-
QUYỂN
BẢY
-
-
CHƯƠNG
BẢY
- (Chứng
nghĩa ký Phần
sau)
-
---o0o---
-
7.1 Treo Đơn
- Treo
đơn, xưa nói là treo vắt lên. Vì tăng đi hành cước chỉ mang theo y
bát nên gọi là quải đáp, tức là y vắt mang theo vậy. Ngày nay đi
tham học mang theo hành lý, đổi lại gọi là quải đơn. Phàm dọn đơn,
khi có tăng khách đến nhà lấy lễ tiếp đãi. Hỏi khách đến có việc gì
cho rõ ràng rồi tùy nghi mà đưa tới phòng. Khách từ xa đưa tới gặp 2
chúng trưởng đưa sang phòng khách quí hay tới phòng chờ. Khách là
thiền tăng tới học đưa lên phòng tập thể, theo chúng đi quá đường,
tụng kinh… Nếu người không có y bát, chứng điệp, hành lý; thậm chí
trông người diện mạo khả nghi từ chối không cho đơn; chỉ cho xem Nội
Qui nhà khách và điều lệ liêu xá nêu rõ.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Y cứ
Kinh Phạm Võng, có nạn tăng giả mạo du hành, mặc áo vá đi khất thực
có hai thời điểm:
- a- Từ
ngày 15 tháng giêng đến 15 tháng 3;
- b- Từ
15 tháng 8 đến 15 tháng 2, là trong 2 thời kỳ đó.
- Nguyên
vì người học đạo đi xa, không xa hơn 10 dặm; tìm thầy học đạo ra
khỏi một tòng lâm vào một chùa khác, cho chí đi khắp đó đây chưa
từng nghỉ ngơi. Việc dọn đơn vì thế phải xảy đến vậy. Vì Tri Khách
tùy nghi dẫn tới đơn không được coi thường; vị Trụ Trì sẵn lòng từ
bi đừng xem thường dọn đơn; nên giữ đạo phong thường trụ, Phật pháp
mới tồn tại lâu dài là hoàn toàn do nơi đây.
- Ngài
Vân Thê Liên Trì đại sư nói rằng: "chiếc đơn dùng khi có tăng hành
cước, vì chịu đói khát, nóng lạnh, trải qua nhiều gian khổ. Nay may
được có chỗ đỡ đầu, dù không biết tu hành nhưng biết hổ thẹn. Nhà tu
ghé đến nên ân cần cúng dường cho thọ dụng không dám lỗi phần. Cho
nên nói rằng ai từng là du phương xem như khách bàng quan vậy".
- An đơn
tức là đặt đơn, quải đáp tức hành lý, tăng trở về chùa; ở lại một
đêm gồm bửa ăn. Một hai bửa là khách qua đường, gọi là khách tăng
tạm thời. Nếu khách ở lại một vài tuần, gọi là đại quải đáp; vì
khách ở lại lâu nên biết đồ đạc hành lý có thể để ở đâu, liền đưa
khách vào nhà gọi là an đơn. Nhưng gặp trường hợp này người xin ở
lại, tri khách hỏi xem lai lịch rõ ràng; nhắm lưu được nên cho lưu
lại, đưa khách tới phòng ngủ, mời tới phòng khách thọ trai, để khách
tự nhiên muốn tụng kinh tùy ý, sau một hai hay ba hôm.
- Thưa
trình Hòa Thượng doãn nạp. Khách ở qua đêm phải thông báo cho Duy Na
biết ghi vào sổ lưu, ghi rằng: "Ông…khoảng…tuổi, có tới chùa ở lại.
Ông là người xã…quận…huyện…tỉnh…con ông bà…Lúc chưa đi tu làm nghề
gì…tại cơ sở…xuất gia tại chùa…năm… háng…Thầy bổn sư là…thọ Tỳ Kheo
ngày… tháng…năm…tại đại giới đàn…"
- Ngày kế,
sáng sớm điểm tâm xong, sau khi nghe hai hồi bảng chuẩn bị đầy đủ
hương đèn nghi tiết hướng dẫn lên phòng Phương Trượng đứng bên ngoài
cửa đợi thị giả thông báo Hòa Thượng. Hòa Thượng ra ngồi, xong tri
khách chấp tay bạch:
- - "Có
thầy… đến thăm Hòa Thượng".
- Kế tri
khách tới lễ 3 lạy xong, Phương Trượng có hỏi gì cứ thành thật đáp.
Thăm hỏi xong đưa đến Thiền đường, báo 3 hồi bảng. Giám Tự cuốn rềm
màn lên, đại chúng đứng nguyên; tri khách trước lễ Mười Phương
Phật hướng lên phía trước thầy nói: "Các thầy cùng tham dự tiến
vào hành lễ, lễ xong; tri khách lui về chỗ". Duy Na tiếp đưa khách
tới vị trí, hoặc nhà đông, hoặc nhà tây theo đơn cùng theo chúng,
hầu mở cuộc vấn đáp ngắn gọn. Duy Na hỏi tên ghi sổ, cho mang hành
lý vào phòng, sửa soạn giường ngủ, thời kinh tối. Tham thiền lần đầu
mang tọa cụ lên chánh điện, tọa thiền xong, Duy Na bảo:
- - "Có
thầy mới đến thiền đường đó, chúng ra làm lễ", lễ xong trở lại chỗ.
- Duyệt
chúng đưa lên phòng Phương Trượng làm lễ, lễ xong trở về chỗ. Duy Na
lãnh chúng tới liêu chính tuần tự bảo gõ 2 hồi bảng chiều. Phương
trượng mời khách dùng trà, Duyệt chúng tiếp đãi. Ngày kế buổi sáng,
Duy Na nói rằng:
- - "Thầy
khách lên điện hành lễ, chúng ra cùng lễ".
- Tân
khách lạy Phật 3 lạy xong hướng qua phía thầy phương trượng
ngồi, lạy 3 lạy rồi xoay sang hai bên chúng, mỗi bên xá một xá xong.
Duy Na dẫn tới Chúng trưởng, Duyệt chúng, Hương đăng… mỗi nơi xá
chào xong, bèn xá Duy Na rồi về chỗ nghỉ ngơi. Nếu thầy Phương
Trượng mời dùng cơm, duyệt chúng tiếp đãi hay tùy Ngài có người tiếp
riêng.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Đặt đơn
an chỗ, chính vì cầu đạo mà đến. Chủ khách cả hai không nên phụ lòng
nhau. Trụ trì (Phương Trượng) nên tỏ ra có đạo đức chân thật, săn
sóc ân cần. Người tới học cần có tâm nhẫn nại chịu khó tham học.
- Sách
Chích Cổ ghi rằng:
- Xưa tại
huyện Diệp Nhữ Châu có học viện rộng lớn nơi Quy Tĩnh thiền sư làm
trụ trì tánh nghiêm khắc lạnh lùng, chúng nễ sợ Ngài. Phù Sơn ở xa
tới lúc trời tối, nghe uy danh thiền sư, đặc biệt tới tham vấn. Lúc
đó gặp trời tuyết giá, Quy Tĩnh trách mắng đuổi đi, đến đổi tiểu vải
ra đất, quần áo đều thấm ướt. Tăng giận bỏ đi, song chỉ đi một đổi
xa còn tiếc nuối trở lại ngồi chờ. Giây lát thiền sư lại mắng rằng
ông chưa chịu đi sao? đợi tôi đánh hả? Viễn nói:
- - "Viễn
nhớ hai người ở xa nghìn dặm, đặc biệt tới tham vấn Hòa Thượng Thiền
sư, sao để cho giọt nước tràn đi".
- Sư cười
bảo:
- - "Hai
người các ông tới đây đúng là cần tham thiền", liền sai tri khách
dọn đơn, chẳng lâu sau sung chức điển tọa, làm cho chúng khổ sở cơ
cực. Quy Tĩnh đi khỏi chùa, Viễn khách lấy bột gạo trộn dầu nấu cháo
ngũ vị thật chín nhừ. Quy Tĩnh trở về cháo đã để sẵn nơi tòa ngồi
của sư. Viễn đến, sư hỏi:
- - "Ông
lấy bột gạo có liên quan trộm đồ của thường trụ".
- Viễn
nói:
- - "Sự
thật có lấy bột gạo, ngưỡng mong được trách phạt".
- Sư Quy
Tĩnh sai lấy y bát thưởng công trực, lại đánh 30 gậy rồi tha cho.
Quy Tĩnh một hôm ra ngoài chùa thấy Viễn ở dưới hàng ba. Sư hỏi:
- - "Đây
là hành lang của chùa, ngươi đã ở đây lâu rồi có từng trả thuế nhà
không?" Lại truy đòi tiền thuế.
- Viễn
không đổi sắc mặt vào chợ xin tiền hoàn lại, nhưng không chịu ra
khỏi chùa. Quy Tĩnh bảo với chúng rằng:
- - "Viễn
thật tâm muốn tham thiền", bèn cho trở về.
- Sư
thượng đường đối giữa chúng giao hoàn y lại v.v…
- Ôi! cổ
nhân gần thầy, chọn bạn sớm chiều không dám lười nhác như thế! Đến
như bếp núc, vác xuẩn, lính thủy, lính bộ, binh dịch như chưa từng
biết lao nhọc. Người đời nay áo cơm đạm bạc, bèn nghĩ người xưa công
việc bề bộn lao khổ mà an nhàn riêng một cõi; an nhiên học đạo là
thế đấy!
- Như Trụ
Trì ngày nay chỉ lấy việc đời tự buộc hoàn toàn không biết học kinh
nghiệm để tạo điều kiện mà khích lệ người học Phật. Đức độ cao phong
như thế xem chừng không đáng phục; chủ khách hai đàng cô phụ nhau,
thật là đáng tiếc!
- Nếu có
việc làm chung tập thể, trước tiên phải thông báo nơi nhà khách như
sau:
- - "Đại
chúng khi nghe hiệu lệnh bảng tập họp nên có mặt đông đủ để cùng làm
việc (làm vườn, trồng cây)".
- Tại nhà
kho Giám thâu chuẩn bị trước đồ dùng (dụng cụ) đầy đủ: đợi nghe bảng
hiệu xong, đem phân phát mỗi người. Chiếu Nội Quy làm việc buổi sáng
cho hoàn tất theo sự chỉ định.
- Đại
chúng mỗi người trước sau thứ tự ra khỏi chùa lúc công tác không
được giởn đùa, nói cười thô tháo. Mỗi người tự lo bổn phận trong sự
chú tâm, làm công tác xong lại trở về.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Phép
làm việc chung, trên dưới đều ngang nhau. Những ngôi chùa trên núi
công việc quá bề bộn, nhân gặp lúc có bảng hiệu nhóm chúng là phải
đi hết. Dù Trụ Trì cũng không được muốn lánh việc nhọc; ai có bệnh
duyên không nên miễn cưỡng. Người già yếu được phép nghỉ. Đại chúng
sống chung mọi việc khai, giá cũng phải hiểu nhau để trợ duyên.
- Y cứ
theo ngài Chí Siêu tại Đồng Châu, đời Đường người Bằng Dực nương
chùa Khai Hóa ở Tinh Châu xuất gia với Tán thiền sư. Làm Trụ Trì bổn
tự, thân tâm thanh tịnh, điều hành việc chúng chuyên cần đem lại an
ổn số chúng có đến cả trăm người. Quần áo, thức ăn luôn đầy đủ, mỗi
khi có việc nhọc ắt lấy mình làm gương trước.
- Ôi !
Trụ Trì thời xưa phần đông đều như thế đấy cho nên tòng lâm hưng
thạnh. Trụ Trì đời nay ở chỗ sang vinh, đẩy nhọc cho người còn riêng
mình lẩn tránh; muốn chấn chỉnh lại tòng lâm thật khó thay!
- Quy tắc
hằng ngày 6 quyển trước đã phân biệt rõ các công việc. Đây chương
nói về đại chúng bèn nêu chỉ người, người đang thực hành, không luận
người nào, làm việc gì, nêu chung nhứt nhứt không sai phạm. Người
trách nhiệm trong ngoài hàm chỉ chung mỗi mỗi tuân thủ những điều
sau:
- 1- Giới
đức đôn hậu: vì gốc tuệ giác làm cơ sở của Niết Bàn.
- 2- Phải
nhẫn chịu mọi đạm bạc mà an bần lạc đạo (sống nghèo an lạc vui đạo)
giữ vững đạo tâm.
- 3- Vắng
lặng thuần nhất, ý thức với việc chính không để phân tâm.
- 4- Bỏ
việc riêng tư, dứt tà, hiến công giữ chánh.
- 5- Nhu
hòa nhẫn nhục, tôn trọng kính người.
- 6-
Theo chúng nghe lịnh, giữ oai nghi chỉnh tề.
- 7- Chuyên
cần tu tập không lười biếng bỏ bê.
- 8- Tuân
quy tắc xử chúng, nhìn thẳng không a dua.
- 9- An
phận chú ý, không để quên sót.
- 10-
Theo quy tắc cùng gấp rút tu hành.
- Mười
điều trên đây tổng tóm lược đại cương thiện pháp không dấu che mà tỏ
trần. Còn có những việc cấm cần nêu ra ở sau.
- Chứng
nghĩa ghi lời cổ nhân dạy:
- - "Nói
một trượng không bằng làm một thước, nói một thước không bằng làm
một tấc".
- Ô Sào
thiền sư gọi thi hào Bạch Cư Dị bảo rằng:
- - “Chớ
làm các điều ác
- Vâng
làm những điều thiện”
- Dị hỏi:
- - "Đứa
trẻ 3 tuổi có biết đạo không?"
- Sư nói:
- - "Đứa
bé 3 tuổi vẫn đắc đạo mà ông lão 80 tuổi tu không đắc đạo".
- Lời nói
chí lý thay!
- Chín
việc cấm đó là:
- 1-
Không được phá giới căn bổn.
- 2-
Không được trong khi tụng giới vô cớ tùy tiện theo chúng.
- 3-
Không được bất hiếu với cha mẹ.
- 4-
Không được mạ nhục sư trưởng.
- 5-
Không được cố vi phạm lịnh cấm của chính quyền, nhà nước.
- 6-
Không được la cà gần gũi người nữ.
- 7-
Không được sau khi thọ giới mà không biết giới tướng.
- 8-
Không được thân cận thầy tà.
- 9-
Không được uống rượu, đánh bạc.
- Không
phạm chín điều trên đây gọi là Giới đức đôn hậu. Nếu phạm nhẹ bị
phạt đuổi khỏi viện.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Như
Lai những ngày sau cùng lấy việc duy trì giới luật làm tôn chỉ
thường luận đàm. Rời bỏ sự bàn lý, lý làm sao có được. Các nhà Thiền,
Giáo phải đủ giới hạnh như sương tuyết mới kham làm mô phạm lâu dài
đâu thể đem chất độc làm nên đề hồ (bơ sữa).
- Vì thế,
muốn duy trì Phật pháp không diệt, con người phải có ý chí.
Như nói đi nghìn dặm phải bắt đầu một bước; một bước chưa đi chẳng
thế nào đến nơi được, đường xa nghìn dặm khởi đi từ bước thứ nhất,
phải nên biết như thế. Từ thân này cho đến Phật thân, tức đây
là một bước. Song chắc hẳn không thể do dự không tiến lên, vì tiến
tới thời một bước này trong mỗi niệm an toàn. Dừng lại một bước phải
nghỉ ngơi, không phải một bước là tới được nghìn dặm đâu! Luận về
tiến bộ ở ngay bước đầu không có, nên tiến sâu trong tham sân si mà
trong đó mỗi thứ có vướng mắc riêng, nên phải tự biết, tự điều phục.
- Và sau
đây thêm 6 việc ngăn cấm:
- 1-
Không được bày vẽ ăn ngon.
- 2-
Không được mặc quần áo lòe loẹt.
- 3-
Không được bàn nhảm việc đời.
- 4-
Không được tranh luận tiền bạc.
- 5-
Không được canh tác, nuôi súc vật.
- 6-
Không được làm mai mối cho trai gái, làm việc hội hè như thế gian.
- Sáu
việc trên không phạm gọi là An bần lạc đạo. Nếu phạm nhẹ bị phạt,
nặng đuổi khỏi viện.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Sáu
điều trên đối với tăng trách nhiệm ứng phó, tăng ở tịnh thất… nên
biết hổ thẹn không dám phạm, huống chi chúng ở tùng lâm ư? Vì ăn đồ
ăn ngon bị vị giác câu thúc, mặc đồ lòe loẹt bị sắc trần trói buộc,
bàn phiếm, tranh biện đắm trong tham độc. Canh tác, nuôi gia súc phá
giới trọng sát sanh. Hội hè họp chúng làm phát sanh nhiều việc tệ ác
khác. Lại 4 điều trước chư tăng dễ phạm; 2 việc sau chỉ những người
trách nhiệm phạm (làm). Những điều này đều gây oán hận là gốc khổ cả.
-
Lương Hoàng sám ghi rằng: "Những gì là gốc khổ oán hận? Đó là
mắt ham sắc đẹp, tai thích tiếng hay, mũi ưa nếm hương, lưỡi đắm vị
(mùi), thân ham lòe loẹt thường bị 5 trần ràng buộc. Do vậy trải qua
vô số kiếp đi trong đêm dài tăm tối không thể giải thoát được, nên
giữ an bần lạc đạo".
- Không
làm 5 việc như sau:
- 1-
Không được vô cớ ra ngoài đi chơi, lân la tới nhà thế tục.
- 2-
Không được học theo ứng phó từ chương, xướng ca nghề tạp.
- 3-
Không được học thiên văn, địa lý, phù thủy, bái hỏa v.v… những việc
ngoại.
- 4-
Không được học nội công, luyện khí và phép vô vi phái Bạch liên, tà
đạo.
- 5-
Không được hô hào làm những công tác vô ích v.v…
- Không
phạm 5 việc trên gọi là Tĩnh thức việc làm chính. Nếu phạm nhẹ bị
phạt, nặng cho ra khỏi viện.
- Chứng
nghĩa ghi:
- Lời cổ
nhân nói rằng: "Một tấc thời gian là một tấc vàng". Lời này cảnh
tĩnh người học đạo phải biết thời giờ dễ qua, không nên luống phí
vậy. Nếu phạm 5 việc chỉ làm mất tấc bóng quang âm bèn đánh mất tâm
thuật của mình, há chẳng răn dè sao?
- Pháp
Lương Hoàng Sám ghi rằng: "Mỗi một người nên khởi tâm giác ngộ,
biết đời là vô thường; thân người không tồn tại lâu dài. Tuổi trẻ,
tráng niên ắt suy nhược chớ có trông cậy dung dưỡng, tự kiểm hành vi
ô nhiễm của mình. Vạn vật vô thường đều quy về chỗ diệt, nếu không
tin tinh cần tu chuyển nghiệp, không do đâu ra khỏi được. Cho nên
phải tĩnh thức trong phận sự chính mình".
- Cũng
không được làm 6 việc như:
- 1-
Không được quyên góp (mộ hoá, hóa duyên) phi lý.
- 2-
Không được lạm dụng của tín thí.
- 3-
Không được lấy dùng vật của thường trú tăng.
- 4-
Không được làm hư hại đồ vật dụng mà không bồi thường.
- 5-
Không được dấu chúng mà ăn.
- 6-
Không được không bạch chúng biết mà đụng đến vật tăng vô chủ.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Công
tức là không phải việc tư; dựa theo tiền tài mà nói; chánh tức là
không tà, phỏng theo ái ngữ mà nói. Song 6 điều này đa phần dựa tài
vật thuyết minh theo kinh luận ghi rằng: "nếu vật thuộc người khác,
người khác mới được giữ gìn. Đối vật của người dù một cộng cỏ, một
lá rau người ta không cho không được lấy, huống gì trộm cắp? Vì do
chúng sanh chỉ thấy lợi trước mắt, nên dùng mọi cách vô đạo mà lấy;
dẫn đến vị lai phần nhiều bị hoạn họa. Thế nên luôn phải giữ tâm
công chính, duy trì 6 điều này".
- Có bài
kệ cổ ghi rằng:
-
- "Tâm ta
như đòn cân
- Cân đo
vị công bằng
- Tâm ta
giống vách tường
- Ngay
chính giữ thẳng đường
- Công
chính làm người phục
- Công
chính lấy làm gương
- Người
vâng công giữ chánh
- Kẻ
trong sạch ai đương"
- Bốn
việc cần nên an nhẫn như sau:
- 1-
Không được miệng mắng chưởi, thu tay đánh đấm.
- 2-
Không được bị nhục chẳng nhẫn hiện sân ra trên nét mặt.
- 3-
Không được dùng oai lực uy hiếp người.
- 4-
Không được khi dễ người già cả.
- Chứng
nghĩa ghi:
- Nơi
chương đề cập tu hành rằng, chớ có sân giận. Bởi vì một niệm sân tâm
khởi, trăm nghìn cửa nghiệp chướng đều mở toang. Khinh mạn như núi
cao, nước chảy không mòn. Vã, phi lý sân thô mà lại dễ trừ; chấp lý
phát sân tế mà khó dứt. Thế hay xuất thế cũng vậy, nếu không đạt
nhẫn từ ắt bại ngay nơi niệm sân. Cho nên người quân tử lấy từ nuôi
đức, lấy nhẫn dưỡng tâm; việc nhỏ không nhẫn được, mưu lớn phải loạn.
Kiếp đao binh hung hiễm do chứa sân chiêu cảm do ngã chấp mà ra. Cho
nên chứa sân làm sao thường có thật ngã được chứ! Biết ngã chấp vốn
không, sân kiêu tự dứt; hiện tại, tương lai hẳn chứng đạt thể vô ngã".
- Sách
Chích Cổ ghi rằng:
- Hòa
Thượng Tín Mộc Trăng phủ Vân Môn ở Thiệu Hưng, có vị tăng nương theo
học khoảng 10 năm, thủ lễ rất mực, đến nổi tiếng khen đồn xa. Mới
đầu chẳng nói tới phải trái, một lần khen sư ngoái mong quyến thuộc.
Về sau chư tăng tin lời dèm pha trong sách không chấp thuận, sư thật
sự bị vu xấu. Sư giận nói giữa chúng rằng:
- - "Thị
phi có che dấu được không? Chỉ có thần biết mà thôi!"
- Rồi
không ai hỏi nữa. Ôi! Xưa cho ta câu chuyện đáng suy nghĩ! Nay đáp
lại lấy oán, tôi đề cao cái đức của kia, vu khống (mắng) của kia là
việc xấu của ta hay nhẫn nhục mà không cải.
- Đó mới
là nhẫn nhục nhu hòa chí cực vậy.
-
Lương Hoàng Sám ghi: "Đối với chúng sanh không có sự sai biệt
khi nhập bình đẳng quán, không nghĩ kẻ oán người thân mà thường dùng
con mắt thương yêu nhìn khắp chúng sanh. Nếu như chúng sanh ôm tâm
oán đối với Bồ Tát khởi tâm ác nghịch, Bồ Tát là chân thiện tri thức,
khéo điều phục tâm, vì chúng sanh nói pháp mầu. Ví như biển cả hết
thảy những độc hại không làm hoại được, Bồ Tát cũng như thế. Người
ngu vô trí không biết báo ân; cũng như chúng sanh khởi vô số việc ác
không làm loạn động tâm Bồ Tát. Đó chính là nhẫn nhục nhu hòa vậy".
- Không
làm 4 việc như sau:
- 1-
Không được cười giởn vô độ.
- 2-
Không được nói bàn lớn tiếng.
- 3-
Không được thay hình đổi dạng.
- 4-
Không được đứng ngồi nghênh ngang.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Oai do
đức hiển lộ không phải oai của thế lực; nghi do tâm biểu tỏ, không
phải dối hiện cái nghi. Ngoài ra oai do nghiêm trì giới hạnh chúng
đức mới trang nghiêm; nghi do động tĩnh hợp cách tiến thoái thảy an
nhiên. Nên nói rằng hạnh trong sạch đều do đạo nghi, thanh bạch hoàn
toàn do giới phẩm. Tỳ Kheo ung dung hành đạo, cảm niệm người học sĩ
để an vui; xuất gia Phật tử an ổn hành hạnh khất thực. Thu phục
ngoại đạo bỏ tà theo chánh. Cho nên có câu rằng: "Oai nghi bằng
cách dạy vô ngôn".
- Lại oai
nghi gọi là điều ngự, có nghĩa là điều thân không vọng động, miệng
không vọng ngữ (nói dối), ý không vọng tưởng. Điều động được 3
nghiệp thiện như thế thời 6 căn tự thu nhiếp. Chích Cổ ghi rằng: "Thiền
sư Pháp Vân Bổn lúc bình thường làm việc dừng lại, ngó thẳng không
chớp mắt, nhập chúng 30 năm chưa từng hé môi cười một tiếng. Khi
đứng trông như Thánh tượng đứng thẳng không ngồi. Mâm cổ giả dùng
tên thịt cá là không ăn. Bởi một thân oai nghi tề chỉnh như thế
không hổ hình tướng người xuất gia". Trong làm mô phạm cho tăng
chúng, ngoài làm lợi lạc cho tín đồ, xét hai tiếng “oai nghi” đâu có
luống phí!
- Lại
cũng không làm 4 việc như:
- 1-
Không được nghỉ tụng kinh không có lý do.
- 2- Làm
việc không được biếng trể.
- 3-
Không được không cảnh cáo người ác
- 4-
Không nên làm hại việc có ích, không được làm điều vô ích.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Cần tu
hành nghiệp; cần là không biếng lười; tu là gia công sửa lỗi; không
để thì giờ trôi qua vô ích, tinh tấn vượt qua. Hành nghiệp có 2 phần
là thế, xuất thế; vì hành nghiệp xuất thế là chính, là yếu.
- Kinh
ghi rằng: "Chớ khinh việc thiện nhỏ mà cho là không có phước. Như
giọt nước tuy nhỏ dần dần cũng đầy cái chum (đồ chứa) lớn. Việc
thiện nhỏ không chứa không thể thành Thánh. Chớ khinh thường việc ác
nhỏ vì cho là vô tội. Việc ác nhỏ tích chứa cũng đủ để làm mất thân
người. Đây là lời chư Phật dạy ai dám không tin? Cho nên phải tinh
tấn tu thiện nghiệp xuất thế".
- Và sau
đây là 6 việc không nên phạm:
- 1-
Không được khiêu khích khẩu chiến.
- 2-
Không được kết nạp bọn đảng.
- 3-
Không được gian trá không thật.
- 4-
Không được gièm chê bậc danh đức.
- 5-
Không được vu cáo hủy hại người thanh tịnh.
- 6-
Không được khinh mắng người trật vai áo.
- Chứng
nghĩa ghi:
- Theo
Lương Hoàng Sám rằng: "Ngoài ra lỗi của miệng lại là cửa của mọi
oán họa. Chư Phật răn nhắc không được nói lưỡi đôi chiều, ác khẩu,
nói đặt điều, lời trau chuốt. Nên biết nói mách qué, lời ngọt cốt
tạo việc thị phi gây họa không nhỏ, chiêu báo rất nặng. Luận việc xử
thế con người, tâm ôm độc hại; miệng phun lời độc, thân làm hành
động độc. Vì ba độc này làm hại chúng sanh; chúng sanh bị độc liền
kết oán hận quyết tâm muốn báo thù, hoặc trong đời này theo ý muốn,
hoặc sau khi chết theo tâm". Oán đối như thế đều do 3 nghiệp.
Trong 3 nghiệp, khẩu nghiệp thật sâu nặng, cho chí thọ báo còn gieo
các mầm độc. Vì thế xử sự với mọi người nên y cứ bài kệ này:
- - "Điều
lợi thứ nhất: Sang
- Mới làm
cho chúng an
- Đừng mở
lời hai lưỡi
- Dè
chừng chớ nói càng
- Phàm ra
làm việc gì
- Nên chớ
phụ nhơn tình
- Mời gởi
hăm hăm đến
- Tòng
lâm trăm tệ sanh
- Việc
làm ra đảm trách
- Chớ mua
một người lành
- Một
người lành mua được
- Mọi
việc đều đảo khuynh".
- Thêm 15
việc không làm như sau:
- 1- Không
được gàn bướng gây sanh sự.
- 2- Không
được nói sai kinh luận.
- 3- Không
được dối phô chiếm cơ duyên cổ đức.
- 4- Không
được vô tri biên thuật làm người lầm.
- 5- Không
được chiêu nạp người xấu.
- 6- Không
được tự lập đồ chúng.
- 7- Không
được chuyên giữ trẻ nít và sa di nhỏ tuổi.
- 8- Không
được dùng việc bất minh muốn làm thầy người.
- 9- Không
được dụ dỗ đệ tử người khác, phản lại bổn sư.
- 10-
Không được vô sự đột nhập cửa công.
- 11-
Không được vọng bàn thời sự đắc thất, thị phi.
- 12-
Không được có tâm khinh ngạo các bậc tiên thánh, tiên hiền.
- 13-
Không được đem đồ đạc của Tam Bảo cho người.
- 14-
Không được xâm chiếm sản nghiệp người khác.
- 15-
Không được xông khói nhúm bếp riêng.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Thủ ý
an phận lại còn có 20 lời khuyên như sau:
- 1- Tăng
viện lấy vô sự làm hưng thạnh.
- 2- Tu
hành lấy hợp cơ duyên làm an ổn.
- 3- Tinh
tấn lấy trì giới là đệ nhứt.
- 4- Tật
bệnh lấy giảm ăn làm thuốc thang.
- 5- Sân
phiền lấy nhẫn nhục làm giải pháp hay.
- 6- Thị
phi lấy không biện bạch làm giải thoát.
- 7- Đãi
người lấy thành thật làm chân tình.
- 8- Làm
việc lấy tận tâm làm công cán.
- 9- Nói
năng lấy ít lời làm ngay chính.
- 10-
Trên dưới lấy từ hòa làm tấn đức.
- 11- Học
vấn lấy chuyên cần làm nhập môn.
- 12-
Nhân quả lấy minh bạch làm không lỗi.
- 13- Già
bịnh lấy vô thường làm sách tấn.
- 14-
Phật sự lấy tinh thành làm quan yếu.
- 15-
Kính khách lấy khiêm nhường làm sự cúng dường.
- 16- Sân
vườn (chùa) lấy cây thật làm trang nghiêm.
- 17- Gặp
việc lấy dự toán làm không nhọc.
- 18- Xử
chúng lấy cẩn ngôn làm thường lễ.
- 19- Gặp
nguy lấy không loạn để ứng phó.
- 20-
Giúp vật lấy từ bi làm căn bản.
- Chú ý
như thế mới ít lỗi lầm. Có bài kệ như sau:
-
- "Ta là
người xuất gia
- Quá bán
con nhà nông
- Phải
nhớ lúc bần cùng
- Giữ an
phận thủ thường
- Giá như
người giàu sang
- Lạc
giữa chốn thiền môn
- Nên
biết nghĩa pháp không
- Nguyên
yếu tâm ngươi chết
- Người
sợ tâm bất tử
- Tâm tử
nghèo cũng tốt
- Giữ
được phận an bần
- Trọn
đời không não phiền".
- Cần
phải tuân theo Nội Quy không làm 7 việc như:
- 1-
Không được sai mà không làm; cấm đoán lại chẳng ngưng.
- 2-
Không được có lỗi bị phạt mà không tuân theo.
- 3-
Không được lấy danh nghĩa chùa mà không ở trong tăng giới.
- 4-
Không được ngang ngạnh ngăn cản người trách nhiệm làm việc.
- 5-
Không được vì việc làm sửa đổi thành qui tắc.
- 6-
Không được không thưa thầy bạn khi tự ý làm sai.
- 7-
Không được kết giao người có lỗi bị đuổi.
- Bảy
việc trên không phạm gọi là tùy thuận Quy luật. Nếu phạm nhẹ bị phạt,
nặng đuổi khỏi viện.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Trở lên
bên trên là 10 khoa cộng gồm 67 việc đều giữ mà không phạm gọi là
tùy thuận qui chế. Lại nói rõ ràng hơn từ Tam quy, ngũ giới, giới Sa
Di, Tỳ Kheo, Bồ Tát, Bách Trượng Thanh Quy, cho chí lễ nghi 300 oai
nghi, lục độ, vạn hạnh… Luật pháp thế gian liệt ra không phạm gọi
chung là tùy thuận qui tắc, không có nêu nơi 7 điều trên.
-
Phụ:
- Mười
điều tu thân của Ngài Liên Trì (trích sách Đàm Lâu Pháp
Vựng)
- 1- Không
có tâm khi dối.
- 2- Không
được tham tiền của.
- 3- Không
được sử gian.
- 4- Không
được dùng mưu.
- 5- Không
được che dấu lỗi.
- 6- Không
được phung phí.
- 7- Không
được gần người nữ.
- 8- Không
được ngồi lê.
- 9- Không
được lánh nhọc.
- 10-
Không được phí thì giờ.
- Nguyên
chú ghi rằng: "Nói tâm khi dễ, hễ trộm vật của thường trụ, lừa đảo
vật của tín thí như Phật tượng, kinh điển, đồ trai tăng, hội
hè, tạo tự, đúc chuông, làm cầu, đắp đường… tất cả những tài vật như
thế mà lấy dùng riêng. Cho đến dối người, dối quan, dối trời, dối
thần…những việc ám muội đều gọi là khi dối. Dù không trộm, lừa đảo
như đã nói, chỉ thích ham chứa giữ tiền bạc, keo rít không cho, bỏ
của ra để thu lợi, cho vay lấy lời đều gọi là tham tài. Lúc đáng nói
nín thinh không nói; đáng can ngăn ngồi trơ nhìn không can ngăn.
Ngoài biểu lộ người ngu khờ, trong ẩn chứa điều đáng chê trách đều
gọi là sử gian. Không chịu an thân chỉ tạo mưu tính kế, hoặc mưu
tính chỗ ở, hoặc mưu đồ chúng, mưu toan kinh sám, mưu tính đàn thí,
mưu làm pháp chủ, làm giới sư; cho chí kết giao với bè bạn xấu ác,
ra vào cửa quan. Tâm tánh ác độc, tư cách khả ố, đốc sử đặt điều,
trái lý nhiều việc v.v… đều gọi là dùng mưu cả. Khinh người, cười
người, quát nạt người, làm thầy người, ghen tài người, bêu riếu
người; nhận người đào tẩu, chiếm tài sản người, khiêu khích thưa
kiện, không nhường nhịn người đều gọi là che dấu tội. Phô trương
phòng xá, ăn uống sung túc, quần áo hoa hòe, chủ nhiều sản nghiệp,
tinh chế đồ dùng, xem thường ngũ cốc… Phóng túng giao du, nuôi dưỡng
tôi tớ, đút lót nhiều cho bọn đảng… một mực không biết hỗ thẹn đều
gọi là phung phí. Tăng ni nhỏ tuổi kết làm bạn đạo. Phụ nữ bái làm
cô nương lui tới gia đình vọng tộc, tìm kết thâm giao không tránh
khỏi sự gièm pha đều gọi là thân cận người nữ. La cà tới nhà giàu,
chầu chực cửa sang… Hoặc mượn thi văn biển ngạch, hoặc mượn quyền
thế, hoặc đòi hỏi tiền bạc… Suốt ngày bôn ba không nghĩ tới tu tịnh
đều gọi là ngoại diện. Sớm tối lễ tụng xao lãng bê tha, công tác
Phật sự trì trệ không theo chúng đều gọi là lánh nặng tìm nhẹ".
- Mạng
người qua hơi thở, thời khắc không đợi người. Việc chết chưa tường
tấc bóng đáng tiếc, để luống qua ngày trống rỗng gọi là luống phí
thì giờ. Chín việc trước quan hệ tới giới và một việc sau nói đến nỗ
lực không ngừng vậy.
- Răn
những việc không tốt, có 32 điều trích từ Vân Thê Pháp Vựng
như sau:
- 1- Ngồi
ngay trước Phật thọ người lễ bái bất tường
- 2- Mắng
người trước Phật: bất tường
- 3- Trên
pháp tòa chỉ trích người và buộc miệng tố cáo bậc tiên hiền sai lỗi:
bất tường
- 4- Cầm
y thọ người lễ
- 5- Đang
ăn mắng người
- 6- Phân
biệt thức ăn ngon dỡ sanh tâm chê ghét
- 7- Gấm
vóc, the lụa mỏng may tăng y dùng hằng ngày
- 8- Giường
nằm dùng mền đôi, chiếu đôi, lụa mỏng làm nệm, tơ lụa làm màng
- 9- Dáng
sớm mắng chửi người
- 10- Hiềm
ghét tín thí khinh chê nhỏ mọn
- 11-
Mua bán nô bộc (tôi tớ), cung ứng dịch sứ như nhà hào phú
- 12-
Người khác lao lực riêng mình nhàn hạ.
- 13-
Người nghèo khó riêng mình giàu sang
- 14-
Tuổi trẻ làm pháp sư, làm thầy đám, làm sư trụ trì
- 15-
Tuổi trẻ ỷ bẩm chất thông minh, khinh chê bậc kỳ lão
- 16- Ỷ
tuổi lớn hạ cao, khinh khi lớp đàn em
- 17- Vô
cớ được tặng trọng hậu
- 18-
Người đem lòng chí thành tiếp ta, ta lấy tâm xảo trá đối xử lại
- 19- Ưa
thích bàn việc lỗi người và che lỗi mình
- 20-
Lấy đồ vật Tam Bảo làm lợi cho người thế tục
- 21- Ân
sủng đệ tử Sa Di cho ăn ngon, mặc đẹp
- 22-
Phát ngôn khích động thô lỗ làm cho người khó chấp nhận
- 23- Có
nhiều người hộ pháp, nhiều kẻ cúng dường liền tự tôn tự đại
- 24-
Không có bịnh sai người đổ đồ dơ
- 25-
Trong khi bịnh sân giận với người phục vụ
- 26-
Mặc y đi tiểu giải
- 27-
Gặp những tai họa như thủy nạn v.v… oán hận trời đất
- 28-
Thiếu nợ người, nghe người chết sanh tâm vui mừng
- 29-
Chưa nói đã cười trước
- 30-
Lúc vô sự luôn sầu than
- 31-
Dốt đặc giáo lý, vọng bàn cổ nhân, coi thường mọi người
- 32- Có
chút ít hiểu biết tự cho là tổ sư.
- Những
việc trên làm tổn phước tổn thọ, phần nhiều rước lấy tai họa cho nên
gọi là bất tường; phải cùng nhau giữ giới răn dè.
- Chứng
nghĩa ghi:
- Sách
Thiền Tông Bí yếu rằng, Thiền sư Thừa Hạo chùa Ngọc Tuyền đi tham
vấn sư Đắc Tháp phát sáng tâm yếu đạt được Đại tự tại tam muội, tạo
chế mũi trâu, người đời gọi là Ngưu Đầu Khố, chép danh hiệu lịch đại
tổ sư, bèn nói rằng:
- - "Chỉ
có Văn Thù, Phổ Hiền sánh kịp con".
- Theo
sách dẫn trên nên tòng lâm nhân đó gọi là Hạo bố côn. Giữa niên hiệu
Nguyên Phong làm Trưởng chúng ở động Nhương Dương ẩn tu, có một tăng
làng cũng đến tham học. Sư thấy mặt mắng rằng:
- - "Ngươi
có đạo lý gì dám vác mặt tới đây làm trò đùa ư?"
- Tăng
nhân giận xung thiên, tìm tới Lộc Môn như đã nói, rồi bỏ đi luôn.
- Ôi! đây
là một dạng thức bất tường đó vậy. Có pháp sư Tề Ngọc thời Tuyên Hòa
năm thứ 6 ở Thượng Trúc, thấy có một ông tăng mất quy cách liền quở
rằng:
- - "Ông
vô tri như súc sanh vậy".
- Sau hối
hận nói:
- - "Vị
ấy tuy là người hư, mắng là súc sanh có tội với Tam Bảo".
- Từ đó 3
năm luôn đối trước Phật sám hối lỗi lầm. Như thế ngõ hầu mới
chuyển việc xấu ác chẳng lành trở nên thiện lành vậy. Nhưng tại sao
ban đầu ta không giữ lời cẩn trọng nhỉ? Người có học lấy đó tự soi
sáng tâm mình vẫn hơn.
- -
"Tâm dừng ảnh
dứt, ổn định danh lam".
- Nội Qui
tu tập đồng chí hướng phải tham vấn bậc kỳ túc để hiểu sâu mà trăm
mối do từ đời này sang đời sau phải biết. Nhân do tri kiến mỏng cạn
nên sơ tâm dần lui sụt làm cho giềng mối đạo mất hướng; mô phạm đa
phần sai trái, tập nhiễm lâu ngày trở thành thói tệ.
- Trụ trì…
ấn ký.
- Tự thẹn
đức mỏng, tài sơ rỗng tuếch lời Phật dạy, không pháp chi báo
đáp, muốn quay lại đi đến chỗ đồi phong. Chỉ mong bậc hiền nhân trở
lại cùng tôn trọng giới luật Phật chế. Tổ răn mực thước điều
trị ba nghiệp, diệt trừ tội lỗi, ở chốn tòng lâm như thế vốn phải
tuân hành. Nếu không được như vậy không đủ sức sống chung.
- Phạm 32
việc sau đây cho ra khỏi viện:
- 1- Phạm
giới căn bản đuổi khỏi viện,
- 2- Tu
thiền cốt ở thật tham thật ngộ, người lộng ngôn, khẩu đầu thiền,
- 3- Tụ
năm tụ ba chơi đùa trước cửa sơn môn tán gẫu hay ngồi không bị phạt
không tuân hành: đuổi,
- 4- Uống
rượu, xem người đùa vui bị phạt đuổi khỏi viện. Nếu bị bịnh nặng
không rượu trị bịnh không lành phải bạch chúng mới được uống; hút
thuốc bị phạt,
- 5- Cố
cho người có tội trở lại, tính làm hại tòng lâm, làm náo loạn người
tốt,
- 6-
Tranh cãi phải trái, châu miệng chửi rủa, thu tay đánh đấm bất cứ
ngay gian,
- 7- Đúng
lý không nhẫn, phạm lỗi mà sân, đúng lẽ không phạt người phạm lỗi,
- 8- Lúa
thóc các thứ mà không thưa Trụ trì tự bán dùng riêng bị phạt đền bồi
xong, đuổi luôn,
- 9- Xâm
tổn của Tam Bảo như xắn bớt tre gỗ, hoa quả cho người bồi
thường xong, đuổi, 10- Xin của thí giữ ở chùa vẫn tự đi xin thêm;
xét việc nặng nhẹ để xử phạt, không tuân đuổi khỏi viện,
- 11- Đem
việc công giữ làm việc riêng và theo thói tục cố hữu không phải của
người tu hành liền cho ra khỏi viện. Biết mà không nêu lên cùng bị
phạt,
- 12- Với
mắt không tinh dối luận kiến thức người; phát ngôn không tự biết sai
trái cho ra khỏi viện,
- 13-
Công phu, tọa thiền ngao du ra ngoài không theo chúng bị phạt. Trừ
đi công việc công, hay bị bịnh, không tuân bị đuổi,
- 14- Cải
vả trong thiền đường bị phạt, nơi chánh điện dấu không nêu lên; đợi
ra khỏi nhà nêu lên, toàn ban làm việc trong chùa cùng bị phạt,
- 15- Trừ
việc công không ở tại liêu mình mà tới phòng khách tự tung phóng
túng bị phạt, 16) Như chơi bài, đánh bạc nặng phạt đuổi khỏi viện.
Chức sự không nêu ra cùng bị phạt,
- 17- Vô
sự không được trong lúc bửa ăn đùa cười,
- 18-
Không được tranh chỗ ngồi, không được chẳng theo chỗ ấn định,
- 19-
Không được đứng lên trước khi chưa kiết trai,
- 20-
Không được cầm chén vào bếp lấy thức ăn, vi phạm bị phạt,
- 21- Lúc
uống trà, nghe Quy Ước, trừ việc công không theo chúng bị phạt.
Không được sai mượn người lấy trà bánh đem về phòng cho; người lấy
cùng bị phạt,
- 22-
Kinh sách của thường trụ, hàm quyển trang trong đều không cho mượn
đem ra khỏi chùa, vi phạm bị phạt. Cũng không được tự ý lấy, phải
bạch chúng mới mượn,
- 23-
Khinh khi bậc kỳ đức, nói lời xấu ác, sanh tâm phỉ bang,
- 24-
Không nghe người chức sự kết buộc tội thành điều mà bất mãn tố cáo
bị phạt,
- 25-
Không có bịnh nặng lén chúng ăn uống riêng bị phạt. Ghé nhà bạn bè ở
cách đêm bị phạt,
- 26- Các
phòng nghe chuông báo thức không dậy bị phạt. Ỷ mình có công không
chịu tuân phục theo, phạt nặng,
- 27-
Phàm nhận vật của tín thí mà không cho người chấp sự biết nhận vội,
phạt đền bồi, trừ bạn bè thân quen,
- 28- Để
râu tóc dài, từ chối thẳng không cho ở,
- 29-
Trời nóng nực oi bức không được chỉ mặc quần đùi. Mùa đông trời lạnh
đốt lửa cùng đội nón bị phạt,
- 30-
Tiền bạc của Tam Bảo thu chi có sổ sách, vào mỗi kỳ họp phải
báo cáo. Không ghi rõ hoặc gian dối bị phạt,
- 31- Ở
trong chúng ra ngoài gây lộn, nghiêm đuổi, dựa cớ ấy bằng cách cất
đơn, không cho nhập vào lại,
- 32- Bao
che người có tội nặng (lỗi lớn) và trẻ nhỏ hoặc lén kết nạp đồ chúng
bị phạt đuổi.
- Tòng
lâm không có tăng trông coi trong ngoài bất chánh. Những điều tệ xấu
làm sao chấm dứt; quy tắc làm sao tái lập được? Vị thầy trông coi
phải tận tâm xem xét không được theo tình cảm riêng. Nếu người nào
phạm chiếu quy luật phạt. Không phạt, vị tăng trách nhiệm bị phạt.
- Bên
trên là 32 điều quy định đúng, là quy tắc hành đạo. Đại chúng sống
chung nên tôn trọng để duy trì nề nếp.
- Ngày…tháng…năm,
Trụ trì … cẩn bạch.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Phật
Tổ (Thích Ca) lập giáo pháp, kiến tạo tòng lâm giúp chúng tu tập.
Nghiêm tu thanh tịnh là báo đáp bốn ân và làm cho 3 nghiệp thanh
tịnh. Cho nên Trụ Trì không tiếc thân mạng, vét bùn, khuân nước vì
để nuôi dưỡng tài năng, nung đúc Thánh trí. Sân chùa không thể không
rộng lớn, lễ pháp không thể không nghiêm minh, quy tắc không thể
không lập. Lập qui tắc trên dưới mới yên; lễ pháp nghiêm gian thù
lui bước; cửa chùa đủ rộng thời có tinh thần tôn sư trọng đạo. Luận
về khiêm nhường tiếp vật, như núi dung, biển nạp. Phong cách trụ trì
hễ gặp việc thi hành, không được mặt lạnh quay đi, phòng những việc
tế vi, sửa dần lỗi lầm của mình, ngỏ hầu mới có thể làm cho trong
ngoài về sau thay đổi vô sự mà được an lạc vậy. Song muốn điều động
được người trước hết phải điều chỉnh chính mình mới mong điều phục
một phần thói quen của người khác. Xem kẻ khác như chính bản thân,
bỏ cái Ta theo người, theo quy tắc xưa (lão Tổ: Tổ Bách Trượng) mới
làm được.
- Sách
Chích Cổ ghi rằng:
- Nam
Đảng Không thiền sư tư chất thông mẫn, tri kiến sâu rộng, giữ gìn
giới luật tinh nghiêm. Hội hè mời Ngài đều không đi …Có người đón
thầy tới nhà thọ trai, cúng dường tiền vật lập chùa.
- Ngài
nói:
- - "Gánh
công bỏ của mới quý đẹp, nhưng dấu chúng mà ăn không phải tự phá
giới sao?"
- Cuối
cùng Ngài chẳng tới dự. Ngu Am có bài thơ ca tụng rằng:
-
- "Sùng Giác
mất bổng lộc
- Cần cù
chăm thảo mộc
- Chay
tịnh lập sơn cốc
- Hai
việc phước đức luân.
- Ông
muốn cần được phước
- Tôi tôn
trọng giới luật
- Sơn môn
có ngày tàn
- Giới
luật như kim cang (bất hoại)".
- Cúng
dường chỉ là một việc nhỏ; túi rỗng lọt hạt cải, từ đáy một lỗ hổng
thấm lọt được kim khâu. Toàn thân Bảo Giác do ngươi mua chuộc được,
ngươi không thấy Văn Thù tái thế là bậc thầy thanh lương; giữ
luật trọn đời không hề giải đãi sao? Ta là những hạng người gì mà
dám không dùng đầu đội ư?
-
(xem chương 8: mục tiết lạp ở dưới)
- Qui chế
tịnh nghiệp đường có 16 điều như dưới đây:
- Luận
biển sanh tử khôn dò, nếu không niệm Phật làm sao vượt qua
được. Đạo Bồ Đề cao vợi, nếu không có cõi Tịnh độ làm
sao nương tựa được. Nay đại chúng cùng thấu rõ chỉ chuyên niệm hồng
danh 6 chữ lập nguyện cùng nhau, nỗ lực nhất tâm bất loạn; chỉ sợ
thời gian lâu, đi xa dễ sanh lười biếng, sự thật mất còn danh, lao
lực lập thành không gia tâm sách tấn; không lấy gì ràng buộc thân
tâm; hẳn phải có chương điều mới mong chỉnh đốn ta - người. May được
cùng giữ qui tắc mà nhắc khuyên nhau, không tranh ngã tranh nhân để
cho tịnh nghiệp chóng thành. Đài sen sớm nỡ thấy Phật A Di Đà ở
cõi Tây Phương. Thân này chứng tam muội được như thế thời ước
nguyện không mất. Xin được nêu ra 95 quy ước sau đây:
- 1- Thời
khóa hằng ngày 10 giờ niệm Phật; đến 9 giờ (tối) quán tưởng (tham
thiền) và một thời lạy sám hối, dù đông lạnh, hạ oi cũng không được
lơ là,
- 2- Mỗi
nửa tháng có trăng và không trăng, tụng luật Tứ Phần giới bổn;
tụng gọn ít là Kinh Phạm Võng, quỳ gối chấp tay đọc lời phát
nguyện và hồi hướng sanh Tây Phương,
- 3- Gặp
Khánh Đản Phật A Di Đà và Quan Âm, Thế Chí thành tâm thiết lễ
tưởng niệm,
- 4- Mỗi
năm hai tháng, tháng giêng, tháng hai đều có 2 kỳ niệm Phật
để cầu nguyện vạn vật đổi mới, trời đất canh tân; nhằm nói lên ý
nghĩa mạng người vô thường, ngày tháng luống qua,
- 5- Mỗi
ngày lúc chiều nên cúng xuất sanh thí thực. đọc Chú Biến Thực
chân ngôn 49 lần, niệm hiệu Phật 1000 lần để giúp đỡ quỉ thần,
- 6- Mỗi
ngày niệm Phật, thọ trai (dùng bửa) đều đắp y,
- 7- Nên
cấm chỉ rong chơi không được ra ngoài xem ngóng, lên phố nhàn du,
trừ phi đi thăm bịnh cha mẹ, sư trưởng, có thể tạm thời xin phép,
ngoài ra đều không được,
- 8- Xin
phép ra ngoài nên có ngày giờ nhất định, nếu quá hạn không về, phạt
quỳ hương, 9- Nên miễn nghinh đón khách quí tiếp đãi đàm đạo ít
lời vì thì giờ qua nhanh, nếu gặp nhân duyên hỏi Phật pháp,
không nêu ở phần này,
- 10- Nên
che dấu việc tạp, phàm Kinh sách, giấy mực, thi, kệ, chữ viết…tất cả
để chỗ cao, không được hời hợt xem thường,
- 11-
Không nên trả lời ngoài kinh tạng, giả như người đến tự viện cũng
không hẹn ngay, dù trả lời không được, chỉ cần tụng Kinh A Di Đà,
lạy sám Tịnh Độ, niệm Phật mà thôi,
- 12-
Trong chùa, trừ niệm Phật ra, tất cả không nên nói tạp, giả
sử có việc cần hỏi đáp cũng nên nhỏ nhẹ,
- 13-
Niệm Phật bị hôn trầm dùng cờ hiệu nhỏ đi tuần để nhắc nhở tĩnh
táo lại; cờ hiệu tới không đứng lên bị phạt,
- 14- Có
lỗi không sám hối, can ngăn không trừ, phạt quỳ hương, phát tức nổi
xung gây gỗ đôi bên đều bị phạt, một người nhẫn, một người sân,
người sân bị phạt,
- 15-
Phàm có lỗi nên cùng khuyên nhau theo Nội Quy, khiến người kia lập
tức sám hối ngay, không được để cách ngày, đêm,
- 16- Vô
cớ xông vào phòng, tụ lại bàn chuyện nhãm bị phạt quỳ hương, không
phải có việc quan trọng, giờ chỉ tịnh (ngủ) không về chùa phạt hương.
- Những
điều quy định trên nếu phạm, Duyệt chúng phải nêu ra. Đưa ra nhưng
đương sự bất tuân là đuổi. Biết mà không đưa ra, cả 2 cùng bị phạt
quỳ.
- Ngày…tháng…
năm,
Trụ trì… cẩn ghi.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Tông
Tịnh Độ thành lập ở Đông Độ bắt đầu từ Ngài Lô Sơn Huệ Viễn.
Ngài khuyên người bỏ cõi Ta Bà, cầu sanh về Tịnh Độ. Giáo
thuyết ấy lấy kim ngân làm vật ô nhiễm của tâm; lấy tước lộc làm cái
khổ hoạn của thân, lấy nữ sắc chiếc búa chặt mạng sống, lấy ăn ngon
mặc sang, nhà cao cửa rộng làm hố hầm đọa lạc của ba cõi. Chỉ mong
thoát khỏi thân người sanh lên chín phẩm sen, được thanh tịnh mà dứt
hết bẩn nhơ. Nên Ngài quy tụ các nhà trí thức, 18 vị hiền tài khắc
hoa sen, 6 thời lễ tụng, tinh thần khẩn thiết lúc lâm chung (chết)
mỗi người được như sở nguyện. Từ đó về sau lời dạy ấy được tôn trọng.
- Người
tu tịnh nghiệp sanh về nước Cực Lạc thay thế nhiều người.
Song trong đó có danh mà không thật. Tới mạt Đường người chuyên tâm
niệm Phật cũng không phải là ít. Cho tới ngày nay lòng người
đã tệ bạc, tội lỗi ngày càng phát sanh. Tụ tập nhiều người mạo danh
là Liên Xã, dối cầu ăn mặc hay giữa nam nữ có phần phức tạp; sanh
nhiều tệ đoan thường hay xảy ra. Cho nên người trong Liên Xã thà ít
không nên kết nạp nhiều; cho chí việc nam nữ lộn xộn trong cùng tổ
chức. Việc như thế xưa kia chưa từng có; người nữ thường nên phải ở
nhà niệm Phật chớ xen lẫn giữa đàn ông. Tránh tiếng đời gièm
pha để hộ trì chánh pháp không thể xem thường.
- Dựa
theo Tư Tề Đại Sư trong sách Nghiệp Đường Minh ghi rằng, nhà gọi là
tịnh nghiệp, chỉ nghĩa là gì; chỉ là duy nhất tinh chuyên niệm
Phật Di Đà. Tâm chưa được thuần nhất, nghiệp hẳn là bất tịnh,
chỉ mê cùng tán loạn sống ắt nhóm bịnh. Bọn người như vậy ra khỏi
nơi đây nên hợp thời kiểm soát, hoặc cần chăm hoặc biếng lười. Lười
thời phát gắt gõng, cần chăm nên tiến bộ. Nỗ lực một đời quyết gặp
Phật A Di Đà.
- Ngoài
ra ở chùa Tư Phước thuộc Hồng Lũy Sơn tại Bắc Kinh có Triệt Ngộ
thiền sư nói rằng:
- - “Tâm
hay tạo nghiệp, Nghiệp do tâm tạo, nghiệp tùy tâm chuyển. Tâm không
thể chuyển nghiệp tức bị nghiệp buộc, nghiệp không tùy tâm chuyển
tức là tâm năng buộc”.
- Tâm có
thể chuyển nghiệp, tâm hợp với đạo, tâm hợp cùng Phật tức là
hay chuyển nghiệp. Nghiệp chuyển tâm buộc, tâm nương thường phận
xoay vần tạo ra thọ, tức là nghiệp buộc mọi cảnh giới hiện hữu hết
thảy quả báo đời sau đều chỉ do nghiệp mê lầm. Duy tâm hiện ra, chỉ
nghiệp cảm nên, cho nên cảnh trước mắt, quả báo đời sau đều có nhứt
định. Do nghiệp hay buộc tâm chỉ tâm mới hiện khởi. Cảnh hiện báo về
sau đều không nhứt định. Do tâm hay chuyển nghiệp, nên nếu người
đang tạo đúng hay buộc tâm, cảnh hiện hữu về sau nhứt định đưa tới
quả báo mà liền phát tâm quảng đại tu hạnh chân thật. Tâm cùng
Phật hợp, tâm hợp với đạo tâm hay chuyển nghiệp. Tiền cảnh, báo
về sau định nhưng bất định. Lại tâm hay chuyển nghiệp, tiền cảnh hậu
báo khi bất định, nhưng đại tâm bổng lui sụt, việc tu tập kém khuyết
nên nghiệp hay buộc tâm, tức là tiền cảnh, hậu báo bất định mà định.
Nhưng nghiệp sẵn tạo đã qua không thể nại cớ cho là may mắn phát tâm
nhưng cơ duyên do ta tạo nghiệp, chuyển nghiệp mà không do người
khác.
- Như ta
phát tâm niệm Phật cầu sanh về cõi Cực Lạc hay
quán sát y chánh báo hoặc niệm danh hiệu, niệm niệm tương tục nối
luôn không dứt thời tâm và Phật hợp, hợp rồi lại hợp; hợp đến chỗ
chí cực tức tâm hay chuyển nghiệp mà tiền cảnh của Ta Bà chuyển
thành Cực Lạc. Đầu thai quả báo địa ngục chuyển làm bào thai hoa
sen thành người tự tại an lạc cõi Lạc Bang. Nếu ngay lúc tâm nghĩ gì,
tâm hoặc ngẫu nhiên mất thăng bằng hoặc bỗng sanh lui sụt không hiệp
cùng Phật thời nghiệp hay buộc tâm mà tiền cảnh vẫn lưu báo
về sau, vẫn đương nhiên trở lại thọ khổ của chúng sanh. Song ta có
chí thoát khỏi cầu sanh Tịnh Độ có thể thản nhiên mà cảnh
giác, phấn chí mà phát tâm.
- Luận về
Phật thất nguyên vì hiểu rõ chu kỳ lẽ sanh tử. Bảy ngày là
một kỳ, mỗi ngày 6 thời không gián đoạn. Ban đầu một thất, 2 thất
cho đến 3, 4 thất. Bốn phương thính chúng câu hội, nhất thời thắng
hội rộng khai. Chỉ sợ lười dễ sanh, tinh tấn khó đến, nếu không ràng
buộc lấy gì sách tấn thân tâm. Không có quy tắc lấy gì để người tin
kính, nên cẩn trọng lược ghi những điều qui tắc như sau:
- 1-
Trong 7 ngày đầu nên buông hết vạn duyên, phải dụng công không dứt,
cần yếu là nhứt tâm bất loạn, xem như trước mặt là một hội
liên trì vậy,
- 2- Canh
5 nghe chuông liền thức dậy xuống giường, sau khi rửa mặt xong, tất
cả chúng đều vào điện niệm Phật, không được nằm yên không dậy,
lánh nhọc an thân,
- 3- Sáng
mặt trời đã lên liền dùng cháo, sau khi dùng cháo xong vào ngay
chánh điện niệm Phật, chờ một cây nhang tàn mới đứng dậy đi
kinh hành, kinh hành mãi đến khi cây hương còn một tấc trở về chỗ
ngồi niệm Phật, cây hương khác đốt khẩn niệm hiệu Phật,
nghe 3 hồi chuông dứt, đồng loạt nghĩ niệm, nghỉ giải lao dùng trà
xong, gõ mõ nhỏ khởi sự tiếp tục niệm,
- 4- Ngồi
niệm tới hương cháy hơn một tấc, hai vị lãnh chúng Đông Tây đứng lên
xoay mặt vào nhau xá một xá, nhìn lên tiến tới đi từ từ lên cầm phan
chắc nơi 2 tay bước đi đều, theo hàng đôi, giây lát, mõ dẫn 2 hàng
người cùng đi, không được đi sai lộn, thấy người nào ngà ngật, người
cầm phan lớn tiếng niệm Phật đánh thức tĩnh đưa phan cho
người đó cầm, đương sự liền đi kinh hành, người cầm phan trước bèn
ngồi thế chỗ y, cứ theo phan, người kinh hành niệm Phật không
thể ngủ, và lần lượt như thế mà nhắc nhỡ nhau, đến lúc cây nhang còn
hơn một tấc, mõ dẫn trở về chỗ ngồi, phan cũng trở về chỗ, hai bên
đối diện, người cầm phan cắm vào giá rồi về chỗ, cây nhang vừa cháy
hết như trên,
- 5-
Người cầm phan cần phải xem kỹ nếu thấy mắt nhắm tuy vẫn ngồi ngay,
đầu thẳng, miệng niệm theo chúng, người này hoặc hơi hôn trầm hoặc
đang lúc đắc ý, không nên giao phan, không nên trao đổi qua lại, nếu
đưa phan qua bị phạt, nếu người đầu hơi cúi gật mới đưa phan cho cầm,
- 6-
Người hôn trầm thấy phan đưa tới tâm sân nổi lên không tiếp cầm phan
bị phạt quỳ một cây hương,
- 7-
Người cầm phan trên tay mà tự ý chạy rối loạn hàng ngũ bị phạt,
- 8-
Người cầm phan, thấy có người hôn trầm đáng đưa cho cầm mà không đưa
bị phạt,
- 9- Kinh
hành nên đi thứ tự không được rối loạn chen trước lấn sau, nghểnh cổ
lắc đầu bị phạt, nếu lánh nặng tìm nhẹ mình trần vào phòng, luận bàn
tạp nhạp phạt gấp đôi,
- 10-
Ngoài công tác ra, trừ việc Phật sự chung, thì giờ trống nên nhiếp
tâm niệm Phật, nếu dụm đầu lại nói chuyện bị phạt, nếu lấy cớ có
việc đi ra ngoài thả bộ, phát hiện ra được bị phạt nặng, giả như có
việc chung không đến được nên báo cho lãnh chúng biết rồi mới đi, ai
vi phạm bị phạt,
- 11- Tàn
một cây nhang xong, ai trực trong ngày rót trà hai bên, chúng tuần
tự uống trà, không được trà dư đổ hắt ra đất, ai phạm bị phạt, làm
vỡ chén phải đền, dùng trà xong mới đứng lên, người nào đứng dậy
trước bị phạt,
- 12- Lúc
đi đại tiện giới hạn một tấc hương, đi tiểu hạn nửa tấc hương, vô
cùng lúc với người khác không được nói cười giao đầu kề tai nhau, ai
phạm phạt quỳ hương,
- 13- Khi
tọa hương cây hương cháy quá hai tấc, duyệt chúng phải tuần tra hai
bên xem có ai chưa tới, đem dời bồ đoàn (tọa cụ) ấy tới trước Phật,
lúc người đó đến liền chấp tay quỳ niệm hương xong, nhè nhẹ đứng lên
lễ Phật, xoay qua lễ Phương Trượng, rồi tự cầm bồ đoàn về chỗ ngồi,
- 14-
Người sơ cơ không ngồi kiết già được có thể ngồi bán già cũng được;
cần thiết là phải ngồi thân ngay thẳng,
- 15-
Tiếng niệm Phật cần phải rõ ràng dứt khoát, không được cao
quá, cao thì niệm không lâu được; cũng không được thấp quá, thấp là
bị hôn trầm (ngủ gật), chỉ cần tiếng phát ra giữa môi và lưỡi; tâm
niệm miệng xướng, tai nghe cho chí đứng - nằm - ngồi luôn luôn giữ
một câu niệm A Di Đà Phật, như thế mới tin được tiếng, tiếng
nhiếp niệm; niệm niệm nhiếp tiếng đó là công phu, lâu ngày tự nhiên
trở thành thuần thục,
- 16-
Trong lúc tu Phật thất gặp bịnh duyên nên tin tưởng Đức
Phật A Di Đà là vô thượng y vương, nếu cố gắng nỗ lực không rời
ma bịnh liền tiêu, nếu như không thể tiếp tục được nữa cần phải nghỉ
ngơi nên báo cho chủ thất biết, kế đến cho đại chúng biết, phải dẹp
bồ đoàn rồi mới ra khỏi chỗ, không được cố kéo dài bịnh dây dưa làm
hỏng tịnh nghiệp, nếu có việc riêng ra khỏi chùa mà không báo cáo,
bị phạt nặng,
- 17- Ở
trong chúng hoặc đi tới lui hợm hĩnh, lời nói gây xích mích, sách
động loạn chúng, đuổi khỏi chùa,
- 18-
Trong chúng có lỗi, duyệt chúng đưa ra mà không chịu nhận bị phạt;
người biết mà không nêu ra cùng bị phạt,
- 19-
Trong đạo tràng có người già bịnh nên tìm cách tùy thuận không nên
câu nệ quy tắc, như tùy hỷ niệm Phật; tạm đến rồi đi cũng không có
nơi điều quy định này,
- 20-
Dùng cháo tiểu thực đốt 3 cây nhang, dùng ngọ trai đốt 4 cây, tụng
thời Kinh Tịnh Độ, lễ 12 lạy Phật A Di Đà, Quan Âm,
Thế Chí, Địa Tạng Bồ Tát mỗi vị 3 lạy, Tam quy, lạy Tổ xong,
uống trà, nghỉ giải lao xong đi kinh hành niệm Phật, niệm
1000 lần hay quy định theo giờ giấc 15 phút, 30 phút hoặc 45 phút
hoặc một tiếng đồng hồ xong trở lại hồi hướng, mỗi người về chỗ nghỉ
ngơi, thầm niệm Phật rồi đi ngủ đúng theo thời biểu qui định
không nên sai trái,
- 21- Đêm
thứ 7 hoàn mãn phần hồi hướng, niệm Sám Văn Tây
Phương; quỳ niệm Phật, Bồ Tát, Tự quy y xong, lui
ra lễ Tổ, đại chúng tới phòng Phương Trượng đảnh lễ 3 lạy và chờ
Ngài khai thị xong, lễ tạ xong mỗi người tự lui về chỗ, mỗi khi mãn
thất, học chúng đi, đứng, nằm, ngồi đều thầm niệm Phật, kỵ
nhất là bàn nhãm nói tạp; 2 thất, 3 thất đều áp dụng như thế,
22- Lấy trong Nội Quy mà nói phạt đều là phạt quỳ hương niệm Phật,
do vì nhân địa mà ngã xuống, trở lại nhân địa mà đứng dậy, chỉ nên
một lần ngã mà đứng dậy chứ không nên vụt đứng vụt ngã, tự sai lầm
không nhỏ vậy.
-
Ngày… tháng… năm, Trụ
trì… cẩn sao lục.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Qui tắc
tu tịnh nghiệp cùng Nội Qui Phật Thất, tuy phân hai nhưng chú
mục cảnh sách, đại bộ thật ra không có khác nhau. Phật thất thời
gia công hành trì.
- Tư Tề
Đại Sư nói rằng:
- - “Niệm
Phật không là điều khó, khó là ở chỗ nhất tâm. Nhứt tâm cũng không
khó, khó ở chỗ dứt gốc ái”.
- Nên
quán thân thể nầy bẩn hôi khó mà nói hết được, trong ngoài và ở giữa
không có một vật nào trong sạch cả. Cái thân này đã như vậy, thân
khác cũng như thế; che dấu ác tâm thâm căn, cẩn thận chớ sanh tham
đắm. Nên quán cõi Cực Lạc thuần là hoa sen sanh, không gá
thai của cha mẹ nên thọ mạng vô cùng thanh tịnh. Lúc nhứt tâm niệm
Phật, hoa sen liền hóa sanh, nếu người niệm không gián đoạn
quyết định được vãng sanh nước An Dưỡng.
- Lại nói
rằng "Nam Mô A Di Đà Phật" người nào mà chẳng niệm được. Nếu
niệm không cảm ứng như mẹ con khó gặp nhau. Đi, đứng và ngồi, nằm
luôn phải buộc cột tâm niệm niệm tiếp nối liên tục, niệm đạt thành
một khối.
- Niệm
danh hiệu Đức Phật A Di Đà như thế, Đức Phật A Di Đà tự
hiện đến, quyết định sanh Tây Phương, trọn đời không thoái
chuyển.
- Tấu vì:
-
- "Mắt biếc
rỡ ràng,
- Thấy
sen xanh hàng cây la liệt.
- Hào
quang uyển chuyển,
- Trời
người vui hưởng ánh trăng đầy.
- Bốn
mươi tám nguyện mở bày sâu rộng,
- Tiếp độ
đều mà chẳng nói không,
- Độ hằng
hà sa chúng ngu mông (muội).
- Niệm 10
niệm mà vãng sanh xong,
- Nhiệm
mầu ứng hiện vô song, lòng từ che phủ bao dung.
- Nay có
Phật thất dâng sớ văn hoàn tất,
- Đối
trước Phật xướng tuyên công đức.
- Ngưỡng
mong oai đức từ bi, rủ thương chứng tri".
- Đọc tại
chùa… thành phố…, vâng lời di giáo Thích Ca Như Lai mở
khóa tu tịnh nghiệp này. Pháp sự Sa Môn… cúng Phật và cúng các bậc
hiền Thánh, tạo nên Phật thất.
- Trụ trì
Tỳ kheo …
- Đạo
tràng Phật thất có…chúng Tỳ kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di…vị.
Hôm nay cúi đầu niệm hương, nhất tâm đảnh lễ Thánh chủ hai cõi Di
Đà, Thích Ca, Quan Âm, Thế Chí các bậc đại Thánh hiền
trên tòa kim liên. Đoái mong cảm thông cho việc làm của chúng con.
Nhân vì chúng con thân mạng chẳng đồng song tâm niệm vẫn một. Tự
nghĩ rằng sanh ra nhằm đời mạt pháp trôi nổi trong sóng dục mãi quên
về, cách Thánh càng xa, cận ánh từ quang mà khó thấy. Bèn nương tòng
lâm mở bày Phật thất trong vòng 7 ngày dụng công tu tập, nguyện nhất
tâm bất loạn, quyết định chọn ngày … tháng… đến ngày… kết thất. Mời
thỉnh bốn chúng câu hội về bổn tự trì niệm hiệu Phật A Di Đà
muôn đức hồng danh trong 7 ngày đêm".
- Lại
nguyện:
- - "Lời
kinh lan ra khắp xứ trừ sạch căn trần. Lúc niệm danh hiệu Phật
tăng phước huệ, dù tăng, dù tục đều kết nên nhân của chín phẩm, hoặc
nữ hoặc nam cùng hẹn đạt quả nơi ba bực (thượng, trung, hạ) mong
được như vậy. Ngưỡng mong từ bi nhiếp thọ". Văn sớ đã tỏ bày trên
nguyện Tam Bảo chứng minh.
- Văn sớ
hồi hướng (kết thúc) Phật thất.
- Ngày…
Tháng… Năm, Trụ trì … dâng sớ".
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Theo
sách Trùng Đính Tây Phương công cứ rằng: "Vào rằm tháng 5 năm
thứ 53 đời Càn Long, Lục Cận Đường tại Tô Châu, giáng đàn bảo các
con rằng, có một biến cố rất là quan trọng mọi người không thể nào
chạy trốn thoát, người người đều phải tử vong, các con có biết không?
Hiện tại chúng ta bốn đại nhẹ nhàng, tinh thần khoẻ mạnh, chưa từng
nghĩ một sớm nằm trên giường bệnh hồn phách ly tan không biết đâu là
đâu không nhận ra đông tây, chẳng phân được nam bắc. Đường trước mờ
mờ tơ hào không nắm được, theo nghiệp xoay vần phải thọ khổ vô cùng.
Chỉ có khi còn mạnh khỏe lo tu tịnh nghiệp, đến lúc chợt thấy
Phật tới tiếp dẫn sanh trong hoa sen thọ mọi điều vui, sống lâu
vô cùng. Các con có chí về đạo này nên ta giảng ba môn tín, hạnh,
nguyện".
- Tín là
tin có cõi Tây Phương Tịnh Độ, cũng như tin cõi Ta Bà
là có thật thời Tịnh Độ đâu không phải là thật hữu. Cùng
trong viên minh giác hải khởi niệm là đến, cũng giống như cùng một
xứ cùng một thành, cất bước là tới ngay. Đã tin cõi Tịnh Độ
quyết định hẳn đến. Lại nên tin pháp môn niệm Phật như mặc áo,
ăn cơm; mặc áo chống lạnh, ăn cơm trừ đói, niệm Phật khỏi
sanh tử. Nay tin, mai không tin chưa gọi là chân tín mà phải tin hết
lòng. Một niệm bổng nhiên không tin chưa gọi là chân tín. Từ nay trở
đi cho tới khi chết một lòng tin ráo riết không một tơ hào nghi hoặc
mới là chân tín (tin thật).
- Đã tin
có cõi Tây Phương, lại tin có pháp môn niệm Phật.
Nói suông lời tán dương có ích gì cho việc sanh tử? Cho nên phàm
người phát lòng tin phải nên theo đúng lời dạy thực hành. Ngày nay
tin liền thực hành hôm nay, ngày mai tin liền thực hành ngày mai,
cho chí mong từng chữ thật là khẩn thiết. Thế gian tin Phật niệm
Phật cũng không thiếu chi người, nhưng hoặc vì họ mong hiện đời
này giàu có hoặc cầu đời sau được phước thọ (sống lâu), được làm
thân người không bị đọa lạc. Đây là trái với ý chỉ Phật dạy.
Phật dạy ta thoát khỏi sanh tử, ta lại men vào sanh tử.
Phật dạy ta sanh về Cực Lạc, ta lại bám víu Ta Bà.
- Một đời
tin niệm phó cho đông hải cũng như làm ruộng gieo giống xong bèn chờ
hạt nẫy mầm, có đúng không? Cho nên người phát tâm tin chân chánh
nên hành hạnh chân. Hành hạnh chân nên phát nguyện tha thiết, trọn
đời nầy quyết định không sanh lên cõi trời hay cõi người, ắt hẳn cần
sanh cõi Tây Phương Tịnh Độ. Niệm Phật như thế
mới tùy thuận lời Phật dạy, không đến nổi luống uổng thời
gian. Các con nên cố gắng lên!
- Y cứ
khi Phật còn tại thế chư Tăng ban ngày phân ban đi khất thực.
Ở Đông độ chưa tuân theo qui định này. Nên tòng lâm hoặc có ruộng
vườn làm của hoặc thâu nhận của tín thí cúng dường. Mỗi tiết đông,
tiết hạ hoặc gặp năm mất mùa, Trụ Trì đốc suất chúng đi khất thực
một lần. Lúc đi khất thực, tri khách, Duy Na, Giám viện đồng tới
phòng Phương Trượng để qui định ngày họp chúng sáng hoặc chiều. Sau
khi nghe hai hồi bảng, Phương Trượng sai thị giả đi mời chúng tới
trai đường bàn việc đi hoá duyên (hoá trai). Tới ngày ấn định, nghe
hiệu lệnh đại chúng đắp y vân tập Phật điện chờ ra khỏi chùa
đi khất thực. Tri khách mời Phương Trượng niệm hương, Duy Na cử bài
tán hương. Phương Trượng lễ Phật xong, Duyệt chúng nhịp khánh,
đại chúng đồng niệm Phật 3 lần. Thủ chúng cầm tích trượng đi
trước, chúng thứ tự mà đi. Thị giả bưng bát đi kế bên Phương Trượng,
nhận đồ cúng đưa thị giả bỏ vô bát. Tri khách chia 2 bên phố đi khất
thực, chư tăng hàng một đi chậm rãi, có oai nghi trật tự. Đứng cho
ngay ngắn, đi phải cho đều không được so le, nếu muốn đi tiểu trước
phải giải y gởi cho người đồng hành. Chọn chỗ kín tiểu giải xong,
rửa tay sạch sẽ liền theo chúng đắp y nhập đoàn. Nếu gặp thí chủ mời
uống trà hoặc dùng ngọ trai tới chỗ thọ thực, cần phải giữ oai nghi
phép tắc, khiến người ta thấy đem tâm cung kính, phát lòng hoan hỷ.
Cho đến khi trở về chùa phải đến chánh điện đứng theo thứ tự thường
lệ. Duy Na nhịp khánh, đại chúng đồng tụng bài tán hương, Phương
Trượng lạy Phật. Đại chúng cùng lạy Phật 3 lạy rồi
ngồi vào bàn thọ trai. Tối hôm đó, đại chúng dùng cơm thừa trong
ngày. Mấy việc vừa nêu trên cần phải biết. Mang vác gạo thóc về chùa,
Giám viện giao qua tri khố, kiểm điểm số lượng nhập vào kho, trình
báo cho Trụ Trì biết và yết bảng báo cáo với đại chúng. Việc này
liên quan tới huệ mạng chư Tăng. Đi đường ban chức sự phải giám sát
(xem xét) không để xảy việc đáng tiếc. Do lầm nhân quả ăn của thường
trụ Tam Bảo liền phải trả ngay.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Phân bố
theo Tây Vức tại mỗi chùa chư Tăng đông không thể nào một gia đình
cúng nổi; đi khất thực tùy khả năng thí chủ cho nhiều ít mà phân tán
ra, cho nên gọi là phân vệ, tức phân theo khu phố.
- Nghĩa
của khất thực xem chương mở đầu phần chứng nghĩa về thâu nhận đồ
cúng có nói rõ. Vì Phật Bậc Năng Nhân xuất thế dạy chúng
Thích Tử không chứa vật thừa để đắm tâm tham, ngăn phòng đạo nghiệp.
Chỉ giữ một bình bát tùy thân, 3 y mặc trên người, gặp mỗi lúc cần
thực phẩm đi đến nhà chúng đệ tử tại gia khất thực. Không chọn giàu
nghèo, sang hèn mà đi khất thực bình đẳng. Đây là cung cách đi khất
thực của Đức Phật vậy.
- Ngài
Tiêu Sơn Tánh Hải nói rằng, giới của Tỳ Kheo lấy 4 việc xả bỏ, 4
pháp nương tựa làm gốc. Bốn việc xả bỏ là giới đương giữ, 4 pháp
nương tựa là chỗ đang ở chùa viện, đó là 4 nơi nương tựa:
- Ngày
thứ nhứt thường đi khất thực, ngày thứ nhì giặt giũ y phục, ngày thứ
ba ngồi dưới gốc cây tại lan nhã (vắng lặng), ngày thứ tư có bịnh
lấy thuốc thục trị liệu; không đi khất thực đều mắc vào tà mạng để
sống. Kinh Quyết Hậu Niết Bàn ghi, bốn vị tăng trở lên cùng ở
chung được nhận 8 món đồ bất tịnh thời bửa ăn tăng tịnh thực có thể
miễn đi khất thực. Cùng ở chung già lam (chùa) chúng có thể khỏi
ngồi dưới cây, thí chủ cúng thức ăn có thể miễn trét phân; cúng
thuốc men thường miển lấy thuốc củ nát, thời 4 nơi nương tựa đều mở
cho. Vân Thê Liên Trì Đại Sư nói rằng: "Hồi Phật
tại thế phân bố đi khất thực là theo đúng gia phong vậy". Tòng Lâm
Đông Độ không thể làm theo không phải dám phế bỏ mà cũng do hoàn
cảnh khiến như vậy. Luận về thành thị ô hợp nam nữ tụ hội; chỗ núi
non vắng vẽ là nơi tịnh tu của người xuất gia, phân tán đó là được,
hợp đó là rối loạn. Hơn nữa ở trong chúng rồng rắn lẫn lộn dễ sanh
sự làm mất thanh danh. Cho nên các bậc tôn túc xưa mỗi vị ở nơi hang
lạnh dứt tiếp xúc; cày ruộng bừa đất, ngày ăn một bửa nuôi thân.
Không có vọng tưởng khác tức bỏ thành thị ở Tòng lâm, cũng phải lo
chuyện đi quyên giáo; không để đại chúng suốt ngày bươn chãi mà bỏ
phế đạo nghiệp. Tuy không phải Phật dạy, cũng phù hợp tâm
Phật là mỗi năm đi khất thực một lần cũng còn giữ được mẫu mực
mà theo. Nếu là du tăng đi khất thực đúng ra không đi đơn độc một
mình.
- Tôi,
Nghi Nhuận nói rằng, trụ trì tòng lâm tôn trọng điều Phật dạy
thường đi khất thực. Ở đây đưa ra một việc để nêu lên những việc
khác. Vua Khang Hy nói Nam Nguyên Tín Thiền Sư ở chùa Tây
Phương tại Duy Dương, lãnh chúng 30 năm, không lên yết kiến, chẳng
chúc mừng không làm việc thế gian. Ngài chỉ lấy đạo làm chính, mùa
đông, mùa hạ một tấm áo nạp; lạnh nóng chỉ một bình bát, khất thực
bình đẳng; noi theo đó làm việc thường, sống thọ ngoài 70 tuổi, do
chưa hề một ngày biếng lười. Trừ sách ngữ lục ra, còn có một quyển
thi kệ hành cước. Nay chép ra mười bài cho người sau học hỏi. Luận
về nghi thức của Phật trước đây có kệ rằng:
- 1- "Phật
xưa có dạy ôm bình bát
- Ngày
nay bắt chước chẳng hai cơ
- Đạo vốn
"Không" ai người thừa kế
- Trăng
dọi đáy hồ sóng hoa rơi".
-
2- "Cắt tóc, đắp y
chẳng nệ hà
-
Sống đời khất sĩ
hạnh cao xa
-
Bịnh suy tâm thoái
nay tuổi già
-
Chín đĩnh dây tơ
mỏi vọng vào…"
- 3- "Khất
thực tự nhiên sống thanh bần
- Đội
trời, đạp đất không nhiễm trần
- Bình
bát hiện hoa chẳng phải sành
- Trước
mắt trông người thật tín thành".
-
4- "Thẹn vì phước
mỏng tài năng mọn
-
Một bát trọn đời
thêm chẳng thuận
-
Bé mọn tùy duyên an
giữ phận
-
Hiểu rõ kiếp không
ấy trường xuân".
- 5- "
Đường dài bình bát chẳng ai thân
- Động
tĩnh hữu vô khắp xa gần
- Giàu có
tùy duyên nhờ rải phước
- Công
thành quả mãn được thi ân.
-
6- "Trọn đời chớ
bảo trì bát chăm
-
Hạt gạo làm tiêu
kiếp đói thầm
-
Chợ búa lánh xa
trần vắng lặng
-
An nhàn vui hưởng
giữa thế nhân.
- 7- "Khất
thực trên đời đâu nhọc lao
- Tiêu
tán cống cao ngã mạn nhào
- Sự tạp,
lý thanh lọc trì bình
- Gia
phong nguyện lực hạnh thanh cao.
- 8- "Chợ
sớm nhao nhao lẳng tựa dầu
- Vui
trong khất thực để quên sầu
- Xiển
dương lời Phật không chi khác
- Trừ
sạch chướng ma dứt ác mau".
-
9- "Khất thực trí
cao rộng ươm mầm
-
Viện đình việc đáng
phải kiên tâm
-
Chẳng y từ lực vung
ba cõi
-
Ai tin tông Tổ đạo
cao thâm".
- 10- "Trí
huệ chưa từng riêng lại qua
- Một bát
dứt nghi truyền pháp gia
- Biết rõ
não phiền đà dứt sạch
- Nhập
định không sai ấy chính ta".
- Hỏi:
- - "Đi
khất thực không cần tham thiền ư?"
- Đáp:
- - "Đúng
nhờ tham thiền để biểu hiện nghi khất thực đâu có gì trở ngại chứ?"
- Xưa Đức
Thế Tôn một hôm dạy A Nan rằng:
- - "Giờ
khất thực sắp đến con nên vào thành trì bát".
- A Nan
vâng dạ.
- Phật
bảo:
- - "Con
đã trì bát, nên theo nghi thức của 7 vị Phật quá khứ".
- A Nan
bèn hỏi:
- - "Nghi
thức của 7 vị Phật quá khứ như thế nào?"
- Phật
bảo A Nan:
- - "A
Nan phải vâng lời".
- Thế Tôn
nói:
- - "Bưng
bát đi đi!"
- Căn cứ
theo đây, Phật lấy thiền cơ làm nghi thức khất thực thật rõ sáng tỏ.
Ngày nay người có ý chí đối với đạo, nên đi khất thực, thật quả đã
tin lời dạy giữ thực hành, nghi thức giống thời Phật, tại sao trở
ngại việc tham thiền?
- Tăng
chúng lượm được vật rơi liền thưa Giám Viện biết lấy để giữ trong
kho. Niêm yết bảng 2 chữ vật rơi để tiện làm cho người mất đồ biết
tới nhận lại. Nếu người lượm được đồ bỏ rơi đưa vào kho bị phạt
nặng đuổi khỏi viện.
- Người
mất đồ dán giấy, trên giấy (phiếu) viết: tôi tên là…vào giờ… ngày…tháng…năm…
đánh mất món…Nếu ai thấy lượm được đem lại xem kỹ rồi hoàn lại. Nếu
mạo nhận (nhận gian) bị phạt nặng đuổi khỏi viện.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Nhặt
vật rơi như tình cờ có một vật bỏ rơi đưa vào kho tạm giữ một thời
gian không phải cất giữ
lâu dài. Xưa nay tòng lâm sau 2 bên trai đường (nhà ăn) có bảng
thường niêm yết 2 chữ vật rơi, chữ lớn. Đôi khi phải đổi dán 2 chữ
khác cho đúng. Bởi vì Phật chế giới trộm cắp dù một cọng cỏ, một
trái ớt không cho thời không được lấy. Nếu lượm vật rơi đem cất giấu,
tức là của không cho mà lấy cũng phạm giới ăn trộm; vì trưởng dưỡng
lòng tham trái lời Phật dạy.
- Người
quân tử đạo Nho còn không giữ vật phi nghĩa, huống gì ông tăng cất
giữ vật rơi để trưởng dưỡng lòng tham ư? Vì thế, cho vật lượm được
đem vô kho rồi niêm yết làm cho người biết tới nhận lại.
- Sách
Vân Thê Sùng Hành Lục ghi rằng:
- Đời Tùy
có vị tăng giàu có tới tá túc ở chùa Tịnh Đức tại Ích Châu. Ban ngày
ra ngồi bên đường đọc kinh, mọi người truyền đồn là người giải thoát.
Lúc bấy giờ tại Lăng Châu có quan thích lại Triệu Trọng Thơ nghe tin
nên tới thử, bèn cưỡi ngựa đi qua. Ông ta giả vờ đánh rơi xâu tiền,
vị tăng ngồi đọc kinh tự nhiên chưa hề thấy gì. Đi một đoạn xa. Thơ
sai người lại lấy tiền, tăng cũng vẫn không nhìn. Ngay lúc đó Thơ
quay lại hỏi vị tăng rằng:
- - "Xâu
tiền dưới đất, thấy có người lấy đi sao không nhận lại giùm?"
- - "Không
phải vật của bần đạo dối nhận làm gì?"
- Thơ
xuống ngựa làm lễ, thán phục rồi đi …
- Tĩnh
Hành Đường cũng gọi là Niết Bàn đường. Ấn Độ gọi là vô thường đường.
Người đời gọi là bệnh xá, qui tắc chung gồm 15 điều lập nên khu nhà
nầy để cho người bịnh. Vì chúng sanh tham đắm tới chết vẫn không
biết. Phật dạy dời đổi chỗ khiến cho ta biết vô thường, sắp đến, làm
cho tâm niệm phấn khởi, tĩnh táo vượt qua mà lo gấp tu hành. Xử dụng
nhà này nên nghĩ đến thân mạng vô thường nhanh như hơi thở. Người
khỏe mạnh còn thế huống gì người bịnh ư? Lại phải quán thân này bốn
đại không điều hòa, trăm đốt muốn rã rời; ăn uống giảm dần, thuốc
thang hết hiệu quả. Tiểu tiện ra trên giường, rên rỉ nằm liệt chiếu,
như cá bơi trong chảo dầu bỗng chốc bị nóng bỏng. Như đèn trước gió,
trong tích tắc tắt ngúm. Nên biết thân này không tồn tại lâu, hẳn
phó thác cho tử thần. Đường trước mờ mờ chưa biết về đâu. Nếu việc
gì chưa xong làm cho xong cố giữ tâm không cho vướng bận. Người nào
chưa được như thế sớm cầu Tịnh Độ quyết định vãng sanh phải buông
hết mọi duyên, nhất tâm niệm Phật có những điều riêng như sau đây:
- 1-
Trong nhà một giường rộng (đôi) dành cho người bịnh nhẹ. Giường
chiếc cho người bịnh nặng. Nếu dùng lộn xộn bị phạt
- 2-
Người bịnh nên kéo màng lại để tránh gió, che mùi hôi hám. Nếu người
không quen, bị rét khó trị, nên buông màng xem xét bịnh nhân
- 3-
Người bịnh nặng vào nhà tịnh dưỡng, trước bàn Phật chuẩn bị
hương đèn. Giám Viện, Thư Ký, Duy Na … theo sau đưa vào. Đọc lời
trăn trối của bịnh nhân liền viết ra trên giấy, chẳng chịu viết tùy
theo sự tăng giảm của người bịnh, bị phạt. Bịnh nhân nếu không muốn
viết, và không chịu nằm giường; nếu bịnh nhẹ không cần phải viết
giấy (di chúc). Chỉ tới trước Phật đốt hương đèn rồi Giám
Viện đưa vào nằm.
- 4-
Người trách nhiệm tĩnh hành đường (bệnh xá) phải khỏe mạnh, lấy lòng
từ làm chính ghi sổ ngày … tháng … năm nào có ai vào nhập bịnh xá.
Sau ghi ngày, tháng và năm xuất viện. Nếu quên ghi bị phạt.
- 5-
Trong bệnh xá nên tùy thời rưới quét sạch sẽ. Quần áo bệnh nhân nên
hợp thời giặt phơi. Thuốc thang cần lưu tâm châm chế không được lơ
là biếng trể
- 6-
Người bịnh trong phòng chỉ một hay hai, Thầy hương đăng lo chăm sóc.
Như nhiều phải mời thêm người phát tâm săn sóc bịnh. Nếu 3 lần mời
không được người nào, chiếu việc trong liêu luân phiên chăm sóc, ba
ngày đổi một phiên; hoặc bịnh nhân muốn bỏ tiền thuê người giúp, nên
chấp thuận.
- 7-
Trong chúng có bác sĩ (thầy thuốc) nên đứng trong ban Điều Hành.
Người chưa am tường mà nhận trị bịnh bị phạt. Làm hại người bị đuổi
khỏi viện; tham lợi đều bị đuổi.
- 8-
Người bịnh cần thuốc thang, ăn uống, Tri khố, Tri ẩm thực, Điển tòa
lo thuốc men, thức ăn uống đem cho, không cấp cho bị phạt. Nếu cái
đáng cho mà không cho, trước chúng biện minh, nếu ai tự ý bạc đãi
bất công bị phạt.
- 9-
Người bịnh nặng nhập bệnh xá cần phải phó thác việc tang nghi, buông
bỏ hết mọi duyên, nhất tâm niệm Phật. Lại chăm sóc người bịnh
nặng phải 2, 3 người luân phiên ngày đêm không rời. Hễ có việc ra
ngoài cũng miển. Nếu sắp lâm chung liền báo nhà khách, tri khách cắt
đặt ngay một số người tới niệm Phật cho tới lúc đi luôn. Theo
Đại Tạng kinh Vô Thường: lúc lâm chung nên có biện pháp lo
liệu.
- 10-
Tuân lời Phật dạy, vị tăng tịch nên thay quần áo sạch. Lúc
nhập quan, khi trà tỳ (thiêu), nhập tháp đều đọc chú Tỳ Lư
rải cát bên trong. Không được quên rải cát này. Nên mời thỉnh các
bậc cao tăng trì chú nhiều nhiều càng thêm mầu nhiệm; ít nhất cũng
niệm được 1080 biến chú này:
- - "Án
a mộ già, phế lỗ giả na. Ma ha mẫu nại la mạ nê. Bát Đầu ma, nhập
phược ra. Ba la dã đa dạ hồng".
-
Căn cứ theo kinh văn đem cát tán sa đặc này, đặt lên thi thể người
mất được lợi ích không thể nghĩ bàn
- 11-
Người bịnh nhẹ nên ngồi yên niệm Phật. Nếu không tôn trọng ra
ngoài đi dạo gây nhiều rắc rối cho ra khỏi phòng.
- 12-
Người trách nhiệm bệnh xá và người chăm sóc bệnh nhân chớ hiềm ghét
dơ dáy, đừng làm trái ý bệnh nhân càng làm gia tăng bịnh, chớ rời
giường bịnh lâu khiến người bịnh cần không đáp ứng kịp. Nếu có tâm
tham hoặc để ý muốn của cải nên cho, làm khó thời người bịnh phiền
não, cũng đừng nổi sân. Chỉ nhiếp tâm tạo phước, đừng tham của người
bịnh đáp tạ lễ. Nên biết rằng trong 8 loại phước điền chăm sóc bịnh
nhân là số một, nên tích cực làm việc tận tình.
- 13-
Phàm người bịnh nặng mỗi lần có mồ hôi xông lên nên dùng khẩu trang
che miệng hay lá thuốc cứu xông, lá tùng bách đốt v.v… Dùng lửa nhỏ
ngọn xông khói, không làm phương hại tới người khác.
- 14-
Tăng du phương và tăng ở xa tới mà bị bịnh. Tri khách hỏi lai lịch
rõ ràng mới nhận, liền viết tờ chi tiết, ghi sổ v.v…
- 15- Đám
tang vị tăng bắt đầu từ bịnh nặng cho đến khi chết, cuối cùng đặt
nơi Tổ đường. Xem chương Trụ Trì phần đăng vị ở trước. Lược bớt gia
giảm châm chước mà dùng.
- Ngày …
tháng… năm….
- Trụ trì
… cẩn lục.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Xưa có
cư sĩ Việt Nhiên Triệu Linh Căng chọn chùa Pháp Luân tại núi Nam
Nhạc, Tĩnh Hành Đường ghi rằng: thường trong các thứ khổ, bịnh khổ
là sâu nhất; trong các loại phước săn sóc bịnh là phước hơn cả. Vì
thế cổ nhân lấy có bịnh làm thiện tri thức; nhắc người lấy săn sóc
bịnh làm phước điền. Nay ở tòng lâm có người bịnh phải đưa tới Tĩnh
Hành Đường; không những ở đó tu tĩnh cải nghiệp để bịnh lành mà cũng
muốn người (bịnh) ban đêm yên tỉnh một mình có dịp suy gẫm đại sự,
đâu có luống phí chứ? Đã theo lệnh đường chủ săn sóc thuốc thang,
lại nhắc nhở thường trụ cung cấp đầy đủ nhu cầu cho người bịnh.
- Đây là
qui tắc của Đức Phật trước kia, đời nay không được như vậy,
người bịnh không tự xét soi lỗi lầm càng làm gia tăng thêm phiền não.
Đường chủ chỉ còn cái danh mà sự thật là hư giả, hay trái lại dấu sự
hiềm hận; của Tam Bảo nên cung cấp hằng ngày còn hơn là phó mặc bỏ
bê không an ủi. Bịnh nhẹ do vậy trở thành nặng, bịnh nặng đưa tới
cái chết không đáng thương sao! Cho nên những vị chức sự chúng
thường trụ phải biết săn sóc bịnh là phước điền mà từ bi tìm cách
giúp đỡ, để trừ dứt bịnh khổ và trở lại hồi phục. Người bịnh phải
biết rõ nhân quả, tĩnh táo nhận ra tội lỗi, có tâm hối hận ăn năn
tức là cơ hội lành mạnh. Tâm đã trong sạch, bịnh cũng tự trừ. Như có
bị nhức đầu nóng trán, kêu khổ thầm lặng suy tư thọ bịnh là ai? Đã
không thấy có người, bịnh từ đâu đến? Người - bịnh cả hai đều quên
còn có vật nào khác giúp thấy rõ phân minh; nhìn đúng như thế là
bịnh kia chấm dứt.
- Lại
trong qui tắc, vị tăng mất đọc Chú Tỳ Lô Tán Sa như kinh ghi
rằng, đem chân ngôn này chú nguyện (gia trì) trong đất cát rải trên
người chết và rải nơi tháp mộ người chết ấy, nếu ở ác thú hợp thời
liền được ánh sáng và thân thể, trừ diệt được các tội báo làm cho
thân khổ được sanh về nước Cực Lạc v.v…
-
Luật Tứ Phần,
Phật dạy:
- - "Từ
đây tới lúc chết nên săn sóc bịnh nhân, phải cần chăm nom người bịnh.
Nếu muốn cúng dường Ta, trước hết nên cúng dường người bịnh, cho chí
đi trên đường gặp lúc chúng xuất gia, có người bịnh; Phật dạy
7 chúng đều đứng lại chăm sóc. Nếu bỏ đi không săn sóc người bịnh
đều qui kết có tội".
- Đúng là
tứ đại (thân: đất - nước - gió - lửa) khó điều hòa; túc nghiệp khó
tiêu trừ. Người xả tục xuất gia, cô thân độc ảnh nghèo, bịnh nối
nhau, không người hầu cận. Nếu không được chăm sóc bịnh nhân, mạng
sắp an nghỉ (dứt).
- Lại
Tăng Kỳ Luật ghi rằng:
- Đi
đường gặp chúng xuất gia có người bịnh liền phải kêu xe chuyên chở (tới
bệnh viện) cúng dường đúng pháp. Nhẫn đến lúc chết cũng phải lo tẩn
liệm, mai táng không được bỏ bê. Phàm người săn sóc bịnh luôn phải
nói lời êm nhẹ, đừng dùng lời thô ác. Đến lúc lâm chung phần nhiều
những ác nghiệp đều hiện ra không thể lập tức trừ dứt được. Cho nên
người chăm sóc bịnh nhân nên biết dùng phương tiện đặc biệt khéo léo
nói lời an ủi khuyên người ấy niệm Phật. Nếu không niệm lớn
được thời chỉ thầm niệm và làm cho niệm niệm nối tiếp nhau một tích
tắc không ngừng. Thừa phước lực này mà làm nhân vãng sanh Tịnh
Độ.
- Luận
Đại Trí Độ ghi rằng:
- Từ lúc
sanh ra làm thiện đến lúc lâm chung ác niệm khởi, bèn sanh nơi ác
đạo. Từ lúc sanh tạo ác đến lúc lâm chung khởi niệm thiện mà được
sanh lên cõi trời. Nên đưa kinh tượng tới chỗ người bịnh như Kinh
Di Đà, tượng hoặc hình Phật A Di Đà, Quan Âm ghi
rõ tên kinh, tên tượng nói với người bịnh khiến mở mắt xem thấy để
được tĩnh táo. Chăm sóc người bịnh như thế, công đức rất lớn vậy.
- Chứng
nghĩa ghi rằng:
- Y cứ
trong kinh tạng, Phật thuyết Sanh kinh, chương tật bịnh 26 ghi rằng:
- - Tại
vườn ông Cấp Cô Độc có một vị Tỳ Kheo bị bịnh sống riêng một mình,
không có thức ăn, thuốc thang, không đứng dậy nổi. Tiểu giải tiết ra,
người bịnh nằm liệt trên giường nhìn quanh tứ phía không một ai
đến giúp đỡ cả. Lúc bấy giờ Ngài A Nan trông thấy tới bạch Phật.
Phật đích thân tới chỗ vị Tỳ Kheo bịnh và hỏi rằng:
- - "Nay
con bịnh có cần xem xét thuốc thang, giường cụ gì không?"
- Vị Tỳ
Kheo bịnh bạch Phật rằng:
- - "Con
có một mình không người chăm sóc, không có đồ ăn uống, thuốc men; và
nhà con cũng rất xa".
- Phật
hỏi:
- - "Khi
mạnh khỏe con gặp người bịnh có thăm hỏi an ủi không?"
- - "Bạch
Phật không".
- Phật
bảo:
- - "Khi
mạnh con không săn sóc người, không thăm nom an ủi người bịnh, ai
phải chăm sóc con đây?"
- Thiện
ác có đối, tội phước có báo. Ân sanh thành đền đáp lại, nghĩa tuyệt
lơ là. Phật đỡ ngồi dậy muốn lấy nước tắm rửa Tỳ Kheo; lúc đó
có Thiên Đế tắm thay Phật. Phật hỏi ông ở thiên thượng
nơi thơm tốt sạch sẽ, có thể nhẫn giúp tắm rửa bẩn thỉu cho người
bịnh không?
- Thiên
Đế đáp:
- - "Phật
là thầy cứu giúp hết thảy chúng sanh mười phương công đức tràn đầy
mà còn chăm sóc bịnh nhơn, huống chi tôi tội phước chưa dứt mà không
tạo thêm phước sao?"
- Lúc đó
Phật rửa tay, Thiên Đế xối nước tắm rửa sạch, bịnh nhơn nằm
lại và uống thuốc thang tức thời lành bịnh. Phật vì đó nói
kinh liền lúc đó vị Tỳ Kheo chứng quả A La Hán. Đức Thế
Tôn nói bài kệ rằng:
-
- "Nên chăm
sóc bịnh nhân
- An ủi
và hỏi thăm
- Thiện
ác có báo ứng
- Trồng
cây kết trái khăm".
- Lại nữa,
sách Thiền Lâm Bảo Huấn ghi câu chuyện rằng,
- Xưa có
Cao Am ở với Vân Cư nghe đệ tử bịnh đưa tới Tĩnh Hành Đường than thở
rằng: "Nếu ta ra đời sớm chiều có người hầu hạ, thậm chí co thân,
đun nước, chưa từng chẳng cho ăn uống, hoặc gặp tiết trời hơi lạnh
được vỗ về, an ủi hỏi han áo, có đủ ấm không? Hoặc gặp lúc trời nóng,
quan sát gương mặt hỏi: "có nóng quá không nhỉ?". Không may chẳng
được ai giúp, không hỏi người có hay không có chúng thường trụ tận
tâm giúp đỡ hoặc người trách nhiệm hoặc người khác".
- Cao Am
quát nói:
- - "Xưa
Bách Trượng vì ông già bịnh mà lập chúng săn sóc, các ông không bịnh,
không chết hay sao?"
- Ngài
Vân Thê Liên Trì nói rằng:
- - Trong
kinh gọi 8 loại phước điền, săn sóc bịnh là phước điền số một, đâu
chẳng vì người tu không nhà, cô thân hồ hải, phiêu lưu bịnh khổ thật
đáng thương xót! Làm chủ tăng phường mà bịnh không ai lo cho ta,
chết không ai chôn, đâu là đạo từ bi chứ? Chính vì thế Trụ trì nên
cố gắng để khuyên người giúp đỡ người lâm bịnh.
-
Đại Sư Từ Giác,
Trách Công
thuật:
- Kết tập
Thanh Quy là nền tảng của đại chúng mà trong 8 môn đều từ đây phát
sanh. Cho nên ở quyển cuối này đưa ra nghĩa tổng quát. Luận về hai
cây quế rủ che bóng, một cây trổ hoa thơm ngát, từ hồi tòng lâm
thiết lập, điều chính yếu là chúng tăng. Là vì khai thị chúng tăng
nên có trưởng lão để làm biểu tượng cho chư tăng, có Thủ tọa gánh
vác việc chư tăng, có Giám viện điều hòa chúng tăng; có Duy Na cúng
dường chư tăng, có Điển tòa vì chúng làm việc. Có trị tuế vì chúng
xuất nhập, có Tri khố vì chúng tăng ghi hết còn, có Thư ký vì chúng
giữ gìn Thánh giáo; có Tạng chủ tiếp đón đàn na, có Tri khách vì
chúng tăng mà thỉnh mời, có thị giả vì chư tăng mà duy trì y bát, có
liêu chủ vì chúng mà phụ trách thuốc thang. Có đường chủ vì chúng mà
hong phơi; có dục chủ, thủy đầu vì chúng ngăn che ấm lạnh. Có than
đầu, lô đầu vì chúng mà xin đồ. Có Hóa chủ làm việc nhọc, có Trang
chủ, tri viên, mài mực vì chúng tăng mà dọn dẹp. Có tịnh đầu vì chư
tăng mà cấp hầu, có tịnh nhân để như trợ duyên hành đạo thập phần
hoàn bị đồ dùng cho thân, trăm việc thành, vạn sự không lo.
- Nhất
tâm hành đạo được rãnh nhàn là ngoại vật thế gian tôn quí. Thanh
tịnh vô vi, chúng Tăng là trên hết, hồi niệm công sức của nhiều
người, há không biết tri ân báo ân sao? Sớm tham, tối vấn không bỏ
tấc bóng để mới báo đáp ân Thầy. Tôn ti có chừng mực, cử chỉ đàng
hoàng để đền ân thủ tọa, ngoài tuân luật lệnh, trong giữ qui tắc để
đền ân Giám Viện. Lục hòa cùng chung ở, như nước với sữa hòa
hợp để trả ơn duy na. Vì muốn thành đạo nghiệp nên mới thọ thức ăn
này để đền ân điển tọa. An ổn tăng phòng, cất giữ vật rơi để tri ân
trị tuế. Vật của Tam Bảo một tơ hào không phạm tới để đáp ân tri khố.
Tay không rời bỏ bút, ý chuyên đạo nghiệp là ân thư ký. Cửa sáng,
bàn sạch, lời dạy soi tâm là ân tạng chủ; có tài dấu kín, mọi việc
đắp bồi để báo ơn tri khách. Ở ắt có thường, gọi ắt đến trước là
công ơn thị giả. Một bình một bát, xử chúng như sơn để báo ân liêu
chủ. Thà tâm bịnh khổ, cơm thuốc tùy nghi để báo ân đường chủ. Nhẹ
nhàng êm thấm, không mê lầm nhân để báo ân dục chủ, vận thủy. Ngậm
miệng khoanh tay, nhún mình nhường người để báo ân hỏa đầu quân, lô
đầu. Xét đức hạnh mình tự hổ nên cúng để đền ân hóa chủ. Kể công
nhiều ít, đo lường của kia từ đâu đem đến để đáp ân trang chủ, tri
viên. Gánh nước, tải củi để báo ân tịnh đầu. Tự yêu tiếc phúc, rộng
mà dễ tùy, gọn mà dễ làm để báo ân tịnh nhân. Đó là việc bên lề tòng
lâm, đạo nghiệp làm mới tồn tại trên cả cơ duyên một đời giữ làm
chưa xong. Kẻ sĩ trung lưu nuôi dưỡng Thánh thai, chí như khi chưa
ngộ bổn tâm cũng không bỏ bê, là chân tăng bảo, là ruộng phước thế
gian.
- Trong
thời kỳ mạt pháp, cập bến lành tức chứng quả nhị nghiêm(1). Nếu như
tòng lâm chẳng duy trì, thời xe pháp không quay, chẳng có trưởng lão
để lãnh đạo chúng. Ba nghiệp không điều hòa, 4 oai nghi không nghiêm
chỉnh không phải là tài đốc xuất chúng của thủ tọa. Lượng bao dung
không rộng, tâm yêu thương chúng không dày không xứng để giữ chúng
của Giám Viện. Người tu hành bất an, đám bại hoại không mặc tẩn
không phải cách điều khiển chúng của duy na. Sáu vị không ngon, ba
đức không tinh khiết không phải cách phục vụ chúng của điển tọa.
Liêu phòng (nhà) không sửa, đồ đạc không đầy đủ không phải cách làm
chúng an ổn của trị tuế. Cất giữ của Tam Bảo, giảm bớt của
chúng tăng không phải cách phục vụ chúng của Tri khố. Ván viết không
cân, chữ viết dối tháu không phải là vai trò biên chép của Thư ký.
Bàn ghế không ngay, làm ồn không ngớt không xứng phần vụ quản thủ
của Tạng chủ. Ghét nghèo yêu giàu; trọng tục khinh Tăng không phải
vai trò của Tri khách. Lễ phép chẳng kính, tôn ti không theo không
xứng làm nhịp cầu giữa chúng của thị giả. Phạt đuổi chẳng nghiêm,
giữ gìn chẳng cẩn không phải là cách cư xử của liêu chủ. Không cung
cấp giúp đỡ, làm bịnh nhân phiền muộn không phải cách đối đãi của
đường chủ. Nước nóng không đầy đủ, lạnh ấm không điều hòa không phải
trách nhiệm của dục chủ, vận thủy. Chuẩn bị thiếu sót làm cho động
chúng không phải việc làm của thán đầu, lô đầu (lo than củi, đèn dầu).
Gặp của bất công, không tận lực hết lòng, không xứng vai trò hóa chủ
đem cúng chúng. Đất có lợi, người vô công không phải người thay
chúng của trang chủ, tri viên, ma đầu. Cạo đầu không đúng lúc, các
duyên không đủ, không phải việc phục vụ chúng của tịnh đầu. Cấm mà
không bỏ, ra lệnh không làm theo không phải thuận chúng của tịnh
nhơn. Như ở trong tăng chúng mà khinh thầy chê pháp, giữ tánh tùy
tiện, không phải để báo ân Thầy giáo thọ. Ngồi nằm sái phép, đi đứng
vụt chạc không phải để báo ân Thủ tọa. Khi dễ vương pháp, không đoái
hoài đến tòng lâm, không phải để báo ân Giám Viện. Trên dưới bất hòa,
tranh cải quyết liệt không phải để báo ân duy na. Ham ăn đồ ngon,
chê bai món dỡ không phải để báo ân điển tọa. Tha hồ thọ dụng không
nghĩ tới người sau, không phải để báo ân trị tuế. Tham lam lợi dưỡng,
không tiếc của Tam bảo không phải để báo ân tri khố. Hoa hòe
bút mực, văn chương lã lướt, không phải để báo ân thư ký. Khi dễ
kinh luật, xem đọc ngoại điển không phải để báo ân tạng chủ. Liên
lạc kết giao với người đời, tiếp xúc người sang chẳng phải để báo ân
tri khách. Quên lời mời thỉnh, trọng công truyền lịnh, không phải để
đền ân thị giả. Làm hư hại đồ dùng, che dấu tỏ gian không phải để
báo ân liêu chủ. Giận nhiều, vui ít không hợp người bịnh không phải
để báo ân đường chủ. Gõ nhịp gây ra tiếng, dùng nước không biết tiết
kiệm chẳng phải để đền ơn dục chủ, vận thủy. Tự tham lam vơ vét ngăn
chặn mọi người không phải để đền đáp hỏa đầu quân, lô đầu. Không
nghĩ tới tu hành mà an nhiên thọ của cúng không phải vì để báo ân
Hóa chủ. Suốt ngày đầy đủ, không dụng tâm tu không phải để báo ân
trang chủ, tri viên, ma đầu. Khạc nhổ lên tường, vung vãi xả rác
lung tung chẳng phải để báo ân tịnh đầu. Thanh sắc bao biện, sai sử
vô chừng chẳng phải chỗ báo ân tịnh nhơn.
- Trở lên
chỉ nêu một ít điểm cần yếu, chưa bao hàm hết qui tắc thiền môn,
mong bỏ xấu theo tốt để cùng làm cho xong bổn phận người xuất gia,
những mong ở hang sư tử trở thành sư tử. Trong rừng chiên đàn thuần
toàn loại chiên đàn khiến 500 năm sau được gặp lại tại hội Linh Sơn.
- Muốn
biết Phật pháp hưng suy, quan trọng do tăng đồ, Tăng là phước điền
nên phải tôn trọng. Trọng tăng tức là trọng pháp, khinh Tăng là
khinh pháp. Trong giữ nghiêm minh, ngoài gìn cẩn mật. Thiết đặt cơm
cháo cúng dường, một sáng rỡ ràng, công việc tòng lâm hiển nhiên
nhận làm phải nên kính trọng, đãi ngộ đồng đều. Không nên tự tôn tự
đại, cũng như cống cao ngã mạn; đem việc riêng đền việc công. Vạn
vật vô thường đâu thể bảo đảm được bền lâu! Một mai gặp lại chúng,
mặt nào nhìn nhau. Nhân quả không sai sợ khó trốn tránh. Luận Tăng
là Phật tử thọ cúng không gì hơn được trời, người thảy đều cung kính.
- Đức
Thế Tôn 2600 năm còn lưu bóng mát che chở đàn con cháu. Trong
ánh hào quang là một phần công đức dùng mãi không cùng. Chỉ biết
phục vụ chúng mà chẳng sợ lo nghèo. Tăng không phân phàm thánh mà
chung hết thảy mười phương. Đã gọi của thường trụ hẳn nên phân đều,
đâu có sanh tâm phân biệt, khinh thường thánh tăng lưu lại qua đêm;
nếu ở lại 3 hôm có quyền nhận của cúng dường. Tại tăng đường cúng
dường bửa ăn sẵn lòng cung cấp. Khách tục còn phải tiếp rước, huống
tăng già há chẳng quan tâm? Nếu sẵn sàng với tâm rộng lượng mình tự
được phước vô cùng. Chư tăng hòa hợp, trên dưới đồng lòng, thường
biết khuyết toàn cùng nhau bao bọc. Việc trong nhà bẩn chớ để bên
ngoài hay biết. Tuy nhiên đối với việc không phương hại, chắc ít ai
đoái tới, ví như vi trùng trong thân sư tử mới ăn được thịt của sư
tử mà thôi. Không phải thiên ma, ngoại đạo có thể phá hoại được giáo
pháp; chỉ có đệ tử của Phật mới làm Phật pháp suy tàn. Nếu muốn đạo
pháp mãi lưu truyền, Phật pháp tiếp tục lâu dài, làm phát huy Tông
tổ mong lấy văn này làm chuẩn mực.
- Chứng
nghĩa ghi:
- Thiền
sư Minh Giáo Cao, Thiên Tôn Tăng nói rằng: "Giáo hẳn tôn kính tăng,
vì sao vậy? Vì Tăng ấy lấy Phật làm tánh, lấy Như Lai làm nhà, lấy
pháp làm thân, lấy huệ làm mạng, lấy thiền duyệt làm món ăn. Cho nên
không theo họ tục, không kinh doanh như người đời; không tu hình
thức, không tham sanh, không sợ tử. Không tiếc gì năm vị, người xuất
gia phòng thân có giới, nhiếp tâm có định, biện giải có huệ, lời nói
răn dè. Ba nghiệp thanh tịnh và cuối cùng thân không nhiễm, lời nói
chắc chắn, suy nghĩ cẩn thận đúng, tinh thần sáng suốt, nên suốt
ngày không rối loạn, lời nói tỏa huệ vậy. Trọng đức dứt mê lầm là
điều hiển nhiên, lấy đây làm nhân tu hành, lấy đây làm quả đạt thành.
Có từ có bi, có đại thệ, có đại huệ. Từ ấy là luôn muốn cho mọi vật
được an ổn, bi ấy là luôn muốn làm khô cạn mọi sự khổ, thệ ấy là thề
cùng với mọi người nhận rõ chân lý, huệ ấy là lấy chánh pháp soi
sáng quần sanh. Thần mà thông đó, trời đất không thể yểm che, mật (kín)
mà hành đó quỉ thần không thể lường được, đó là quảng diễn giáo pháp
vậy. Luận bàn không trở ngại đó là hộ pháp vậy. Phấn đấu không đoái
tới thân, hay nhẫn được những cái mà người ta không nhẫn được; hay
làm được cái mà người ta không làm được, đó là chánh mạng. Ăn như
vậy mà ăn, ăn mà không làm nhục, đó là thiểu dục vậy. Áo nạp, bát
niền mà không bị nghèo. Người vô tranh có thể nhẫn mà không nhẹ thể;
người vô oán năng động mà không tổn hại. Lấy thật tướng đãi vật, lấy
đức từ tu thân, cho nên ở trong thiên hạ được kính trọng. Người
không nói dối nên được tin tưởng; đến như pháp vô ngã nên nhường là
thật. Có oai đáng kính, có nghi đáng noi theo. Trời, người vẫn mong
nhưng nghiễm nhiên có phước ở đời, hay dẫn dắt cõi tục. Người quên
mình dù thác làm cầm thú mà không keo lận. Kẻ đọc tụng dù nóng lạnh
nhưng không bỏ bê, lấy pháp xuất xử - làm việc. Đi vào khắp nẻo nhân
gian, tới nơi làng xóm; thấy danh như tiếng dội lại, thấy lợi như
bụi trần, thấy vật sắc như tia chớp lòe. Đất bằng hợp lối xe đi mà
không là hèn mọn, vì đạo mà xử sự. Dù ở nơi núi sâu non thẳm, lấy cỏ
làm áo che thân, ăn cây rừng mà sống an nhiên tự tại không bị lợi
danh thu hút, thế quyền khuất phục. Tạ ân vua, các quan hầu không đề
cao là người độc lập. Lấy đạo tự thắng, dù hình ảnh đáng thương mà
không cô độc, vì cùng ở chung. Lấy pháp làm quyến thuộc, gặp đủ
người trong bốn biển mà không bị hổn loạn là do sở học".
- Ngoài 3
tạng, 12 bộ kinh, sách của bách gia chư tử khác đạo không thể không
thông hiểu. Tổ thuật lại: "Pháp ấy hẳn có văn có chương vậy. Người
hành trung đạo chẳng không chẳng hữu là học thấu đáo. Lìa niệm tức
thanh tịnh hợp nhất chân như, là không chỗ phân biệt, Tăng quí nơi
con người là tâm rộng rãi, là đức vẹn đầy vậy. Đó là Đạo lớn, đó là
hiền không phải hiền như người đời nói. Đó là Thánh không phải Thánh
như thế thường nghĩ. Hiền Thánh xuất thế nổi bật vậy. Tăng như thế
há không đáng tôn sao?"
- Ôi thôi!
Đạo pháp đã tới thời mạt vận, cách Thánh càng xa! Tuy là người xuất
gia mưu cầu đạo lại đi tranh danh đoạt lợi cho mình. Thấy Phật
pháp suy tàn bèn làm cho pháp môn sáng tỏ, dạy giềng mối đem lại
niềm tin cho nhiều người. Thật là lợi lạc cho đàn hậu học để khắc
ghi đạo mầu từ đó. Người từng đem tâm KHÔNG cầu pháp, quyết chí theo
thầy mà gần nhất là việc hiển danh lập thân, xa là cách phàm chứng
thánh, tái lập lại thời tượng pháp, ai bỏ tục làm Tăng?
- Cho nên
cần phải tu thân, ít nói, giữ gìn sau như trước. Chuyên lo việc học,
cẩn trọng lo hành pháp, tránh ác làm lành. Vâng lời Thầy hết lòng,
có giỏi cũng không tự khoe khoang. Việc ác khởi lên phải nhanh chóng
trừ dứt, giữ nhân nghĩa đã hành đúng chưa? Nếu nhổ tận gốc nghèo
thời vui mà quên lo lắng; thấy liền nghĩ như nhau, đương nhân chẳng
nhượng. Danh lợi không làm động được chí nguyện; sanh tử không đủ
quấy rối người có tâm ưu tư. Trí có đủ để phá tan mê lầm, lòng từ có
thừa để nhiếp hóa người. Lúc khốn phải giữ mình thanh tịnh, khi đạt
nên khiêm nhường thiên hạ, làm cho chân phong đang bệ rạc có cơ tái
chấn hưng. Đuốc tuệ lu mờ làm cho tiếp tục sáng tỏ, đó gọi là đại
trượng phu vậy. Xứng đáng gọi là sứ giả Như Lai thân đâu không an
nơi Tăng bảo; diệt gian dối phức tạp mới là yêu mến bậc hiền. Trước
ái mộ kẻ thượng hiền, sau thời chìm lặn vào hạng hạ ngu. Bọn người
như đây thật đáng thương xót!
- Đọc lời
cảnh sách này tâm nên suy nghĩ: "Phật pháp hưng suy do tăng
hành xử. Cho nên trọng tăng là trọng pháp, khinh tăng là khinh pháp
đó. Muốn ra khỏi thế gian báo ân Phật, xin hãy cố gắng. Muốn
ra khỏi thế gian báo ân Phật, xin hãy cố gắng…"
- Phú
pháp nguyên gọi là phó y từ Tổ Tổ nối truyền, lấy pháp y làm biểu
tín, truyền tới Đông Độ đời Lục Tổ, do sanh ra tranh chấp nên chấm
dứt từ đó mà không giao phó y nữa. Gần đây phú pháp cũng gọi là phó
y, đặc biệt giữ cái danh vậy. Pháp tức là tâm, tâm không thể thấy,
đâu có qui tắc mà thấy được. Đúng là nhờ thầy khai đạo đem tâm
truyền tâm thời việc phó pháp hoàn bị, cho chí dạy chọn phân tòa
trong thời mạt pháp, nhưng không ghi ra ở đây.
- Chỉ
lược thuật nguyên tắc thiền tông cho người sau biết pháp có căn cứ
nguồn gốc; đồng thời cũng để cổ võ học nhân. Dựa theo thiền tông
nguyên lưu khởi nguyên từ Đức Thế Tôn giơ cành hoa giữa chúng
tại hội Linh Sơn, Ma Ha Ca Diếp ngộ được mỉm cười.
Đức Phật bảo:
-
- "Nay ta có
chánh pháp nhãn tạng:
- Niết
Bàn diệu tâm
- Thật
tướng vô tướng
- Không
lập văn tự
- Chỉ
thẳng tâm người
- Thấy
tánh thành Phật
- Pháp
môn vi diệu
- Phó
chúc cho ngươi
- Ngươi
khéo hộ trì
- Đừng để
gián đoạn".
-
Và
Phật truyền kệ rằng:
- - "Pháp
vốn pháp không pháp
- Không pháp
pháp cũng pháp
- Nay lúc
trao không pháp
- Pháp pháp
nào từng pháp…"
-
Bèn
làm Sơ
Tổ (Ca Diếp) Thiền Tông.
Tổ kế thừa theo thứ tự như sau:
-
Tổ thứ nhất là
Ma ha Ca Diếp truyền xuống,
-
A Nan
Tổ
Thứ
Hai,
-
A Nan truyền Tổ Thương Na
Hòa Tu,
-
Thương Na Hòa Tu truyền Ưu
Bà Cúc Đa,
-
Ưu Bà Cúc Đa truyền Đề Đa
Ca,
-
Đề Đa Ca truyền Di Giá Ca,
-
Di Giá Ca truyền Bà Tu
Mật,
-
Bà Tu Mật truyền Phật,
-
Đà Nan Đề, Phật Đà Nan Đề
truyền Phục Đà Mật Đa,
-
Phục Đà Mật Đa truyền Hiếp
Tôn Giả,
-
Hiếp Tôn Giả truyền Phú Na
Dạ Xoa,
-
Phú Na Dạ Xoa truyền Mã
Minh.
-
Mã Minh truyền Ca Tỳ Ma
La,
-
Ca Tỳ Ma La truyền Long
Thọ,
-
Long Thọ truyền Ca Na Đề
Bà,
-
Ca Na Đề Bà truyền La Hầu
La Đa,
-
La Hầu La Đa truyền Tăng
Già Nan Đề,
-
Tăng Già Nan Đề truyền Già
Da Xá Đa,
-
Già Da Xá Đa truyền Cưu Ma
La Đa,
-
Cưu Ma La Đa truyền Xà Dạ
Đa,
-
Xà Dạ Đa truyền Bà Tu Bàn
Đầu,
-
Bà Tu Bàn Đầu truyền Ma Nỗ
La,
-
Ma Nỗ La truyền Hạc Lặc
Na,
-
Hạc Lặc Na truyền Sư Tử,
-
Sư Tử truyền Bà Xá Tư Đa,
-
Bà Xá Tư Đa truyền Bất Như
Mật Đa,
-
Bất như Mật Đa truyền Bát
Nhã Đa La,
-
Bát Nhã Đa La truyền Bồ Đề
Đạt Ma,
-
Tổ thứ 28 khởi đầu truyền
sang Đông Độ là Tổ Thứ Nhất,
-
Bồ Đề Đạt Ma truyền tổ Huệ
Khả,
-
Huệ Khả truyền Tăng Xán,
-
Tăng Xán truyền Đạo Tín,
-
Đạo Tín Đại Y Thiền Sư
truyền Hoằng Nhẫn Đại Mãn Thiền
Sư,
-
Hoằng Nhẫn Đại Mãn Thiền
sư truyền Huệ Năng Đại Giám Thiền Sư,
-
Huệ Năng Đại Giám
Thiền
Sư
truyền xuống hai nhánh:
- Một
nhánh tại Hồ Quảng cho Nam Nhạc tức là Hoài Nhượng Đại Huệ
Thiền
Sư,
nhánh
thứ hai tại Thanh Châu cho Thanh Nguyên là Hành Tư
Thiền
Sư.
-
Chứng nghĩa ghi rằng:
- Phó
pháp nguyên lưu xuất phát từ
Kinh
Phó Pháp Tạng,
Kinh Đạt Ma Đa La Thiền
v.v…Về sau kế thừa các chi phái từ các sách Thiền. Nam Nhạc y theo
Lâm Tế, Thanh Nguyên dựa theo Động Sơn, đó là các sách lưu hành của
Thiền tông. Hai phái Thiền này rất thạnh hành. Theo Ngũ Gia Tông
phái một quyển tập hợp tất cả các hệ phái, rồi phải tái kết hợp biên
tập tiếp tục không để lu mờ việc truyền phú pháp. Tuy lấy tâm truyền
tâm nhưng không thể không có kệ phó pháp, nếu không có kệ hẳn làm
cho chi phái rối loạn. Truyền lưu không theo tiêu chuẩn làm cho pháp
môn mất trình tự, cũng làm đảo lộn thứ lớp.
-
Sách Ngũ Gia tông phái
trong đó mỗi phái được hoàn bị pháp mạch ngược dòng tìm nguồn, nên
mỗi phái thông suốt đủ tinh tường các danh lục như đã luận giải. Dựa
sách Kim Sơn chùa Giang Thiên tại Nhuận Châu quyển 9 ghi ngữ lục chí
học thông sách Tố Lưu Tầm Nguyên Đồ Thuyết kệ rằng:
"Tổ
hành giới định thông mới
chứng được viên thông Pháp sáng vượt thực tế
đạt
ngộ lý chân không. Đây là môn hạ của Bích Phong Sơn Thiền sư, Tổ
Định thiền sư vào ở chùa Tuyết Phong, là Tổ chữ khởi đầu 47 dưới
Bích Phong, thành lập một phái riêng, kế thừa đến 20 chữ, hoàn toàn
không phải từ chính tông Lâm Tế xuất phát. Cho đến Huyền Hữu truyền
Tổ ấn kiệt xuất Thiên Đồng Ngộ Khánh Sơn sửa đổi hai nhánh mới dùng
chữ “Viên” kéo dài cho tới nay; trước mắt chữ “Không” sắp hoàn tất.
Lòng người bất nhất, hoặc theo phái Tổ Long Sơn hay lập riêng một
phái, hoặc nguyên bài kệ từ chữ “Tổ” bắt đầu trở lại. Hoặc chữ
“Không” truyền thừa kế tiếp; nhưng mà chung cục không phải chỉ bấy
nhiêu. Thiền là tông lớn trong các tông luôn hưng long dòng pháp.
Nên nghĩ tới cội gốc, nguồn mạch cốt để tìm sự thật. Có chánh tông
chánh phái thời nguồn mạch lưu chuyển lâu dài, không đến đổi pháp Tổ
nạ dòng (đục ngầu trào lên) được quy về chánh phái.
-
Đây là cuốn sách Ngũ Gia
Tông phái đáng tham khảo phát hành rất lâu tại phòng Kinh sách Tây
Hồ chứ không phải ký ức của tôi nhớ ra đâu, đó gọi là Tố Lưu Tầm
Nguyên vậy (ngược dòng tìm nguồn mạch). Xin trích lục Lâm Tế Chánh
Tông đời 24 Thiền sư Hải Chu Vĩnh Từ biệt xuất kệ pháp phái Lâm tế
như:
-
- "Phổ Vĩnh trí quảng
hoằng thắng đức
- Tịnh huệ
viên minh chánh pháp hưng
- Tánh hải
trừng thanh hiển mật ấn
- Đại thừa
diệu đạo ngộ tâm đăng
- Phật ân
hạo mãn lưu phương viễn
- Tổ hạnh
siêu tông tục từ thâm
- Giới định
di kiên thông nghĩa lý
- Quy thành
cẩn thủ trấn thường tân
- Phấn thiện
xương vinh nhân đạt bổn
- Vi tường
long thạnh phục truyền đăng
- Công duệ
tịch chiếu dung chân tế
- Bảo cảnh
cao huyền thể dụng thân
- Nhiêu ích
linh văn thơ cảnh tú
- Tín trì
nguyên ký tế thời trân
- Liễu nhiên
vô kế không chư huyễn
- Giác thọ
khai phu quả tự hinh".
-
Nghĩa là:
- - "Trí sâu
đức rộng lưu khắp cùng
- Tuệ viên
tròn sáng Phật pháp truyền
- Tánh hải
lặng trang hiển mật ấn
- Đại Thừa
đạo nhiệm ngộ tâm đăng
- Phật ân
chan chứa thơm hương mãi
- Hạnh Tổ
vượt tông nối dõi ân
- Giới
định kiên cường thông nghĩa lý
- Viên
thành cẩn trọng gìn như mới
- Vun thiện
bồi vinh tới quả nhân
- An tường
hưng thạnh lại thêm tăng
- Công lao
nhuần nhuyễn sáng cõi chân
- Gương báu
treo cao thể dụng phần
- Lợi lạc
linh văn gôm nét đẹp
- Giữ gìn
nguyên vẹn giúp muôn dân
- Hiển nhiên
không kế không pháp huyễn
- Bồ đề quả
lộ hiện tự thân".
-
Bài tụng này gồm 120 chữ
từ Tổ Hải Châu Từ kế chữ Vĩnh cùng bực với phái Bích Phong ở
chữ Định đồng hàng. Từ chữ Định đến chữ Không trong bài tụng này
đồng bực chữ Thanh. Sau chữ Phấn đối sự liễu ngộ pháp chân chữ Không
là dứt, tức từ nơi bài tụng này hiển lộ mật ấn, hiển tự khởi. Đó là
phái Lâm Tế chánh tông không nên bám víu liên tục và lập riêng các
phái. Nếu từ chư Tổ lưu xuất các phái, đã có lập kệ riêng của phái
phải biết mình thuộc chữ gì trong bài kệ, ứng hợp với phái chánh đây
đồng bực chữ gì, thời ngược dòng tìm nguồn không đến đổi uổng phí
công lao.
-
Đến sách phú pháp, phải từ
Đức
Thế Tôn truyền
cho Ca Diếp khởi đi, Đông Độ từ Sơ Tổ khởi đi mãi cho tới
thời cận đại có sách các tiểu phái ra đời. Bỏ Tổ là tội rất lớn, lại
thêm vong bổn (mất gốc) nữa. Do người, kế thừa nên Tổ đạo mỗi ngày
càng suy vi. Kế đây lược bàn về nguồn mạch: "Tông
môn lấy nhứt niệm không sanh làm chánh kiến. Gạt văn tự là bị chướng
ngại, giá người sau khi ngộ bổng la lên lâm cơ cũng trọng chỗ thấy
mà khinh gốc gác. Gặp sự ngụy tạo cũng không xét kỹ vẫn lưu truyền,
gian ngụy do đây xuất phát, song ngụy tạo lẫn lộn với sai lầm. Học
rộng là biết rõ nguồn gốc thiền tông, lầm lẫn đối với trong tiểu chú
giải lời Phật Tổ, đăng tải Kheo huyền tố bi ký, riêng có Thiên Vương
Ngộ xuất hiện, sau Mã Tổ có Viên môn, Pháp nhãn cũng qui về dưới Mã
Tổ. Kế tục sau sách Ngũ Đăng Hội Nguyên là Chỉ Nguyệt lục đều là
tiểu chú giải, thêm sau đó vẫn còn hồ nghi. Vào đời Nguyên đến giữa
Nguyên Vân Hác Thụy có tập Tâm Đăng lục dẫn thẻ ghi các bi ký làm
đảo lộn tôn thống làm uổng phí công tuyển chọn của Ngũ Đăng, ra sách
Tể Lôn Vĩnh tập Ngũ Đăng toàn thư đều thuộc loại ngụy tạo này. Lại
trước khi Nam Nhạc còn sống sau có Thanh Nguyên, trước có Đại Huệ
Cảo, kế có Hổ Kheo Long, huynh đệ làm đảo ngược lại qua Viễn Môn trụ
tập ngũ đăng tục lược. Phái Thanh Nguyên lầm đưa vào Lộc Môn Giác
đời thứ 5 thuộc môn hạ Trường Ông Như Tịnh. Tổ tôn đảo lộn vị trí,
đời thứ lầm lẫn. Kế đăng tiếp tục các sách đều là sách sai lầm như
thế cả. Phái Nam Nhạc lẫn lộn cả Hải Châu làm một, sai lầm lục vô
văn là một ý mạch nguồn thế đại. Tổ đạo đổi giòng đâu thể không
loạn. Khương Hy giáp thành may có Hành Dương Lạc Hà là Trí Giai
Thiền sư chấp bút đính chánh cho ấn hành một cuốn danh lục, mới nêu
rõ những lầm lỗi sách cũ của Tổ phụ, để giúp người sau thu thập được
điều mới y cứ theo lịch triều năm Giáp Tý biên niên, nghiên cứu các
châu quận hẻo lánh thay người sau trước. Bậc Thầy truyền thọ, lai
lịch tông phái, thuật cổ luận kim, việc nhiều lời ít, không quá rườm
rà. Công việc nhằm sửa đúng cái sai thật đáng nói ở chỗ dụng tâm.
Luận bàn chỗ đúng, ngòi bút sắc cạnh thật vô tư đối với sách Tể Lôn
Vĩnh tập Ngũ Đăng toàn thư. Như hai bên sát phạt lẫn nhau. Ngoài ra,
Như Mộc Trần Mẫn có Thiền Đăng Thế Phổ, Đàm Kiết Nhẫn với Ngũ Tông
Cứu, Sơn Hiểu Triết với Sùng Chánh Lục và Bảo Tích lục, Tế Thủy
Quảng có Hiển Chánh Thuyết, Mai Cốc Duyệt với Lâm Tế Chánh Tông lục,
Thạch Nguyên Vân với Tịch Vọng Thuyết, Điền Tỳ Tế với Đông Minh Tổ
Đăng Lục, Cự Linh Dung với Tục Tăng Bảo truyện, Đoạn Khởi Trứ có Nam
Nhạc Cách Tổ, Tương Lưỡng Aám với Tôn Thống Biên Niên, Lạc Độc Tiên
với Tục Chỉ Nguyệt lục, Trứ Am Vấn với Tục Đăng Tồn Cảo, Mật Vân Ngộ
với Tịch Vọng Bạt và Mộng Thuyết lục v.v… Hễ có liên hệ với Hải Châu
Từ, Bảo Phong Nguyên, Vô Văn Thông v.v… đều lầm lẫn. Không những
không phân tích phản đối từ cuốn 1 đến cuốn 4 luận khảo năm tông 2
phái về khởi nguyên. Khảo chánh là Thanh Nguyên Tư khi còn sanh tiền
và sau Nam Nhạc, trước là huynh sau đệ vậy. Lại luận Thiên Hoàng Ngộ
chỉ một người cùng huynh đệ Dược Sơn Nghiễm đồng xuất thân từ Thạch
Đầu Hy Thiên. Ngộ truyền cho Long Đàm Tín, Long Đàm Tín truyền xuống
Đức Sơn Giám, Đức Sơn Giám truyền xuống Tuyết Phong Tồn. Tuyết Phong
Tồn truyền cho hai người là Nguyên Sa Bị và Vân Môn Yển. Sở dĩ nói
tông Vân Môn vì Thanh Nguyên đời thứ bảy, Nguyên Sa Bị truyền cho La
Hán Sâm, Sâm truyền cho Thanh Lương Ích. Vì thế gọi Tông Pháp Nhãn
từ Thanh Nguyên đời thứ chín vậy. Dược Sơn Nghiễm truyền cho Vân
Nham Thạnh. Vân Nham Thạnh truyền cho Động Sơn Giới. Do vậy có tông
Động Sơn Thanh Nguyên đời thứ năm. Nam Nhạc Nhượng truyền cho Mã Tổ
Đạo Nhất, Đạo Nhất truyền cho Bách Trượng Hoài Hải. Bách Trượng Hoài
Hải truyền cho hai người là Hoàng Bá Hy Vận và Quy Sơn Linh Hựu.
Hoàng Bá Hy Vận truyền cho Lâm Tế Nguyên nên gọi là tông Lâm Tế Nam
Nhạc đời thứ năm. Linh Hựu truyền cho Ngưỡng Sơn Huệ Tịnh nên gọi là
tông Quy Ngưỡng cùng phái Nam Nhạc đời thứ năm. Năm tông này kế
truyền chánh truyền có nguồn gốc. Quyển 5 đến quyển 7 luận khảo về
các đời tông Tào Động khá đầy đủ. Ngài Động Sơn truyền cho Phù Dung
Khải, Phù Dung Khải truyền cho Lộc Môn Giác, Lộc Môn Giác truyền cho
Thanh Châu Biện, Thanh Châu Biện truyền cho Từ Châu Bảo. Dưới Châu
Bảo có một phái kế truyền tới nay. Ngoài ra, Phù Dung Khải truyền
cho Đơn Hà Hưởng, Hưởng truyền cho Sùng Tiên Liễu. Sùng Tiên Liễu
truyền cho Thiên Đồng Giác, Giác truyền Tuyết Độc Túc Am Trí Giám,
Giám truyền cho Thiên Đồng Trường Ông Như Tịnh v.v… Hai phái này từ
đời Tống đến cuối Minh hơn 500 năm không có thuyết khác, tiếp tục
sai lầm đưa tới Lộc Môn Học đời thứ 5. Lầm lỗi y cứ dưới Ngài Như
Tịnh. Đây đều biện chánh. Quyển 8 đến quyển 14 luận về các thế hệ
tông Lâm Tế khá đầy đủ để tham khảo, như Hưng Hóa đối với tông Lâm
Tế, Tuyết Nghiễm đối với Vô Chuẩn, Minh Thông đối với Thiên Kỳ đều
xa thế hệ. Bàn về Hải Châu Phổ Từ là thế hệ Vạn Phong Thời Ủy cùng
Bảo Tạng Trì là huynh đệ. Hải Châu Vĩnh Từ là thế hệ Đông Minh Thời,
liên hệ tới Hải Châu Phổ Từ ở trước là cháu pháp điệt. Dựa vào chánh
tông nguyên lưu, nối tiếp thế hệ Vạn Phong, Hải Châu Phổ Từ trước
truyền cho Bảo Phong Minh Tuyên, Bảo Phong Minh Tuyên truyền cho
Thiên Kỳ Bổn Đoan, nay còn lưu truyền. Từ Bảo Tạng Trì, Đông Minh
Thời trở lại kệ truyền pháp có 2 chữ Dực Thiện mà về sau Hải Châu
Vĩnh Từ không còn nghi gì nữa. Chùa Dực Thiện, nơi về sau Hải Châu
Vĩnh Từ đã ở đó, nguồn mạch khởi từ Bảo Tạng Trì là dưới Vạn Phong
xuất phát ra một phái. Song Quang Trạch, Vô Văn, Minh Thông đi xa
thế hệ Thiên Kỳ, thời Bảo Tạng Trì, Đông Minh Thời sau Hải Châu Vĩnh
Từ 3 đời là sai lầm phát xuất từ đó. Lại luận cùng danh Vô Văn Thanh
có 67 người đời sau không rõ, cùng tên khác người. Nhận lầm Tổ người
khác là Tổ của mình, tự do sử dụng điển tịch (sách sử) ngụy tạo lấy
ngoa truyền ngoa. Tóm lại một lời nói rằng, truyện Phù Nghiễm của Vô
Văn, Minh Thông họ Phù, người quận Mân (Phúc Kiến), phủ Võ huyện
Quang Trạch. Dựa theo sách Chánh Tông lục đăng tải, Vô Văn quận Võ,
sanh ngày 5 tháng 12 năm Giáp Tuất niên hiệu Chánh Đức năm thứ 9 đời
Minh vào giờ Tý, xuất gia năm 17 tuổi vào năm Gia Tĩnh thứ 9 tức năm
Canh Dần. 20 tuổi thọ giới Tỳ Kheo năm Quí Tỵ. Năm Bính Ngọ, 33 tuổi
đi tham học. Lại Ngũ Đăng đăng tải Vô Văn sanh đời Tùy, con Châu
Quan ở chùa núi Long Tuyền vào năm Tân Hợi niên hiệu Gia Tĩnh thứ
30. Tham khảo Ngũ Đăng toàn thư đăng tải, Thiên Kỳ viên tịch năm Mậu
Ngọ niên hiệu Hoằng Trị thứ 11 đến năm Tân Hợi niên hiệu Gia Tĩnh có
cả 54 năm đâu có gần Quận Võ, Vô Văn, Minh Thông chứ? Cho nên biết
rằng Minh Thông thuộc thế hệ xa. Biết đây là thế hệ xa lấy mọi ngụy
trá sai lầm truyền tải. Cố nhiên hẳn biết như vậy không nên tranh
luận. Nên biết rằng đây không phải là Vô Văn, chắc hẳn không thể
thêm 2 chữ Tuyệt Học được. Lại nữa tên húy là Minh Thông không phải
Chánh Thông; không thể lẫn lộn được. Minh Thông truyền cho Phù
Nghiễm - Nguyệt Tâm - Đức Bảo, Đức Bảo truyền cho Huyễn Hữu. Huyễn
Hữu truyền xuống 4 người: Thiên Đồng Mật Vân Ngộ, Vân Môn Tuyết Kiêu
Tín, Khánh Sơn Thiên Aån Tu, Bảo Phác Liên, song pháp mạch rất
thạnh. Thiên Đồng Khánh Sơn đúng danh lục là Huyễn Hữu, không phải
truyện Phù Nghiễm. Thuyết này tuy có xuất xứ, nhưng bị người bài bác
rất nhiều. Dù không quan hệ kệ truyền pháp làm y cứ, nhưng đối với
Phù Nghiễm có cơ duyên khế ngộ. Phù Nghiễm có phó chúc thu gọn không
nên bài xích chê trách.
-
Hỏi:
- - "Chánh
danh trước Thanh sau Nam, cớ gì trong đây vẫn đảo lộn thứ tự?"
-
Ðáp:
- - "Chánh
sanh trùng truyền đăng đời sau, trước anh sau là em theo lễ vậy. Nay
trước Nam Nhạc sau Thanh Nguyên, đời sau trùng pháp Thanh Quy làm
thầy thiên hạ. Thiền -
Giáo - Luật đều
trùng sách tôn Tổ trước của họ. Lại hỏi Bảo Tạng, Ðông Minh, sau có
Hải Châu, tuy phái nhỏ biệt xuất nhưng không loại bỏ. Trước Hải Châu
Phổ Từ, tuy chánh tông sai thiếu nhưng không bổ khuyết, tại sao?"
-
Đáp:
- - "Lưu
truyền đã lâu và rộng khắp, đối với lịch đại Tổ theo thần vị thứ tự
đời; và đời sau, phú pháp đại diện một số đời đã biến đổi bên trong.
Ở chỗ chính danh ngay lúc ấy còn khó cải đổi huống gì nay đã hơn 100
năm lại càng khó sửa hơn nữa".
-
Lịch Tổ tuy không tâm phân biệt ở chánh danh chẳng thể không luận
bàn, vì quyển sách đưa ra lý nên sửa cho đúng. Nay nguyên bản không
dám sửa, chỉ lược bàn điểm sai lầm lẫn lộn như trên đã nói.
-
Hoài Nhượng truyền cho Phổ
Chiếu Đại Tịch tại Giang Tây. Mã Tổ Đạo Nhất truyền một đời cho Bách
Trượng tại Hồng Châu. (Đại Trí Hoài Hải), Hoài Hải truyền cho Hoàng
Bá tại Hồng Châu tức là Chánh Giác Đoạn Tế Hy Vận. Hy Vận truyền cho
Lâm Tế Nghĩa Huyền (Lâm Tế Chân Thường) là thế hệ thứ nhất tông Lâm
Tế. Lâm Tế truyền cho Quảng Tế Tồn Tương (Hưng Hóa Tồn Tương) ở Ngụy
Phủ. Quảng Tế Tồn Tương truyền cho Huệ Ngung (Nam Viện tại Nhữ
Châu), Huệ Ngung truyền cho Diên Thiều (Phong Huyệt tại Nhữ Châu),
Diên Thiều truyền cho Tĩnh Niệm (Thủ Sơn tại Nhữ Châu). Tĩnh Niệm
truyền cho Vô Đức Thiện Chiêu (Thái tử ở Phần Châu). Thiện Chiêu
truyền cho Từ Minh Sở Viên - Thạch Sương tại Đạm Châu. Sở Viên
truyền cho Phương Hội - Dương Kỳ tại Viên Châu. Phương Hội truyền
cho Thủ Đoan (Bạch Vân tại Thơ Châu, Thủ Đoan truyền cho Pháp Diễn -
Ngũ Tổ Đông Sơn thuộc Kỳ Châu. Pháp Diễn truyền cho Viên Ngộ - Phật
Quả - Khắc Cần - Chiêu Giác ở Thành Đô. Khắc Cần truyền cho Thiệu
Long - Giang Kheo tại Bình Hỗ, Thiệu Long truyền cho Ứng Am - Đàm
Hoa - Thiên Đồng tại Minh Châu. Đàm Hoa truyền Mật Am Hàm Kiệt -
Thiên Đồng tại Minh Châu, Hàm Kiệt truyền cho Tổ Tiên Mật Ấn - Ngọa
Long phá am tại Khánh Châu. Mật Ấn truyền cho Vô Chuẩn Sư Phạm -
Phật Giám - Kính Sơn tại Hàng Châu, Phật Giám truyền cho Tổ Khâm Huệ
Lãng - Ngưỡng Sơn Tuyết Nghiễm tại Viên Châu. Huệ Lãng truyền cho
Cao Phong Nguyên Diệu ở Thiên Mục tại Hàng Châu. Nguyên Diệu truyền
cho Trung Phong Minh Bổn ở Thiên Mục tại Hàng Châu. Minh Bổn truyền
cho Thiên Nham Nguyên Trường - Ô Thương Phục Long, Nguyên Trường
truyền cho Cao Phong Thời Ủy - Đặng Úy tại Tô Châu. Thời Uûy truyền
cho Bảo Tạng Phổ Trì - Đặng Úy tại Tô Châu, Phổ Trì truyền cho Hư
Bạch Huệ Thời - Đông Minh tại Hàng Châu, Vĩnh Từ truyền cho Bảo
Phong Minh Tuyên tại Nam Kinh, Minh Tuyên truyền cho Thiên Kỳ Bổn
Đoan, Bổn Đoan truyền cho Vô Văn Minh Thông. Minh Thông truyền cho
Nguyệt Tâm Đức Bảo ở Tiếu Nham tại Bắc Kinh, Đức Bảo truyền cho
Huyễn Hữu Chánh Truyền ở Long Trì tại Nghi Hưng. Chánh truyền truyền
cho Mật Vân Viên Ngộ ở Thiên Đồng tại Minh Châu, và Thiên An Viên Tu
ở Khánh Sơn tại Nghi Hưng. Từ Đại Giám trở đi tới đây là 34 đời.
-
Từ Viên Ngộ Khắc Cần biệt
xuất một chi là Đại Huệ Tông Cảo Phổ Giác tức Kính Sơn tại Hàng
Châu, Phổ Giác truyền cho Lại Am Đảnh Nhu ở Tây Thiền tại Phước
Châu. Đảnh Nhu truyền cho Mộc Am An Vĩnh ở Cổ Sơn tại Phước Châu, An
Vĩnh truyền cho Mai Ông Ngộ Minh ở Tịnh tại Hàng Châu. Ngộ Minh
truyền cho Nhược Khẩu Lãng Ích tại Thái Nguyên, Lãng Ích truyền cho
Phiệt Độ Phổ Từ tại Phần Châu, Phổ Từ truyền cho Nhất Ngôn Đạo Hiển
ở Tướng Quốc tại Lạc Kinh, Đạo Hiển truyền cho Tiểu Am Hành Mật tại
Tây Kinh, Hành Mật truyền thừa 2 người Ngưỡng Viên Khâm, Khâm truyền
cho Vô Niệm Trí Hữu tại Thọ Châu, Trí Hữu truyền cho Hình Sơn Hoài
Bão, Hoài Bão truyền cho Thiết Ngưu Đức Viễn tại Tần Lãnh, Đức Viễn
truyền cho Nguyệt Minh Liên Trì ở Châu Dương tại Thục Hồ, Liên Trì
truyền cho Xuy Vạn Quảng Chân ở Tụ Vân tại Trung Châu. Quảng Chân
truyền cho Thiết Bích Huệ Cơ ở Trị Bình, Khánh Trung tại Trung Châu,
Huệ Cơ truyền cho Sơn Đăng Lai ở Cao Phong tại Trung Châu. Khởi từ
Đại Giám là 31 đời.
-
Từ Vô Chuẩn Sư Phạm biệt
xuất một chi là Đoạn Kiều Diệu Luân ở Tịnh Từ (chùa) tại Hàng Châu,
Diệu Luân truyền cho Phương Sơn Bảo Kiên ở Đoan Nghiêm tại Đài Châu,
Bảo Kiên truyền cho Vô Kiến Tiên Đỗ ở Hoa Đảnh thuộc Đài Châu, Tiên
Đỗ truyền cho Bạch Vân Trí Độ ở Phước Lâm tại Xử Châu. Trí Độ truyền
cho Cổ Quật Tuấn ở Thiên Giới tại Kim Lăng, Tuấn truyền cho Vô Tế
Minh Ngộ tại Đông Phổ, Minh Ngộ truyền cho Nguyệt Khê Trừng, Nguyệt
Khê Trừng truyền cho Di Phong Dung. Di Phong Dung truyền cho Bảo
Phương Tấn ở Thiên Mục tại Hàng Châu, Bảo Phương Tấn truyền cho Giả
Ông Hiểu ở Đông Tháp tại Gia Hưng. Hiểu truyền cho Vô Thú Như Không
tại Gia Hưng, Không truyền cho Vô Huyễn Cổ Trạm Tánh Trũng ở Xa Khê
tại Tô Châu. Trũng truyền cho Nam Minh Huệ Quảng ở Hưng Thiện tại
Gia Hưng. Quảng truyền cho Phổ Minh Diệu Dụng ỡ Mã Hồ tại Gia Hưng,
Dụng truyền cho Vân Phong Điều. Khởi đi từ Đại Giám tới đây là 35
đời.
-
Trở lên là phái Nam Nhạc.
- Hành Tư
truyền thừa cho Thạch Đầu Hy Thiên tại Hoành Sơn, Hy Thiên truyền
cho Dược Sơn Duy Nghiễm tại Lễ Châu, Duy Nghiễm truyền cho Vân Nham
Đàm Thạch tại Đàm Châu. Thạch truyền cho Động Sơn Lương Giới, là đời
thứ nhất tông Động Sơn. Giới truyền cho Vân Cư Đạo Ứng tại Hồng
Châu, Ứng truyền cho Đồng An Phủ ở Phượng Thê Sơn tại Hồng Châu, Phủ
truyền cho Đồng An Chí tại Hồng Châu, Chí truyền cho Lương Sơn Duyên
Quán tại Đảnh Châu. Quán truyền cho Thái Dương Cảnh Huyền tại Trịnh
Châu, Huyền truyền cho Nghĩa Thanh ở Đầu Tử Sơn tại Thơ Chẩn, Thanh
truyền cho Phù Dung Đạo Giai ở Tích Châu tại Sơn Đông, Giai truyền
cho Huệ Định Tự Giác Chùa Vạn Thọ Lộc Môn Sơn tại Nhượng Châu. Giác
truyền cho Đại Giác Phổ Chiếu Hy Biện ở Thiên Ninh tại Thanh Châu,
Biện truyền cho Đại Minh Bảo tại Từ Châu, Bảo truyền cho Vương Sơn
Thể tại Thái Nguyên. Thể truyền cho Tuyết Nham Mãn ở Đại Minh tại Từ
Châu, Mãn truyền cho Vạn Tùng Tú ở Báo Ân tại Yến Kinh. Tú truyền
cho Tuyết Đình Phước Dụ ở Vạn Thọ tại Thiếu Lâm, Dụ truyền cho Linh
Ẩn Văn Thái tại Cao Sơn. Thái truyền cho Hoàn Nguyên Phước Ngộ tại
Bảo Ứng, Ngộ truyền cho Hưởn Quật Văn Tài ở Hương Nghiêm, Tài truyền
cho Tùng Đình Tử Nghiêm ở Vạn An tại Nam Dương. Nghiêm truyền cho
Ngưng Nhiên Liễu Cải ở Cao Sơn. Liễu Cải truyền cho Câu Không Khế
Bân tại Cao Sơn. Khế Bân truyền cho Vô Phương Khả Tùng ở Định Quốc
tại Tây Kinh, Khả Tùng truyền cho Hư Bạch Nguyệt Đơn Văn Tải tại Cao
Sơn. Đơn truyền cho Tông Cảnh Đại Chương Tôn Thư ở Tiểu Sơn tại Bắc
Kinh. Tôn Thư truyền cho Đại Thiên Huyễn Hữu Thường Nhuận tại Cao
Sơn và Bẩm Sơn Thường Trung.
- Từ Đại
Giám trở đi là 34 đời. Trở lên là phái Thanh Nguyên.
-
Chứng nghĩa ghi rằng:
- Y
cứ các sách Ngũ Đăng Hội Nguyên, Tục Đăng Tồn Kiều, Chánh Nguyên
Lược Tập v.v… Hai tông Lâm Tế và Tào Động biệt xuất nhiều chi phái
không thể lục đủ hết được. Ở đây chỉ ghi một phái chính để làm sáng
tỏ nguồn gốc. Sau Nam Nhạc ngoài phái chính ra lại có thêm Đại Huệ
Cảo và Đoạn Kiều Luân là hai chi nữa, lấy người của chi phái đưa lên
làm chỗ trọng yếu. Lại dưới Đại Giám 4 đời kiệt xuất phái Qui Sơn
Linh Hựu, Linh Hựu truyền cho Ngưỡng Sơn Huệ Tịch, đó là tông Qui
Ngưỡng. Lại nữa sau Đại Giám 7 đời xuất hiện phái Vân Môn Yến, đó là
tông Vân Môn. Ngoài ra, dưới Đại Giám 9 đời có Pháp Nhãn Văn Ích, đó
là tông Pháp Nhãn. Như vậy, 3 tông này đều đã không có kế thừa cho
nên không đưa ra gốc gác.
-
Thiên Thai một tông chuyên
xiển dương Kinh Pháp Hoa. Theo Ngài Trí Giả, sách Quán Tâm
luận ghi rằng, đảnh lễ Thầy Long Thọ. Nghiệm đó để biết rằng Trí Giả
xa bái Long Thọ làm sơ Tổ; gần thời bẩm bái Huệ Văn - Bắc Tề, làm tổ
thứ hai; Huệ Văn truyền xuống Nam Nhạc Huệ Tư, là tổ thứ ba. Huệ Tư
truyền cho Trí Nghiễm Đức An (Trí Giả), Trí Giả là tổ thứ tư.
-
Lấy nhất niệm hoằng truyền
3 nghìn cõi, trong viên mãn thực hành giáo quán, dù trải qua ở quan
quyền, nhà giàu sang v.v… những lợi lộc, nhưng quy về gốc Thiên Thai
ở Quốc Thanh, nên gọi là Tông Thiên Thai. Trí Giả truyền xuống
Chương An Quán Đảnh Phi Phàm là tổ thứ năm, Phi Phàm truyền cho Pháp
Hoa Trí Uy là tổ thứ sáu, Trí Uy truyền cho Thiên Cung Huệ Oai là tổ
thứ bảy, Huệ Oai truyền cho Tả Khê Huyền Lãng Huệ Minh là tổ thứ
tám. Huyền Lãng truyền xuống Kinh Khê Trạm Nhiên là tổ thứ chín,
Trạm Nhiên truyền xuống Quốc Thanh Đạo Toại Hưng Đạo là tổ thứ mười,
Hưng Đạo truyền cho Quốc Thanh Quảng Tu Chí Hành là tổ mười một. Chí
Hành truyền cho Vật Ngoại Chánh Định là tổ mười hai. Chánh Định
truyền cho Nguyên Tú Diệu Thuyết là tổ mười ba, Diệu Thuyết truyền
cho Thanh Tủng Cao Luận là tổ mười bốn. Cao Luận truyền cho Loa Khê
Nghĩa Tịch Thường Chiếu là tổ mười lăm, Thường Chiếu truyền cho Minh
Châu Bảo Vân - Nghĩa Thông Tánh Viễn là tổ mười sáu. Tánh Viễn
truyền cho Tứ Minh Tri lễ Ước Ngôn Pháp Trí là Tổ mười bảy. Pháp Trí
truyền cho Nam Bình Phạm Trăn là Tổ mười tám. Phạm Trăn truyền cho
Tùng Giản Từ Biện là Tổ mười chín. Từ Biện truyền cho Xa Khê Trạch
Khanh là Tổ 20, Trạch Khanh truyền cho Trúc Am Nghi Ông Khả Quán là
Tổ 21. Khả Quán truyền cho Bắc Phong Nguyên Thật Tông Án là Tổ 22,
Tông Aán truyền cho Phật Quang Pháp Chiếu là Tổ 23. Pháp Chiếu
truyền cho Tử Đình Sư Huấn là Tổ 24, Huấn truyền cho Đông Minh Huệ
Nhựt là Tổ 25. Huệ Nhựt truyền cho Phổ Trí Vô Ngại là Tổ 26, Vô Ngại
truyền cho Nam Thiên Trúc Lâm Huệ là tổ 27. Lâm Huệ truyền cho Đông
Thiền Nguyệt Đình Đức là Tổ 28, Đức truyền cho Tôn giả Diệu Phong
Chân Giác Bách Tùng là Tổ 29. Đó là thời trung hưng của Giáo Quán
Tông.
- Kệ truyền
pháp của Thiên Thai Giáo Quán như sau:
-
- "Chân truyền chánh
thọ
- Linh nhạc
tâm tông
- Nhứt thừa
đốn quán
- Ấn định cổ
kim
- Niệm khởi
tịch nhiên
- Tu tánh
lãng chiếu
- Như thị
trí đức
- Thể bổn
huyền diệu
- Nhân duyên
sanh pháp
- Lý sự tức
không
- Đẳng danh
vi hữu
- Trung đạo
viên dung
- Thanh tịnh
phổ biến
- Cảm thông
ứng thường
- Quả huệ
đại dụng
- Thật tướng
vĩnh phương".
- Dịch
nghĩa:
- - "Chân
truyền chánh pháp
- Linh nhạc
ấn tâm
- Nhứt thừa
giáo quán
- Xưa nay
hướng chân
- Khởi niệm
lắng trong
- Tự tánh
sáng soi
- Trí đức
làu thông
- Thể tánh
thậm thâm
- Nhân duyên
sanh pháp
- Sự lý đều
không
- Sẵn danh
là hữu (có)
- Trung đạo
viên dung
- Thanh tịnh
vô cùng
- Mọi nơi
cảm thông
- Trí huệ
diệu dụng
- Thật tướng
hằng luôn…"
- Lại lập kệ
tiêu biểu thực hành như:
- - "Phật
pháp rộng truyền
- Tổ đạo sâu
hoằng
- Thành lập
tôn chỉ
- Năng sở
tịnh nhiên
- Công hành
thật hiển
- Thông tỏ
hẳn yên
- Vạn pháp
biến hiện
- Hai, ba
tinh chuyên
- Ngộ nhập
pháp môn
- Giáo hóa
đồng hành
- Ta, người
lợi lành
- Rốt ráo
sáng thanh
- Khai thông
nguồn mạch
- Chỉnh đốn
cương lãnh
- Đời đời
giữ thường
- Luôn làm
thuyền nương…"
-
Từ đây trở xuống các phái
khá phức tạp, nay chỉ lục ghi một chi của Linh Phong. Ngài Bách Tùng
truyền Thiên Thai cho U Khê Vô Tận Truyền Ðăng là tổ thứ 30, Đăng
truyền xuống Hiểu Phong Linh Phong Ngẫu Ích Trí Cưu Tố Hoa là Tổ 31.
Phái Linh Phong giáo quán biệt xuất kệ như sau:
-
- "Trí
sáng chân như hiện
-
Bản tánh khởi thật tu
-
Gốc chính phân ngăn dứt
-
Nguồn chân biển giác lưu
-
Giữ tín bồi nhân tốt
-
Nguyện rộng đạo càng sâu
-
Luật lệ bàn qui tắc
-
Đạo pháp vững ngàn thu…"
- Trí Cưu
truyền Thương Huy Tịnh Thạnh, Tịnh Thạnh truyền cho Cảnh Tu Chân
Minh, Chân Minh truyền cho Lý Nguyên Như Hồng. Như Hồng truyền cho
Tố Liên Hành Châu, Hành Châu truyền cho Huệ Giác Toàn Thành. Toàn
Thành truyền cho Hoằng Hải Tánh Phô. Từ Long Thọ trở đi đây là đời
Tổ 37.
- Đây lược
tựa Thai giáo Chánh Tông Nguyên Ủy, những phái khác khá phức tạp
không tiện đăng tải rõ từng phái một được.
-
Chứng nghĩa ghi rằng:
-
Thai Tông Nguyên Lưu một
cuốn và Chỉ Nguyên Tập, các Tổ đều có tiểu truyện. Chỉ có Tổ thứ 28
trong sách Nguyên Lưu là Thiền truyện Minh Ông, trong sách Chỉ
nguyên là Nguyệt Đình Đức Công. Căn cứ theo Đông Thiền Minh Ông mất
vào năm Vạn Lịch nguyên niên. Bách Tùng sanh năm Đinh Dậu đời Gia
Tĩnh, năm 22 tuổi tới chùa Đông Thiền nghe kinh Pháp Hoa. Tuy cùng
một thời nhưng Đông Thiền là chủ giảng còn Nguyệt Đình là pháp sư
(người giảng pháp) không phải là Minh Ông. Nên sách Chỉ Nguyên tập
cho rằng Bách Tùng xuất phát từ cửa của Nguyệt Đình Đức Công. Chỉ có
sách Nguyên Lưu nêu trực tiếp Minh Ông là đời thứ 29; cần phải quyết
nghi đã. Khảo cứu lại chùa Lâu Trạch ở Gia Hưng có xuất bản một cuốn
sách Thế phổ Thiên Thai tông đi thẳng cho Diệu Phong Bách Tùng là Tổ
thứ 18. Ở trên trực tiếp Tứ Minh lấy nối hưng thạnh Tông Thiên Thai
làm giao tiếp vậy. Nhiều đời nhìn chung rất xa cháu con không được
ghi chép, cho chí mạch nguồn không theo khảo sát kỹ. Việc này không
riêng Thai Tông như vậy. Ngày nay pháp mạch Đài Tông đều truyền bá
thạnh hành các nơi. Có những cuốn như Chỉ Nguyên tập, Thế Hệ Nguyên
lưu… cần nên tham khảo, vì để tiếp nối dòng pháp. Nên phải tùy lúc,
tùy nơi lưu tâm ghi lại để duy trì về lâu về dài. Thậm chí kệ truyền
pháp của Bách Tùng xử dụng để định danh; tiêu biểu hạnh dùng để lập
hiệu. Vì thế pháp mạch chân truyền tức tiêu biểu hạnh của giáo pháp.
Pháp tiêu biểu cả hai không trước và cũng không sau vậy.
-
7.19
Phụ: Hiền Thủ
Giáo
Quán
Tông
-
Tông Hiền Thủ chuyên xiển
dương Kinh
Hoa Nghiêm. Từ
Bồ Tát Văn Thù kết tập cho tới Long Thọ đích thân tới Long
Cung đọc nốt bộ Kinh Hoa Nghiêm. Tại Đông Độ Tông Hiền Thủ có
5 nhà kế thừa làm Tổ; theo kế thừa thời ứng hợp như Đài Tông, Long
Thọ là Tổ thứ nhất, Đỗ Thuận Đế Tâm tạo Hoa Nghiêm pháp giới quán là
Tổ thứ hai. Đổ Thuận truyền cho Vân Hoa Trí Nghiễm Chí Tướng chế tác
Hoa Nghiêm sưu huyền nghĩa sao là Tổ thứ ba. Tướng truyền Pháp Tạng
Hiền Thủ Quốc Nhất chế dịch Hoa Nghiêm Thám Huyền Ký đời Tấn, Nhất
thừa giáo nghĩa phân tề chương v.v… trước thuật có hơn trăm quyển,
để hoằng truyền giáo quán gọi Tông Hiền Thủ là Tổ thứ tư. Pháp Tạng
truyền cho Trừng Quán Đại Thức Thanh Lương Quốc Sư Tông Đường dịch
kinh Hoa Nghiêm biện chế sớ sao là Tổ thứ năm. Thanh Lương truyền
cho Khuê Phong Tông Mật sáng tác Hoa Nghiêm hạnh nguyện phẩm sao là
Tổ thứ sáu. Tông Mật truyền cho Huyền Khuê Chân Áo Triệt Vi là Tổ
thứ bảy, Triệt Vi truyền cho Hải Aán Nguyệt Lãng Bỉnh Nhiên là tổ
thứ tám. Bỉnh Nhiên truyền cho Thủ Đăng Đức Hiện là Tổ thứ chín.
Trường Thủy Tử Tuyền Dao kế thừa là Tổ thứ 10, Tịnh Nguyên Tịch Hải
Tiềm Duệ là tổ 11. Hy Xung Thần Giám Thừa Chiếu là tổ 12, Diệu Quán
Đạo Minh Trạm Nhân là Tổ 13. Sư Hội Qui Nguyên Ngọc Phong là Tổ 14.
Liễu Tâm Thâm Đạo Huệ Châu là Tổ 15. Đạo Ngộ Bổn Giác Quán Huệ là Tổ
16, Thanh Giới Nhứt Như Khiết Am là Tổ 17. Huệ Quỳnh Lương Bích Trân
Lâm là tổ 18, Diệu Túy Siêu Luân Chân Thúy là Tổ 19. Tế Ngộ Xuân Cốc
Lực Thân là Tổ 20, Đại Đồng Nhất Vân là Tổ 21 (Phổ Tế biệt phong).
Minh Sơn Hiền Tiên Cổ Phong là Tổ 22, Thê Nham Huệ Tấn Hành Thành
Chỉ Ông là Tổ 23. Quảng Thông Đạt Am là Tổ 24, Tô Am Phổ Thái Giả Am
là Tổ 25. Chân Viên Đại Phương Biến Dung là Tổ 26, Vân Thê Liên Trì
Thù Hoằng Phật Huệ là Tổ 27. Thổ Kiều Thiều Giác Quảng Thừa Minh Lý
là Tổ 28, Liên Cư Tân Y Đại Chân là Tổ 29, Bảo Luân Đức Thủy Minh
Nguyên là Tổ 30.
-
Đây là phần sơ lược truyền
thừa của Hiền Thủ Chánh tông, các phái khác khá phức tạp không thể
đăng tải rõ từng chi được.
-
Nam Sơn Luật tông chuyên
xiển dương luật học (tỳ ni). Tỳ ni Tàu dịch là diệt, tức hay diệt ác
của thân và miệng; cũng còn gọi là luật pháp. Luật do Phật chế nhưng
kết tập thành, không phải một người làm nên được.
-
Lần đầu tiên Ngài Đại Ca
Diếp cùng với 500 Thánh chúng kết tập trong hang Tất Bát La và Ưu Bà
Ly tuyên lại luật tạng gọi là Thượng Tọa bộ. Kế đó có Bà Thi Ca và
1000 người phàm lẫn Thánh kết tập ngoài hang đá gọi là Đại chúng bộ.
Hai kỳ kết tập này gọi chung là Ma Ha Tăng Kỳ Luật.
-
Từ Ngài Ca Diếp, A Nan,
Mạt Điền Địa, Thương Na Hòa Tu, Ưu Ba Cúc Đa là 5 đời thể thức chung
không có phân phái. Sau Ưu Ba Cúc Đa có 5 đệ tử, mỗi người có một
lối nhìn bèn phân Luật tạng thành 5 bộ phái như:
-
1-
Đàm Vô Đức tức là
luật Tứ Phần
-
2-
Tát Bà Đa bộ là
Thập Tụng luật
-
3-
Ca Diếp Di bộ là
Giải Thoát luật
-
4-
Di Sa Tắc bộ là
Ngũ Phần luật
-
5-
Bà Tha Phú La Bộ.
-
Luật bổn tương lai tại
Trung Hoa như Ngài Diệu Lạc cho rằng, phân thành một tạng Luật để
làm 5 bộ như gậy vàng không mất chất vàng. Y cứ theo 10 đại đệ tử
của Phật, Ngài Ưu Ba Ly trì luật đệ nhất. Ngày nay bên Đông Độ ta có
một tông trì luật thích hợp chọn Ưu Bà Ly tôn giả là Sơ Tổ. Lần lượt
truyền thừa đến Đàm Ma Ca La (Trung Hoa dịch là Pháp Thời là vị Sa
Môn Tây Trúc Ấn Độ), vào đời Ngụy Gia Bình năm thứ hai, Ngài đến
Đông Độ phiên dịch luật Tứ Phần, là sơ Tổ truyền luật tại Đông Độ.
Bắc Đài Pháp Thông, người thời Hiếu Nguyên Bắc Ngụy, nhân học luật
Tăng Kỳ kỹ lưỡng, đứng đầu truyền luật Tứ Phần là Tổ thứ hai, Pháp
Thông truyền cho Vân Trung Đạo Phú là Tổ thứ ba. Đạo Phú truyền cho
Đại Giác Huệ Quang là Tổ thứ tư, Huệ Quang truyền cho Cao Tề Đạo Vân
Huy Nguyện là Tổ thứ năm. Huy Nguyện truyền cho Hà Bắc Đạo Hồng là
Tổ thứ sáu, Đạo Hồng truyền cho Hoằng Phước Trí Thủ là Tổ thứ bảy.
Trí Thủ truyền cho Chung Nam Sơn chùa Tây Minh: Đạo Tuyên Thật Tướng
Trừng Chiếu là tổ thứ tám. Luật tông truyền tới đây rất thịnh hành.
Cho nên người đương thời thường gọi là tông Nam Sơn.
-
Về sau kế tục truyền thừa
truyền giữ làm Tổ vị. Trừng Chiếu truyền cho Sùng Thánh Văn Cương là
tổ thứ 9, Văn Cương truyền cho Sùng Phước Mân Ý là Tổ thứ 10. Mân Ý
truyền cho Đại Lượng Đạo Tĩnh là Tổ 11, Đạo Tĩnh truyền cho Đàm Nhất
là Tổ 12 (Thiệu Hưng Khai Nguyên). Đàm Nhất truyền cho Biện Tú là Tổ
13, Biện Tú truyền cho Chương Tín Đạo Trừng là Tổ 14. Đạo Trừng
truyền cho Trừng Sở là tổ 15, Trừng Sở truyền cho Doãn Kham Chân Ngộ
là Tổ 16. Chân Ngộ truyền cho Nguyên Chiếu Trạm Nhiên là tổ 17, Trạm
Nhiên truyền cho Thật Tướng Viên Minh Quang Giáo là Tổ 18. Quang
Giáo truyền cho Đạo Phu Như Huyễn là Tổ 19, Như Huyễn truyền cho Như
Hinh Cổ Tâm Huệ Vân là Tổ 20.
-
Tới thời này Luật học
trung hưng, hẳn nhiên việc truyền bá sáng tỏ hoàn bị mà trong nhân
gian tương truyền là Ưu Ba Ly hóa hiện. Huệ Vân truyền cho Tịch
Quang Tam Muội (Chùa Long Xương ở Bảo Hoa Sơn, Kim Lăng) là Tổ 21.
Tới đây Luật tông thạnh hành có biệt xuất kệ như:
-
- "Như tịch độc đức
chân thường thật
- Phước tánh
viên minh định huệ xương
- Hải ấn
phát quang dung giới nguyệt
- Ưu đàm
hiện thụy tục thiên hương
- Chi kỳ vạn
phái luật nguyên viễn
- Quả kết
thiên hoa tông bổn trường
- Pháp thiệu
Nam Sơn hoằng chánh mạch
- Đăng
truyền tâm địa vĩnh liên phương".
-
Dịch nghĩa:
- - "Chân
như độc đức đúng chân thường
- Phước tánh
định huệ đạt viên thành
- Hải ấn
chiếu soi trăng giới sáng
- Vô ưu hoa
hiện tỏa ngát hương
- Rõ ràng
môn phái luật truyền xướng
- Kết quả
đơm hoa đạo pháp trường
- Nam Sơn
cật lực lưu nguồn mạch
- Tâm đăng
mãi mãi rạng ngàn phương".
-
Tam Muội truyền cho Độc
Thể Kiến Nguyệt là Tổ 22, Kiến Nguyệt truyền Đức Cơ Định Am là Tổ
23. Định Am truyền Chân Nghĩa Tùng Ẩn là Tổ 24, Tùng Ẩn truyền
Thường Tùng Mẫn Duyên là Tổ 25. Mẫn Duyên truyền cho Thật Vinh Trân
Huy là Tồ 26, Trân Huy truyền Phước Tụ Văn Hải là Tổ 27, Văn Hải
truyền Tánh Ngôn Lý Quân là tổ 28. Tới đây lược, vì các môn phái
Luật quá nhiều không thể nêu rõ ràng từng phái hết được.
-
Chứng nghĩa ghi rằng:
- Người
xuất gia là sự bắt đầu ở trong đại chúng; phó pháp là việc chung cục
giữa chúng lý. Người không cạo tóc không có lý do gì mà vào hàng ngũ
tăng được. Đã làm Tăng bèn lấy hai buổi công phu sáng tối làm công
khóa (thời khóa chung). Tấc bóng qua nhanh nhưng không biết việc
sanh tử đại sự; chí cầu hướng thượng chỉ một bề để mong được truyền
tâm, thọ ký ư?
-
Ở đây đặc biệt nêu việc
phó pháp mà các đời chư Tổ Thiền tông truyền thừa cho nhau. Như trên
đã chỉ rõ mô hình nêu mạch nguồn mà môn nhân (hạ) đạt đến. Nhưng nếu
Giáo giúp minh tâm, Luật làm nền cho định huệ cũng là phụ thuộc; chỗ
thích hợp vẫn là luật tôn giáo toàn vẹn, việc tu tập của đại chúng
được hoàn bị mới đáng đề cập hơn cả.
- Hết Quyển 7 - Phần
sau
- Ghi Chú
- 1-
Nhị nghiêm: hai pháp phước
đức và trí tuệ trang nghiêm, chỉ Phật đạt được trọn vẹn mà thôi.