗi mỗi y luật tẩn trừ (đuổi). Nếu 6
pháp học giới nữ bất tịnh bèn cho 2 năm yết ma; do đương sự đã thọ
giới Thức Xoa Ma Na, không phải hàng chúng Sa Di Ni. Lại nữa Thức
Xoa Ma Na giới kém lại là người nữ chẳng chân thật học giữ giới
thanh tịnh, nhưng cả hai không có điều nào quy định. Ba tụ giới
thiếu sót nên không thể thọ Bồ Tát giới được. Trong 3 chúng chỉ nữ
học giới nầy có quy định rõ. Thêm phần nghiêm trọng đối với Sa Di,
Sa Di Ni, chỉ có Thức Xoa gần đại giới Ni vậy. Vì luật chế trước khi
sắp thọ Bồ Tát giới phân kỹ giới có 4 loại: xuất gia Tỳ Kheo, Tỳ
Kheo Ni; xuất gia Thức Xoa Ma Na, Sa Di, Sa Di Ni; Phật tử nam nữ
tại gia ham tu thập thiện đã thọ 5 giới. Từ cấp bực mà tiến lên để
dần dần thọ các giới; người chợt phát đại tâm thọ Bồ Tát giới, có
nghĩa là đốn thọ - thọ giới ngay tức khắc. Y theo luật chế, điều
kiện của Thức Xoa Ma Na là ni xuất gia, không phải giới nữ lưu tại
gia. Theo kinh Hoa Nghiêm ghi rằng, Thiện Tài đến Vương đô đại
thành, muốn tham học với Bất Động Ưu Bà Di mà không biết ở đâu. Có
nhiều người bảo cho Thiện Tài biết rằng, Thiện Tài đến Vương đô
thành muốn tham học với Bất Động Ưu Bà Di đích thị là một đồng nữ
tại gia, bà săn sóc cha mẹ v.v… căn cứ theo đây để thấy rằng đồng nữ
cũng gọi là Ưu Bà Di vậy.
- Căn cứ
bộ Sự Sao thiên Ni chúng, có dẫn luật Thiện Kiến ghi rằng, lúc đầu
Phật không độ cho người nữ xuất gia vì làm cho chánh pháp giảm mất
500 năm; về sau Phật mới vì họ nói 8 kỉnh pháp; ni giới nghe xuất
gia y lời dạy thực hành pháp hoàn lại được ngàn năm. Thời nay không
theo có nơi giáo pháp bị diệt như sách Hội Chánh ghi rằng, sau khi
Phật thành đạo 14 năm Di Mẫu Đại Ái Đạo cùng với 500 thích nữ đến
Phật cầu xuất gia, Phật không thuận hứa độ họ. Ngài A Nan vì họ
trình bày rõ và thưa thỉnh 3 lần. Phật sai A Nan truyền bát kỉnh
pháp cho họ, nếu như Ni có thể thực hành được, mới cho xuất gia. A
Nan đáp: "con xin vâng thọ trì". Là bạch bốn lần yết ma xong mới
thuyết 8 kỉnh pháp và Ngài nói 8 kỉnh pháp.
- Đây là
8 pháp:
- 1- Tỳ
Kheo Ni trăm tuổi gặp vị Tỳ Kheo mới thọ giới nên đứng lên đón tiếp,
xá chào, han hỏi, mời ngồi,
- 2- Tỳ
Kheo Ni không được nhạo báng Tỳ Kheo,
- 3-
Không được cử tội Tỳ Kheo, không nói lỗi quấy của Tỳ Kheo. Tỳ Kheo
được nói lỗi của Tỳ Kheo Ni,
- 4- Thức
Xoa Ma Na đã học giới phải cầu thọ đại giới nơi chư Tăng,
- 5- Ni
phạm giới tăng tàn đưa ra trong lễ Bố Tát giữa tháng, trước hai bộ
tăng chúng thực hành pháp cử tội,
- 6-
Trong nửa tháng Bồ Tát Ni đến tăng thỉnh cầu thầy giáo thọ (dạy
chúng),
- 7- Tỳ
Kheo Ni không nên ở chỗ không có Tỳ Kheo kiết hạ an cư, 8) Sau khi
an cư xong, phải đến tăng Tỳ Kheo cầu 3 việc tự tứ, sám hối, đó là
thấy - nghe - nghi.
- Tám
pháp như thế phải cung kính tôn trọng, tán thán hết mình trọn đời
không nên vi phạm.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Đây là
mẫu mực tối sơ (ban đầu) độ ni chúng. Ngày nay việc truyền thọ giới
còn chưa biết pháp này, huống chi hành trì?
- Nhưng
điều thứ 7 nói không nên ở chỗ không có Tỳ Kheo kiết hạ an cư. Đây
dựa đại giới vuông 10 dặm hoặc tới 40 dặm, không có đại tòng lâm Tỳ
Kheo không được an cư. Cho nên kỉnh pháp thứ 8 ghi rằng, sau khi an
cư xong phải đến trước chúng Tỳ Kheo tăng cầu 3 việc tự tứ như: thấy
- nghe -nghi. Y cứ pháp thứ 8 qui định: ni và đại tăng không ở chung
một chùa cần nên biết.
- Theo
sách Chiêu Khánh, Thầy Ngọc Luật thuật về 2 bộ tăng qua nghi thức
truyền giới phần mở đầu rằng: “vào năm Đinh Mùi vào mùa xuân, tại
Côn Sơn có Hòa Thượng Ni Mật Chiếu cùng với Từ Thái phu nhơn lên núi
Hoa Sơn thiết lễ cúng dường. Học chúng nữ đi theo xin thọ giới cụ
túc, hành trì nửa tháng thuộc các oai nghi. Trước lão nhơn cử Mật
Chiếu Ni làm Hòa Thượng, Ni Siêu Trần ở Dương Châu làm Yết Ma, Ni
Viên Chứng ở Trấn Châu làm Giáo Thọ và chọn chư ni giới đức hạ lạp
cao làm 7 tôn chứng, mở giới đàn truyền giới ni hơn 40 vị. Sau giới
đàn đến am Nhất Diệp tỉnh Sơn Nam họp 2 bộ Tăng Ni, trước truyền bổn
pháp. Ngày kế Hòa Thượng Ni cho họp chúng lại để thông bạch lời dạy
của Như Lai, rồi cùng với hội đồng giới sư 9 vị, hướng dẫn chư ni,
lên núi cầu xin thọ Đại giới. Lão nhơn liền tập họp 2 bộ tăng ni, vì
đó tác pháp viên mãn.Việc này trước hết lão nhơn tuân lời Phật dạy 2
bộ tăng vì ni truyền nghi thức thọ giới; tức dẫn lễ, sắp xếp giới
đàn đều do Ni chúng”.
- Căn cứ
theo đây ra khỏi giới tràng tới am Nhất Diệp tại Sơn Nam phải họp ni
chúng. Cho thấy kỉnh pháp thứ 7 không nên an cư nơi không có Tỳ Kheo
để chỉ trong ngoại giới tràng mà nói, không phải nói Tỳ Kheo cùng an
cư một chỗ.
- Lại
sách Nhứt Mộng Mạn ngôn quyển hạ ghi rằng, vào khoảng tháng 2 năm
Thuận Trị thứ 10, ở phủ Hán Dương thuộc Sở, có sư cô Tâm Văn độ 50
tuổi chuyên tu trì giới. Cùng môn đồ 9 người không kể nguy hiểm
đường xa, tất cả 10 người lên núi cầu xin an cư 3 tháng và cúng
dường 60 thạch gạo, 20 lạng bạc. Xem với tâm thành tha thiết của họ
bèn được lân mẫn giúp đỡ, chấp thuận. Trong ngày cúng dường trai
phạn họ không chịu vào trai đường hành lễ; thọ trai xong, Hòa Thượng
họp chúng và bảo sư cô rằng:
- - "Cô
phát tâm từ xa tới học giới, vì sao không vào trai đường lễ chư
Tăng? Luật dạy Tỳ Kheo Ni dù trăm tuổi phải lễ Tỳ Kheo mới thọ giới.
Nay tự khinh mạn tăng không thể nào học giới được".
- Sư cô
đáp:
- - "Con
ở Sở, nếu có thiện tri thức tới chùa thiết cúng trai, Phương Trượng
đều cho khách miển lễ nên không phải lễ lạy".
- Tôi
nói:
- - "Họ
tham cầu lợi dưỡng làm bại hoại giáo pháp. Hễ thấy có Ni tới cúng
dường là cung kính như mẹ ruột những mong được cúng hậu; ấy là vi
trùng nơi thân sư tử chứ không thật là thiện tri thức. Núi Hoa Sơn
chúng tôi dù sống đạm bạc, thà nhịn ăn chịu đói khát chứ quyết không
tham lợi mà phạm luật. Hôm nay buổi cúng dường trai phạn là đãi
chúng thường trụ, số tiền cúng hoàn lại cho cô; cũng như gạo để dưới
viện có thể tới đó lấy về".
- Cô ta
làm chuyện vô minh bèn nhận lại tiền rồi sau đó dẫn đồ đệ ra phía
sau núi đứng trước tịnh thất Thủy Động, cho đệ tử là Cổ Đàm đi vào
tịnh thất bạch rằng:
- - "Có
Sư cô ở xa tới đang đứng ở ngoài động".
- Hòa
Thượng bèn phương tiện chấp nhận để: làm cho cô không thoái tâm;
đại chúng được cúng dường nửa tháng.
- Tôi
nghiêm nghị trả lời:
- - "Chỉ
cần tu hành chân thật. Đại chúng chẳng treo bình bát (nhịn đói).
Pháp môn tu tập lập đúng do nơi đạm bạc; Phật thuyết luật, sư hành
luật đâu thể thấy lợi mà phạm Thánh chế ư!"
- Cổ Đàm
thẹn đảnh lễ lui ra, độ 3 hôm sau sư cô Tâm Văn dẫn chúng lên núi,
tất cả đều quỳ trước cửa phòng Phương Trượng khóc lóc, và nói rằng:
- - "Ở sở
mông lung như thế, thật sự chúng con không dám tự khinh thường tăng.
Khẩn cầu Hòa Thượng từ bi tha cho chúng con sám hối".
- Nên có
câu rằng: "Dạy tuân theo là răm rắp hành". Các vị lãnh đạo vì chúng
bái cầu, do vậy tôi khiến tới Lộc Sơn trang kiết giới an cư. Tìm vị
A Xà Lê nửa tháng tới thỉnh vị thầy giáo giới vì họ giảng bộ luật
chính.
- Nhân
đó, bắt đầu có tập: "Giáo Giới Tỳ Ni Chánh phạm gồm 1 quyển để lưu
hành rộng. Qui tắc cổ đức dứt khoát rõ ràng cẩn thận như thế". Nghe
xong khiến cả 10 người đồng đứng lên, lạy sám hối.
- Hết
quyển 7, phần trước.
- Ghi
Chú
- 1- Ngũ
đức: năm đức người xuất gia theo như Kinh Phước Điền giải rằng: 1.
Đức phát tâm xuất gia, chí cầu đạo cả; 2. Hủy bỏ hình tướng đẹp,
phải mặc y phục nhà tu; 3. Cắt lìa mọi yêu thương của cha mẹ, anh
em, chị em. Nói chung là tất cả những mối thâm tình cốt nhục không
còn bị vướng bận, 4. Sẵn sàng hy sinh thân mạng để phụng sự đạo
pháp; 5. Có chí hướng cầu Đại thừa để giúp đỡ nhiều người mà trong
đó gần nhất là người thân thuộc.
- 2- Hai sự
nhiếp hóa: thâu tóm để giáo hóa. Hai pháp đó là: định và trí, nhờ đó
Bồ-tát nhiếp được các căn; nhẫn được việc khó nhẫn.
- 3- Giới
kiền độ: thuộc chương phẩm, thiên. Như luật Tứ Phần có 20 kiền độ
tức là 20 chương.
- 4- Phái Ni
kiền tử: là một giáo phái tu hành cực đoan lâu đời có từ thời đức
Phật, gọi là đạo Jain. Giáo chủ phái này là Nataputta. Đạo Jain chủ
trương tu khổ hạnh, xem việc hành hạ xác thân là phương tiện cứu
cánh để được giải thoát. Đạo này ngày nay vẫn còn tại Ấn Độ. Thậm
chí có những tu sĩ đạo Jain trần truồng, không mặc quần áo. Cũng có
một số khác nhịn ăn cho tới chết.
- 5- Tứ
thánh quả: 4 quả Thánh thuộc hàng Thanh Văn là 1. Tu Đà Hoàn, 2. Tư
Đà Hàm, 3. A Na Hàm, 4. A La Hán (tương đương quả vị Bồ Tát).
- 6- Ngũ
giới Ưu bà tắc hay 5 giới của người cư sĩ tại gia. Tại gia có nam cư
sĩ là Ưu bà tắc và nữ là Ưu bà di. 5 giới đó là: không sát sanh,
không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu.
- 7- Tứ sự
cúng dường: bốn món vật dụng cần dùng cúng dường chư Tăng là: đồ ăn
uống, quần áo, thuốc men, vật trải tọa thiền (luôn cả mùng mền) để
chư tăng có đủ phương tiện tu tập thực hành đạo giải thoát.
- 8- Bố tát:
Lễ tụng giới của chư Tăng ni vào ngày mồng một và ngày rằm mỗi tháng
để ôn nhắc lại giới luật đã thọ. Tỳ kheo Bồ Tát mà không tụng giới
Bố tát được xem như lơ là không hành trì theo luật qui định.
- 9- Thập
sư: Hội đồng giới sư trong đại giới đàn truyền giới Tỳ kheo, Tỳ kheo
ni, Sa di, Sa di ni, Bồ tát giới. 10 vị sư là: 1. Đàn đầu hòa thượng
2. Yết ma A Xà lê 3. Giáo thọ A Xà lê và 7 vị tôn chứng sư, từ vị
thứ nhất đến vị thứ 7. Ba vị ngồi trên là tam sư, 7 thầy ngồi 2 bên
hay phía dưới là thất vị tôn chứng sư.
- 10- Bốn
pháp xử xự: đây là bốn cách đối ứng sao cho thích hợp của Thầy Tỳ
kheo. bốn phép đó là: 1. bị mắng không mắng trả lại, 2. bị hạ nhục
không hận tìm cách trả lại, 3. bị đánh không đánh trả lại, 4. bị
giết không giết lại.
- 11- Bốn
nơi nương tựa: cũng thuộc pháp của Thầy Tỳ kheo theo đúng hạnh xả,
ngày ăn một bửa, đó là: 1. nương tựa ba pháp y, 2. nương tựa chiếc
bình bát đi khất thực để nuôi thân, 3. nương tựa Tăng đoàn, 4. nương
tựa gốc cây, như ngày nay tự viện hay nơi thanh tu thích hợp.
- 12- Đột
kiết la: tội nhẹ của chúng Tỳ kheo. Phạm tội này phạt cảnh cáo để
sửa đổi. Ðó là tiểu giới thuộc 100 pháp chúng học; có thể sám hối và
tự sửa đổi, không cần đưa ra kỷ luật.
- 13- Ngũ
thiên thất tụ: năm thiên bảy tụ giới của Tỳ kheo trong 250 giới qui
định phân loại theo tội phạm và mức độ xử phạt. 5 thiên đó là:
- Thiên 1: Phạm tội ba
la di (trọng tội): phạt đuổi khỏi chùa
- Thiên 2: tội tăng tàn
13 pháp hay 17 pháp (ni), có thể sám hối trước
đại tăng, cũng như
phạt làm việc do tăng qui định.
- Thiên 3: Tội ba dật đề
hay xả đọa (30 pháp): đưa
vật trình ra trước
tăng để xả rồi sám hối tội đáng đọa lạc. Nếu phạm không có tang vật
nhưng
gây tai tiếng xấu cho tập thể gọi là pháp đọa.
- Thiên 4: tội thâu lan
giá có 3 cấp bực: nặng, vừa và nhẹ ví như
cố ý giết mà đối tượng
chưa
chết, hay âm mưu
bại lộ việc bất thành…
- Thiên 5: ác tác và ác
thuyết – nói bậy và làm bậy, vi phạm bị phạt nhẹ như
vi cảnh vậy.
- Thất tụ là 7 nhóm giới
như
sau: Nhóm 1: 4 pháp cực ác; Nhóm 2: 13 pháp tăng tàn; Nhóm 3: 30
pháp xả đọa; Nhóm 4: 90 tội đọa; Nhóm 5: 2 pháp bất định; Nhóm 6:
100 pháp chúng học; Nhóm 7: 7 pháp diệt tranh cải
- 14- Diệt
tránh: dứt tranh cải. Đây là giới luật Tỳ kheo cần phải diệt trừ sự
tranh cải nổi lên để an ổn trong chữ Tăng.
- 15- Thập
triền: 10 món trói buộc làm cho chúng sanh không thoát ra khỏi vòng
sanh tử. đó là: 1. Vô tàm, 2. Vô quí (không biết hổ), 3. tật (ganh
ghét), 4. xan (keo kiệt), 5. sân (hờn giận), 6. thụy miên (ham ngủ),
7. trạo cử (tâm chập chờn dao động), 8. hôn trầm (tối tăm, chìm
đắm), 9. sân nhuế (giận dỗi, nổi xung thiên), 10. phú (tráo trở, che
mù tâm).
- 16- Thập
sử: 10 mối sai khiến, vì phiền não có sức sai khiến chúng sanh hành
động sai lầm để tạo nghiệp được
chia làm 2 loại: lợi và độn (trì trệ, nặng nề) – Tham, sân, si, mạn,
nghi: 5 độn sử; thân kiến, tà kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm
thủ gọi là 5 lợi sử (nhạy bén).