LUẬT TẠNG

BỒ TÁT GIỚI
Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
 
CHƯƠNG BA
(Tiếp Theo)
---o0o---
 
Tiết 2: Nói Về Giới Điều Của Bồ Tát Giới Phạm Võng (tiếp theo)
Số 40: Không Được Chọn Lựa Truyền Giới
Phật tử thì khi cho người thọ Bồ tát giới không được chọn lựa. Hết thảy quốc vương vương tử, tể tướng bách quan, tỷ kheo tỷ kheo ni, thiện nam tín nữ, dâm nam dâm nữ, Phạm thiên mười tám tầng trời cõi Sắc, thiên nhân sáu tầng trời cõi Dục, những kẻ vô căn, hai căn, hoàng môn, nô bộc, tỳ thiếp, tất cả quỉ thần, ai cũng được thọ Bồ tát giới cả. Phải dạy người thọ Bồ tát giới nhuộm pháp y bằng hoại sắc cho hợp với chánh pháp. Hoại sắc là nhuộm tất cả pháp y và ngọa cụ bằng màu sắc phá hủy các màu sắc chính là xanh vàng đỏ trắng đen tía. Mọi thứ y phục khác cũng nhuộm hoại sắc như vậy. Nói tổng quát, tại bất cứ quốc độ nào, dân chúng ở đó ăn mặc ra sao thì vị tỷ kheo ăn mặc phải khác với lối ăn mặc ấy. Khi sắp thọ Bồ tát giới, vị pháp sư bồ tát phải xét hỏi người ấy, rằng thân hiện tại có làm bảy tội nghịch không? Vị pháp sư bồ tát không được cho những người thân hiện tại làm bảy tội nghịch được thọ Bồ tát giới. Bảy tội nghịch là làm cho thân Phật xuất huyết, giết cha, giết mẹ, giết hòa thượng, giết xà lê, phá kiết ma tăng và pháp luân tăng, giết thánh giả. Nếu có bảy tội nghịch thì kẻ ấy thân hiện tại không thể được Bồ tát giới. Ngoài ra, ai cũng có thể thọ và được giới ấy. Cái phép của người xuất gia là không lạy quốc vương, không lạy cha mẹ, không lạy bà con, không lạy quỉ thần, nên không thiên vị hoặc khước từ ai hết, hễ ai hiểu được tiếng nói của vị pháp sư bồ tát, từ trăm dặm ngàn dặm vẫn đến cầu Bồ tát giới, mà vị pháp sư ấy vì tâm lý xấu xa, tâm lý ghét giận, không truyền ngay cho họ giới pháp mà tất cả chúng sinh đều có phần thì phạm tội khinh cấu.
Bồ tát giới là của chúng sinh; trừ những kẻ phạm 7 tội nghịch thì thân đời này của họ không thể thọ và được giới ấy, còn bất cứ ai hảo tâm cầu giới ấy cũng đáng được truyền ngay. Hãy coi lại và đối quán chính văn này với chính văn đoạn 3 mục 3 tiết 1.
Bảy tội nghịch là ngoài 5 tội nghịch còn thêm 2 tội giết hòa thượng và giết xà lê. Làm thân Phật xuất huyết là tội nghịch 1. Xưa kia, Đề Bà lăn đá hại Phật, nhưng thân Phật không thể hại được, chỉ làm chảy máu ngón chân của Ngài. Nay thì đốt phá kinh Phật tượng Phật là cùng loại. Giết cha, giết mẹ là tội nghịch 2 và 3. Ấy là giết 2 người sinh ra sinh thân của mình. Giết hòa thượng, giết xà lê là tội nghịch 4 và 5. Ấy là giết 2 vị sinh ra giới thân cho mình. Giết thánh giả, nói hẹp là giết La hán, là tội nghịch 6. Ấy là giết các vị giải thoát. Phá tăng là tội nghịch 7. Tội này phân ra có 2: phá kiết ma tăng và phá pháp luân tăng. Phá kiết ma tăng: mở đầu, Đề Bà dụ dổ một số tỷ kheo tách ra kiết ma thuyết giới riêng; sau đó, chỉ cần tối thiểu 8 vị tỷ kheo cùng ở 1 chỗ, 1 kẻ trong đó dụ dổ 3 người cùng kẻ ấy là 4, tách ra làm 1 nhóm mà kiết ma thuyết giới hay làm những sự kiết ma khác, là cùng loại. Phá pháp luân tăng: mở đầu, Đề Bà lập ra Tam Bảo giả trá để chống phá Tam Bảo chân thật; sau đó chỉ cần tối thiểu 9 vị tỷ kheo không cần cùng ở 1 chỗ, 1 kẻ trong đó dụ được 4 người cùng kẻ ấy tách ra, kẻ ấy tự xưng giáo lãnh, lập giáo pháp và họp 4 kẻ kia làm giáo đoàn riêng, là cùng loại. Cả 2 tội trên đây chung lại gọi là phá tăng hay phá tăng hòa hợp, có nghĩa làm tan rã sự cùng sống với nhau bằng giới pháp và giáo pháp của chư tăng. Nói cách khác là phá hoại Phật giáo. Do vậy mà nay bất cứ chủ trương và hành động nào phá hoại Phật giáo, là cùng loại. Tất cả 6 tội trước trong 7 tội nghịch là sát sinh cực nặng (dầu làm thân Phật xuất huyết chỉ là phần da hành của tội ấy), còn tội thứ bảy là vọng ngữ cực nặng. Bảy tội nghịch là tội đọa vô gián ngục, nhất là tội phá pháp luân tăng, vì làm thương tổn pháp thân của Phật (Câu xá, Chính 28/92-94).
Ở đây, đối với Bồ tát giới thì chỉ những kẻ phạm 7 tội nghịch mới không thể thọ và không thể được giới ấy. Do đó, 7 tội ấy có bản chép là 7 sự cản trở (thất giá). Ngoài những kẻ phạm 7 tội nghịch, mọi người ai cũng phải được cho thọ Bồ tát giới, không được lựa chọn, khước từ. Thế nhưng, những kẻ trà trộn hay mai phục để phá hoại Phật giáo thì đó cũng là 1 trong 6 loại tặc trú, không thể không tra xét cho kỹ mà cứ cho thọ Bồ tát giới. Lại nữa, giới này cấm là cấm lựa chọn theo tà ý, còn vị truyền giới phải xét người cầu giới có xứng đáng không, người cầu giới phải xét vị truyền giới có xứng đáng không, thì lại là sự răn dạy phải làm của Bồ tát giới du dà (mà Vạn 60/378B trích dẫn). Cho nên lựa chọn hay không lựa chọn theo tà ý thì toàn là cung cách làm cho Phật pháp suy tàn.
Sau hết, đây là mấy chỗ cần giải thích. Vô căn: không có cả 2 bộ phận sinh thực. Hai căn: ngược với vô căn. Hoàng môn: gọi chung 5 loại người lại cái. Phải dạy người thọ Bồ tát giới nhuộm pháp y bằng hoại sắc: do chính văn liên tiếp dưới câu này nói rõ mà biết đây là dạy cho tỷ kheo (và mọi người xuất gia). Ngọa cụ ở đây là những thứ đồ nằm. Mọi thứ y phục khác là mọi thứ khác nữa thuộc về y phục, trong đó có các thứ khăn. Cái phép của người xuất gia là không lạy..., câu này cho thấy rõ vị truyền Bồ tát giới phải là người xuất gia.
Số 41: Không Được Vụ Lợi Làm Thầy
Phật tử nếu giáo hóa cho người phát sinh đức tin đại thừa rồi, mình là Bồ tát làm vị pháp sư chỉ bảo cho người, thì thấy người ấy muốn thọ Bồ tát giới, mình phải chỉ bảo cách thỉnh hai vị đại sư là hòa thượng và xà lê. Hai vị đại sư phải hỏi người ấy có hay không có phạm bảy tội nghịch là bảy tội cản trở sự thọ và được Bồ tát giới. Nếu thân hiện tại phạm bảy tội nghịch thì vị pháp sư không được cho người ấy thọ Bồ tát giới; nếu không phạm bảy tội nghịch thì được cho họ thọ. Nếu người nào phạm mười giới pháp nặng thì phải chỉ bảo người ấy sám hối bằng cách đối trước hình tượng Phật đà, hình tượng Bồ tát, ngày đêm sáu buổi tụng mười giới pháp nặng và bốn mươi tám giới pháp nhẹ, cực kỳ khẩn thiết lễ bái ba ngàn đức Phật thuộc ba thì gian quá khứ hiện tại và vị lai, cầu cho thấy được tướng tốt. Dầu một lần bảy ngày hay ba lần bảy ngày, cho đến một năm, cũng phải làm sao cho thấy được tướng tốt. Tướng tốt là thấy được Phật đến xoa trên đỉnh đầu, thấy ánh sáng của Phật, thấy hoa sen của Phật, hoặc thấy các tướng kỳ lạ khác, thì tội lỗi tức thì tan biến. Nếu không thấy được những tướng tốt như vậy thì dẫu sám hối cũng không có cái ích lợi làm cho người ấy thân hiện tại được lại giới pháp, nhưng có cái lợi ích thọ lại giới pháp ấy. Nếu ai phạm bốn mươi tám giới pháp nhẹ thì chỉ bảo người ấy sám hối bằng cách đối diện mà phát lộ, thì tội lỗi tức thì tan biến. Phạm giới nặng hay nhẹ đều không như bảy tội nghịch. Làm pháp sư chỉ bảo thì trong các cách trên đây nhất nhất phải thấu hiểu. Nếu không thấu hiểu sự đúng sai và tội nặng nhẹ của giới pháp đại thừa, không lý giải đệ nhất nghĩa đế, tập chủng tánh, trưởng dưỡng tánh, bất hoại tánh, đạo chủng tánh, chánh pháp tánh, trong tất cả các tánh của Bồ tát vị như vậy không thấu rõ quán hạnh nhiều ít và ra vào như thế nào, cho đến mười thành phần thiền định và bao nhiêu quán hạnh khác, cũng nhất nhất không thấu hiểu nghĩa ý trong đó; mà, là Bồ tát, lại vì quyền lợi, vì danh vọng, vì ham hố đồ đệ với tâm lý ham cầu xấu xa và quá đáng, làm ra như thấu hiểu tất cả, thì ấy là tự lừa dối mình lại lừa dối kẻ khác. Vậy mà cố ý truyền Bồ tát giới cho người thì phạm tội khinh cấu.
Giới này nối tiếp các giới 16, 40, nhất là giới 23, răn dạy cách làm pháp sư. Pháp sư này trước đây đã gọi là pháp sư đại thừa, pháp sư bồ tát, nay đây gọi là pháp sư chỉ bảo. Pháp sư chỉ bảo là đại sư giáo thọ. Nhưng sự chỉ bảo này không phải chỉ có lúc sắp thọ giới hay lúc thọ giới, mà là trước nữa, phải giáo hóa làm sao cho người có thể thọ và giữ Bồ tát giới. Giới 41 này gần như tổng hợp cách làm pháp sư như vậy. Cách ấy có 4: một, dạy cho người phát sinh đức tin đại thừa, hai, dạy cách thọ giới, ba, dạy cách sám hối phạm giới, bốn, thấu hiểu về Bồ tát giới và Bồ tát vị.
Một, dạy cho người phát sinh đức tin đại thừa là tin mình sẽ làm Phật. Nhưng nói như vậy là nói tắt về những sự khác nữa, ấy là dạy cho người biết đại thể về Bồ tát giới, dạy cho người có chí nguyện và khả năng để thọ và giữ giới ấy, như đã nói trong các giới nhẹ trước liên quan đến những việc này.
Hai, dạy cách thọ Bồ tát giới là xét và không truyền giới ấy cho người phạm 7 tội nghịch, nhưng càng phải giáo hóa sao cho người này có những cái phước khác. Còn ai không phạm 7 tội nghịch thì cho thọ Bồ tát giới bằng cách dạy thỉnh 2 vị đại sư hòa thượng và đại sư xà lê. Nhưng xét Phạm võng (giới 23) Anh lạc (Chính 24/1020) Thiện giới (Chính 30/1014) Du dà (Chính 24/1104) và Địa trì (Chính 30/912) đều thấy Bồ tát giới chỉ do 1 vị thầy truyền thọ. Chính 1 vị thầy ấy, trước khi truyền giới thì làm pháp sư chỉ bảo, khi truyền giới thì làm 2 nhiệm vụ đại sư hòa thượng và đại sư xà lê. Giới văn nói chỉ bảo cách thỉnh 2 vị đại sư là hòa thượng và xà lê, là vị thầy chỉ bảo cho người xin thọ giới biết cách thức thỉnh mình làm cả 2 nhiệm vụ hòa thượng và xà lê mà truyền giới cho người ấy. Giới văn nói 2 vị đại sư phải hỏi người ấy có hay không có phạm 7 tội nghịch, là vị thầy ấy, bây giờ, với tư cách hòa thượng và xà lê, hỏi để xác định người xin thọ giới có hay không có phạm vào những tội cản trở sự thọ giới và sự được giới. Việc này giới 40 đã hỏi, nhưng hỏi để tra xét, nay chỉ hỏi theo nghi thức. Nghi thức mà 1 vị thầy phải nói và phải làm trong việc kiết ma truyền Bồ tát giới thì Chính 24/1104 và 1105 chỉ dẫn rất rõ. Nhất là lời kiết ma, xin lược dịch như sau: Vị thầy truyền giới đối trước tượng Phật lạy và bạch, rằng kính bạch vô lượng Phật đà và Bồ tát hiện tại vô lượng thế giới, hiện thời ở đây có bồ tát tên XX, đối trước con là bồ tát XX, 3 lần nói thọ Bồ tát giới, con đã tác chứng cho. Con thỉnh cầu vô lượng Phật đà và Bồ tát cũng tác chứng cho bồ tát XX thọ Bồ tát giới. Bạch lần thứ 2 và lần thứ 3 cũng như vậy. Như vậy là kiết ma thọ Bồ tát giới được hoàn tất (chính 24/1105). Thế nhưng đối với câu "thỉnh 2 vị đại sư", các vị chú thích có nhiều ý kiến, xin tóm tắt ghi lại như sau. Có vài người lướt qua, rõ ràng có ý thận trọng; có vài ba người nói vị pháp sư chỉ cách thỉnh Đức Thích Ca làm hòa thượng, thỉnh mình làm xà lê; có người nói chỉ cách thỉnh mình làm hòa thương, thỉnh 1 vị khác là kiết ma xà lê; có người nói mình làm giáo thọ xà lê, chỉ cách thỉnh Đức Bổn Sư Thích Ca làm hòa thượng, chỉ cách thỉnh Đức Đương Lai Di Lạc làm xà lê. Ấy là chỉ kể những ý kiến đáng chú ý. Những ý kiến này gợi lên sự xét lại cách truyền Bồ tát giới. Cách ấy trong lý thuyết và thực tế thấy có 2. Thứ nhất là cách 1 thầy truyền cho 1 trò. Cách này nên lấy sự chỉ dẫn của luận Du dà làm chính (Chính 24/1104-1105). Tham khảo thì có thể coi thêm Vạn 59/197A và 198B. Đặc biệt nếu truyền cho cận sự nam và cận trú nam theo Ưu bà tắc giới kinh thì có thể làm theo kinh ấy (Chính 24/1047-1049). Thứ hai là cách tổ chức giới đàn truyền cho nhiều người như nghi thức hiện hành, thì có 2 lớp tam sư thấy được và không thấy. Lớp tam sư không thấy là Đức Thích Ca làm hòa thượng, Đức Văn Thù làm kiết ma, Đức Di Lạc làm giáo thọ; lớp này căn cứ kinh Thiện giới và Phổ Hiền, và "từ lớp này mà được giới là do sức trợ phát của Đức Phổ Hiền" (Chính 62/246). Lớp tam sư thấy được là hòa thượng, kiết ma và giáo thọ trong giới đàn; lớp này dạy thỉnh và đứng thỉnh lớp trước kiết ma hoàn tất. Cách truyền giới 1 thầy 1 trò có cái ưu điểm là nghĩa vụ của vị thầy rất quan trọng cho người thọ giới, còn cách truyền giới trong giới đàn thì nhược điểm ở chỗ thọ giới rồi thầy trò hầu như chẳng còn biết gì đến nhau nữa.
Ba, dạy cách sám hối phạm giới. Trước hết, phạm 7 tội nghịch thì đời này không được thọ Bồ tát giới, còn gì nữa mà nói đến sám hối. Nếu thọ Bồ tát giới rồi mới phạm 7 tội nghiểch thì đời này mất giới pháp ấy, không thể sám hối để được lại hay thọ lại gì hết. Nhưng nói không thể sám hối là đối với giới pháp, chứ sự sám hối về 7 tội nghịch thì vẫn có. Đó là chuyện A xà thế vương sám hối tội giết cha, ngay trong thời Phật còn và được ngài chấp nhận (Chính 1/109). Làm vị pháp sư thì phải biết như vậy để đừng ruồng bỏ người phạm tội nghịch, làm họ tuyệt vọng, lại phủ nhận năng lực Phật pháp đối với tội ấy.
Ngoài kẻ phạm 7 tội nghịch, ai cũng có thể thọ và được Bồ tát giới. Nhưng thọ và được rồi, nếu phạm 10 giới nặng thì vị pháp sư dạy cho họ phải sám hối thấy tướng tốt mới được phục hồi giới pháp, khỏi phải thọ lại. Sám hối mà không thấy tướng tốt thì được thọ lại, vì người này không phạm 7 tội nghịch. Giới văn nói nếu không thấy được những tướng tốt như vậy thì dẫu sám hối cũng không có cái ích lợi làm cho người ấy thân hiện tại được lại giới pháp, nhưng có cái ích lợi thọ lại giới pháp ấy, chính văn là nhược vô tướng hảo, tuy sám vô ích, thị nhân hiện thân diệc bất đắc giới, nhi đắc tăng ích thọ giới. Tăng ích thọ giới, có bản chỉ chép tăng thọ giới, có nghĩa là thọ giới lại. Câu chính văn này có nhiều ý kiến. Ý kiến có nhiều nhất, điển hình như ngài Pháp tạng (Vạn 60/100A) là sám hối thấy tướng tốt thì phục hồi giới pháp, không cần thọ lại, còn sám hối không thấy tướng tốt thì không phục hồi giới pháp nhưng được thọ lại giới pháp ấy. Có vài ý kiến thêm chữ "sau này" vào trước chữ thọ lại, có 1 ý kiến thêm chữ "đời sau". Ý kiến như chính văn là đời này có thể thọ lại, ý kiến thêm chữ sau này là đời này hay đời sau có thể thọ lại, ý kiến thêm chữ đời sau là đời sau mới thọ lại. Nay xét thọ Bồ tát giới là xuất gia hay tại gia thọ giới ấy, vậy Bồ tát giới tùy thuộc Tỷ kheo giới và tại gia giới. Như vậy, sự phạm giới nặng, nhất là phạm cả 3 phần da hành, căn bản và hậu khởi của mỗi giới, thì dẫu nói Bồ tát giới có thể sám hối mà phục hồi hay thọ lại đi nữa, tỷ kheo giới và tại gia giới cũng không có cái sự phục hồi hay thọ lại ấy. Trên lý thuyết, nếu có trường hợp chỉ thọ Bồ tát giới thì được thọ lại hay không, thọ lại trong đời này hay đời sau, phải hoàn toàn do vị pháp sư bồ tát, vị thầy rất xứng đáng, có trách nhiệm quyết định, như đã quyết định lúc mới cho họ thọ.
Sau hết, ai phạm 48 giới nhẹ thì dạy cho họ sám hối theo cách đối diện bộc bạch mà sám hối là được tiêu trừ. Cách này luận Du dà (Chính 24/1106) cũng dạy rất rõ. Đối diện, chính văn là đối thủ, có nghĩa đối diện, giáp đầu mặt mà bộc bạch sám hối. Có người đọc đối thú, có nghĩa đối diện mà thú tội, ý nghĩa như đọc đối thủ. Phạm giới nặng hay nhẹ đều không như 7 tội nghịch, sát chính văn thì chỉ "không như 7 tội nghịch", nên phải bổ túc như trên.
Bốn, thấu hiểu về Bồ tát giới và Bồ tát vị. Thấu hiểu về Bồ tát giới là hiểu làm như thế nào thì đúng, làm như thế nào thì sai, phạm như thế nào thì nặng, phạm như thế nào thì nhẹ, lại còn phải hiểu lý do và nội dung của Bồ tát giới, hiểu cách truyền thọ, cách lãnh thọ và cách sám hối. Thấu hiểu về Bồ tát vị là hiểu căn bản của Bồ tát vị, hiểu chủng tánh của Bồ tát vị, hiểu pháp hạnh của Bồ tát vị. Căn bản của Bồ tát vị là đệ nhất nghĩa đế, tức Phật tánh, cũng gọi là thật tướng bát nhã. Chủng tánh của Bồ tát vị thì kinh Anh lạc nói có 6, và phối hợp rõ như sau: 1, tập chủng tánh là 10 trú, 2, tánh chủng tánh là 10 hạnh, 3, đạo chủng tánh là 10 hướng, 4, thánh chủng tánh là 10 địa, 5, đẳng giác tánh là đẳng giác, 6, diệu giác tánh là diệu giác (Chính 24/1012). Còn ở đây, kinh Phạm võng nói thì ngài Pháp tạng chép có 5 và phối hợp như sau: 1, tập chủng tánh là 10 phát thú (10 trú), 2, trưởng dưỡng tánh là 10 trưởng dưỡng (10 hạnh), 3, bất hoại tánh là 10 kim cang (10 hướng), 4, đạo chủng tánh là 10 địa, 5, chánh pháp tánh là Phật địa (Vạn 60/99B-100B). Nay xét chính văn Phạm võng và Anh lạc, thấy 10 trú 10 hạnh và 10 hướng thì 2 kinh ấy và thông thường nói như nhau, "ý nghĩa thì đồng, danh từ thì khác" (Trí húc, Vạn 60/314A). Nhưng 10 địa thì Anh lạc cũng như thông thường tách đẳng giác và diệu giác ra làm 2 chủng tánh nữa; còn 10 địa trong Phạm võng thì xét thấy bao gồm cả 10 địa và 2 giác. Vậy nên phối hợp lại như sau: một, tập chủng tánh là 10 phát thú (10 trú), hai, trưởng dưỡng tánh là 10 trưởng dưỡng (10 hạnh), ba, bất hoại tánh là 10 kim cang (10 hướng), bốn, đạo chủng tánh và 5, chánh pháp tánh là 10 địa (10 địa và 2 giác). Ý nghĩa 5 danh từ Bồ tát tánh và 4 danh từ Bồ tát vị như trên có thể lược giải như sau. Một, tập chủng tánh: phẩm cách luyện tập, là xuất phát đi mau đến (phát thú), nghĩa là vững vàng trong Bồ tát vị (trú). Hai, trưởng dưỡng tánh: phẩm cách bồi dưỡng, là bồi dưỡng hơn lên nữa (trưởng dưỡng), nghĩa là đi tới về Bồ tát vị (hành). Ba, bất hoại tánh: phẩm cách kiên cố, là kiên cố như kim cương (kim cang), nghĩa là đã hướng đến chân như (hướng). Bốn, đạo chủng tánh: phẩm cách bát nhã, và Năm, chánh pháp tánh: phẩm cách chân như, là sinh trưởng mọi diệu dụng và đã gần như là Phật (địa và đẳng giác diệu giác). Cũng nên ghi chú thêm rằng có bản chép 6 chủng tánh: sau trưởng dưỡng tánh thêm tánh chủng tánh, nhưng xét thấy bất ổn không ít.
Pháp hạnh của Bồ tát vị là các quán hạnh và pháp hạnh. Quán hạnh có 3, là không quán, giả quán và trung quán: 10 phát thú thì từ giả quán vào không quán, không quán còn ít; 10 trưởng dưỡng thì ra không quán vào giả quán, không quán thì nhiều mà giả quán còn ít; 10 kim cang thì xoay không quán giả quán vào trung quán, giả quán thì nhiều mà trung quán còn ít; 10 địa thì trung quán mới nhiều. Không quán là thể hội thật tướng, siêu việt các phạm trù tư duy; giả quán là hoạt dụng thật tướng, lợi ích cho hết thảy chúng sinh; trung quán là dung hóa thật tướng, vô công dụng hạnh đã nhiệm vận hiện tiền. Pháp hạnh thì ở đây đưa ra 10 thiền chi (10 thành phần thiền định). Pháp số này là 10 nhất thế xứ. Trí độ luận nói như sau, trong cuốn 21, "bội xả làm cửa đầu, thắng xứ là đi giữa, nhất thế xứ là hoàn thành, 3 loại này của thiền quán mà đầy đủ thì bản thể thiền quán thành tựu". Vậy là 10 thiền chi (nhất thế xứ, biến xứ) còn lược 2 pháp số nữa, đó là 8 bội xả (giải thoát) và 8 thắng xứ.
Vị pháp sư truyền Bồ tát giới thì căn bản là phải nghiêm trì giới ấy, lại phải hiểu rõ và chỉ dạy được 4 điều trên đây. Nhưng nếu truyền Bồ tát giới với tâm lý ham danh lợi và ham đồ đệ thì hiểu mà truyền cũng vẫn phạm giới này, huống chi không hiểu. Giới văn câu chót làm ra như thấu hiểu tất cả, có bản chép thêm "để được hiến cúng", thêm như vậy vừa thừa vừa thiếu.
Số 42: Không Được Thuyết Giới Ác Nhân
Phật tử thì không được vì quyền lợi mà nói giới pháp vĩ đại của hàng ngàn Đức Phật trước những kẻ chưa thọ Bồ tát giới, những kẻ ngoại đạo và ác nhân. Trước những kẻ phủ nhận Phật tánh cũng không được nói. Trừ quốc vương, không được nói với ai cả. Những kẻ ngoại đạo và ác nhân không lãnh thọ giới pháp của chư Phật thì như loài vật, đời đời sinh ra ở đâu cũng không gặp được Phật pháp tăng, như cây như đá không có tâm hồn, nên gọi là ngoại đạo và ác nhân. Còn những kẻ phủ nhận Phật tánh thì khác gì đầu gỗ. Là Bồ tát mà trước những kẻ như vậy nói đến giáo pháp và giới pháp của bảy đức Phật đà thì phạm tội khinh cấu.
Không phải lúc nào, ở đâu, với ai cũng thuyết Bồ tát giới một cách cẩu thả. Nhất là đối với những kẻ không có tâm hồn, những kẻ không có giống Phật, những kẻ ngoan cố, vô tín ngưỡng, nghe Bồ tát giới thì chỉ phỉ báng, không thể lãnh thọ mà cũng không chịu lãnh thọ. Còn đối với quốc vương, tức đối với các vị nguyên thủ quốc gia, thì không phải được nói mà là phải nói; địa vị ấy, quyền sinh sát ở cả trong tay, không cố mà nói cho họ, bằng cách này hay cách khác, về Bồ tát giới, thì không còn sự răn đe nào khác nữa.
Giới 39 nói phải diễn giảng Bồ tát giới trong mọi trường hợp, vậy tránh sao cho khỏi có những kẻ mà giới này hạn chế? Nên người diễn giảng phải xét người nghe, để có khi có thể diễn giảng đủ cả, có khi chỉ nên trích giảng mà thôi.
Giới pháp vĩ đại của hàng ngàn Đức Phật, nói rõ là của 3 ngàn Đức Phật thuộc 3 thời kỳ quá khứ hiện tại và vị lai. Ấy là lấy 3 ngàn Đức Phật liên tiếp, gần gũi và của quốc độ này, trong đó có Đức Bổn Sư, mà nói sự trọng đại của Bồ tát giới. Của 7 Đức Phật đà là lấy 7 Đức Phật gần nhất trong số 3 ngàn Đức Phật mà Đức Bổn Sư là vị Phật hiện tại, để nói sự trọng đại của Bồ tát giới. Như loài vật, 1 nhà giải thích nói vì không thọ Bồ tát giới thì sống cũng như chết chỉ là sống chết vô ích.
Số 43: Không Được Cố Tâm Phạm Giới
Phật tử nếu đã đem đức tin đại thừa mà xuất gia và lãnh thọ giới pháp chính yếu của chư Phật rồi, lại cố ý sinh tâm vi phạm giới pháp phát sinh tuệ giác vô lậu như vậy, thì không nên nhận mọi sự hiến cúng của thí chủ, không đáng đi đất của quốc gia, uống nước của quốc gia. Cả năm ngàn quỉ dữ thường án trước mặt kẻ ấy mà bảo với nhau, rằng đó là tên giặc lớn. Vào phòng ốc, thành thị, thôn ấp, nhà cửa, thì bọn quỉ thường quét dấu chân của người ấy đi. Thế nhân ai cũng nhục mạ, rằng đó là tên giặc trong Phật pháp. Chúng sinh không ai muốn nhìn. Kẻ phạm giới có khác gì loài vật, đầu gỗ. Nếu cố ý vi phạm giới pháp chính yếu của chư Phật thì phạm tội khinh cấu.
Hoặc là vô ý, hoặc là phiền não quá nặng mà phạm giới, thì dầu sao cũng còn hơn kẻ phạm giới bằng sự cố ý. Lại còn không sám hối mà nhận lãnh của tín đồ hiến cúng, thì đó là kẻ không còn chút tàm quí nào trong lòng. Kẻ ấy đất tuy rộng cũng không đáng có một chỗ để đi, nước tuy nhiều cũng không đáng có một giọt để uống. Đất của quốc gia, nước của quốc gia, quốc gia, chính văn là quốc vương, chữ này không những có nghĩa là vua mà còn chỉ cho tất cả nguyên thủ quốc gia dưới những danh từ khác nữa. Nói đất nước của nguyên thủ quốc gia là nói của quốc gia, của cả nước. Quỉ án trước mặt thì vì vậy mà họa không ít và phước khó toàn.
Số 44: Không Được Không Trọng Kinh Luật
Phật tử thì thường phải nhất tâm mà thọ trì đọc tụng kinh luật đại thừa, lột da làm giấy, thích huyết làm mực, rút tủy làm nước, chẻ xương làm bút, để sao chép giới pháp của Chư Phật. Lại sao chép mà giữ bằng giấy vỏ cây như giấy gió, giấy dạ, bằng lụa, lụa trắng, lụa tơ trần, bằng thẻ tre. Rồi thường đem bảy thứ quí báu, hay những thứ tạp ngọc vô giá, thơm và đẹp, làm hộp làm đãy mà tôn trí kinh luật đại thừa ấy. Nếu không hiến cúng đúng cách như vậy thì phạm tội khinh cấu.
Kinh luật phải hiến cúng, phần chính vẫn là kinh luật đại thừa, tức Bồ tát giới Phạm võng. Hiến cúng bằng cách ấn hành mà truyền bá, trang sức mà thờ cất. Phật tánh nằm trong đó, nên phải hiến cúng như hiến cúng Phật. Lột da làm giấy, thích huyết làm mực, rút tủy làm nước, chẻ xương làm bút, là nói tinh thần vị pháp vong thân, không phải nói thực sự. Sao chép (thư tả) là xưa chỉ viết tay, chưa in. Nay thì in chứ không phải viết.
Số 45: Không Được Không Có Giáo Hóa
Phật tử thì tâm đại bi phải thường xuyên nổi dậy, khi vào những nơi thành thị, thôn ấp hay nhà cửa, thấy bất cứ ai cũng đều nói lên như thế này: các người nên lãnh thọ ba qui y và mười giới pháp. Nếu thấy tất cả cầm thú thì bất cứ bò ngựa heo dê, đều nên tâm nghĩ miệng nói như sau: cầm thú các con, các con nên phát bồ đề tâm. Là Bồ tát thì đến bất cứ chỗ nào, dầu là núi non, rừng rú hay khe suối, đồng nội, cũng làm cho hết thảy chúng sinh phát bồ đề tâm. Nếu Bồ tát mà không giáo hóa chúng sinh như vậy thì phạm tội khinh cấu.
Chủ đích của sự giáo hóa là làm cho tất cả phát bồ đề tâm. Cách giáo hóa mà giới này dạy chính là cái điển hình Thường Bất Khinh Bồ Tát trong kinh Pháp hoa. Cách này không mấy ai không cho là tầm thường, lố lăng, nên không mấy ai không phạm giới này. Nhưng cách này không những đem sức mạnh của tâm nguyện ảnh hưởng đến đối tượng, mà còn tự huân tập và hiện hành thường xuyên nơi bản thân về tâm đại bi. Lãnh thọ ba qui y và mười giới pháp là như truyền thọ Bồ tát giới rồi đó. Nhưng câu giới văn dạy nói lên khi gặp người thì không phải chỉ làm theo một cách máy móc và giản dị như vậy. Phải coi đó là đầu đề mà cách trình bày phải sao cho thích hợp, hiệu quả. Riêng câu giới văn dạy nói lên khi gặp vật thì làm theo dễ hơn: hãy luôn luôn chú nguyện cho chúng như vậy. Nhưng phải chú ý chữ tâm nghĩ: phải vận dụng và tập trung tất cả sự chân thành của tâm đại bi mà chú nguyện.
Số 46: Không Được Thuyết Không Đúng Phép
Phật tử thì thường đi giáo hóa với tâm niệm đại bi mà mình thường phát khởi. Nhưng, dẫu vào nhà tín đồ hay nhà quyền quí, đối với bất cứ tập thể nào, người xuất gia cũng không được đứng mà thuyết pháp cho người tại gia. Phải ngồi lên chỗ cao, ở trước mặt họ. Pháp sư tỷ kheo thì dẫu thuyết pháp cho cả bốn chúng, cũng không được đứng đất mà nói. Khi thuyết pháp thì vị pháp sư phải được mời ngồi chỗ cao, hương hoa hiến cúng; còn bốn chúng thính giả thì ngồi chỗ thấp, bằng ý niệm như hiếu thuận đối với cha mẹ mà kính thuận những lời giáo huấn của vị pháp sư, lại kính thuận liên tục như các đạo sĩ thờ lửa giữ lửa không tắt. Nếu người thuyết pháp mà thuyết không đúng phép như vậy thì phạm tội khinh cấu.
Thuyết không đúng phép là thuyết pháp không đúng nghi lễ thuyết pháp. Dẫu phải giáo hóa mọi người phát bồ đề tâm, nhưng chính vì để họ quí trọng chánh pháp mà phát bồ đề tâm, nên phải thuyết pháp cho đúng nghi lễ. Dầu thân như nhà tín đồ hay sang như nhà quyền quí, ở đâu cũng không được dễ dãi hay hạ mình, sao cũng nói được, bộc lộ tinh thần thị thường chánh pháp ngay khi chưa nói và khi đang nói. Như vậy thì phải ngồi, lại ngồi chỗ cao và trước mặt người nghe. Nhưng nếu trường hợp cũng theo nghi lễ, người nói phải đứng nói mới tôn nghiêm thì lại khác. Khi thuyết pháp thì vị pháp sư... giữ lửa không tắt, dịch sát thì như sau, dầu không đúng ý và việc: Nếu khi thuyết pháp, pháp sư ngồi cao, hương hoa hiến cúng; bốn chúng thính giả ngồi thấp như hiếu thuận cha mẹ, kính thuận lời thầy như bà la môn thờ lửa.
Số 47: Không Được Kềm Chế Phi Lý
Phật tử như quốc vương, thái tử, bách quan hay bốn bộ, đã đem đức tin đại thừa lãnh thọ giới pháp của Chư Phật rồi, lại tự thị quyền quí cao sang mà phá hoại giáo pháp và giới pháp của Như Lai, bằng cách đặt ra qui chế để kềm chế bốn bộ đệ tử của Như Lai, không cho họ xuất gia, hành đạo, cũng không cho họ tạo lập hình tượng, chùa tháp, và truyền bá kinh luật. Lại đặt chức thống quản để chế ngự chư tăng, lập sách tịch để kiểm kê chư tăng. Tỷ kheo bồ tát thì để cho đứng đất, bạch y cư sĩ lại tự ngồi chỗ cao, làm nhiều điều phi chánh pháp, tạo thành tình trạng như bắt binh nô thờ chủ. Nhưng tỷ kheo bồ tát chính là bậc để cho mọi người kính trọng, có đâu lại bị đem làm kẻ sai sử của quan quyền một cách trái với giáo pháp, trái với giới pháp. Nếu hàng quốc vương bách quan đã đem tâm lý tốt đẹp lãnh thọ giới pháp của Chư Phật rồi, thì đừng làm những tội lỗi phá hoại Tam Bảo như vậy. Nếu cố ý làm những biện pháp phá hoại Tam Bảo thì phạm tội khinh cấu.
Giới này tự nói đã rõ, một cách không ngờ, về những sự kềm chế phi pháp, và đã mệnh danh những sự ấy là phá hoại Tam Bảo. Một quốc độ mà cường quyền lấn áp đạo đức, buộc đạo đức và những người tiêu biểu cho đạo đức phải phục dịch mình bằng những qui chế phi lý, nhất là qui chế ấy có tính cách kềm chế, giám sát người và việc của một tôn giáo như Phật pháp, thì đó là "nước của quỉ la sát". Nhưng cường quyền ở đây, ngoài chính quyền mà chính sách căn bản không dung Phật pháp, còn là chính quyền mà cầm đầu hoặc nội bộ có những kẻ bất trung của Phật pháp, tự làm hoặc chịu làm tay sai, lợi dụng ngay sự làm Phật tử mà làm những việc hại đạo của Phật, thì đó là điều mà giới này muốn nói đến : nói đến Phật tử tại gia phản bội Phật pháp. Bốn bộ, bốn bộ đệ tử, ở đây là ưu bà tắc, ưu bà di, đồng nam, đồng nữ. Câu lại đặt chức thống quản... phá hoại Tam Bảo như vậy, được biết có bản bị vua quan xưa đục bỏ.
Số 48: Không Được Phá Hoại Đạo Pháp
Phật tử nếu đã đem tâm lý tốt đẹp mà xuất gia rồi, lại vì danh vọng và quyền lợi nên trước mặt quốc vương và bách quan, nói về giới pháp của Chư Phật mà lại nói một cách rất phi lý, làm cho các vị tỷ kheo tỷ kheo ni và những người thọ Bồ tát giới bị trói buộc bằng những hình thức lao tù, những biện pháp quân dịch. Như thế đó là con sâu trong thân sư tử tự ăn thịt sư tử, không phải con sâu ở ngoài: chính những kẻ Phật tử như trên tự phá Phật pháp, không phải ngoại đạo ma vương mà phá được. Nên người lãnh thọ giới pháp của Chư Phật thì phải ái hộ giới pháp ấy như người mẹ thương đứa con một, như người con thờ cha mẹ, không được vi phạm. Là Bồ tát thì khi nghe cái tiếng của ngoại đạo và ác nhân đem lời nói ác phỉ báng phá hoại giới pháp của chư Phật, lúc ấy khác nào tim mình bị ba trăm mũi nhọn đâm vào, thân mình bị ngàn lưỡi dao vạn cây gậy đánh đập chém chặt. Thà là chính mình vào trong địa ngục cả trăm kiếp, chứ không muốn một lần phải nghe cái tiếng của kẻ ác đem lời ác phỉ báng phá hoại giới pháp của chư Phật, huống chi chính mình tự phá hoại giới pháp của chư Phật bằng cách tạo điều kiện khuyến khích kẻ khác phá hoại Phật pháp, không còn gì gọi là tâm hiếu thuận. Nếu cố ý làm như vậy thì phạm tội khinh cấu.
Giới 47 phần nhiều nói Phật tử tại gia mà phản bội Phật pháp, giới 48 này phần nhiều nói sự phản bội ấy của Phật tử xuất gia. Sự phản bội tàn tệ nhất là chính mình giải thích giáo pháp và giới pháp, đem ngay sự giải thích ấy mà gây ra hay công nhận sự bị nguy khốn đày ải cho đồng đạo, nhất là đồng đạo xuất gia. Cường quyền, tay sai của ma vương hay chính ma vương hiện thân, phá hoại Phật pháp được là do hành động này tạo cơ hội hay tạo điều kiện. Trong kinh Thắng man, Bà Hoàng này bạch Đức Thế Tôn, hằng sa đại nguyện đều nên nhập vào một đại nguyện, ấy là nguyện hộ trì chánh pháp. Hộ trì chánh pháp là đại nguyện cực kỳ lớn lao... Đức Thế Tôn dạy, Thắng man, đúng như vậy; chút ít của sự hộ trì chánh pháp cũng làm cho ma vương cả sợ. Như Lai không thấy có một việc thiện nào làm cho ma vương cả sợ bằng một chút của sự hộ trì chánh pháp (Chính 12/218). Câu bằng những hình thức lao tù, những biện pháp quân dịch, được biết có bản cũng bị đục bỏ.
Chín giới pháp nhẹ như vậy, các người phải học, phải cung kính phụng trì.
Kết thúc 9 giới nhẹ thứ hai.
Đoạn 3: Kết Thúc 48 Giới Nhẹ Bồ Tát Giới Phạm Võng
Các Phật tử, bốn mươi tám giới pháp nhẹ như trên đây, các người hãy thọ trì như chư Bồ tát quá khứ đã tụng, chư Bồ tát vị lai sẽ tụng, chư Bồ tát hiện tại đang tụng.
Tổng kết 48 giới nhẹ đã nói bằng 3 lần 10 và 2 lần 9, tức kết thúc phần đẳng lưu của Bồ Tát Giới.
--o0o--