- BỒ TÁT GIỚI
- Hòa thượng Thích
Trí Quang dịch giải
-
- CHƯƠNG HAI
- Dịch Giải Nghi
Thức Tụng
- Bồ Tát Giới Phạn
Võng
- ---o0o---
-
- Trước
khi tụng, vị tụng giới lạy và quì mà thưa: Con là tỷ kheo XX, kính
bạch Đại đức tăng, Đại đức tăng bảo con tụng giới, nhưng con e có sự
lầm lẫn trong khi tụng, vậy kính xin Đại đức tăng từ bi chỉ bảo cho
con.
- Đây là
lời tác bạch trước khi đi vào nghi thức, và là lời của vị Tăng sai
tụng giới. Nếu tụng giới là vị thượng tọa trong buổi bố tát thì
không cần tác bạch lời này. Điều kiện của sự tụng giới là tụng rõ
ràng, và tụng ở đây là đọc một cách trang trọng, chứ không phải tụng
như tụng kinh. Tụng rõ ràng là âm thanh rõ ràng, âm điệu đúng với
mạch lạc giới văn. Nghi thức tụng Bồ tát giới có 5 tiết:
-
Tiết 1: Qui Kính
Khuyến Khích
- Chúng
Bồ tát giới lắng nghe !
- Qui y
kính lạy
- Đức Lô
Xá Na,
- Và Kim
Cang Phật
- Khắp
cả mười phương;
- Lại
lạy phân thân
- Đức Lô
Xá Na
- Là
ngàn trăm ức
- Các
Đức Thích Ca.
- Nay
tôi kính tụng
- Về Bồ
tát giới
- Mà đại
cương là
- Ba
loại tịnh giới;
- Chúng
Bồ tát giới
- Hãy
cùng lắng nghe!
- Giới
như ngọn đèn
- Đã
sáng lại lớn,
- Có thể
xua tan
- Bóng
tối đêm dài;
- Giới
như đài gương
- Trong
sáng quí báu,
- Hiện
rõ các pháp
- Đủ cả
không sót;
- Giới
lại y như
- Ngọc
báu ma ni,
- Tuôn
ra của cải
- Giúp
kẻ khốn cùng.
- Siêu
thoát thế gian,
- Chóng
thành Phật đà,
- Làm
được như vậy
- Giới
này hơn cả!
- Vì lý
do ấy
- Chúng
Bồ tát giới
- Cần
phải nỗ lực
- Kính
cẩn mà giữ!
- Đoạn
chỉnh cú này lấy của Bồ tát giới Du dà, do ngài Đàm Mô sấm dịch, nội
dung kính Phật kính Giới và khuyến khích kiên trì. Kim Cang phật là
các vị sau kim cang đạo thì phá dị thục thức, chứng bất hoại tánh,
tức các vị viên mãn báo thân như Đức Lô Xá Na. Các câu 5-8 là đổi
cho đúng trường hợp Bồ tát giới Phạm võng. Trong đó câu là ngàn trăm
ức có nghĩa một ngàn và một ngàn lần trăm ức. Nếu không đổi mà theo
chính văn, thì phải dịch "lại xin kính lạy luận chủ Du Dà, là Phật
Đương Lai Từ Thị Thế Tôn". Ba loại tịnh giới là "kết mọi giới pháp
lại làm 3 môn: nhiếp thiện pháp giới là tám vạn bốn ngàn pháp môn;
nhiếp chúng sinh giới là từ bi hỷ xả phổ cập chúng sinh, làm cho tất
cả đều được an lạc; nhiếp luật nghi giới là mười giới pháp nặng làm
chính yếu " (Anh lạc, Chính 24/1020).
-
Tiết 2: Sách Tiến Tu
Tập
- Chư
đại đức, hôm nay bốn tháng của mùa xuân đã qua mất nửa tháng mà chỉ
thiếu một đêm, còn lại chỉ thừa một đêm và ba tháng rưỡi. Già bịnh
đã gần, Phật pháp sắp ẩn. Chư đại đức, và ưu bà tắc ưu bà di, muốn
được đạo quả, các vị phải nhất tâm nỗ lực mà tinh tiến. Tại sao, vì
đến như chư Phật cũng phải nhất tâm nỗ lực mà tinh tiến mới thành
tựu vô thượng bồ đề, huống chi những kẻ khác đang còn tu tập các
thiện pháp khác. Các vị nghe như vậy thì trong lúc còn khỏe mạnh
phải nỗ lực mà siêng tu thiện pháp, đâu được không cấp tốc cầu đạo
mà đợi đến tuổi già. Đợi đến tuổi già là các vị còn muốn vui thú nỗi
gì?
- Ngày
nay đã qua,
- Mạng
sống cũng bớt,
- Như cá
thiếu nước,
- Đâu có
vui gì !
- Đoạn
này trừ 4 câu chỉnh cú cuối cùng, toàn lấy của giới bản Hữu bộ, nội
dung nói sự vô thường để thúc dục cấp bách tu tập. Mùa xuân mới hết
nửa tháng, còn đến 3 tháng rưỡi, nhưng không nói mới hết, còn đến,
mà nói đã qua mất, chỉ còn lại, là dụng ngữ có ý. Sau đây là những
chỗ cần ghi chú:
- Ấn độ
có 3 mùa, mùa xuân từ 16/12 đến 15/4, mùa hè từ 16/4 đến 15/8, mùa
đông từ 16/8 đến 15/12. Tháng của Ấn độ lấy trăng bắt đầu tàn làm
đầu tháng (tức đêm 16 mỗi tháng âm lịch) và lấy trăng thật tròn sáng
làm cuối tháng (tức đêm rằm mỗi tháng âm lịch), không như âm lịch
trăng bắt đầu có là đầu tháng, trăng đã tối hẳn là cuối tháng. Nhưng
nửa tháng trăng sáng và nửa tháng trăng tối thì như nhau: nói theo
ngày âm lịch thì 1-15 là trăng sáng, 16-30 hay 29 là trăng tối. Bố
tát tụng giới thì nửa tháng 1 kỳ, cử hành vào ngày cuối cùng nửa
tháng (tức rằm và ba mươi hay hâm chín) và thường cử hành ban ngày,
như vậy còn 1 đêm mới hết nửa tháng; 1 đêm ấy đối với nửa tháng
trước là thiếu mà đối với nửa tháng sau là thừa. Lời trong tiết 2
này là nói trong kỳ bố tát tụng giới đầu năm lịch Ấn, tức cuối năm
âm lịch. Những kỳ sau đó có 4 chỗ phải đổi mà ai cũng phải biết:
- - Chỗ
1, bốn tháng phải thêm "và 1 tháng nhuận" nếu có tháng ấy; nhưng
tháng nhuận ấy vẫn gọi theo tháng chính chứ không gọi riêng.
- - Chỗ
2, mùa xuân tùy đó mà đổi: 16/4-15/8 đổi nói mùa hạ, 16/8-15/12 đổi
nói mùa đông.
- - Chỗ
3, nửa tháng tùy đó mà đổi theo bảng kê dưới đây, kê theo ngày tháng
âm lịch cho dễ đổi, và chỉ lấy mùa xuân làm mẫu, 2 mùa hạ và đông so
theo mà đổi:
- Hết
tháng chạp: nửa tháng
- Rằm
tháng giêng: một tháng
- Hết
tháng giêng: một tháng rưỡi
- Rằm
tháng hai: hai tháng
- Hết
tháng hai: hai tháng rưỡi
- Rằm
tháng ba: ba tháng
- Hết
tháng ba: ba tháng rưỡi
- Rằm
tháng tư: bốn tháng
- - Chỗ
4, ba tháng rưỡi thì tùy đó mà đổi theo bản kê dưới đây, cũng kê
theo ngày tháng âm lịch và chỉ lấy mùa xuân làm mẫu:
- Hết
tháng chạp: ba tháng rưỡi
- Rằm
tháng giêng: ba tháng
- Hết
tháng giêng: hai tháng rưỡi
- Rằm
tháng hai: hai tháng
- Hết
tháng hai: một tháng rưỡi
- Rằm
tháng ba: một tháng
- Hết
tháng ba: nửa tháng rằm
- Tháng
tư: thừa một đêm
-
Tiết 3: Làm Phương
Tiện Trước
- Tăng
tụ tập không?
- Tăng
hòa hợp không?
- Tăng
tụ tập hòa hợp để làm gì?
- Những
người chưa thọ Bồ tát giới, hay thọ mà không thanh tịnh, đã ra khỏi
đây chưa?
- Có bao
nhiêu người thọ Bồ tát giới không đến tụ tập mà có dặn nhờ nói muốn
và thanh tịnh?
- Đây là
kiểm điểm Tăng chúng, chuẩn bị và quyết định cho sự bố tát tụng giới
cử hành được hay không. Sự kiểm điểm này, như vậy, rất quan trọng,
và chỉ quan trọng cho Tỷ kheo tăng hay Tỷ kheo bồ tát tăng.
- Kiểm
điểm bằng 5 câu hỏi, nhưng cần nhất là 2 câu đầu. Tăng chúng ở một
chỗ, khi kiết ma bố tát tụng giới, phải đầy đủ 2 yếu tố thì việc ấy
mới thành, ấy là tụ tập đông đủ, không ai vắng mặt mà không nói muốn
và thanh tịnh; là hòa hợp với nhau, không ai tụ tập để chống phá.
Nói cách khác, muốn kiết ma bố tát tụng giới thì Tăng chúng ở một
chỗ phải thân và tâm cùng họp lại và ưng muốn; thân không họp lại mà
tâm ưng muốn thì được, thân họp lại mà tâm không ưng muốn thì hỏng.
- Nói
muốn và thanh tịnh là dặn nhờ một hay hơn một vị khác, bạch với Tăng
chúng, rằng mình ưng muốn việc kiết ma bố tát tụng giới và mình cũng
thanh tịnh. Như vậy chỉ được phép nói muốn và thanh tịnh với lý do
vì bận việc Tam bảo, vì bịnh hay vì coi bịnh, và với điều kiện là
trong nửa tháng vừa qua không có phạm giới (mình tự biết không phạm
giới, Tăng chúng cũng không ai thấy, nghe hay nghi mình phạm giới).
Lời dặn nhờ có thể nói thông thường như sau, "Bạch đại đức, tôi là
tỷ kheo XX, vì lý do XX nên không thể tụ tập kiết ma bố tát tụng
giới, nhưng đối với việc ấy tôi ưng muốn, và tôi cũng thanh tịnh.
Xin nhờ đại đức bạch lại với Đại đức tăng như vậy". Dặn nhờ như vậy,
nếu không nói được thì có thể ra dấu. Lời bạch lại cũng có thể nói
thông thường như sau, "Bạch đại đức tăng, con là tỷ kheo XX, có nhận
lời dặn nhờ của tỷ kheo XX, vắng mặt vì lý do XX, nhưng nửa tháng
vừa qua vị ấy không có phạm giới. Vị ấy dặn nhờ con bạch lại với Đại
đức tăng rằng, đối với việc kiết ma bố tát tụng giới hôm nay của Đại
đức tăng, vị ấy nói muốn và thanh tịnh".
- Cả 5
câu hỏi là của vị tụng giới, người trả lời là vị tri sự hay vị nào
biết rõ tình trạng của Tăng chúng cùng ở một chỗ. Câu 1, không có ai
vắng mặt, ai vắng mặt có nói muốn và thanh tịnh, thì trả lời "Tăng
tụ tập". Câu 2, không có ai tụ tập với dụng ý để phá, cãi, thì trả
lời "Tăng hòa hợp". Câu 3, trả lời "Để kiết ma bố tát tụng Bồ tát
giới Phạm võng". Câu 4, có thì bảo ra và trả lời "Người chưa thọ Bồ
tát giới, hay người thọ rồi mà không thanh tịnh, đã ra cả rồi"; nếu
không có thì trả lời "Trong Tăng chúng đây không có người chưa thọ
Bồ tát giới hay thọ rồi mà không thanh tịnh". Câu 5, có ai dặn nhờ
nói muốn và thanh tịnh thì người được dặn nhờ bước ra mà bạch lại,
không thì trả lời "Trong Tăng chúng đây không có người thọ Bồ tát
giới không đến tụ tập mà có dặn nhờ nói muốn và thanh tịnh".
-
Tiết 4: Lời Tựa Mở
Đầu
- Chư
Phật tử, hãy chắp tay lắng nghe. Nay tôi sắp nói đến lời mở đầu giới
pháp rộng lớn của chư Phật, các vị tụ tập, yên lặng mà lắng nghe. Và
tự xét có tội lỗi thì phải sám hối; sám hối thì yên vui, không sám
hối thì tội lỗi càng sâu nặng. Không có tội lỗi thì yên lặng; do sự
yên lặng ấy mà tôi biết các vị thanh tịnh.
- Chư
đại đức, và ưu bà tắc ưu bà di, hãy nghe cho kỹ: Sau khi Đức Thế Tôn
nhập diệt, trong thời kỳ Phật pháp cuối cùng, càng phải tôn kính Ba
la đề mộc xoa. Ba la đề mộc xoa là giới pháp này đây. Phụng trì giới
pháp này thì như đêm tối mà gặp ánh sáng, như nghèo nàn mà được vàng
ngọc, như bịnh tật mà được lành mạnh, như tù đày mà thoát lao ngục,
như đi xa mà được về nhà. Phải biết giới pháp này là đức thầy cao cả
của các vị. Đức Thế Tôn còn ở đời cũng không khác gì giới pháp này.
- Lòng
sợ tội lỗi khó mà sinh được, tâm có đức lành khó mà phát ra. Nên
trong khế kinh đã dạy:
- Đừng
khinh tội lỗi nhỏ,
- Cho là
không tai họa;
- Giọt
nước tuy là ít,
- Chảy
mãi đầy hồ lớn.
- Tội
lỗi gây chốc lát,
- Họa ở
vô gián ngục;
- Một
khi mất thân người,
- Muôn
kiếp khó được lại.
- Sự
khỏe đẹp không bền,
- Qua
mau như ngựa chạy;
- Mạng
người vốn vô thường,
- Quá
hơn nước núi đổ:
- Hôm
nay dẫu còn đó,
- Ngày
mai khó bảo tồn.
- Các vị
phải nhất tâm mà nỗ lực tinh tiến, cẩn thận đừng giải đải, đừng
biếng nhác, đừng ham ngủ, đừng phóng ý. Thâu đêm cũng phải tập trung
tâm ý lại mà tưởng niệm Phật pháp tăng. Đừng để đời mình trôi qua
một cách trống rỗng, mệt nhọc một cách vô ích, để rồi sau đó phải
hối hận sâu xa.
- Các vị
hãy nhất tâm, kính cẩn mà phụng hành cho thật chính xác đối với giới
pháp này. Phải học như vậy.
- Lời
tựa này có trong Chính 24/1003. Có lẽ trước khi có nghi thức, sự mở
đầu tụng Bồ tát giới Phạm võng chỉ có lời tựa này mà thôi. Lời tựa
này kết hợp cả kinh Di giáo và Pháp cú, nhưng không có gì gượng ép
vì chắp vá và biến thể như các tiết trước và sau tiết này. Lời tựa
này được soạn khá sớm, vì câu thời kỳ Phật pháp cuối cùng , chính
văn vốn là thời kỳ Phật pháp tương tự. Phật pháp tồn tại có 3 thời
kỳ: nguyên chất (chánh pháp) tương tự (tượng pháp) và cuối cùng (mạt
pháp). Mỗi thời kỳ có 1000 năm. Nay kỷ nguyên Phật giáo đã 2527 năm,
là đã hơn một nửa thời kỳ cuối cùng.
- Vô
gián ngục là địa ngục kết quả của 5 tội nghịch (cũng gọi là 5 tội vô
gián, 5 nghiệp vô gián). Năm tội nghịch là giết cha, giết mẹ, giết
La hán, làm chảy máu thân Phật, phá Tăng hòa hợp. Thêm giết Hoà
thượng và giết Xà lê vào nữa thì gọi là 7 tội nghịch, được nói đến
trong giới nhẹ 40. Nhưng xét 5 tội nghịch còn như kinh Địa tạng nói,
cho người xuất gia nhiều hơn nằm trong phẩm 3 của kinh ấy. Ở đó, sự
phỉ báng Tam Bảo và khinh thường kinh pháp cũng là làm chảy máu thân
Phật. Trong 5 tội nghịch, tội phá Tăng hòa hợp nặng nhất, xét ra vì
lẽ tội này làm rã Tăng hòa hợp mà thực chất là biệt lập giáo phái để
làm giáo lãnh. Năm tội nghịch còn 1 pháp số nữa, của kinh Ni kiền tử:
Một là phá hủy chùa tháp, đốt phá kinh tượng, chiếm đoạt của Tam Bảo.
Hai là phỉ báng tiểu thừa và đại thừa, phá hoại và trở ngại, làm cho
các pháp ấy khuất lấp. Ba là bắt bớ, tù đày, tra tấn, hành hung,
khinh khi, làm nhục, buộc hoàn tục hay hại tính mạng đối với người
xuất gia. Bốn là làm 1 trong 5 tội nghịch thông thường (mà đã nói ở
trên). Năm là bài bác nhân quả thiện ác, thường làm 10 ác nghiệp,
không sợ đời sau, tự làm và xúc sử người làm mà ngoan cố không bỏ.
- Kết
quả của 5 tội nghịch là đọa vô gián ngục. Vô gián là không cách hở.
Tuệ viễn đại sư, trong Đại thừa nghĩa chương, cuốn 7, nói 5 tội
nghịch làm cho đọa vô gián ngục thì có 4 sự không cách hở. Một, nhân
quả không cách hở: thân này chết rồi thì thân kế tiếp đọa vô gián
ngục mà chịu liền quả báo của 5 tội nghịch, không có đời nào hay
nghiệp gì làm cho cách hở nữa. Hai, chịu khổ không cách hở: đọa vô
gián ngục thì trong một thời kỳ dài, khổ khổ liên tục, không có sự
vui nào xen vào làm cho cách hở. Ba, sinh mạng không cách hở: đọa vô
gián ngục thì trong một thời kỳ dài, chết đi sống lại liền liền mà
sinh mạng không chết hẳn. Bốn, thân hình không cách hở: đọa vô gián
ngục thì ai cũng thấy thân mình tràn đầy cả ngục, không chướng ngại
cách hở lẫn nhau. Bốn sự này bao gồm đủ cả 5 sự đã nói trong phẩm 3
của kinh Địa tạng. Trong 4 sự, sự đầu rất quan trọng, Thành thật
luận và Câu xá luận đều nói, chứng tỏ 5 tội nghịch rất khó cầu cho
siêu độ.
- Một
khi mất thân người muôn kiếp khó được lại là nói thân người rất quí.
Nói theo trường hợp Bồ tát giới Phạm võng thì có thân mới thọ và trì
được giới pháp ấy. Do vậy, đem thân người làm những việc mệt nhọc
một cách vô ích, có hại, đã đành đáng trách, nhưng lối thuyết pháp
thóa mạ, khinh thị thân thể, cũng không phải là thái độ hợp ý với
Phật.
-
Tiết 5: Chất Vấn
Thanh Tịnh
- Chư
đại đức, hôm nay là ngày mười lăm của nửa tháng trăng tối, ngày bố
tát tụng Bồ tát giới. Các vị hãy nhất tâm mà nghe cho khéo. Ai có
lỗi thì xin nói ra, ai không lỗi thì xin yên lặng. Yên lặng nên biết
chư vị đại đức thanh tịnh, có thể tụng Bồ tát giới. Như vậy là tôi
đã nói lời mở đầu Bồ tát giới. Nay xin hỏi, chư đại đức, trong các
vị có thanh tịnh cả không? Chư đại đức, các vị thanh tịnh cả, vì các
vị cùng yên lặng. Việc ấy tôi xin ghi nhận như vậy.
- Đây là
biến thể lời tác bạch kiết ma bố tát tụng giới mà thành sự chất vấn
thanh tịnh. Nay xin hỏi, chư đại đức, trong các vị có thanh tịnh cả
không, là hỏi trong nửa tháng vừa qua, có ai phạm giới không. Không
ai phạm giới mới có thể tụng giới.
- Việc
này tôi xin ghi nhận như vậy, chính văn là thị sự như thị trì. Chữ
trì nghĩa đen là nắm giữ, ở đây là nắm giữ trong trí, tức là nói về
sự ghi nhớ, về ký ức, và ở đây là xác nhận. Nên chữ ấy đi đôi với
chữ thọ thì thọ trì nghĩa là tiếp nhận và ghi nhớ. Nghĩa chữ trì như
vậy nên đã được cắt nghĩa là liễu đạt bất vong (thấu hiểu không quên).
Thị sự như thị trì, dịch sát là việc ấy tôi nắm chắc như vậy (nghĩa
là hiểu và nhớ như vậy). Nhưng chữ nắm chắc rất nên chuyển ra chữ
ghi nhận cho sát việc và dễ hiểu hơn. Chủ từ tôi phải thêm, vì đây
là lời của vị tụng giới. Nói giản dị, vị tụng giới nói, "các ngài
thanh tịnh, vì các ngài yên lặng: việc này tôi xin ghi nhận như vậy".
- Tiết
này có vài chỗ cần chú ý. Một, hết tháng thì nói trăng tối, rằm thì
nói trăng sáng; trăng tối thì ngày 15 có khi phải đổi ra 14 nếu
tháng ấy thiếu. Hai, câu nay tôi xin hỏi, chư đại đức, trong các vị
có thanh tịnh cả không , phải nói 3 lần, sau mỗi lần phải đợi vài ba
giây.
- Tụng
giới xong, vị tụng giới đứng dậy mà thưa, Bạch Đại đức tăng, con là
tỷ kheo XX, xin kính tạ lỗi Đại đức tăng; Đại đức tăng bảo con tụng
Bồ tát giới, nhưng thân miệng ý của con không tinh cần, tụng giới
văn không thông suốt, làm cho chư vị ngồi lâu hơn lên, không khỏi
phát phiền. Con xin chư vị từ bi hoan hỷ cho con.
- Cũng
như lời tác bạch đầu tiên, lời tác bạch này, nếu vị tụng giới là
thượng tọa trong buổi bố tát thì không cần nói.