-
CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT
-
Thích Thiện Siêu
-
---o0o---
-
Chương 03
-
Cương Yếu
Giới Luật, Phần 01 - 05
- 01. Sáu trường hợp
tâm niệm sám diệt tội Tăng tàn.
- 02. Sám hối tội
Ba-la-di và Tăng tàn.
- 03. Sám hối tội
Thâu-lan-giá.
- 04. Sám hối tội
Ba-dật-đề, Đề-xá-Ni, Đột-kiết-la.
- 05. Mười tám việc
đưa đến phá hòa hợp Tăng: phá Kiết-ma-tăng, phá Pháp-luân-tăng
- 01- Sáu
trường hợp sám diệt tội Tăng tàn
- Lại có
một bổn khác trong Hành Sự Sao quyển hạ, nói ý hơi khác một chút.
Cũng nói có 6 hạng người phạm Tăng tàn có thể tâm niệm sám (bên Căn
Bổn Tát-bà-đa bộ thì đối thủ sám) của Đạo Tuyên luật sư, Tổ sáng lập
Luật tông viết:
- 1.
Hạng Thượng tọa phạm Tăng tàn: Khi thấy như thế các người khác sinh
tâm kiêu mạn, tức họ cũng có lỗi, cũng mất nhờ, cho nên Đức Phật nói:
“Nếu thượng tọa đó nhất tâm sinh niệm sám hối thì được thanh tịnh”.
- 2.
Hạng Thượng Tọa mà cả Tăng, tục thiện hữu đa số điều biết tiếng tăm:
Đối với hạng này nếu có phạm Tăng tàn cũng không xử như người khác,
đem ra giữa chúng Tăng đủ hai mươi Tăng xuất tội, mà họ có thể tâm
niệm sám thì được thanh tịnh.
- 3.
Hạng đa tàm quý: Là hạng người mà động tịnh gì là biết tàm quý, nếu
đem ra giữa chúng Tăng đông đủ hai mươi Tăng xuất tội họ mắc cỡ có
thể xả giới bỏ tu, hay có thể xấu hỗ chết đi thôi vì họ nhạy cảm.
Nếu họ tâm niệm sám thì được thanh tịnh.
- 4. Là
hạng người bịnh quá nặng, giữ không được, không đủ sức mà sám hối...
- 5. Là
hạng người ở trú xứ một mình mà phạm Tăng tàn, không đủ 20 vị
Tỳ-kheo thanh tịnh để cầu sám hối, mà đi qua xứ khác thì gặp giặc,
bị giặc hại mà chết, tự nhiên mọi sự đều hết, nên họ có thể tâm niệm
sám.
- 6. Là
ở trong chúng Tăng của mình đang ở, không có ai thanh tịnh hết. Vị
này biết lỗi, đi qua xứ khác tìm các vị Tăng thanh tịnh để xin sám
hối, nhưng lo đi giữa đường bị giặc giết chết, sự việc cũng hết.
- Sáu
hạng này, Đức Phật nói: “Nhất tâm sinh niệm như pháp sám hối thì
người đó được thanh tịnh, khi chết được sinh Thiên thượng”.
-
02- Sám hối tội Ba-la-di
và Tăng tàn
- Chúng
của Phật có chúng 20 người, có chúng 10 người, có chúng 4 người, có
chúng 3 người, có chúng 1 người và tự tâm sám. Chúng 10 là chúng khi
thọ Đại giới. Trong giới của Phật chế, thì tội Ba-la-di là tội nặng
nhất. Muốn sám hối thì phải sám với 20 người. Nhưng nói tội Ba-la-di
mà sám hối với chúng 20 người được sao? Vì Ba-la-di là tội bất khả
sám. Nhưng khi nói sám với 20 người là trường hợp người phạm biết ăn
năn hối hận, nếu bắt tội không cho sám thì họ có thể buồn nản và tự
tử. Họ thương chiếc áo Ca-sa, ưa đời sống tu sĩ quá, vì vậy khi phạm
họ cũng rất ăn năn hối hận. Trường hợp này luật cũng cho phép họ học
pháp Ba-la-di. Người muốn học pháp Ba-la-di cũng đối trước chúng
Tăng 20 người để xin phép và chúng Tăng 20 người kiết-ma cho phép
học pháp Ba-la-di. Khi được phép rồi vẫn không được tham dự Tăng sự,
chỉ được giữ hình thức tu sĩ ở trong chùa. Trường hợp sám với 20
người là trường hợp này, nên chỉ dành cho Tăng chứ Ni không có
chuyện sám này.
- Muốn
sám hối lội Tăng tàn thì sám hối với ai? Tăng phạm tội Tăng tàn, nếu
không che dấu thì trong sáu đêm hành Ma-na-đỏa, phải sám hối trước
Tăng 4 vị trở lên. Còn Ni thì trong 15 hôm hành Ma-na-đỏa, phải sám
hối trước hai bộ Tăng, mỗi bộ 4 vị trở lên. Khi tác pháp xuất tội,
thì phải đủ 20 vị Tăng xuất tội cho Tăng, và 20 Tăng, và 20 Ni xuất
tội cho Ni. Nếu thiếu thì tội Tăng tàn không hết.
-
03- Sám hối tội
Thâu-lan-giá
- Muốn
sám hối tội Thâu-lan-giá thì sám với ai? Tùy theo thượng phẩm,
trung phẩm, hạ phẩm Thâu-lan-giá mà sám. Thượng phẩm sám với 20
người, trung phẩm sám với 4 người, hạ phẩm sám với 3 người. Tội này
thì sám hối được.
-
04- Sám hối tội
Ba-dật-đề, Đề-xá-Ni, Đột-kiết-la
- Sám
hối tội Ba-dật-đề thì trước một người, Đề-xá-ni cũng vậy. Còn tội
Đột-kiết-la sám hối với ai? Không sám hối với ai hết, mà khi xảy ra,
mình tự trách lấy lòng mình thôi. Thí dụ, khi mình làm điều gì đó
biết là sai, nghĩ rằng: Tôi ăn năn quá, bậy quá, mình làm điều đó
sai quá, sau này không nên làm nữa. Thế là hết tội.
- Muốn
sám hối thì phải tìm vị Tỳ-kheo nào không có tội mà sám, còn tìm
những vị có tội mà sám thì cá mè một lứa, coi như huề, không sám chi
hết.
- Tăng,
Ni là chúng xuất gia, Ni có nhiều giới hơn. Cho nên có những giới
Ni, Tăng đồng nhau, nhưng cũng có những giới Ni, Tăng khác nhau.
Phạm cũng như thế. Trong giới sát, đạo, dâm, vọng, Tỳ-kheo,
Tỳ-kheo-ni phạm thì ghép vào tội Ba-la-di, còn Sa-di, Sa-di-ni phạm
thì tội Đột-kiết-la, đuổi ra khỏi chùa mà thôi. Vì Sa-di, Sa-di-ni
không cùng cọng trú kiết giới, cho nên có phạm cũng không gọi là
phạm tội bất cọng trú, chỉ không cho thọ giới tiếp mà thôi.
-
05- Mười tám việc đưa
đến phá hòa hợp Tăng
- Trong
Học pháp có một giới cần phải nhận định rõ, là giới phá hòa hợp Tăng.
Tăng từ 4 vị trở lên, không biệt chúng mà đồng một kiết-ma, đồng
thuyết một giới, gọi là Tăng hòa hợp. Có 18 việc dẫn đến sự phá Tăng
hòa hợp:
- 1.
Pháp nói là phi pháp (như Tám thánh đạo là con đường duy nhất đưa
đến Niết-bàn, lại cho không phải hoặc không duy nhất).
- 2. Phi
pháp nói là pháp (trái với trên).
- 3.
Luật nói là phi Luật (Tám thánh đạo là nền tảng của Luật, lại nói là
không phải. Hoặc bốn Thánh chủng là Luật, lại cho là không phải Luật).
- 4. Phi
Luật nói là Luật (trái với trên).
- 5.
Phạm nói là không phạm.
- 6.
Không phạm nói là phạm.
- 7.
Phạm khinh nói là phạm trọng.
- 8.
Phạm trọng nói là phạm khinh.
- 9.
Phạm hữu tàn nói là vô tàn (tàn là dư tàn; phạm những tội có thể sám
hối là hữu tàn, còn tội Ba-la-di không thể sám hối gọi là vô tàn).
- 10.
Phạm vô tàn nói là tàn (trái với trên).
- 11.
Tội thô ác nói là phi thô ác.
- 12.
Tội phi thô ác nói là thô ác.
- 13.
Thường sở hành nói là phi thường sở hành (pháp thường sở hành chỉ
cho tám Thánh đạo, pháp phi thường sở hành chỉ cho 5 điều của
Đề-bà-đạt-đa).
- 14.
Phi thường sở hành nói là thường sở hành.
- 15.
Chế nói là phi chế (Điều luật Đức Phật cấm chế nói là không phải cấm
chế).
- 16.
Phi chế nói chế (trái với trên).
- 17.
Thuyết nói là phi thuyết (những điều do chính Đức Phật dạy nói là
không phải).
- 18.
Phi thuyết nói là thuyết.
-
Duyên khởi từ
Đề-Bà-Đạt-Đa
- Trong
Luật nói phá Tăng có hai thứ: Phá Kiết-ma-tăng và phá Pháp-luân-tăng.
- 1. Phá
Kiết-ma-tăng: Là ở cùng trong một giới, tách ra để Bố-tát riêng,
hoặc phá không để cho Tăng kiết-ma.
- 2. Phá
Pháp-luân-tăng: Pháp luân gọi là Bát chánh đạo... Đức Phật chuyển
Pháp luân, chuyển Tứ đế, Bát chánh đạo pháp luân. Bây giờ khiến Tăng
bỏ Bát chánh đạo của Phật để nhập vào tà đạo gọi là phá pháp luân
Tăng. Trường hợp phá pháp luân Tăng phạm tội ngũ nghịch, nhưng nó là
tội khả hối, chứ không phải là tội Ba-la-di, mà là tội Tăng tàn. Còn
phá kiết-ma-tăng không phải tội ngũ nghịch mà là tội khả sám thuộc
Thâu-lan-giá. Phá pháp-luân-tăng ít nhất là phải có chín người.
Trong chúng 9 người đó tách ra 5 người, một người xưng là Phật và
đưa ra một giáo thuyết khác với Phật, bốn người kia phụ họa theo
giáo thuyết tự xưng là Phật đó. Như vậy là họ phá chúng Tăng đang
nghe theo pháp luân của Phật nên gọi là phá pháp luân Tăng. Phá
pháp-luân-tăng chỉ xảy ra khi Phật còn tại thế. Còn sau khi Phật
nhập diệt không còn nạn phá phá pháp-luân-tăng nữa. Dầu các Tổ bên
Trung Hoa có lập ra tông này phái nọ, không phải là phá
pháp-luân-tăng, bởi vì các Tổ đều tôn Đức Phật làm giáo chủ. Thứ đến,
như hiện nay bà Thanh Hải tự xưng là vô thượng sư hay ở nước ta có
người tự xưng là u-minh-giáo-chủ, hay là gì gì đi nữa cũng không
thành vấn đề, vì họ không phải là Tỳ-kheo, nên cũng không phải là
phá pháp luân-tăng, vì họ có thành Tăng đâu mà gọi là phá Tăng. Phá
pháp-luân-tăng là Tỳ-kheo Đề-Bà-
Đạt-Đa đi tranh với
Đức Phật, rủ thêm bốn người là Tỳ-kheo Tăng-bạt, Kiển-Trà-Bạt-Đà,
Câu-Bà-Li, Ca-Lưu-Đề-Xá với thầy (tức Đề-Bà-Đạt-
Đa) là năm, kết bạn
với nhau, khất thực từ nhà nọ đến nhà kia. Đức Phật nói các thầy
không được biệt chúng khất thực như vậy, Tỳ-kheo Đề-Bà-Đạt-
Đa tức giận mà nói:
Như lai Sa môn đã chặn đứng miếng ăn của người khác cho nên thầy rắp
tâm phản, tách riêng thành chúng và xướng lên 5 pháp khác với Đức
Phật, cho hơn Phật.
- - Thứ
nhất, Đức Phật đặt ra:
Thường hành khất thực, thứ đệ khất thực, nếu có ai mời ăn thì chấp
nhận, nếu có ai hỷ cúng cũng chấp nhận. Bây giờ Đề-Bà-
Đạt-
Đa làm trái lại lời
Đức Phật. Thầy chủ trương ai cúng cũng không ăn, ai mời thọ thực
cũng không nhận, ai cho Thầy cũng không lấy, chỉ có đi khất thực mà
ăn thôi.
- - Thứ
hai, Đức Phật đặt ra:
Phấn tảo y, tức y lượm vải vứt bỏ ở bãi tha ma, đem về tẩy rửa cho
sạch mà may y. Tuy nhiên, nếu có ai cúng y cũng nhận lãnh. Bây giờ
Thầy chủ trương: phấn tảo y là y chính, còn ai cúng y mới Thầy cũng
không nhận.
- - Thứ
ba, Đức Phật đặt ra:
Lộ địa tọa hay thọ hạ tọa, nhưng nếu có ai cúng tinh xá, cúng chùa
thì cũng ở. Thầy nói không được, Thầy chỉ ngồi đất trống hay dưới
gốc cây mà thôi. Còn nếu ai cúng chùa, tinh xá, giảng đường Thầy
cũng không nhận.
- - Thứ
tư, Đức Phật đặt ra:
Không được ăn bơ, dầu để cách đêm. Thầy nói không cách đêm cũng
không được ăn.
- - Thứ
năm, Đức Phật đặt ra:
Tùy thí đắc thực, được phép thọ tam tịnh nhục là bất kiến, bất văn,
bất nghi (tức không thấy người ta giết, không nghe tiếng kêu của vật
bị giết và không nghi người ta giết để cúng cho mình). Thầy chủ
trương, dầu có cúng cũng không ăn.
- Năm
pháp đó ngược lại bổn ý của Đức Phật. Thầy chế ra giới của Thầy
không dính gì với Bát chánh đạo. Bát chánh đạo là Chánh tri kiến,
Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn,
Chánh niệm và Chánh định. Đức Phật cho tu như vậy mới đắc đạo, nhưng
Thầy nói tu như Thầy mới đắc đạo, bằng cách chế năm đỉều như trên,
không cần Bát chánh đạo. Thầy chế ra một giáo thuyết và Thầy tự xưng
Phật, nên thầy bị ghép vào tội phá pháp-luân-tăng. Nhưng tội đó theo
Luật là tội Tăng tàn. Nếu phá như vậy mà không ai can ngăn cả, cũng
không phải là tội Tăng tàn. Tội Tăng tàn như trong Luật nói là nếu
có bạch tứ-kiết-ma can gián xong, mà Thầy không bỏ mới mắc tội,
nhưng mới bạch nhị-kiết-ma mà Thầy bỏ thì chỉ phạm Thâu-lan-giá. Có
những trường hợp làm nhưng không phạm là trường hợp mới ngăn đã bỏ.
Thứ hai là khi Đức Phật chưa đặt
ra giới đó. Thứ
ba, nếu chúng Tăng muốn kiết-ma một tội nào mà phi pháp biệt chúng
kiết-ma, phi pháp hòa hiệp chúng kiết-ma, như pháp biệt chúng kiết-ma,
như pháp tương tợ biệt chúng kiết-ma, như pháp tương tợ hòa hợp
chúng kiết-ma, thì đều vấp phải kiết-ma phi tướng, dầu có 3 lần
khuyên, mà vì kiết-ma không đúng đó, kết tội cũng không thành.
Cho nên bên xử tội phải đúng tư cách một ông Luật sư làm
đủ thủ tục mới kết tội được, trái lại, không phải là Luật sư, làm
không đúng thủ tục thì lại càng không kết tội người ta được, mặc dầu
người đó có tội. Ví dụ, nếu thầy là ông Tăng, thầy đang sửa soạn phá
hòa hợp Tăng, nhưng tôi chặn hành động phi pháp ấy lại dầu tình giữa
thầy và tôi có sức mẻ, cũng không gọi là phá Tăng. Hoặc kết tập một,
hai, ba người làm kiết-ma để phá Tăng, cũng không gọi là phá Tăng,
vì không đủ 5 người. Hoặc phá những kẻ ác tri thức, những người muốn
làm tổn hại hay sắp sửa làm tổn hại cho Tăng, cho pháp, cho Hòa
thượng, cho A-xà-lê, làm cho mất chỗ ở, cũng không gọi là phá Tăng.
- Phá
pháp-luân-tăng này, bất kỳ Tăng cùng ở nội giới, ngoại giới đều phá
được hết. Còn phá kiết-ma-tăng là cùng ở trong một giới mới phá
kiết-ma-tăng được. Phá pháp-luân-tăng chỉ có Tỳ-kheo, còn Ni không
phá được, vì Ni không làm Phật được, nên không phá được. Phá kiết-ma
-tăng là phải ngồi chung lại kiết-ma, bỏ thăm, tách ra mới phá, chứ
không phải tới ngày Bố-tát bỏ đi chơi gọi là phá Tăng. Thí dụ hôm
nay có 20 người, mới vô giới trường 12 người, còn 8 người bỏ đi chơi.
Tám người không vô đó gọi là phá được không? Không được. Khi nào
ngồi lại bỏ thăm, có người xúi sử không chịu ngồi chung với nhau nữa,
tách ra Bố-tát riêng biệt giới mới gọi là phá kiết-ma-tăng. Nếu có
ai vô trong giờ Bố-tát mà la lối ồn ào cũng không phải là phá
kiết-ma-tăng. mà chỉ phạm tội ô cấu Tăng, phá pháp lục hòa, phạm
pháp nhưng không phạm giới. Nếu biết một số người muốn phá Tăng, thì
các vị Tỳ-kheo nên can họ đừng phá, vì phá Tăng mang tội nặng lắm,
bị đọa địa ngục, khổ sở vô cùng. Và dụ dỗ họ: Nếu thầy cần y tôi
cúng y, cần áo tôi cúng áo, cần tứ sự cúng dường tôi xin cúng hết.
Nếu thầy đó không chịu thì nên đến vị ưu-bà-tắc thân cận thầy đó,
nhờ khuyên họ đừng phá Tăng mà mang tội, thôi đừng nên phá Tăng, nếu
cần gì tôi xin cúng dường hết. Thậm chí, nếu thầy tu không được, thì
tôi sẽ cưới vợ cho, nhưng thầy đừng phá Tăng. Thế cho hay, trong
Luật nói, khi một người làm ông Tăng, Phật thấy quý lắm, vì thấy quý
cho nên thầy lỡ có phạm giới thì cũng tìm đủ mọi cách để giải sự
phạm giới của thầy, chứ không trị liền. Phải ba lần can gián đã,
trước khi can gián thì phải nhờ ông này bà kia có thân có thế đến
can đến khuyên, dụ dỗ vật chất khuyên đừng phá Tăng. Nếu tu không
được thì tôi cưới vợ giúp đỡ, chứ đừng phá Tăng. Nếu cố tình không
chấm dứt, thì bắt thăm, khu xuất ông đi ra khỏi chỗ ấy mà thôi. Khi
đã đuổi ra khỏi địa phương ấy rồi thì phải xướng lên rằng: “Các Đại
đức, ông phá Tăng đi đến chỗ đó nên thận trọng, chớ để cho người
khác họ lầm, đi theo”. Cho nên, khi đã kiết-ma trục xuất thì ông đi
đến đâu phải thông báo cho họ biết, để cảnh báo họ kẻo họ không biết
chúng Tăng đuổi ông đó.
-
Nói tóm, có 2 cách phá hòa hợp Tăng:
- 1. Phá
Pháp-luân-tăng: Trường hợp Đề-Bà-
Đạt-Đa phá
pháp-luân-tăng khi Đức Phật tại thế. Sau khi Đức Phật nhập diệt
không có phá pháp-luân-tăng. Cách thức phá là: tự xưng Phật riêng,
có pháp riêng, không nghe theo pháp luân của Đức Phật.
- 2. Phá
Kiết-ma-tăng: Trường hợp trong cùng một kiết giới, cùng một thuyết
giới, cùng một kiết-ma, đồng giới. Tất cả mọi việc gì cũng cùng một
kiết-ma hết. Nhưng bây giờ có người sinh sự, lập ra một nhóm tạo ra
sự bất hòa, rồi đưa đến kiết-ma, tập hợp lấy biểu quyết kiết-ma tách
ra làm hai nhóm, gọi là phá kiết-ma-tăng.