- BƯỚC TỚI THẢNH
THƠI
- Giới Luật và Uy
Nghi của Các Vị Sa Di
- Thiền Sư Nhất
Hạnh
-
---o0o---
-
-
Ba Mươi Chín Thiên Uy
Nghi
-
Uy nghi là vẻ đẹp biểu
hiện ra trong những tư thế, động tác, ngôn từ và cách tiếp xử của
hành giả trong đời sống hàng ngày. Sống trong chánh niệm, từ từ ta
có thêm chất liệu của sự vững chãi, thảnh thơi và an lạc. Uy nghi là
dấu hiệu của sự có mặt của những chất liệu ấy. Có những chất liệu
này, uy nghi mới thực sự là uy nghi, nếu không thì đó chỉ là những
ngụy trang mà ta gọi là giả trang thiền tướng. Có ba mươi chín
chương uy nghi mà ta cần học hỏi và rèn luyện. Để thực tập các uy
nghi này, ta cũng cần học thuộc lòng những bài thi kệ trong phần I (Thi
Kệ Thực Tập Chánh Niệm) của sách.
-
Tôn Kính Thầy Và Các
Bậc Thầy Lớn
-
Không nên gọi thẳng
tên của Thầy. Nếu cần nói đến tên Thầy thì nói: pháp hiệu của Thầy
chữ trước là____và chữ sau là____. Không được nghe lén những buổi
thuyết giới của các vị khất sĩ. Không nên nói và kể về những khuyết
điểm của các Thầy. Đang khi ngồi mà Thầy đến thì đứng dậy, trừ những
lúc đang tụng kinh, cạo tóc, thọ trai, chấp tác hay bệnh. Địa vị của
những người thọ giới lớn sau năm năm là địa vị của giáo thọ (A Xà Lê),
sau mười năm là địa vị của thân giáo sư (hòa thượng), vị sa di nên
biết điều đó để tự lộ sự tôn kính, tôn kính như tôn kính thầy của
mình. Đối với người có hạ lạp cao, nên xưng hô thầy con thật lễ phép,
dù đó là người đồng sư với mình.
-
Không được cố ý lén
nghe những gì các thầy lớn nói trong những buổi họp của các vị.
Không được nhái giọng nói và điệu bộ của các vị. Thấy các vị đi
ngang, nên đứng sang một bên chắp tay để nhường bước. Đi ngang qua
các vị, nên cúi đầu và chắp tay. Không nói những khuyết điểm của
Thầy với bất cứ ai. Có ai chê bai Thầy thì tìm cách giải tựa những
hiểu lầm của họ về thầy. Nếu không đủ sức thì nên nói: Người mà quý
vị đang nói xấu là thầy tôi (hoặc ngang hàng thầy tôi). Tôi không
muốn nghe nói xấu thầy tôi. Rồi tìm cách xin lỗi và bỏ đi nơi khác.
-
Lỡ có khi đang ở một
nơi mà có các thầy lớn tiếng với nhau thì tìm cách im lặng rút lui
khỏi nơi ấy. Khi các vị lớn hạ lạp hơn mình bị thầy quở trách thì
cũng tìm cách im lặng rút lui.
-
Nếu bắt buộc phải sống
xa thầy, hoặc thầy sắp tịch, thì phải lập tức thỉnh ý thầy là nên
nương tựa vào thầy nào và cư trú ở đâu.
-
Hầu Thầy
-
Làm thị giả cho thầy
là một cơ hội quý báu để được gần gũi và học hỏi trực tiếp với thầy.
Trong thời gian làm thị giả, thầy trò có cơ hội để hiểu nhau hơn và
do đó thầy có thể ban cho ta những giáo huấn thích hợp với căn cơ ta.
Học với thầy không phải chỉ là học những điều thầy giảng dạy và căn
dặn; học với thầy còn là học cách thầy đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng,
tiếp xử và động. Vì vậy phải biết đem hết tâm ý mà học hỏi trong
thời gian được làm thị giả.
-
Nếu thầy có răn dạy
điều gì phải chắp tay lắng nghe cung kính và tạ ơn thầy, đừng nên
tìm cách nói lời minh oan và chống trả. Trước khi vào phòng thầy,
phải thở và gõ cửa ba tiếng khoan thai. Đem đổ ống nhổ và chậu nước
tiểu, nên giữ nụ cười tươi, đừng tự vẻ khó chịu. Lễ lạy thầy, phải
xin phép trước; không nên lễ lạy khi thầy đang ngồi thiền, đi kinh
hành, thọ trai, nói pháp thoại, chải răng, tắm rửa, nghỉ ngơi...
Dâng thực phẩm lên thầy, phải nâng bằng hai tay. Thầy thọ trai xong,
nên thu dọn từ tốn. Hầu thầy không nên đứng đối diện, ngồi chỗ cao
hay đứng quá xa. Đứng hay ngồi nơi nào mà dù thầy nói nhỏ mình cũng
vẫn nghe được, để thầy khỏi phí sức. Khi thầy bệnh, nên hết lòng
chăm sóc, chuẩn bị thuốc men, túi nước nóng, bình nước nóng, lò sưởi
và chỗ nằm của thầy cho chu đáo. Làm thế nào để khi thầy cần đến
mình là mình có thể có mặt. Dù không phải là thị giả mà nếu thấy
thầy cần gì mình cũng nên tìm cách giúp thầy. Nếu thị giả đang bận
lo việc khác cho thầy thì mình nên thay thế thị giả làm việc ấy. Nếu
không có thì giờ thì phải đi tìm một vị khác.
-
Đừng để khách khứa đi
vào khi thầy cần nghỉ ngơi. Nếu nhận thấy thầy mệt và cần nghỉ ngơi
thì tìm cách khéo léo để những người khách ấy chấm dứt cuộc hội kiến
sớm.
-
Được thầy cho ăn cơm
chung với thầy thì đợi thầy cầm đũa ăn rồi mình mới cầm đũa. Ăn cơm
như thế nào để khi thầy ăn xong thì mình cũng ăn xong, như thế để có
thể dọn dẹp và đem trà cho thầy. Dừng nhai để lắng nghe mỗi khi thầy
có dạy bảo điều gì:
-
- Thầy lớn tuổi, nên
học cách bấm huyệt và xoa bóp cho thầy
-
- Thầy mặc áo, hay
đắp y, nên giúp sửa y áo thầy cho thẳng thắn.
-
- Làm bất cứ điều gì
mình có thể làm mà đừng đợi thầy sai bảo.
-
- Mỗi ngày, đổ thùng
rác trong phòng thầy và trong buồng tắm thầy dù là thùng không đầy.
-
- Mỗi khi đi ngang
nơi thầy ngồi, dù nơi ấy không có mặt thầy, đều nên cúi đầu. Trước
khi vào phòng thầy, dù thầy vắng mặt, cũng nên gõ cửa và xá. Vào
xong, đóng cửa rồi cũng nên chắp tay xá chỗ thầy ngồi.
-
Khi thưa hỏi, phải
chắp tay lại một cách cung kính. Không hiểu điều gì thì sau đó chắp
tay để xin thầy lặp lại. Thầy bảo lui thì lui, không nên nấn ná.
Thầy nói chưa hết câu không nên mở lời. Không nên ngồi vào chỗ thầy
ngồi, nằm vào chỗ thầy nằm hoặc sử dụng áo nón của thầy. Thư từ của
thầy gửi đi hay nhận tới không nên xem lén, cũng không đưa người
khác xem. Đi công việc cho thầy, không nên ghé đâu cả, việc xong thì
trở về ngay, đừng để thầy trông. Nếu có việc bất thường xẩy ra, phải
nhắn hoặc gọi điện thoại về. Thầy tiếp khách, nên để ý xem thầy có
cần gì không. Khi thầy khai thị cho khách về đạo pháp, nên lắng nghe
để được học hỏi. Thầy có hỏi thăm về tăng thân, phải thực lòng thưa
cho thầy biết về những gì mình đã trực tiếp thấy và nghe. Đừng sợ
mang tiếng nói xấu ai, nếu mình thực sự vì cung kính và vì tình
thương mà nói. Thầy hỏi về tình trạng học hỏi và tu tập của mình,
đừng cố ý che dấu. Phải nói hết những khó khăn và những thành công
của mình cho thầy nghe và cầu thầy soi sáng. Những thư từ có liên hệ
tới đời sống lý tưởng và tình cảm của mình thì nên trình lên và chia
xẻ với thầy trước khi gửi đi hoặc sau khi nhận. Nếu thấy mình đã vì
thất niệm hoặc dại dột mà phạm vào những lỗi lầm thì phải đến phát
lộ với thầy, cầu xin sám hối và hứa với thầy sẽ không lặp lại những
lỗi lầm ấy trong tương lai.
-
Đi Theo Thầy
-
Trước khi đi phải
chuẩn bị tất cả những gì thầy có thể cần đến trong chuyến đi, như y,
áo, thuốc men, túi nước nóng, tọa cụ, tài liệu, kinh sách, pháp khí...
Đừng để thầy khiêng nặng. Nếu thầy muốn tự xá chuyển hóa một cái túi
thì phải vâng lời thầy. Nên đi phía sau thầy một chút, bước rất
thảnh thơi, có chánh niệm, không nhìn ngang ngửa. Đi theo sau thầy,
không dụng lại và không nói chuyện với người khác. Lái xe cho thầy
phải để ý xem thầy có bị nắng chiếu vào mặt hay bị gió thổi vào
người không. Đến nơi, trong khi thầy ngồi, nên đứng hầu sau lưng
thầy, thầy bảo ngồi xuống mới ngồi. Đến tự viện khác, khi thầy lạy
Bụt và lạy tổ, hoặc khi mình lạy, đừng tự ý sử dụng chuông khánh.
Khi vượt suối khe, phải cầm giây dò thử chiều sâu. Phải đi sát thầy
để giúp thầy vượt qua những nơi khó bước. Nếu có hẹn với thầy ở một
nơi nào thì phải cố gắng có mặt ở nơi ấy trước khi thầy đến. Nếu
cùng với các vị sa di khác đi theo thầy, thì anh em phải điều hợp
với nhau để tạo thành một tăng thân có hòa hợp, có thương yêu và
hạnh phúc, làm đối tượng tin cậy cho những ai được tiếp xúc với thầy
và với mình.
-
Tiếp Nhận Lời Dạy
Của Thầy
-
Khi thầy dạy nên lắng
lòng nghe mà đừng vội đem tâm phê phán và kết luận đúng sai, dù có
những điều thầy nói không phù hợp với nhận thức mình. Nếu nghe với
thái độ phê phán và phản ứng ngay trong giờ phút nghe thì có thể ta
không hiểu và không tiếp nhận được ý thầy. Phải học nghe với tâm
không thành kiến. Sau vài ba hôm chiêm nghiệm, có thể ta sẽ hiểu
được ý thầy và thấy được những điều thầy nói là quan trọng và đã
phát xuất từ kinh nghiệm và tuệ giác của thầy. Nếu có những điều gì
thưa trình lại để giúp cho thầy có đủ dữ kiện phán xét thì hãy đợi
vài ba hôm sau và tìm cách xin gặp mặt thầy. Trong khi thưa trình,
phải giữ thái độ khiêm cung, tĩnh lặng và sử dụng ngôn ngữ hòa kính.
Nếu đang có cảm xúc thì không nên mở lời. Phải đợi cho cảm xúc lắng
xuống mới nên nói. Đối với các vị có giới phẩm và hạ lạp cao hơn,
nên tiếp xử như thế đã đành, mà đối với các vị tuổi tu và kinh
nghiệm ít ỏi hơn mình, cũng nên học xử sự như thế để hai bên đều có
lợi lạc. Bình tĩnh lắng nghe không thành kiến là một phép thực tập
rất quan trọng. Thầy và các bậc trưởng thượng khác không đòi hỏi
mình vâng lời không điều kiện, vì vậy mình vẫn có cơ hội để thưa
trình, tham vấn và đóng góp ý kiến. Những gì thầy dạy mà mình chưa
hiểu rõ thì phải hỏi lại cho đến khi biết chắc rằng mình đã hiểu rõ,
mới chắp tay bái lĩnh và lui ra.
-
Ngồi Uống Trà Với
Thầy
-
Ngồi uống trà với thầy
có thể là một trong những giây phút hạnh phúc nhất của người xuất
gia. Nên trân quý những giờ phút này. Có dịp nên tìm cách trình lên
thầy những tiến bộ và những hạnh phúc của mình trong quá trình tu
học. Nên trình lên thầy những thành quả tu học của các anh em đồng
tu, điều này sẽ làm cho thầy vui và có tác dụng nuôi dưỡng thầy. Nếu
hoàn cảnh cho phép, nên xin thầy cho các anh em đồng tu khác cùng
được ngồi tham dự. Tránh nói về những khó khăn trong chúng, hãy đợi
những dịp khác để thưa trình và để thỉnh ý thầy. Nên chắp tay lại
mỗi khi có điều gì muốn thưa trình, và trước khi nhận chén trà hoặc
cái bánh.
-
Sinh Hoạt Với Chúng
-
Nghe chuông tập chúng,
nên khởi sự đến nơi hẹn ngay, không được chần chừ. Sử dụng phép
thiền hành trong khi đi. Không nên dành chỗ ngồi. Ngồi xuống rồi,
nên nhiếp tâm theo dõi hơi thở, giữ thân cho ngay thẳng. Không được
nói cười lớn tiếng. Nên thường nói ra những điểm tốt đẹp mà đừng nói
đến những điểm tiêu cực của cá nhân. Phải tôn trọng thời khóa. Phải
tham dự vào tất cả những sinh hoạt của tăng thân (đại chúng) trừ
những lúc có bệnh hoặc được giao phó một công tác đặc biệt phải làm
cho xong trước thời hạn. Không nên khạc nhổ, hỉ mũi và nôn oẹ lớn
tiếng, bất cứ nơi nào. Phải sử dụng khăn túi và phải hướng vào góc
tường nếu cần làm những việc ấy. Khi đánh răng, không nên đi qua đi
lại và nói chuyện. Đứng yên một chỗ, thực tập chánh niệm theo bài kệ
đánh răng và an trú thảnh thơi trong việc đánh răng. Làm việc gì
cũng làm theo tinh thần ấy. Uống nước nên nâng bằng cả hai tay,
không nên vừa uống vừa xá chào người. Được mời nước bánh hay trao
cho vật gì, trước phải chắp tay xá rồi mới nhận.
-
Không nên cười to làm
động chúng. Muốn ngáp phải đưa tay che miệng. Không nên chạy hay đi
gấp gáp. Luôn luôn đi theo lối thiền hành, tự lộ sự vững chãi và
thảnh thơi, dù khoảng cách chỉ là vài ba thước. Nếu làm trách vụ
hương đăng, dâng hoa cúng Bụt chỉ nên dâng hoa thật tươi đã nở tròn
hoặc còn hàm tiếu. Đừng cắt bông búp. Hoa héo thay ra phải để vào
nơi đã được quy định, không nên vứt bỏ bậy bạ. Chân nhang cũng thế.
Chỉ để lại một cây chân nhang ngay giữa bát nhang. Cắm nhang nên cầm
cây nhang bằng hai tay, hoặc nếu cầm một tay thì bàn tay kia phải
đặt trên cánh tay của bàn tay này. Ý nghĩa là đặt hết toàn diện thân,
khẩu và ý vào động tác cắm nhang. Mở cửa thiền đường và chánh điện
cũng phải như thế. Cầm chổi quét thiền đường hay Phật đường không
nên hất chổi để bụi bay lên. Cuối mỗi lát chổi, giữ chổi cao hơn mặt
đất một chút và rảy nhẹ cho bụi rơi xuống. Nghe gọi tên mình, phải
niệm Bụt đáp lại, hoặc nói: có tôi đây. Thay tiếng tôi bằng pháp
danh mình. Nhặt được của rơi, nên đem đến cho vị tri sự.
-
Dùng điện nước phải
hết sức tiết kiệm. Đừng bao giờ rời phòng xá trước khi tắt đèn và lò
sưởi. Không nên lấy vật thường trú làm của riêng. Không nên ngồi
không trong khi đại chúng làm việc. Hãy nhận lãnh công việc tùy theo
sức lực và tài năng mình. Nhận một trách nhiệm đại chúng giao phó,
như tri xa, tri viên, tri khố... đừng cho đó là một quyền hành mà
chỉ là một cơ hội để phụng sự tăng thân.
-
Trong các buổi họp
chúng, luôn luôn giữ thái độ khiêm cung, phát biểu ý kiến một cách
từ hòa, nhã nhặn. Tránh tạo ra thế tam giác, nghĩa là đừng theo phe
một người để chống lại một người khác. Phải tìm mọi cách để đưa hai
người lại với nhau. Không nên tụ năm họp ba nói những chuyện không
có ích lợi hoặc nhắc tới những chuyện thị phi của người cư sĩ. Tránh
dùng chữ tôi, nên tự xưng bằng pháp danh mình. Phải giữ bình tĩnh
khi gặp chuyện không vừa ý.
-
Phải học nhìn những
người xuất gia đệ tử của thầy mình là sư anh, sư chị và sư em của
mình, và phải thiết lập liên hệ anh em một cách chân thành với những
vị ấy. Dù người sư anh hay sư chị của mình có thể còn có những yếu
kém, người ấy vẫn đích thực là sư anh hay sư chị của mình. Không
được tự bảo: người ấy có hơn gì tôi đâu mà làm sư anh hay sư chị của
tôi. Nếu mình có may mắn thành công hơn các vị ấy trên đường tu học
thì phải tìm cách giúp đỡ các vị ấy một cách khiêm cung và khéo léo.
Mình có quyền chơi thân với một người bạn tu, nhưng phải biết căn cứ
trên liên hệ ấy để phát triển sự thân tình rộng ra với các vị khác,
bắt đầu từ các vị dễ dãi rồi tiến dần đến các vị khó tính hơn, cho
đến khi mình có thể sống hài hòa với tất cả mọi người trong đại
chúng. Đây là công trình xây dựng tăng thân rất cần thiết cho hạnh
phúc và sự thành đạt của một đời tu. Chơi thân với một người bạn
đồng tu không có nghĩa là vướng mắc vào nhau và đi tới luyến ái
không lành mạnh, dù đó là trường hợp nam với nam, nữ với nữ. Tình
thương đi chuyển hóa thực trong đạo Bụt được làm bằng chất liệu Từ,
Bi, Hỷ và Xả. Xả có nghĩa là bình đẳng và không vướng mắc, không kỳ
thị.
-
Ăn Cơm
-
Nghe chuông báo giờ
thọ thực, hãy buông bỏ mọi việc để mang bát đến thực đường, sắp hàng
lấy thức ăn. Đừng lấy cớ là hàng sắp còn dài, mình có thể đến sau.
Sự có mặt của mình ngay từ đầu trong đại chúng sẽ mang lại năng
lượng cần thiết cho mỗi người trong đại chúng. Theo dõi hơi thở, mỉm
cười và tiếp xúc với tăng thân bằng chánh niệm, không nên nói chuyện,
dù là thì thầm. Thực tập chánh niệm khi để thức ăn vào bát, cũng
không khác gì khi khất thực. Chỉ nên lấy thức ăn vừa đủ, hoặc ít hơn
một chút. Từ nơi lấy thức ăn, ôm bát đi đến chỗ ngồi của mình, thực
tập đi thiền hành cho vững chãi và thảnh thơi. Ngồi xuống trên chỗ
ngồi của mình, đặt bát ngay ngắn phía trước mặt, ngồi giữ lưng thẳng
và lập tức thực tập phép quán niệm hơi thở, đừng để mất thì giờ tu
tập trong khi chờ đợi những người khác. Trước khi ăn nên thực tập
năm quán tưởng. Trong khi ăn không nói chuyện, không suy nghĩ việc
quá khứ, tương lai, chỉ nhiếp tâm tiếp xúc sâu sắc với thức ăn và
với tăng thân quanh mình. Ngồi ăn như thế nào để có thể nuôi dưỡng
sự hân hoan và hạnh phúc trong suốt bữa ăn, như đang được với Bụt và
tăng đoàn nguyên thỉ ngồi ở tịnh xá Kỳ Hoàn cùng thọ trai. Trân quý
mỗi hạt cơm, mỗi lát thức ăn, không để động tâm về chuyện ngon dở.
Nhai thật kỹ thức ăn, từ ba mươi tới năm mươi lần. Không nên chép
miệng và nhai nhóp nhép thành tiếng. Ngậm miệng lại mà nhai. Đừng ăn
miếng quá lớn. Tránh khua bát đũa. Không được đứng dậy giữa bữa ăn.
Ăn xong chưa nên đặt bát xuống nếu những người lớn tuổi tu hơn mình
chưa ăn xong. Không nên ăn xong đứng dậy trước. Không được ngồi ăn
riêng một mình xa tăng thân, và ngoài những bữa ăn của đại chúng,
trừ trường hợp ốm đau. Buổi chiều nên ăn thức ăn nhẹ và ăn ít.
-
Lễ Lạy
-
Không nên đứng ở
khoảng giữa trước bàn thờ mà lễ lạy, vì đó là chỗ của vị thủ tọa.
Khi có người đang lạy, không nên đi ngang qua trước mặt người ấy.
Chắp tay phải ngay ngắn, các ngón tay không so le. Nếu quán tưởng
hai bàn tay là búp sen, thì có thể có chỗ trống giữa lòng hai bàn
tay. Không nên đụng các ngón tay vào cằm hoặc vào lỗ mũi. Thở nhẹ và
sâu ba hơi rồi quán tưởng trước khi lạy. Khi lạy, đưa búp sen hai
tay lên ngang trán, rồi hạ xuống ngang ngực trước khi xòe hai tay
sang hai bên để lạy xuống. Đưa tay lên ngang trán và đi ngang qua
bình diện trái tim ngụ ý đem cả tim và óc mình mà lễ lạy. Khi lạy
xuống, năm vóc phải thực sự sát đất. Trong tư thế năm vóc sát đất,
ngửa hai bàn tay ra hai bên đầu, tự ý trình bày hết con người thật
của mình lên Bụt, không dám dấu diếm một điều gì. Lạy xuống, phải
buông bỏ hoàn toàn cái ý niệm về ngã của mình. Mình không là gì cả,
mình không có gì cả, tất cả cơ thể, sức khỏe, tài năng, thông minh,
kiến thức của mình đều là những gì của tổ tiên tâm linh và huyết
thống trao truyền lại. Lạy như thế nào mà hòa nhập được vào dòng
sống của tổ tiên và các thế hệ hậu lai, để không thấy mình còn một
cái ta riêng rẻ và khổ đau. Trong tư thế năm vóc sát đất, nên thở
thật thoải mái ba lần, để cảm thấy thảnh thơi, nhẹ nhàng và không lo
lắng gì trong giờ phút ấy. Đây là một hình thức thực tập quay về
nương tựa nơi dòng sống bất diệt của tổ tiên.
-
Nếu Phật đường đông
người quá thì có thể chọn những lúc vắng người để lễ lạy. Nên thực
tập năm cái lạy hoặc ba cái lạy mỗi ngày, vì lạy như thế giúp ta
chuyển hóa khổ đau và trị liệu tâm lý cô đơn và mặc cảm.
-
Nghe Pháp Thoại
-
Nghe pháp thoại là một
phép thực tập quan trọng. Nghe chuông báo giờ pháp thoại phải đến
pháp đường ngay, đừng bao giờ vào pháp đường sau vị pháp sư. Ngồi
thẳng và thoải mái cũng như trong giờ thiền tọa. Đừng viết giấy
chuyền tay cho người khác, trừ khi đó là việc cấp tốc có liên hệ tới
sự an vui của đại chúng. Tránh việc nửa chừng pháp thoại bỏ ra ngoài
để đi tiểu; nên đi nhà vệ sinh trước khi vào pháp đường. Không được
nói chuyện với người ngồi bên cạnh. Nghe pháp thoại không nên chỉ
nghe với trí năng mà phải biết sử dụng tâm không so sánh để nghe.
Nghe pháp thoại không phải là để chứa chất thêm kiến thức về Phật
pháp mà là để có cơ hội cho những lời thầy nói đi thẳng vào chiều
sâu của tâm thức, đánh động được những hạt giống trí tuệ và từ bi
chôn vùi trong chiều sâu ấy; cũng như mưa xuân thấm được vào lòng
đất và làm cho các hạt giống có dịp nẩy mầm. Nếu nghe pháp thoại mà
chỉ dùng trí năng so sánh những điều đang nghe với những điều đã học
thì mưa pháp không thấm sâu được vào đất tâm. Nên học nghe với tâm
không so sánh và với tâm không thành kiến. Có những người giác ngộ
trong khi nghe pháp, đó là nhờ họ đã nghe với phương pháp ấy. Nếu đã
có máy thu thanh đang ghi mà ta còn cố gắng ghi chép, thì ta có thể
đánh mất ít nhiều định lực của ta và mất cơ hội tiếp nhận trực tiếp
những lời khai thị quan trọng khác của vị pháp sư. Nếu cần ghi chép
thì chỉ nên ghi chép rất ít, vài từ ngữ và vài ý tứ quan trọng mà
thôi.
-
Học Kinh Và Đọc Sách
-
Ngoài những kinh được
học chung với chúng, nếu muốn học thêm kinh nào cũng nên hỏi ý kiến
của thầy. Vấn đề không phải là học cho thật nhiều kinh mà là được
học những kinh căn bản có liên hệ trực tiếp đến sự thực tập giới
Định Tuệ trong đời sống hàng ngày. Các kinh căn bản như Kinh Quán
Niệm Hơi Thở, Kinh Niệm Xứ, Kinh Người Bỏ Sống Một Mình, Kinh Người
Bắt Rắn... cần được học cho thật thấu đáo làm căn bản cho sự tu học.
Những kinh lớn như Kim Cương, Bát Nhã, Bảo Tích, Hoa Nghiêm, Pháp
Hoa, Duy Ma, Viên Giác... đều có liên hệ mật thiết đến các kinh căn
bản ấy. Khi học kinh nên luôn luôn tự hỏi: những tư tưởng siêu việt
trong các kinh này có liên hệ gì đến sự thực tập trong đời sống hàng
ngày làm sao áp dụng được giáo lý các kinh này vào đời sống hàng
ngày để chuyển hóa khổ đau và đạt tới giải thoát? Học kinh không
phải chỉ để thưởng thức tư tưởng uyên áo của kinh và để diễn bày lại
những tư tưởng ấy cho kẻ khác nghe mà là để soi sáng cho sự thực tập
của mình. Về các bộ luận cũng như về các trước tác hiện đại của đạo
Bụt, nên tham vấn ý kiến của thầy trước khi đọc. Đừng nên chứa chất
quá nhiều sách, đừng làm con mọt sách.
-
Phải có thái độ cung
kính đối với kinh điển và băng giảng. Cầm kinh luôn luôn phải cầm
hai tay. Chỉ đặt kinh nơi chỗ sạch sẽ và tôn nghiêm. Nếu có bụi bám
trên kinh, không nên dùng miệng thổi, mà phải dùng khăn sạch để phủi
bụi. Trên bàn kinh không nên để vật tạp. Khi bìa kinh hư hỏng nên tu
bổ liền, đừng để hư hoại thêm. Nghe pháp thoại từ băng giảng không
được nằm hoặc ngồi không chỉnh đốn. Phải ngồi nghiêm trang trong tư
thế nghe pháp với tất cả sự cung kính. Không được vừa làm việc vừa
nghe pháp thoại từ băng giảng.
-
Đọc sách không được
đọc tiểu thuyết, truyện kiếm hiệp, truyện trinh thám, truyện hãi
hùng, truyện tình và sách báo khiêu dâm. Nên tham vấn thầy và các
thiện tri thức về những sách có thể đọc. Nếu có thì giờ ngoài việc
học hỏi kinh luận, chỉ nên đọc những sách về lợi chuyển hóa sử các
nền văn minh trên thế giới, về đại cương lợi chuyển hóa sử và giáo
lý các tôn giáo, về đại cương tâm lý học áp dụng và về đại cương
những khám phá hiện đại nhất trong lãnh vực khoa học. Những sách này
có thể giúp ta so sánh và quán chiếu về những điều ta học trong kinh
điển và giúp ta sau này trong sự diễn bày giáo lý cho đời một cách
khế cơ hơn.
-
Vào Chùa, Tháp
-
Vào chùa nên đi vào
cửa trái hoặc phải, tránh đi vào cửa giữa. Theo dõi hơi thở, bước đi
chánh niệm, không nói chuyện. Guốc dép cần được xếp thật ngay ngắn
trước khi vào chánh điện. Trong chánh điện hay trong tháp miếu, nên
đi vòng từ trái sang phải. Tránh việc hỉ mũi, ho, ợ và nhổ nước bọt,
dù là trong khăn, trong thời gian ở chánh điện hoặc ở trong tháp.
Chiêm ngưỡng tôn tượng và tham khảo câu đối hoặc văn bia một cách im
lặng. Không nên đối thoại ồn ào hoặc khoe khoang kiến thức của mình
về lợi chuyển hóa sử tự viện, tôn tượng, tổ sư và pháp khí.
-
Vào Thiền Đường
-
Nên để nón, khăn quàng
cổ, áo khoác ngoài và dày giép ở chỗ đã được quy định. bước vào
thiền đường, chắp tay hướng về bàn thờ Bụt và Tổ để xá, rồi mới
thong thả bước từng bước chánh niệm tới chỗ ngồi của mình. Đến chỗ
ngồi, nên đứng ngay thẳng trước tọa cụ, chắp tay xá trước khi ngồi
xuống. Ngồi xuống rồi, lập tức khởi sự điều chỉnh thế ngồi và hơi
thở, đừng đợi người khác, cũng đừng đợi tiếng chuông. Hết sức tránh
sự đến trễ sau tiếng chuông khởi đầu buổi thiền tọa.
-
Ngồi lưng thật thẳng,
nhưng buông thư tất cả các bắp thịt, từ các bắp thịt trên mặt xuống
đến các bắp thịt trên vai, lưng, cánh tay, bụng và chân. Ngồi cho
vững trong tư thế hoa sen hay nửa hoa sen, thật thoải mái, thật
buông thư. Mắt có thể mở hé nhìn xuống chừng một thước phía trước
mặt, đầu và sống lưng làm thành một đường thẳng. Thực tập những bài
có công hiệu nuôi dưỡng an lạc thân tâm trước khi đi vào những đề
tài quán chiếu đã định trước. Nếu có đau nhức thì cũng có quyền thay
chân, miễn là động tác được đặt trong chánh niệm và đừng tạo ra
tiếng động có thể làm động tâm người ngồi bên cạnh. Tuyệt đối tuân
theo hiệu lệnh của chuông khánh.
-
Nếu đến phiên mình làm
duy na, duyệt chúng hay hướng dẫn thiền tọa, phải tới sớm để chuẩn
bợi. Làm thiền hướng dẫn, phải xướng các công thức thiền tập một
cách rõ ràng rành mạch, và đừng để cho tiếng chuông nhỏ quá hoặc
chát quá. Nên nhớ hạnh phúc và sự thành công của buổi thiền tập tùy
thuộc rất nhiều ở người hướng dẫn thiền tập.
-
Xả thiền không nên thô
tháo. Trước tiên, diêu động thân hình về phía trái rồi sang phía
phải. Từ từ tháo chân ra và xoa bóp nhẹ nhàng cho máu huyết lưu
thông. Đừng bẻ đốt xương ngón tay kêu răng rắc. Nhòe đưa hai bàn tay
ấp lên hai mắt cho có sức ấm. Đừng xát hai tay lại thành tiếng. Dùng
tay này xoa bóp tay kia trước khi dùng cả hai tay xoa bóp các bắp
thịt trên mặt, vai và bắp chân. Luôn luôn thực tập hơi thở ý thức
trong khi làm các việc này. Muốn sửa bồ đoàn và tọa cụ lại cho ngay
ngắn thì cúi xuống dùng tay, đừng bao giờ dùng chân.
-
Tụng kinh, nên để tâm
ý vào lời kinh, đừng nên chỉ chú trọng vào kỹ thuật tán tụng và âm
điệu. Niệm Bụt đừng niệm suông bằng miệng, phải tiếp xúc với nội
dung đại từ, đại bi, đại trí và đại nguyện của Bụt. Nên biết sử dụng
mười danh hiệu Bụt để làm sống dậy trong tâm những chất liệu ấy của
Bụt. Khi thực tập kinh hành, chú tâm tới sự xúc chạm giữa bàn chân
và sàn chánh điện, đi an lạc thảnh thơi như bước trên Tịnh Độ không
khác. Mỗi bước chân phải đem lại thêm chất liệu chánh niệm, vững
chãi và thảnh thơi vào cơ thể và vào tâm thức.
-
Làm Việc Với Tăng
Thân
-
Nên vâng theo ý của vị
tri sự. Nhận việc xong phải làm với tất cả tâm ý và khả năng mình.
Phải thực tập chánh niệm trong khi chấp tác. Làm việc chung với tăng
thân cũng là một cơ hội để hòa mình trong tăng thân, học hỏi với
tăng thân và tạo thêm những mối thiện cảm giữa mình với những thành
phần khác của tăng thân. Nên biết bảo quản dụng cụ làm việc, dụng cụ
từ đâu thì sẽ trả về ở đó, không nên vứt bỏ ở nơi chấp tác. Nên xem
công việc là một cơ hội để tu tạo phước đức và phụng sự tăng bảo,
nhờ đó mà ta chấp tác với một niềm vui. Nên phối hợp công tác với
những vị khác, đừng lui cui làm việc một mình trong một xó. Nên duy
trì sự thảnh thơi và an lạc trong khi làm việc, đừng hấp tấp muốn
làm cho mau xong. Mỗi người có kinh nghiệm và cách thức làm việc
riêng, đừng ép người khác phải làm theo giống hệt cách mình làm, tuy
nhiên có thể chia xẻ với nhau cách thức làm việc để cùng được học
hỏi từ kinh nghiệm của nhau. Đừng đánh giá người khác qua công việc.
Phẩm chất tu học của người tu phải được xem quan trọng hơn là số
lượng công tác người ấy có thể làm. Đóng góp quan trọng nhất cho
tăng thân là uy nghi, đức độ, an lạc và sự chuyển hóa của mình. Dù
được thầy hoặc tăng thân giao cho một công tác đặc biệt, cũng đừng
nên cho công việc mình quan trọng hơn công việc của người khác. Nên
biết tất cả các loại công việc được làm để phục vụ tăng thân đều
quan trọng như nhau. Nên nhớ rằng nhờ những thành phần khác của tăng
thân đang phụ trách những công việc khác cho nên mình mới có thể làm
thành tựu được công tác mình đang làm, và như vậy công tác đặc biệt
của mình cũng đang do tăng thân thành tựu. Mỗi khi một công tác đặc
biệt được giao phó, không được lấy cớ vì công tác đó mà bỏ những giờ
sinh hoạt với đại chúng. Nếu công tác có tính cách cấp bách, phải
thưa trình với đại chúng để xin một hoặc hai ngày được vắng mặt
trong những sinh hoạt khác để có thể hoàn tất cho kịp thời. Thời
gian này không được kéo dài quá ba hôm. Nếu công tác không có tính
cách cấp bá chuyển hóa thì nên xin chỉ được làm mỗi ngày một hai giờ
để mình còn có thể tham dự những sinh hoạt khác với tăng thân như
thiền tọa, thiền hành, thọ trai, pháp đàm, pháp thoại... Nếu được
giao công tác nhiều hơn sức mình có thể cáng đáng thì phải biết thưa
trình lại để công tác ấy cũng được phân phối cho một người thứ hai,
người mà mình đề nghị. Nên biết sử dụng việc chấp tác như những
phương tiện tu tập. Đừng say mê công việc đến mức tự đánh mất mình
trong công việc. Đừng tìm sự trú ẩn và quên lãng trong công việc.
Đừng vì công việc mà đánh mất liên lạc tốt giữa mình và các thành
phần khác trong tăng thân.
-
Vào Nhà Tắm
-
Tắm rửa và giặt giũ
nên biết tiết kiệm nước và điện. Nên duy trì sự nhẹ nhàng và chánh
niệm trong khi tắm. Đừng vặn nước quá mạnh khiến nước gương sen văng
ra ngoài phòng tắm. Không nên nói cười trong khi tắm. Không nên tiểu
tiện trong nhà tắm. Tắm rửa là một cơ hội để quán chiếu hình hài
mình, để tiếp xúc được với tổ tiên và con cháu, để thấy mình là sự
tiếp nối của dòng sinh mạng và để ý thức được vai trò của mình trong
sự nuôi dưỡng thân tâm của tổ tiên và của con cháu mình nơi mình.
Không nên chiếm phòng tắm quá lâu, sợ người tới sau phải chờ đợi. Xà
phòng tắm và gội đầu phải được sử dụng vừa phải, sử dụng xong phải
để vào chỗ được quy định; nếu hết thì sau khi tắm phải đi lấy sẵn
cho người kế tiếp. Các chậu thau sau khi được sử dụng cũng cần được
rửa sạch và úp lại. Nên có bình hoa nhỏ trong nhà tắm để nhắc nhở
rằng phòng tắm cũng là nơi thực tập chánh niệm và thiền quán.
-
Vào Cầu Tiêu.
-
Muốn đi đại tiện hay
tiểu tiện thì nên đi ngay, đừng chần chờ, đừng đợi đến lúc bị thúc
bá chuyển hóa mới đi. Trước khi vào phải gõ cửa ba lần. Không nên
thúc dục người trong cầu ra nhanh. Trong thời gian ở cầu tiêu cũng
phải thực tập chánh niệm, và giờ phút ở đấy cũng quan trọng không
kém giờ phút ở pháp đường hay thiền đường. Phải có vững chãi, thảnh
thơi và an lạc trong nhà cầu. Không nên khạc, nhổ. Dùng cầu xong,
dội nước cẩn thận và đầy đủ. Giấy vệ sinh dùng xong bỏ vào thùng cẩn
thận, không được vứt bừa bãi, không được bỏ vào cầu, sợ làm nghẹt
cầu. Không nên nói chuyện và cười giỡn với người ở cầu bên. Không
nên rặn ra tiếng. Đại tiểu tiện xong phải rửa tay bằng xà phòng cho
sạch. Nếu giấy vệ sinh hết thì đi lấy cuộn mới lắp vào cho người đến
sau. Đến phiên mình lau chùi cầu tiêu, nên hết lòng lau chùi cho cầu
tiêu trở nên thơm tho. Nên cắm một bình hoa nhỏ trong cầu để nhắc
nhở rằng cầu tiêu cũng là nơi thực tập chánh niệm và thiền quán.
-
Giặt Áo và Phơi Áo
-
Giặt áo nên sử dụng
những cái chậu chỉ dùng để giặt áo, đừng bao giờ dùng những chậu
dùng để rửa thức ăn. Đừng đổ nước xà phòng vào những nơi có thể làm
ô nhiễm và ứ đọng. Dùng máy giặt, nên chọn những thứ bột giặt không
làm ô nhiễm sinh môi. Hãy biết tiết kiệm điện và nước. Đừng giặt
bằng máy nếu số lượng áo quần cần giặt quá ít. Chọn giờ điện rẻ, và
chọn giờ không làm náo động sự yên tĩnh cần có của đại chúng.
-
Phơi áo nhớ dùng kẹp
để áo khỏi bay. Phơi cho gọn và khéo. Không nên phơi áo quần nơi có
nhiều người đi ngang. Phơi quần nên kéo hai ống lại gần nhau. Không
nên phơi quần cao quá đầu người
-
Ngủ Nghỉ
-
Nằm nghiêng bên hông
phải mà ngủ, đó là thế nằm an lành nhất. Bụt thường nằm như thế.
Không được ngủ cùng giường với bạn đồng tu. Trong trường hợp đặc
biệt thiếu giường thì cũng có thể tạm ngủ chung, nhưng không nên
cùng đắp một chăn. Nếu bất đắc dĩ phải đắp chăn chung thì phải mặc
áo đầy đủ. Nên đi ngủ đúng giờ và dậy đúng giờ. Đừng thức khuya đọc
sách hoặc nghe băng. Đừng tìm cách dỗ giấc ngủ bằng cách đọc sách
hoặc nghe băng. Đừng chong đèn vì như thế làm cho người kia khó ngủ.
Mở đèn hoặc tắt đèn, nên hỏi ý hoặc báo tin cho người cùng phòng
biết. Nằm vào giường, có thể bắt đầu thực tập phép buông thư toàn
thân. Sau đó có thể thực tập các bài thi kệ như Vào, Ra, Sâu, Chậm
hay Quay về nương tựa hải đảo tự thân. Không nên suy tưởng về những
dự tính tương lai. Đừng cởi trần khi ngủ. Không nên thắp nến trên
bàn ngủ, sợ ngủ quên dễ gây ra hỏa hoạn. Nếu có ác mộng, đừng ngủ
lại ngay. Nên ngồi dậy, xoa bóp cho máu chảy đều hoặc bước ra ngoài
đi thiền hành năm hoặc mười phút trước khi nằm xuống ngủ lại. Nếu có
chất hữu cơ tiết ra trong giấc ngủ, nên dậy sớm để tắm và thay quần
áo để kịp giờ đi công phu. Nhớ ăn chiều ít và nhẹ. Khi đã thức giấc,
rủ người bạn tu cùng thức dậy, cùng đi rửa mặt đánh răng và đi công
phu.
-
Đốt Lò Sưởi
-
Tránh sử dụng lò điện,
trừ khi hết củi hoặc hết khí đốt. Nên sử dụng nhiên liệu có chừng
mực, không nên để phòng quá nóng, tối đa là hai mươi độ. Đi ra khỏi
phòng nên hạ thấp độ sưởi, nếu cần vắng mặt nửa ngày trở lên thì nên
tắt lò. Chất củi cho gọn gàng sạch sẽ, đốt lò đừng để khói xông vào
phòng. Tránh dùng củi mục vì sẽ tàn hại nhiều loại côn trùng. Đừng
nên phơi bít tất, bao tay, khăn và áo quần trên lò sưởi.
-
Ở Trong Phòng
-
Nên ở chung với ít
nhất là một bạn đồng tu. Thường hỏi thăm nhau bằng ngôn ngữ từ ái.
Nên cùng nhau chịu trách nhiệm về sự ngăn nắp và sạch sẽ của căn
phòng. Được ở chung phòng với một vị đã có kinh nghiệm tu học lâu
hơn mình là một sự may mắn lớn, vì mình có thể học hỏi thêm rất
nhiều từ người ấy, nhất là về uy nghi và cách tiếp xử với các bạn
đồng tu. Tuy nhiên trong thời hạn sáu tháng nên xin ở với một vị
khác. Điều này là để tránh sự thân thiết quá đáng hay là sự vướng
mắc với một người và làm mình xa cách với những người khác trong
tăng thân. Nếu ở với một người mà kinh nghiệm tu học còn ít, nên làm
sao để người ấy có thể học hỏi được từ mình về chánh niệm, uy nghi
và cách tiếp xử. Nếu thấy người kia thiếu uy nghi thì tìm cách nhắc
nhở một cách khéo léo và đầy khiêm cung. Nếu người ấy có tập khí
nặng, chưa có khả năng tiếp nhận sự soi sáng và nhắc nhở của mình
thì đừng vội thất vọng, phải học kiên nhẫn thêm. Nếu được ai chỉ bảo
cho mình những chỗ sơ sót trong sự hành trì uy nghi thì nên chắp tay
tạ ơn, đừng tìm cách bào chữa loanh quanh hoặc so sánh phân bì với
những người khác.
-
Có việc vắng mặt hơi
lâu nên báo cho người bạn cùng phòng biết. Thay áo quần hoặc treo
phơi áo quần nên kín đáo và có ý tứ. Nên đi ngủ đúng vào giờ đã được
quy định. Nếu thật sự cần học hoặc làm việc thêm, nên đi tìm một nơi
khác như thư viện, và thắp đèn riêng.
-
Đi Đến Chùa Khác
Phái
-
Sa di nam đến ni viện
hoặc sa di nữ đến tăng viện, ít nhất là phải hai người cùng đi. Đi
bên nhau trong uy nghi, giữ gìn chánh niệm, không được nói cười tíu
tít. tất cả những trao đổi phải nằm trong phạm vi tu học và lý tưởng
xuất gia. Đừng ở lại lâu quá, xong việc phải trở về. Thư từ qua lại,
nếu cần, chỉ được nói về đề tài tu học và lý tưởng xuất gia, không
nên trao đổi thư từ về phương diện tình cảm. Tránh hiến tặng quà cáp
có tính cách riêng tư và kỷ niệm. Không nên than phiền túng thiếu để
được cúng dường. Lúc trở về viện, mình không nên nói những chuyện
thị phi về nơi mình đã thăm viếng.
-
Đến Nhà Đàn Việt
-
Luôn luôn cùng đi ít
nhất là hai người. Đến nơi chỉ ngồi vào đúng chỗ đã được chuẩn bị
cho mình. Nếu cần nói pháp, thì nói cho đúng thời, đúng căn cơ, và
đừng nói dài quá. Tránh sự phô bày kiến thức để cầu sự khâm phục của
người. Bài pháp phải có tính cách thực tiễn, giúp người đương sự
vượt thoát những khó khăn hiện thời của họ bằng phương pháp thực tập.
Chỉ nói pháp khi người nghe pháp ngồi nghiêm chỉnh và ăn mặc chỉnh
đốn. Không nên cười lớn, cười khúc khích với nhau. Ngồi thọ trai
phải giữ uy nghi, như ăn cơm trong đại chúng. Không nên đến nhà đàn
việt vào buổi tối, không nên tìm cách ở lại đêm. Không nên cùng
người khác phái ngồi riêng ở chỗ không có người thứ ba. Phải nhìn
thẳng phía trước, mắt không được láo liêng. Nói chuyện với người
khác phái, không nên nói nhỏ hoặc thầm thì. Không được ngồi vào một
bàn ăn có rượu và các thức ăn mặn. Không nên khen những vật dụng
trong nhà khiến người ta có thể nghĩ đến việc cúng dường những vật
ấy cho mình.
-
Về thăm gia đình cũng
nên mời một vài bạn đồng tu cùng đi. Vào nhà trước tiên là lạy Bụt
rồi lễ bàn thờ tổ tiên, sau đó mới thăm hỏi cha mẹ, anh em và bà
con. Không nên nói về những khó khăn gặp phải trong đời sống xuất
gia, sợ gia đình lo cho mình. Nên biểu lộ tính cách tươi mát, vững
chãi, thảnh thơi và an lạc của mình để gia đình cùng được lợi lạc và
tăng tiến niềm tin nơi nếp sống giải thoát. Nên nhớ người xuất gia
có bổn phận độ cho được gia đình mình. Trong thời gian thăm viếng,
giữ gìn đầy đủ phong động xuất gia, chánh niệm trong mọi câu nói,
động tác và cách hành xử. Ngồi trong tư thế hoa sen để trình bày cái
thấy của mình về tình trạng gia đình và đề nghị những pháp môn và
những giải pháp giải quyết các tình trạng ấy. Sắp đặt để cả gia đình
cùng được thực tập ăn cơm chánh niệm, thiền tọa, thiền hành, tụng
giới và pháp đàm với mình trong thời gian thăm viếng. Giữ công khóa
giống hệt như ở thiền viện. Về thăm gia đình, không nên hết xin cái
này đến xin cái khác. Được gia đình hiến tặng gì cũng nên đem về
chia đều cho tăng thân. Nên viết thư đều về gia đình để có thể chia
xẻ hạnh phúc và thành quả tu học của mình để gia đình có thêm đức
tin và hạnh phúc .
-
Vào Thành Phố
-
Nếu không có lý do
chánh đáng, không nên vào. Dù đi bộ, đi xe đạp, xe gắn máy hay xe
hơi, cũng phải có uy nghi và nhớ luôn luôn an trú trong chánh niệm.
Không nên đánh đồng xa trong khi đi. Không nên liếc nhìn hai bên
phải trái. Không nên cười giỡn. Không nên đi gần người say và người
điên. Gặp những đám đánh nhau, cãi nhau, múa võ hoặc trò chơi ảo
thuật, không nên dụng lại xem. Gặp một vị tôn túc, phải dụng lại,
chắp tay thăm hỏi. Gặp người xuất gia, dù là đạo khác, cũng làm như
thế. Đừng để bị những hào nhoáng bên ngoài của thành phố cám dỗ. Sự
có mặt chánh niệm của người xuất gia giữa đám đông phải là một bài
thuyết pháp không lời về nếp sống thảnh thơi, vững chãi của người có
giải thoát. Phải thấy được sự may mắn của mình được sống trong thiền
viện an tĩnh, tươi mát, có không khí trong lành và có tăng thân che
chở và yểm trợ. Xong việc, phải lập tức rời thành phố trở về tu viện.
-
Đi Chợ
-
Trước khi đi chợ phải
biết trước mình cần mua những gì và số lượng thực phẩm cần mua. Phải
mặc áo nhật bình chỉnh tề; không nên mặc áo ngắn vào chợ. Luôn luôn
hộ trì sáu căn. Cẩn thận về việc cất giữ tiền bạc. Không nên kỳ kèo
trả giá. Đừng bỉu môi chê bai phẩm chất hàng hóa và chê đắt. Có thể
nhẹ nhàng xin người bán tính một giá đặc biệt cho chùa. Nên nhẹ
nhàng trong khi chọn hàng, đừng làm đổ xuống và bầm dập hoa quả, hư
vỡ hàng hóa. Nên dành ưu tiên cho những hóa phẩm hữu cơ và dễ dàng
chuyển hóa trở lại. Tránh sử dụng chai, hộp và bọc làm bằng chất
ni-lông. Đã hứa mua cho người này rồi thì không được vì bên kia rẻ
hơn mà không mua. Không được mua chịu. Không nên vì quảng cáo hay mà
mua những phẩm vật không cần thiết. Không nên nói đùa với các cô bán
hàng. Nên dành ưu tiên cho những hàng rau trái trồng bằng phương
pháp tự nhiên, nghĩa là không sử dụng thuốc độc trừ sâu và phân bón
hóa học có thể làm ô nhiễm trái đất.
-
Làm Việc Trong Bếp
-
Phải xem bếp như một
đạo tràng. Đi đứng khoan thai, duy trì uy nghi và chánh niệm. Tuyệt
đối không nói chuyện trong khi làm việc. Nếu cần hỏi hay nói gì về
công việc với người anh em đồng tu, nên sử dụng những câu ngắn. Phải
làm việc với tình thương, nhớ rằng mình đang phụng sự cho tăng thân
của mình. Xay đậu, gọt khoai, nấu súp, xào bắp cải... tất cả các
việc như thế cần được làm khoan thai và nhẹ nhàng. Phải theo dõi hơi
thở và mỉm cười trong khi làm việc. Phải tính toán thì giờ cho rộng
rãi để có thể hoàn tất công việc một cách khoan thai, không phải hấp
tấp. Làm việc chung với người anh em đồng tu trong bếp cũng là một
dịp để hiểu nhau hơn và thương nhau hơn. Nên luôn luôn hội ý với
nhau để công việc được điều hợp tốt đẹp. Các dụng cụ làm bếp sau khi
sử dụng phải được lau chùi sạch sẽ và để lại chỗ cũ. Rửa rau nên rửa
ba nước, và chỉ sử dụng những chiếc chậu dùng để rửa rau. Đừng sử
dụng chén bát của đại chúng để đựng thức ăn của các con vật được
nuôi trong chùa. Không gãi đầu, ho và khạc nhổ trong nhà bếp. Luôn
luôn giữ hai tay cho sạch. Đi vệ sinh xong, phải rửa tay trước khi
tiếp tục công việc.
-
Nghe Và Nói Điện
Thoại
-
Nghe chuông điện thoại
nên phát khởi chánh niệm, thở ra và thở vào và mỉm cười có ý thức
như khi nghe chuông báo chúng hoặc gia trì. Trong khi thở, ngưng mọi
suy nghĩ và nói năng. Khi chuông điện thoại reo lần thứ ba, từ từ đi
tới máy nói với từng bước chánh niệm, trong khi vẫn duy trì hơi thở
và nụ cười. Nhấc ống nghe lên, lập tức xưng danh tu viện, nói lời
đón chào và hỏi xem mình giúp được gì không. Nếu cần năm phút để đi
gọi một người, thì xin người ở đầu giây gọi lại trong vòng mười lăm
phút. Duy trì chánh niệm trong khi nói điện thoại. Trả lời gọn gàng
và chỉ nói những điều cần thiết.
-
Sử dụng bài kệ điện
thoại trước khi bấm số gọi. Khi nghe chuông điện thoại reo bên đầu
giây kia, thực tập thở vào thở ra có chánh niệm theo bài kệ nghe
chuông. Sử dụng ngôn ngữ từ ái khi nói. Không được nói những chuyện
không cần thiết. Đứng hoặc ngồi nghiêm chỉnh trong khi nói. Nếu
người ở đầu giây kia nói những câu chuyện không cần thiết thì kiếm
cách xin lỗi trước khi gác ống nói.
-
Đối Trị Cơn Giận
- Người
xuất gia phải biết đối tròi cái giận của mình. Cái giận là ngọn lửa
có thể thiêu rụi tất cả mọi công trình xây dựng, là cái búa có thể
đạp cho vỡ tan tình thân hữu. Khi thấy cái giận bắt đầu phát khởi,
phải dụng lại tất cả mọi nói năng và hành động, để quay về với hơi
thở.
-
Nên sử dụng bài tập
“Thở vào tôi biết tôi đang giận, thở ra tôi biết việc quan trọng
nhất tôi cần làm bây giờ là điều phục cơn giận của tôi” hoặc bài kệ
“Cái giận làm tôi xấu, biết vậy tôi mỉm cười, quay về thủ hộ ý, từ
quán không buông lơi”, mỗi câu đi theo một hơi thở. Đừng tiếp tục
nghe và chú ý tới người mà mình cho là nguyên do của cơn giận mình.
Nếu có thể thì đi ra ngoài để thực tập thiền hành. Đi thiền hành một
hồi, tâm sẽ lắng lại. Lúc ấy mới quán chiếu để thấy rằng người làm
ta giận cũng có khổ đau và vụng về, giống hệt như ta vậy. Người ấy
cần được giúp đỡ chứ không cần được trách phạt. Thấy như thế thì
lòng ta sẽ dịu lại, và ta sẽ thấy tâm từ bi phát hiện. Lại quán
chiếu để thấy rằng hạt giống của sự giận hờn trong ta còn lớn quá,
và đó là nguyên do căn bản của nỗi khổ ta. Ta phải thực tập hàng
ngày để chuyển hóa gốc rễ của cái giận trong ta thì ta mới thật sự
có an lạc.
-
Ngọc kia chẳng giũa
chẳng mài
-
Cũng thành vô dụng,
cũng hoài ngọc đi
-
Con người tu có khác
gì
-
Sống cho tươi mát, sân
si hư đời
-
Hiểu thương chẳng
trách móc người
-
Hiện thân bồ tát giữa
nơi đạo tràng
-
Làm Mới
-
Sám hối tức là làm mới
trở lại, hoặc bắt đầu trở lại. Ngoài những buổi sám hối thực tập với
đại chúng, nên biết thực tập làm mới mỗi ngày. Nếu đã vì thiếu chánh
niệm mà nói hay làm một điều gì gây khổ đau và đổ vỡ trong ta và nơi
người thì phải biết thực tập làm mới trở lại, để xóa bỏ những đổ vỡ
cũ và làm lành vết thương đã gây ra. Phải cam kết với thầy và với
tăng thân là khi mình có vấn đề với một sư anh, sư chòi hay sư em
của mình, mình sẽ cố tâm hóa giải vấn đề ấy trong vòng ba ngày,
nhiều lắm là bảy ngày. Phải tìm cơ hội gặp gỡ và giải tựa với người
ấy. Nếu bảy ngày đã đi qua mà mình chưa hóa giải được và làm mới
được thì phải đi tìm một sư anh hoặc một sư chị lớn mà cả hai đều
tin cậy để cầu xin sự giúp đỡ. Nếu không tìm ra thì phải cùng nhau
đến với thầy để nhờ thầy. Không nên tìm cách giấu thầy và giấu tăng
thân về những khó khăn của mình với người anh em đồng tu. Phải biết
sức khỏe và hạnh phúc của thầy cũng như của tăng thân tùy thuộc nơi
sự hòa thuận và an vui của mình với những thành phần khác của đại
chúng. Phải học và nắm cho vững phương pháp ái ngữ và lắng nghe để
có thể thành công dễ dàng trong công việc làm mới. Phải tập nói và
tập nghe với tâm từ bi. Đừng bao giờ cắt lời người khác. Để cho họ
có cơ hội nói ra những điều đau khổ trong lòng họ. Đừng vội phản ứng
và phán xét.
-
Nương Tựa Tăng Thân
-
Ngoài sắc thân, tức là
hình hài của mình, ta còn Phật thân, Pháp thân và Tăng thân này của
ta. Nhờ công đức tu tập mà ba thân ấy từ từ hiển lộ. Tăng thân này
là đoàn thể tu học của ta, đó cũng là thân thể của ta. Tăng thân này
của ta có mặt trong mười phương, nhưng đoàn thể các vị xuất gia đang
tu học với ta tức là tăng thân gần gũi nhất. Quy y Tăng nghĩa là
nương tựa nơi đoàn thể tu học của mình, trong đó có thầy, có các sư
anh, sư chị, sư em mình và có mình.
-
Phải nguyện hết lòng
thực tập nương tự Tăng. Cần phải tin tưởng ở tuệ giác của tăng thân,
bởi vì cái biết và cái thấy của tăng thân lớn hơn cái biết và cái
thấy của mỗi người trong đại chúng. Nên biết rằng thầy và đại chúng
cũng cần đến tuệ giác của mình và mình cũng rất cần đến tuệ giác của
đại chúng. Chính thầy mình cũng nương tựa vào cái thấy của tăng thân
để quyết định những gì cần quyết định. Phải tin tưởng vào sự giáo
huấn và soi sáng của tăng thân và phải vui lòng nhận chịu tất cả
những quyết định của tăng thân về ngày giờ xuất gia của mình, ngày
giờ thọ giới lớn của mình, về ngày truyền đăng đắc pháp của mình, và
về những quyết định khác về cư trú, thực tập và đi hành đạo của mình.
Ta có quyền và có bổn phận trình bày cho thầy và cho tăng thân biết
những gì ta biết và thấy về ta và về những thành phần khác của tăng
thân, nhưng ta cũng nguyện sẽ chấp nhận mọi quyết định của tăng thân
mà không oán trách và giận hờn.
-
Thỉnh Chuông và Nghe
Chuông
-
Phải nghe chuông như
nghe tiếng của Đức Thế Tôn gọi mình về với chánh niệm. Mỗi khi có
tiếng chuông, nên dụng lại mọi câu nói, mọi động tác và mọi suy tư,
trở về hơi thở và thực tập bài kệ nghe chuông. Thở nhẹ, sâu và mỉm
cười và trở về có mặt nơi giây phút hiện tại trong trạng thái thân
tâm nhất như. Nếu đây là đại hồng chung tiếng này nối tiếp tiếng
khác trong một thời gian lâu thì có thể tiếp tục công việc chấp tác,
nhưng phải đồng thời theo dõi hơi thở và thực tập chánh niệm trong
khi làm việc. Nghe tiếng chuông không được duy trì tư thế nằm, phải
ngồi dậy hoặc đứng dậy, trừ khi mình đau ốm.
-
Nếu là tri chung thì
phải thực tập thở theo bài kệ thỉnh chuông trước khi khai chung.
Thân tâm có hợp nhất và niệm định có mặt, ta mới có quyền thỉnh
chuông. Trong thời gian thỉnh đại hồng chung buổi sáng và buổi tối,
ta có thể xướng kệ lớn tiếng, nhưng sau mỗi tiếng chuông ta cũng
phải thở chánh niệm, đợi cho cường độ âm thanh dịu bớt thì mới nên
xướng kệ. Trước khi thỉnh chuông, nên xá chuông và thực tập hơi thở,
bởi vì chuông đóng vai trò của vị Bồ Tát đi đến thức tỉnh mỗi người
trong chúng ta.
-
Đi, Đứng, Nằm và
Ngồi
-
Trong bốn tư thế đi,
đứng, nằm và ngồi, chánh niệm của người sa di phải được hiển lộ. Khi
đi, mỗi bước chân đều phải có chánh niệm. Nên học phối hợp hơi thở
với bước chân. Đi như thế gọi là thực tập thiền đi, mỗi bước chân có
thể đem lại cho ta sự an lạc, vững chãi và thảnh thơi. Đừng đi hấp
tấp như bị ma đuổi. Đừng chạy, trừ khi có nguy biến. Đi như thế nào
để ta có cảm giác là mỗi bước chân ta đều như bước ở Tịnh Độ. Đi ở
đếu mà có vững chãi, thảnh thơi và an lạc tức là đang đi trong Tịnh
Độ, bởi vì kinh dạy Tịnh Độ nằm trong tâm người. Khi đi, không đánh
đồng xa, không lết guốc, không dẫm lên nền đất thành tiếng lộp cộp.
Khi đứng, nên đứng thẳng, đừng nghiêng mình dựa vào tường hoặc thân
cây, dù là đang đứng sắp hàng chờ mua vé hoặc lên xe. Đừng chắp tay
sau lưng mà đứng. Đừng đứng ở những cảnh tượng ồn ào, rối loạn hoặc
phi lễ. Khi ngồi, dù là ngồi chơi, cũng phải giữ lưng cho thẳng.
Ngồi đâu, dù là trên cỏ, trên một phiến đá, trên một chiếc rễ cây,
cũng phải ngồi thanh thản như ngồi dưới cội bồ đề. Đừng ngồi chò hỏ.
Đừng ngồi giữa một đám người đang chửi mắng, cợt nhã hay nói xấu kẻ
khác. Đừng ngồi giữa một đám người đang uống rượu, ăn thịt hoặc cờ
bạc. Đừng ngồi nghe những câu chuyện tục tĩu và phi lễ. Ngồi trên
ghế hoặc trong tư thế hoa sen, nhớ phủ tà áo nhật bình lên cho thẳng
thắng và kín đáo.
-
Chỉ nên nằm trong
phòng dành riêng cho mình. Chỉ nên nằm khi thật sự cần nghỉ ngơi hay
buông thư. Đừng nằm chỗ có người qua lại. Nên tập nằm nghiêng bên
hông phải. Đừng nằm chung với người khác, nhất là người cư sĩ. Đừng
ngủ trong phòng riêng của người cư sĩ khác phái, trừ trường hợp bệnh
nặng và được tăng thân cho phép.
-
Dự Pháp Đàm
-
Nghe chuông báo giờ
pháp đàm, nên đến ngay nơi chốn đã được quy định, không nên chậm trễ.
Nên lắng nghe để thấy được quan điểm của kẻ khác mà học hỏi. Nếu có
những kiến giải có thể đóng góp vào kinh nghiệm tu tập của người
khác thì nên chia xẻ, nhưng không nên nói chỉ vì muốn phô bày kiến
thức của mình, hoặc để chê bai quan điểm của kẻ khác. Mục đích của
pháp đàm là học hỏi từ kinh nghiệm tu học và từ cái thấy của tăng
thân, cũng như chia xẻ kinh nghiệm tu học và cái thấy của mình. Nếu
có khó khăn gì trong cái hiểu hoặc sự tu tập thì phải đưa ra để nhờ
tăng thân soi sáng. Phải chắp tay mỗi lần được có người soi sáng cho
mình. Không nên tìm cách bắt bí kẻ khác để chứng tỏ mình đa văn hoặc
thông minh hơn. Nếu làm phận sự chủ tọa pháp đàm, nên khéo léo đưa
đại chúng về với đề tài pháp đàm, đừng để đi xa. Đừng để sự đàm luận
trở nên lý thuyết suông không lợi ích cho sự thực tập. Phải biết sử
dụng chuông chánh niệm để nâng cao phẩm chất của buổi pháp đàm. Nên
nói lời cảm tạ trước khi kết thúc.
-
Y, Bát và Tọa Cụ
-
Y và bát thân thiết
với người xuất gia như hai cánh chim thân thiết với con chim, người
xuất gia đi đâu cũng cần đem theo y và bát.
-
Ngày xưa y có ba thứ:
-
- Thứ nhất là y tăng
già lê (sanghati), có khi gọi là đại y, có chín điều, hoặc hai mươi
lăm điều, do đó cũng được gọi là y chín điều, hoặc y lớn. Y này được
sử dụng khi được mời vào cung vua, trong các lễ lớn hoặc khi đăng
đàn thuyết pháp.
-
- Thứ hai là y uất đa
la tăng (uttarasanga) đó là y bảy điều, hoặc là y trung. Y này được
sử dụng trong lúc lễ tụng, bố tát, sám hối, nghe pháp.
-
- Thứ ba là y an đà
hội (antarvasa) là y năm điều, hoặc gọi là y hạ. Y này được sử dụng
trong sinh hoạt hàng ngày như chấp tác hoặc đi chợ.
-
Ngày nay người xuất
gia có thường phục, tương đương với y an đà hội, giáo phục, tương
đương với y uất đa la tăng và lễ phục, tương ưng với y tăng già lê.
Thường phục là áo năm thân hoặc áo nhật bình ngắn, giáo phục là áo
tràng hay áo nhật bình dài, và lễ phục là y và áo hậu. Y của các vị
sa di là man y, là y trơn chưa có điều. Trước khi đắp y, vị sa di
phải nâng y ngang trán và quán niệm theo bài kệ khoác y.
-
Bát hay bình bát là
vật dụng chứa đựng thức ăn của người xuất gia. Bình bát thường được
gọi là ứng lượng khí, nghĩa là vật dụng mà mầu sắc, chất liệu và
dung lượng thích ứng với chánh pháp. Chất liệu thì bằng đất, bằng
sành, bằng nhôm hay bằng nhựa, không bao giờ bằng vàng hay bằng ngọc,
mầu sắc là mầu nâu, mầu lam, không bao giờ là mầu tươi chói, dung
lượng thì biểu trưng cho sự biết đủ, không ham hố tham lam. Nâng bát,
vị Sa di sử dụng tay trái đỡ bát phía dưới và tay phải đỡ phía ngoài
với ngón tay cái đè lên nắp bình. Cầm bình bát đi thành hàng, vị Sa
di nhìn thẳng xuống phía trước mặt, và phải chừa khoảng trống chừng
một thước cách người đi trước, đừng liên tiếp nhìn sang phải và sang
trái, giữ gìn chánh niệm trong từng bước chân.
-
Tọa cụ là vật dụng để
trải ngồi. Tiếng phạn là ni sư đàn (nisadana). Người xuất gia trải
tọa cụ để phòng ngừa gai góc, các loài côn trùng, và những gì có thể
bám vào y và thân thể. Sắc mầu của tọa cụ cũng cần đi đôi với y phục.
Không nên dùng mầu tươi, phải dùng các mầu như xanh đậm, nâu, hoặc
khói hương. Tọa cụ cũng không được quá lớn, chỉ nên khoảng trên dưới
một thước vuông.
-
Du Phương Cầu Học
-
Chỉ nên xin thầy và
chúng đi học khi thấy trong hoàn cảnh tu học hiện tại mình không có
đủ điều kiện tu tiến. Đi học chỉ đi với mục đích tìm cầu pháp môn tu
học chứ không đi với mục đích có bằng cấp hoặc có kiến thức, nhất là
kiến thức không phải Phật học. Nên chọn học viện trong đó có tăng
thân tu học hài hòa và hạnh phúc. Đừng nên xin đi du học ở các nơi
trong đó mình không được ở và tu học với tăng thân. Không được ở nhà
người cư sĩ mà đi học. Không được học ngành kỹ sư, nha sĩ, y sĩ và
các ngành chuyên môn khác của thế học, bởi vì đó không phải là mục
đích của người xuất gia. Môn học chính phải là Phật học, nhưng kiến
thức Phật học phải có tác dụng soi sáng cho sự tu học của mình chứ
không phải để giúp mình trở thành một nhà học giả. Ngoài môn Phật
học, có thể học thêm một trong những cổ ngữ có liên hệ tới Phật học
như Nam Phạn (Pali), Bắc Phạn (Sanskrit), chữ Hán hay chữ Tây Tạng.
Cũng có thể học thêm căn bản các môn tâm lý học áp dụng, lợi chuyển
hóa sử các nền văn minh thế giới và lợi chuyển hóa sử tôn giáo. Các
môn này có thể giúp ta hiểu thêm về Phật học và giúp ta sau này
trong việc giảng dạy Phật pháp cho khế cơ.
-
Dự Thiền Trà
-
Thiền trà là một cơ
hội rất tốt để có mặt với tăng thân trong một bầu không khí vừa
trang nghiêm vừa thân mật. Thiền trà có hai phần: phần đầu là nghi
lễ, phần thứ hai là trao đổi. Phần nghi lễ gồm có đón tiếp, dâng
hương, lễ bái, pha trà, chuyền trà, chuyền bánh và uống trà: tất cả
đều được diễn ra trong sự trang trọng của nghi lễ và chánh niệm.
Trong phần này mọi người theo dõi hơi thở, thực tập có mặt thật sự
trong tăng thân và nhận diện sự có mặt của mỗi người trong tăng thân.
Hơi thở, ánh mắt, nụ cười và mọi động tác được đi theo với chánh
niệm: đây đích thực là thiền tập. Phần thứ hai gồm có trao đổi những
lời thăm hỏi kính ái, những kinh nghiệm tu tập và có khi có cả những
bài thơ, bài hát hay câu chuyện. Phần này tuy ít có tính cách nghi
lễ hơn, nhưng vẫn được đặt trong chánh niệm. Nội dung phần này có
thể bồi đắp tuệ giác, niềm vui, sự hiểu biết lẫn nhau và sự tương
thân tương kính. Nếu là trà chủ hay người pha trà hoặc người phụ tá,
thì nên thực tập trước để khỏi vấp váp. Mọi động tác phải từ tốn,
khoan thai, đi theo chánh niệm. Vị trà chủ nên nói những lời chào
hỏi và chúc tụng trân trọng, lúc bắt đầu và kết thúc phần hai. Phát
biểu hoặc chia sẻ, chỉ nên vắn tắt năm phút là nhiều nhất, để những
người khác có cơ hội. Không nên đưa những câu chuyện không lợi lạc
để nói trong thiền trà. Trà vị phải đi đôi với thiền vị.
-
Thiền trà đừng nên
đông quá. Theo truyền thống số người đông nhất tối đa là mười sáu vị,
như thế để duy trì sự thân mật và để mọi người có cơ hội đóng góp.
Bất đắc dĩ mới có những thiền trà đông người, gọi là đại thiền trà.
Thơ mời, số tọa cụ và số chén trà, người tổ chức phải nắm vững,
tránh việc đợi đến lúc cần thiết mới đứng dậy đi lấy thêm. Nên sử
dụng khăn vải hoặc những chiếc lá để đặt bánh. Tránh dùng khăn giấy
để giúp bảo vệ sinh môi. Trà chủ và các vị phụ tá nên đứng chắp tay
tại cửa để vái chào từng vị thiền khách, khi đón khách vào cũng như
khi đưa khách ra.
-
Lái Xe
-
Nên nhớ luôn luôn mang
theo bằng lái và giấy tờ xe. Kiểm tra các bộ phận, biết chắc là có
đủ an toàn, trước khi cho máy nổ. Quán niệm theo bài thi kệ lái xe
trước khi rồ máy. Không lái quá tốc độ đã được ấn định trên xa lộ,
không phóng nhanh, vượt ẩu; chỉ qua mặt xe khác khi không thể không
qua mặt, nhưng phải biết chắc là qua mặt sẽ không có nguy hiểm. Sử
dụng hộp số cẩn thận, không nên sang số bừa. Lái vào phố chợ hoặc
qua nơi đông người nên đi chậm lại và rất cẩn thận không nên nói
chuyện để đừng bị phân tâm. Nếu đi đường dài thì cũng có thể nói
chuyện để tránh hôn trầm đưa đến ngủ gục. Trời mưa, nhất là khi
đường có đóng băng, nên đi chậm để được an toàn. Không nên vừa xem
bản đồ vừa lái xe. Nên kiếm chỗ dụng lại để nghiên cứu bản đồ, thấy
đường rồi mới lái xe đi. Đường xa, nếu thấy hơi mệt thì hãy đổi tay
lái. Nếu không có người lái thế thì dụng lại để ngủ cho đến khi hồi
phục được sự tỉnh táo. Nên nhớ sinh mạng người ngồi trên xe nằm
trong sự thận trọng của mình. Không nên bực bội hoặc tức giận nếu có
xe khác đi ẩu. Không được bóp còi để trách móc xe kia. Duy trì chánh
niệm, sự tươi mát và an lạc trong suốt thời gian lái xe. Đậu xe phải
đậu thật ngay ngắn và đúng phép. Nếu dùng xe của người khác, nên
kiểm lại xăng, dầu, nhớt, nước và các bộ phận xe để xem có đủ an
toàn không trước khi lái xe đi. Trước khi trả xe cũng thế. Đi xe đạp
hoặc xe gắn máy cũng phải mặc áo nhật bình và nhất là phải thực tập
uy nghi. Đừng đạp xe quá mau, đừng phóng. Đừng đi song song với
người khác, như vậy chiếm đường quá nhiều. Tránh sự đèo theo một
người khác sau xe.
-
Sử Dụng Máy Điện
Toán
-
Nên học cho thông cách
sử dụng và chăm sóc máy. Không biết sử dụng thì không nên động tới
máy. Không để tự đánh mất mình trong sự ham mê sử dụng máy. Gài bộ
phận cảnh tỉnh mỗi mười lăm phút để có cơ hội dụng lại, thở và mỉm
cười trong thời gian làm việc. Ngồi lưng phải thẳng, hai bàn chân
đặt vững trên mặt đất, máy đánh chữ phải ngang tầm bụng. Khi sử dụng,
nếu thấy hơi mệt thì nên dụng lại, hoặc để đi thiền hành hoặc để tập
các động tác chánh niệm ngoài trời khoảng mươi phút trước khi làm
tiếp công việc. Dùng máy xong, cho máy vào vị trí “shut down” trước
khi tắt điện. Nên tắt toàn bộ hệ thống điện của máy để bảo trì máy.
Khi rời máy, nhớ dọn dẹp nơi làm việc cho gọn và sạch. Không nên cho
công việc của mình là quan trọng hơn các công việc khác.
-
Hướng Dẫn Các Khóa
Tu
-
Ít nhất cũng phải được
thực tập ba năm tại tu viện, mới nên nhận lời đi hướng dẫn một khóa
tu. Trong thời gian thực tập tại tu viện, phải học và nắm cho được
kỹ thuật tổ chức những khóa tu, khóa bảy ngày, khóa năm ngày, khóa
cuối tuần, khóa một ngày. Khóa một ngày được gọi là Ngày Quán Niệm.
Các pháp môn thiền ngồi, thiền đi, thiền nằm, thiền trà, thiền lạy,
pháp đàm, ăn cơm chánh niệm, hơi thở ý thức, phải nắm cho thật vững
và phải có kinh nghiệm. Không được chỉ dạy lý thuyết, phải đem kinh
nghiệm tu chứng của mình ra để hướng dẫn người
-
Đi hướng dẫn khóa tu
không nên đi một mình, trừ trường hợp bất khả kháng. Nên đi với ít
ra là ba bạn đồng tu khác. Trong thời gian đi mở các khóa tu, mình
và các vị cộng tác mỗi ngày phải gặp gỡ nhau ít nhất một lần để trao
đổi và cùng quyết định về cách thức tổ chức và hướng dẫn. Không nên
tự ý một mình quyết định, dù mình là giáo thọ hoặc có hạ lạp lớn
nhất. Tinh thần hòa hợp và hạnh phúc của tăng thân là bài pháp thoại
hùng hồn nhất. Nên sắp đặt để mọi người trong ban hướng dẫn đều có
cơ hội chia sẻ kinh nghiệm tu tập.
-
Phải lắng nghe và tìm
hiểu những khó khăn, khổ đau và ước vọng của những người ghi tên
trong khóa tu để có thể cống hiến những bài pháp thoại và những pháp
môn thực tập thích hợp. Trong các buổi pháp đàm và vấn đáp, khuyến
khích thiền sinh chỉ nên nêu ra những câu hỏi có tính cách thực tập,
và đừng để cuộc đàm luận đi vào lãnh vực thuần lý thuyết. Nếu có
thời gian để cho thiền sinh tham vấn, nên dành cơ hội cho những
người có nhu yếu lớn nhất.
-
Tiếp Xử Với Người Cư
Sĩ
-
Các vị cư sĩ nam và nữ
đến chùa không phải chỉ để lễ bái và cúng dường mà cũng là để được
hưởng không khí thanh tịnh và an lạc của chùa và cũng để có cơ hội
học hỏi các pháp môn có thể đem về thực tập ở gia đình họ. Nên tìm
mọi cách để tạo cơ duyên cho các vị ấy được thừa hưởng những tặng
phẩm quý giá ấy mà chùa có thể cung cấp. Đừng tham dự vào những câu
chuyện thị phi ngoài đời và đừng khuyến khích họ nói những câu
chuyện như thế. Chỉ nói chuyện với họ về những vấn đề tu tập, những
pháp môn có thể áp dụng được trong đời sống hàng ngày mà đừng để thì
giờ vào việc đàm luận những đề tài có tính cách thuần lý thuyết, dù
là giáo lý. Tạo cho họ cơ hội được tụng kinh, nghe pháp, đi thiền,
ngồi thiền, tập thở, tập ăn cơm im lặng và làm công quả trong chánh
niệm. Nếu có người chưa biết quy luật thiền môn mà nói năng và có
những cử chỉ thô tháo thì từ tốn nhẹ nhàng chỉ bày cho họ, đừng nóng
nảy khiển trách họ. Phải học tiếp xử với mọi người một cách đồng
đẳng, không phân biệt giàu và nghèo, trí thức hoặc ít học.
-
Mục đích của người
xuất gia là tạo hạnh phúc cho thế gian, vì vậy người xuất gia trẻ
phải học ngồi lắng nghe những nỗi khổ niềm đau của người cư sĩ để có
thể hiểu được nguồn gốc của những nỗi khổ niềm đau ấy và căn cứ trên
kinh nghiệm thực tập mình mà cống hiến cho họ những phương pháp tu
tập để họ có thể chuyển hóa và có thể tự hòa giải được trong bản tâm
cũng như giữa gia đình và ngoài xã hội. Những kinh nghiệm này sẽ rất
bổ ích cho người xuất gia sau này khi đi ra diễn giảng Phật pháp và
mở những khóa tu học cho người cư sĩ. Nếu có người ưa nói tới những
khuyết điểm của các thầy và các đạo tràng khác thì nên nhẹ nhàng
khuyên nhủ họ đừng làm như thế và cương quyết từ chối không lắng tai
nghe những câu chuyện họ nói.
-
Đừng quá thân với một
vài người và dành cho họ quá nhiều thì giờ trong khi lơ là với những
người khác. Không vì lý do được cúng dường mà có sự tiếp xử đặc biệt.
Nên khuyến khích cúng dường cho tăng thân hơn là cúng dường cho cá
nhân. Là người xuất gia trẻ, nên đặc biệt chiếu cố đến thiếu nhi,
giúp cho các em bớt bỡ ngỡ, dạy cho các em biết tham dự các sinh
hoạt thiền đi, thiền trà, thiền ngồi, thiền lạy, ăn cơm im lặng...
-
Thanh Lọc Cơ Thể
-
Mỗi năm nên thực tập
nhịn ăn để thanh lọc cơ thể và bộ máy tiêu hóa, ít nhất là một lần,
mỗi lần mười ngày. Trong thời gian này, mỗi ngày nên uống chừng ba
lít nước lọc, tốt hơn là nước ấm. Ngày đầu có thể dùng thuốc xổ, và
trong những ngày kế tiếp cũng có thể dùng thuốc xổ liều lượng rất
nhẹ, chừng một thìa cà phê muối magnesium ngâm sẵn trong một ly nước
lọc đầy từ tối hôm trước, uống vào buổi sáng khi thức dậy.
-
Thực tập như thế sẽ
thanh lọc được cơ thể, đưa ra ngoài cơ thể các độc tố không những
bám trong ruột non và ruột già mà còn chứa chất khắp nơi trong cơ
thể. Vào ngày thứ ba của thời kỳ thanh lọc, độc tố rả ra từ thành
ruột có thể thấm vào máu ít nhiều khiến cho cơ thể rã rời, và ta có
cảm tưởng là ta yếu đi vì đang nhịn ăn. Kỳ thực không phải như vậy.
Cơ thể ta có thể nhịn ăn nhiều tuần lễ trong khi ta vẫn có thể sinh
hoạt bình thường. Khi cảm thấy cơ thể rã rời như vậy, phương pháp
hay nhất là uống thêm thật nhiều nước để độc tố có thể bài tiết ra
bằng đường nước tiểu. Đồng thời nên tắm rửa kỳ cọ cơ thể mỗi ngày,
vì độc tố cũng sẽ đi ra bằng lỗ chân lông. Độc tố cũng đi ra dưới
hình thức hơi, vì vậy ta cần phải thực tập hô hấp sâu và dài để giúp
hai lá phổi bài tiết thêm khí độc. Nếu thận, gan và tim yếu thì nên
tham vấn bác sĩ trước khi thanh lọc cơ thể bởi vì trong thời gian
thanh lọc thì tim, gan và thận phải làm việc rất nhiều. Thuốc giọt
dùng để trợ tim, trợ gan và trợ thận rất bổ ích trong thời gian
thanh lọc cơ thể. Trong mười ngày thực tập, những cấu uế chất chứa
trong ruột có thể được tiết ra hàng kí lô; có những cặn bã đã nằm
trong thành ruột lâu hơn sáu tháng hoặc một năm. Sau thời gian rửa
ruột, nước da của ta sẽ sáng, thần sắc ta sẽ tươi tỉnh gấp bội, ta
sẽ ngủ ngon lên rất nhiều và tinh thần ta rất phấn chấn. Trong thời
gian mười ngày, ta có thể vẫn tham dự vào thời khóa một cách đầy đủ;
ta sẽ không hề yếu đi vì nhịn ăn. Nếu có thể thì nên cùng thanh lọc
cơ thể với nhiều vị đồng tu để có thể nâng đỡ nhau. Khi bắt đầu ăn
uống trở lại thì ngày đầu chỉ được ăn nước cháo, ngày thứ nhì ăn
cháo. Ngày thứ ba ta đã có thể ăn cơm nhưng ăn ít thôi và nhai thật
nhỏ cho đến khi cơm biến thành cháo mới nuốt. Ngày thứ tư ta có thể
ăn uống bình thường. Nếu muốn biết rõ thêm, nên tham vấn những vị đã
từng thực tập.