- BỒ TÁT GIỚI
- Hòa thượng Thích
Trí Quang dịch giải
-
-
CHƯƠNG MỘT
-
Dẫn Nhập
- ---o0o---
-
-
1. Tài Liệu Sử Dụng
- Năm
2505 (1961), tôi dịch giải Bồ tát giới Phạm võng chỉ có 6 tài liệu
để sử dụng, và sử dụng nhiều nhất là bản chú thích của ngài Hoằng
tán (Vạn 60/387-462). Nay thì tài liệu khá nhiều, và tất cả đều nằm
trong Đại tạng kinh bản Đại chính tân tu (ký hiệu là Chính) và Tục
tạng kinh bản chữ Vạn (ký hiệu là Vạn). Về chính văn, vẫn lấy Chính
24/1003-1010 làm căn bản; phụ vào là bản khắc in riêng của Phật giáo
Bắc, mang tên Bồ tát giới kinh, bản này nay được tụng theo nếu tụng
nguyên Hoa văn. Nhưng xin nói rõ rằng chính văn Bồ tát giới Phạm
võng không phải chép như nhau. Đối chiếu thấy các bản tương đối xưa
và bảo đảm hơn thì chép như nhau, trong đó có Chính 24/1003-1010,
khác với các bản tương đối nay, trong đó có bản Bồ tát giới kinh vừa
nói. Sự lựa chọn tất nhiên nghiêng về các bản xưa và bảo đảm hơn,
nhưng không phải hoàn toàn theo các bản ấy, mà là chọn cách chép nào
xét có lý hơn. Rất may sự khác nhau không nhiều lắm, cũng không quan
trọng bao nhiêu, và tôi sẽ ghi rõ những chỗ cần thiết trong khi dịch
giải. Còn tài liệu tham khảo thì quan trọng nhất là toàn văn Phạm
võng (Chính 24/997-1010) và kinh Anh lạc (Chính 24/1010-1023), kế đó
là 19 bản chú thích về Phạm võng: 17 bản nằm trong Vạn 59/192 đến
Vạn 61/182; 1 bản nằm trong Vạn 95/1; 1 bản nằm trong Vạn 107/196,
bản này là nghi thức sám hối về Bồ tát giới Phạm võng; 1 bản nằm
trong Chính 62/4-262, tác phẩm của Nhật, tổng hợp rất đáng khen về
các chú giải Bồ tát giới Phạm võng. Tài liệu tham khảo tuy nhiều như
vậy, nhưng khi sử dụng thì cố đơn giản càng nhiều càng tốt.
-
2. Các Bản Bồ Tát
Giới
- Bồ tát
giới có 4 bản. Bản 1 là của kinh Phạm võng, do ngài La thập dịch.
Bản 2 và 3 đều của luận Du dà, nhưng do ngài Đàm mô sấm và ngài
Huyền tráng dịch khác nhau. Bản 4 là của Ưu bà tắc giới kinh, cũng
do ngài Đàm mô sấm dịch. Bản 1 phổ cập nhất. Các bản 2 và 3 ít phổ
cập nhưng khá đặc biệt và vẫn có người thọ trì. Bản 4 không phổ cập.
-
3. Giải Thích Đầu
Đề
- Dịch
chủ La thập chỉ dịch phẩm thứ 10 của kinh Phạm võng. Nay gọi là kinh
Phạm võng chỉ là phẩm ấy. Phẩm ấy có cái tên mà chép đầy đủ thì như
sau: Phật thuyết Phạm võng kinh, Lô xá na phật thuyết Bồ tát tâm địa
giới phẩm đệ thập: phẩm Tâm địa giới bồ tát của đức Lô xá na nói,
phẩm thứ 10 của kinh Phạm võng do đức Thích ca tuyên thuyết.
- Phạm
võng là tràng lưới của Đại Phạm thiên vương. Tràng lưới ấy các mắt
kết ngọc, khác nhau mà ảnh hiện lẫn nhau, trùng trùng điệp điệp.
Nhìn tràng lưới như vậy, Phật nói mọi thế giới cũng vậy, các pháp
môn cũng vậy, vô cùng vô tận. Thích ca là đức Phật bổn sư của chúng
ta. Lô xá na nghĩa là chiếu soi khắp cả, danh hiệu của bản thân đức
Thích ca. Tâm địa giới bồ tát là 30 tâm, 10 địa và 58 giới của Bồ
tát tu tập thọ trì, và toàn là những pháp môn y như mắt lưới của
tràng lưới Đại Phạm thiên vương. Nội dung phẩm Tâm địa giới bồ tát
ấy có 2 phần thành 2 cuốn: cuốn trên là Bồ tát tâm địa (còn có tên
là phẩm Pháp môn tâm địa) do đức Thích ca nói bằng cách đưa thính
chúng đến đức Lô xá na, hỏi để đức Lô xá na nói; cuốn dưới là Bồ tát
giới (còn có tên là phần Giới pháp vô tận) do đức Thích ca tụng lại
giới pháp mà đức Lô xá na đã tụng khi nói về Bồ tát tâm địa. Như vậy
là gián tiếp do đức Thích ca tuyên thuyết cả.
-
4. Phẩm 10 Với Phẩm
Pháp Môn Tâm Địa
- Trong
chính văn, tên gọi phẩm 10 là Pháp môn tâm địa. Pháp môn tâm địa là
40 pháp môn, tức 30 tâm và 10 địa (cuốn trên, Chính 24/998). Nhưng
sau 30 tâm và 10 địa, phẩm Pháp môn tâm địa còn có 10 giới nặng và
48 giới nhẹ, nghĩa là còn có phần Giới pháp vô tận (cuốn dưới, Chính
24/1009), vì đó "là giới pháp duy nhất mà đức bản thân Lô xá na của
ta đã nói trong phẩm Pháp môn tâm địa của ngài, giới pháp mà từ khi
mới phát tâm ngài vẫn thường tụng" (Chính 24/1003), là giới pháp mà
"nay ta cứ nửa tháng nửa tháng tụng lại ... Các người, những vị Bồ
tát mới phát tâm cho đến những vị Bồ tát 10 phát thú 10 trưởng dưỡng
10 kim cang và 10 địa, cũng phải tụng y như vậy" (Chính 24/1004).
- Liên
quan điều này, rất nên nhìn sang kinh Anh lạc. Kinh ấy, sau khi nói
về Bồ tát vị (Bồ tát tâm địa) cũng nói về Bồ tát giới. Trong Bồ tát
giới, mỗi giới pháp vô tận (giới nặng) đều nói nếu phạm thì không
còn là Bồ tát, mất hết 42 pháp hiền thánh (Bồ tát vị) (Chính
24/1020). Như vậy có nghĩa minh bạch nói Bồ tát giới là căn bản từ
đầu đến cuối của Bồ tát vị. Điều này phụ cho Phạm võng khá nhiều:
không những chứng minh sau Bồ tát vị nói Bồ tát giới mà còn giải
thích vì sao.
-
5. Thế Giới Phạm
Võng
- Thắng
ứng thân của Phật tên Lô xá na, hóa chủ Hoa tạng thế giới, tượng
trưng bằng 1 hoa sen. Hoa tạng thế giới ấy có 1000 đại thiên thế
giới, như hoa sen có 1000 cánh; hóa chủ 1000 đại thiên thế giới này
là 1000 đức Thích ca liệt thắng ứng thân, do thắng ứng thân của Phật
hóa ra. Mỗi đại thiên thế giới có trăm ức tiểu thế giới, thành 1000
lần trăm ức tiểu thế giới; và hóa chủ là 1000 lần trăm ức đức Thích
ca liệt ứng thân, do 1000 liệt thắng ứng thân của Phật hóa ra. Đức
Thích ca bổn sư của chúng ta là 1 trong số 1000 lần trăm ức này. Và
ức đây là ngàn vạn, trăm ức là 1 tỷ: là số lượng của đại thiên thế
giới. Kinh Phạm võng, trong đó quan trọng và tổng kết là phẩm 10,
phẩm Pháp môn tâm địa, được Phật nói với Phật và Phật nói cho chúng
sinh, khắp trong thế giới Phạm võng như vậy.
- Điều
nên nói liền ở đây, là nói về thân Phật và cõi Phật như vậy, chỉ là
nói thân và cõi của đức Thích ca, chưa phải đã nói tất cả thân và
cõi của chư Phật. Ngay thân và cõi của đức Thích ca mà nói như vậy
cũng chưa đủ: trên chưa thấu tự thọ dụng thân độ, dưới chưa gồm Phật
hiện thân từ Bồ tát đến địa ngục, lại càng chưa gồm Phật hiện thân
làm cảnh vật. Lại nữa, đây chỉ là nói thân và cõi Phật theo số lượng.
Mà Phật thì siêu việt số lượng. Ngay đức Thích ca bổn sư và cõi Phật
của ngài mà thôi, ta thấy là liệt ứng thân, là tiểu thế giới nhỏ và
bẩn, nhưng đối với Bồ tát đại căn thì là thắng ứng thân độ (tha thọ
dụng thân độ): thân là vi trần tướng hải thân, độ là hoa tạng thế
giới hải. Thế giới Phạm võng là như vậy.
-
6. Sự Liên Hệ Của
Phạm Võng
- Liên
hệ sát và quan trọng nhất là với kinh Anh lạc, tài liệu mà tôi đã kê
và đã nói đến phần nào trong tiết 1. Kế đó, Phạm võng là đồng bộ với
Hoa nghiêm (Vạn 60/300B). Sau hết, bóng dáng kinh Phạn động (hay
Phạm võng) của Trường a hàm cũng có đối với kinh Phạm võng ở đây.
Chỉ khác là ở kia nói giới không bằng tuệ, khen Phật qua giới pháp
không bằng hiểu Phật qua tuệ giác siêu việt 62 kiến chấp; ở đây trái
lại, nói thật tướng bát nhã là căn bản của giới pháp và do giới pháp
thể hiện. Nhưng sự liên hệ này chỉ do tôi đề cập. Một sự liên hệ
khác cũng do tôi nghĩ, ấy là giới pháp Phạm võng rất gần với giới
pháp Tỷ kheo; riêng sự ái hộ Tam bảo và Tăng bảo ái hộ lẫn nhau thì
giới pháp Phạm võng nói rõ ràng, thực tế và thiết tha hơn. Do vậy mà
giới pháp Phạm võng đặc biệt răn sự phản bội Phật pháp, chạy theo
bạo quyền mà hại đạo và đồng đạo.
-
7. Giới Hạn Tụng Bồ
Tát Giới Phạm Võng
- Bồ tát
giới Phạm võng xưa chỉ bắt đầu từ văn chỉnh cú. Còn kết thúc thì có
bản chỉ đến cây hỷ dược thọ trì (hoan hỷ và phấn chấn mà thọ trì),
có bản hết trọn cuốn dưới. Có người phân khoa giải thích Phạm võng,
mở đầu phần Bồ tát giới từ câu Nhĩ thời Thích ca mâu ni phật tùng sơ
hiện Liên hoa đài tạng thế giới (Bấy giờ đức Thích ca mâu ni từ Hoa
tạng thế giới mà khởi đầu ngài đã hiện ra ở đó). Lấy trọn từ đầu đến
cuối cuốn dưới thì chỉ có một ít nhà chú thích Phạm võng và Bồ tát
giới kinh được tụng hiện nay. Nay bản dịch này cũng làm như vậy. Dẫu
rằng xét ra lấy từ văn chỉnh cú và kết thúc ở câu hỷ dược thọ trì
thì gọn và xác hơn.
- Đó là
nói về chính văn. Còn nghi thức mở đầu tụng Bồ tát giới thì cũng chỉ
Bồ tát giới kinh sau này mới có. Ngài Hoằng tán có chú thích nghi
thức ấy (Vạn 60/457-461), nhưng cũng nói không biết do ai soạn, chỉ
"xét tìm thì thấy phần nhiều trích ra từ Bồ tát giới bản kinh (của
luận Du dà, do ngài Đàm mô sấm dịch) và giới bản của Hữu bộ". Nói
tổng quát, nghi thức mở đầu ấy biến thể nghi thức tụng giới Tỷ kheo,
nên biến thể thế nào cũng có bất ổn. Nhưng mở đầu Bồ tát giới Phạm
võng thì không có lời lẽ mở đầu nào quan trọng và đặc biệt cho bằng
trong chính văn đã tự có. Do đó, thiết nghĩ nghi thức mở đầu dùng
cũng được, không cũng không thiếu sót gì, lại tránh được những sự
miễn cưỡng và bất ổn. Trường hợp không dùng nghi thức mở đầu thì
tụng bài
kệ
khai kinh rồi đi ngay vào chính văn là được.
-
8. Đặc Chất Của Bồ
Tát Giới Phạm Võng
- Ở đây
tôi bỏ hết mọi sự đặc biệt của Bồ tát giới Phạm võng mà tôi đã nói
đến trong bản in năm 2505, chỉ nói lại 1 chi tiết mà thôi. Ấy là
tính chất ái hộ Tam bảo, trong đó có sự ái hộ lẫn nhau của Tăng bảo.
Ái hộ trước bạo lực và quyền lực đã đành, lại còn ái hộ trong đời
sống và trong quyền lợi, nhất là ái hộ trong sự đối xử, ái hộ bằng
cách không phản bội Phật pháp, chạy theo bạo quyền mà hại đạo và
đồng đạo, thì Bồ tát giới Phạm võng đã biến mọi lời khuyên thành
những điều luật, nhưng là điều luật đầy đạo tình và chính hướng giải
thoát. Chỉ có đặc chất này mới giữ được đạo tình trong Tăng bảo,
nhất là trong những lúc đạo tình ấy bạo lực và quyền lực không muốn
có. Cảm khái nhất khi tụng Bồ tát giới Phạm võng là điều này đây.
-
9. Bồ Tát Giới Phạm
Võng Đối Với Người Tại Gia
- Trong
tiết 6 đã nói Bồ tát giới Phạm võng rất gần Tỷ kheo giới, vậy tại
sao cho người tại gia thọ trì, mà lại cho khá rộng rãi như đã nói
trong chính văn qui định điều kiện lãnh thọ? Vấn đề chưa thấy ở đâu
nêu lên và giải thích. Nay xét thẳng chính văn thì thấy Bồ tát giới
Phạm võng tuy phần nhiều nói cho xuất gia, nhưng có những giới nói
chung cho cả tại gia xuất gia, có những giới nói chung mà tại gia
nhiều hơn, có những giới chỉ nói cho tại gia (như giới 1 và giới 47
trong 48 giới nhẹ). Chính ở 2 giới nói cho tại gia này, cùng tất cả
giới khác riêng cho xuất gia hay chung cho cả xuất gia tại gia, đều
biểu thị rõ rệt sự duy trì Phật pháp. Giả sử chỉ có người xuất gia
thọ trì Bồ tát giới Phạm võng để thực hiện sự duy trì ấy, còn người
tại gia không thọ trì Bồ tát giới Phạm võng, nghĩa là không duy trì
Phật pháp, thì sự xuất gia đã bị họ chướng ngại rồi, còn đâu để thực
hiện được sự duy trì ấy! Nên, chính trong sự duy trì Phật pháp mà
không những thấy người tại gia phải thọ trì Bồ tát giới Phạm võng,
lại còn ngạc nhiên thấy sao Phật biết trước đến như vậy.