-
CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT
-
Thích Thiện Siêu
-
---o0o---
-
Chương
04
-
Cương Yếu
Giới
Luậtt,
Phần 01 – 06
-
01. Thế nào là Tăng?
- 02. Đại giới.
- 03. Giới trường.
- 04. Thất diệt tránh.
- 05. Kiết-ma.
- 06. Điều kiện của
kiết-ma.
- 01-
Thế nào là Tăng?
- Tăng,
Phạn tự là Sangha, Trung Hoa dịch là hòa hợp chúng. Vắn tắt gọi là
Tăng. Đức Thế Tôn sau khi thành đạo, sơ chuyển Pháp luân Tứ đế để độ
cho 5 anh em Kiều-Trần-Như (Ajnata Kaudingha), A-Thấp-Bà (Asvlit),
Bạt- Đề (Bhadrika),
Ma-Ha-Ma-Nam (Màhamànan) và Thập-Lực-Ca-Diếp (Dàshadakasypa). Ngôi
Tam Bảo hình thành từ đây. Về Ni, Phật đã độ cho Ma-Ha Ba-Xà-Bà-
Đề (Maha Prajapati) và
Công chúa Da-Du-
Đà-La (Yasodara) cũng
được Phật độ cho xuất gia, từ đấy Tỳ-kheo-ni bắt đầu hình thành.
- Thường
thường khi nói đến Tăng, in tuồng chỉ cho Tỳ-kheo, chư Tăng là chỉ
cho Tỳ-kheo, chư Ni chỉ cho Ni bộ. Nói như vậy có hơi gượng ép, áp
đặt. Thật ra chữ Tăng là nói chung hết. Đó là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni
Tăng. Tăng có nghĩa là hòa hợp chúng. Chúng đây gồm 4 người trở lên.
Chúng này phải hòa hợp, gọi là Tăng. Ni cũng vậy. Bên Tăng gọi là
Tỳ-kheo Tăng, bên Ni gọi là Tỳ-kheo-ni Tăng. Khi gọi là Tăng, một
người cũng gọi là Tăng thì không đúng. Một người sở dĩ gọi là Tăng
vì họ ở trong đoàn thể bốn người trở lên, đồng giới, đồng thuyết
giới, đồng kiết-ma... riêng một cá nhân thì gọi là Tỳ-kheo thôi. Cho
nên, khi gọi Tăng là nhóm 4 người trở lên, còn gọi Đại đức Tăng có
hàm ý tôn trọng toàn thể các vị xuất gia, các vị có tu hành, có giới
hạnh.
- 02-
Đại giới
- Trong
Luật nói: Bên Tăng kiết giới rộng nhất là 10 Câu-lô-xá, tức khoảng
18 ki-lô-mét. Nếu ở giữa là giới trường thì bên này 9 km, bên kia 9
km để Tăng ở hai bên cùng tới dự Bố-tát cho tiện. Nếu vị nào sợ đi
không kịp thì phải đi sớm để kịp Bố-tát. Còn phía bên Ni, kiết đại
giới là một Câu-lô-xá, tức khoảng 1,8 km, đó là đại giới lớn nhất.
- Còn
đại giới nhỏ nhất là trong một già-lam. Thí dụ tại chùa Từ Đàm, tôi
kiết một đại giới, nếu chúng Từ Đàm có 4 người trở lên thì nửa tháng
phải thuyết giới. Sự thuyết giới đó có nghĩa rằng, với các vị Tăng
cùng sống chung, nửa tháng phải họp mặt lại để kiểm điểm hành động
của nhau, như giới mình thọ có giữ đúng không, phạm hay không phạm,
nhắc nhở cho nhau trong vấn đề tu hành. Nếu có phạm phải lo sám hối.
Cho nên nếu trong chùa có đủ 4 người trở lên, có thể kiết giới
trường trong một già-lam để thuyết giới, mỗi nửa tháng là đúng Luật.
Khi đã kiết giới rồi, đến giờ thuyết giới, nếu trong chúng hôm đó có
ai vắng mặt, vì lý do gì, không dữ dục là mắc tội biệt chúng. Ở Hà
Nội, chùa Quán Sứ và chùa Bà Đá cách nhau một ki-lô-mét, nhưng bên
nào thuyết giới bên đó, chứ chư Tăng không đi qua lại. Khi chùa có
vị khách Tăng đến ở trọ, gặp ngày thuyết giới, vị khách đó coi như
đồng thuyết giới với chúng Tăng đó. Nếu vị Tăng không thuyết giới và
không nói dữ dục thì coi như biệt chúng. Vì vậy, tôi và Hòa thượng
Minh Châu ra công tác Phật sự tại Hà Nội, ở chùa Quán Sứ, khi đúng
ngày thuyết giới, có một vị Tăng Tri sự trong chùa đến tin cho biết,
thưa hai Hòa thượng, sáng nay Bố-tát. Nếu mình làm thinh là chấp
nhận đi Bố-tát; nếu bận việc thì nói tôi xin dữ dục, còn không nói
mà đi là mắc tội biệt chúng. Trường hợp mình là khách Tăng, họ không
cho mình biết mà cứ thuyết giới là kiết-ma phi tướng. Truởng hợp đó
cũng y như tại Giáo hội tỉnh Thừa Thiên ngày trước, các chùa vẫn đến
thuyết giới tại chùa Linh Quang, mà tại chùa Báo Quốc, Hòa thượng
Trí Thủ vẫn kiết giới cho chúng Tăng bên đó thuyết giới. Và ngay bây
giờ, phía bên Ni cũng có 3 chỗ thuyết giới là Diệu Đức, Hồng Ân và
Diệu Viên, như vậy vẫn đúng Luật. Sở dĩ lâu nay có nơi Giáo hội tập
trung chung một tỉnh tại một điểm để thuyết giới, đó là ngầm đồng ý
với nhau và để nhắc nhở nhau trong vấn đề tu hành. Trong đó, người
khôn vẻ cho người dại, người hay nhắc cho người dở, là ý như thế.
Còn nếu để từng chùa riêng, chùa lôi bốn người mà người nào cũng kém
hết, thuyết giới cũng được đó nhưng không thông thì không hay. Thôi,
thì hòa đồng chung, trong đó người hay kèm người dở thì nó hay hơn.
Phải hiểu rõ nội dung đó và phải biết đại giới và giới trường là như
vậy đó.
- 03-
Giới trường
- Vì sao
phải kiết giới trường? Ví dụ, trong chúng có 30 người, thông báo
sáng nay đến thuyết giới. Khi đến, thầy này tới góc này đợi, thầy
đến góc kia đợi, thầy khác tới góc nọ ngồi, ngồi đợi nhau mãi hoài
không biết thuyết chỗ nào. Vì thế phải quy định một chỗ, một giới
trường nhất định nào đó để thuyết giới. Cho nên, khi đến thuyết giới
ai cũng đến đó hết. Ai không đến được thì xin dữ dục. Khách Tăng có
mặt trong ngày thuyết giới cũng phải dự thuyết giới, nếu Tăng địa
phương hay Tăng thường trú không báo cho họ biết để thuyết giới là
kiết-ma phi tướng. Họ không biết không đến không dữ dục là mang tội
biệt chúng.
- Tóm
lại, sở dĩ có kiết giới trường là vì đại giới rộng quá, nếu không
kiết một chỗ cho chúng Tăng biết thì khi có việc cần bốn người, hoặc
10 người làm mà bắt chúng Tăng 30, hay 40 người họp lại thì phiền
phức mà mất thì giờ quá. Thí dụ, việc thọ đại giới cho Tỳ-kheo cần
10 người thôi, mà bắt chúng Tăng 20 người ngồi chờ cả ngày thì phí
thì giờ.
- Pháp
kiết-ma nói:
- - “Lớn
thì có đại giới, giới trường, nhỏ hơn nữa thì có tịnh trù tịnh địa,
tịnh khố, nhiếp y giới. Nhiếp y giới cũng gọi là Bất thất y giới.
Nếu đại giới nhỏ hơn hoặc bằng đất Tăng già-lam thì khỏi kiết giới
này. Nếu đại giới rộng hơn đất Tăng già-lam thì phải kiết giới này.
Khi kiết phải thêm câu: “Trừ thôn, thôn xá ngoại”. Tức y không được
để vào chỗ dân cư. Phạm vi giới này chung với đại giới”.
- Trường
hợp đại giới không có giới trường thì đại giới đó chỉ có tướng bên
ngoài mà thôi, vì bên trong này không có gì hết. Nhưng trường hợp có
kiết giới trường thì nó có 3 giới hạn:
a- Giới trường ngoại tướng:
- Từ
giới trường này để một khoảng đất trống một đến hai thước, để trong
khi kiết giới, nếu có người đi ngang qua lại thì không phạm. Từ
khoảng đất trống có đường ranh giới gọi là đại giới nội tướng, là
tướng bên trong của đại giới. Đường ngoài gọi là đại giới ngoại
tướng, tướng bên ngoài của đại giới. Như vậy, nếu có giới trường thì
nó sẽ có ba tướng (ba giới hạn), tướng ngoại của giới trường, tướng
nội và tướng ngoại của đại giới. Khi kiết thì kiết giới trường trước,
rồi mới đến kiết đại giới nội tướng và cuối là kiết đại giới ngoại
tướng. Sau khi tập Tăng lại, cử một vị cựu trú Tỳ-kheo hay một vị
rành nơi vị trí đó, đứng ra xướng các giới đó rằng: hôm nay chúng
Tăng kiết giới, tôi là người cựu trú Tỳ-kheo, quen biết khu vực này,
xin nêu các tiêu tướng. Đông giáp mốc giới A, tây giáp mốc giới B,
nam giáp mốc giới C, bắc giáp mốc giới D. Đó là giới trường để mỗi
khi thuyết giởi, thọ giới v.v... thì tụng giới, tác pháp sự, giới
trường nhỏ nhất, hẹp nhất cũng phải đủ chỗ cho 21 người ngồi để
phòng khi xuất tội Tăng tàn. Nếu rộng nữa càng tốt. Từ giới trường
trở ra là tướng bên trong của đại giới. Nhưng kiết đại giới rộng
nhất cũng chỉ là 10 câu-lô-xá, tức 18 km và Ni là 1,8 km. Đại giới
hẹp nhất là một chùa, một trú xứ. Đại giới còn gọi là nhiếp Tăng
giới. Nếu có công việc gì của chúng Tăng trong đại giới thì chúng
Tăng phải tham dự, nếu không tham dự chính thức thì phải dữ dục. Nếu
không tham dự và không dữ dục là mắc tội biệt chúng, còn ai ở ngoài
đại giới thì thôi. Nếu trường hợp có một khách ở trong đại giới, khi
thuyết giới không báo cho thầy ấv biết để dự, hoặc có báo mà thầy
không dự và không dữ dục mà thuyết giới là mắc lội kiết-ma phi tướng.
Cho nên trong Luật nói tính chất hòa hợp, nhưng hòa hợp triệt để chứ
không phải lấy tính cách thiểu số phục tùng đa số như hội nghị thông
thường.
- b-
Thuyết giới, thọ giới đều nằm trong giới trường:
- Còn
các việc khác không vô giới trường mà tập Tăng ở chỗ nào trong đại
giới làm cũng được. Thí dụ, kiết-ma làm sạch và xanh môi trường nhà
chùa đang sống, thì khi tập Tăng lại và tuyên bố, sáng nay xin chúng
Tăng ra trồng cây là được, không cần vào giới trường.
- c-
Ngoài ra còn có tự nhiên giới (tức tiểu giới):
- Ngoài
đại giới, khi đi đâu đó, gặp ngày Bố-tát thì quây quần lại, ngồi
vòng quanh sát nhau lấy đó làm khu vực giới để thuyết giới hay để tự
tứ. Xong việc rồi, xả bỏ đi, tức lấy mình làm mốc giới, chứ không
phải lấy cái mốc này, mốc kia làm ranh giới gì cả; đó gọi là tìểu
giới trong tự nhiên giới. Nếu khi kiết tiểu giới mà có một số người
cùng đi không đồng ý, thì mình tìm ai đồng ý quây quần nhau lại mà
kiết tiểu giới hay tự tứ, xong rồi thì giải tiểu giới ấy đi. Đó là
kiết tiểu giới.
- Khi
kiết thì kiết giới trường truớc, kiết đại giới sau. Khi xả thì xả
đại giới trước, xả giới trường sau. Như khi mặc áo thì áo trong
trước, áo ngoài sau; khi cởi thì cởi áo ngoài trước, áo trong sau.
- 04-
Thất diệt tránh
- Tức là
bảy cách thức chấm dứt sự tranh cãì giữa chúng Tăng. Chúng Tăng
thường có 4 sự tranh cãi là:
- a-
Ngôn tránh: Tranh cãi về pháp tướng đúng hay sai. Do sự tranh cãi ấy
mà khởi lên sự bất hòa trong Tăng chúng, gồm có 18 việc đưa đến
tranh cãi.
- b-
Mích tránh: Do sự tìm lỗi của người khác mà khởi lên tranh cãi, nhân
khi dùng ba cách cử tội là bất kiến cử, bất sám cử và bất xả cử để
xét tìm tội thuộc phá giới, phá kiến hay phá oai nghi do thấy, nghe,
hay nghi.
- c-
Phạm tránh: Tức bình luận sự phạm giới của ông Tỳ-kheo hư hay thật,
đúng hay không đúng; có thật hay chỉ là sự đồn đại mà ra...
- d- Sự
tránh: Tranh cãi về việc kiết-ma như vậy như pháp hay không như pháp.
Ví dụ, việc như vậy nên bạch nhị, bạch tứ kiết-ma hay đơn bạch; bạch
như vậy là đúng pháp hay phi pháp.
Do bốn việc vừa nêu mà khởi lên tranh cãi. Muốn chấm dứt
sự tranh cãi đó, phải dùng bảy phương pháp sau đây để chấm dứt sự
tranh cãi (diệt tránh: chấm dứt sự tranh cãi):
I-
Ưng dữ hiện tiền Tì-ni đương dữ hiện tiền Tì-ni:
- Hay
nói tắt là hiện tiền Tì-ni, cũng có từ khác nữa là Diện tiền chỉ
tránh luật, tức luật chấm dứt sự tranh cãi giữa hiện diện.
- Hiện
tiền Tì-ni là gì? Là có vụ tranh cãi và cần có vụ đối chất giữa hai
bên A và B. Vấn đề tranh cãi ấy phải có mặt A và B đối chất nhau để
giải quyết. Trong lúc hiện tiền, cần dẫn chứng lời dạy trong kinh
Phật hoặc dẫn Luật để xét đoán việc tranh cãi có đúng với Kinh pháp
hay không đúng với kinh pháp của Đức
Phật. Đem lời pháp của Đức
Phật để giải quyết sự
tranh cãi đó. Thí dụ: Bữa kia, có người ăn cơm không hết và sau đó
đem đổ, người khác lại không có ăn nên chúng Tăng đem ra cãi nhau.
Khi ấy phải dẫn Kinh ra để thuyết phục: “Thầy nên biết, trong phép
Lục hòa có lợi hòa đồng quân, thầy không giữ phép Lục hòa, không
chia cho người khác, như vậy là không đúng”. Chỉ cho hai bên thấy để
chấm dứt sự tranh cãi.
-
II- Ưng dữ ức niệm
Tì-ni đương dữ ức niệm Tì-ni:
- Cũng
gọi là ức chỉ tránh luật. Đây là Luật nhắc nhở người phạm biết mình
làm, để chấm dứt việc tranh cãi. Ví dụ: Trong khi cãi nhau về chuyện
có tội hay không có tội, trước hết phải người có tội nên nhớ lại.
Vậy nên hỏi: “Thầy nhớ lại thầy có phạm tội hay không phạm. Nếu thầy
nhớ là thầy không phạm mà chúng Tăng cứ gạn hỏi hoài, thì thầy xin
Tăng bạch tứ kiết-ma cho thầy nhớ lại (ức niệm)”. Từ đó cho qua,
không ai được phép hỏi. Cho qua trong trường hợp thầy đó sống nghiêm
túc sống đúng luật, có hạnh, có tu, sống gần thiện tri thức, chứ còn
thầy đó sống bê tha, thiếu nghiêm túc... hỏi thầy, thầy nói tôi
không nhớ thì không cho qua được.
-
III- Ưng dữ bất si
Tì-ni đương dữ bất si Tì-ni:
- Cũng
gọi là bất si chỉ tránh luật. Chấm dứt sự tranh cãi bằng bất si. Tức
người phạm giới trong lúc tinh thần bị bấn loạn, bất thường, bị thần
kinh, thì phải kiết-ma bất si Tì-ni để chờ khỏi bệnh mới đem xét để
thầy sám hối, chứ bây giờ thầy đang lên cơn điên mà đem ra xét (bất
si) thì không xét được. Khi nào thấy tỉnh rồi mới xét.
-
IV- Ưng dĩ tự ngôn trị
đương dữ tự ngôn trị:
- Cũng
gọi là tự phát lộ chỉ tránh luật. Ngôn trị đây là để người đó tự nói
lên cái lỗi của mình phạm mà trị. Có những lỗi tự nói lên là có thể
theo đó mà xử không cần gạn hỏi, tra vấn, ép bức.
-
V- Ưng dữ mích tội
tướng, đương dữ mích tội tướng:
- Cũng
gọi là cư chỉ tránh luật. Tức người phạm tội không nói tội của họ ra,
cứ nói quanh co, mâu thuẫn, lộn ngược lộn xuôi, nói điên đảo. Khi đó
phải nêu từng tướng một thầy ấy phạm, phải lý giải tội không thể
chối cãi của thầy ra để bắt thầy nhận tội. Ví dụ tội ăn cắp. Khi hỏi
thầy có ăn cắp không, thầy ấy chối và nói không ăn cắp. Bây giờ
chúng Tăng phải trưng bằng chứng: “Bữa đó tới chỗ đó, khi thầy đi ra
người ta mất đồ. Bữa trước thầy không có tiền, nay thầy lấy tiền đâu
mà mua cái này, sắm thứ nọ, vậy tiền đâu thầy có?”. Phải trưng bằng
cớ để xét tội ăn cắp của vị ấy. Người bị như vậy phải phạt tội suốt
đời, không cho vị ấy làm 8 việc như độ người xuất gia, nhận nuôi
người, làm y chỉ...
-
VI- Đa nhân mích tội,
ưng dữ đa nhân mích tội tướng đương dữ đa nhân mích tội tướng:
Cũng gọi là triển chuyển chỉ tránh luật, nghĩa là Luật ngăn dứt
tranh cãi bằng cách triển chuyển. Triển chuyển là thế nào? Tức là
hai bên tranh nghị nhau mãi, không làm sao giải quyết được hết. Vậy
bây giờ tập trung các vị Tăng hữu đức lại mà thẩm đỉnh tội đó, lấy ý
kiến đa số, phạm như thế nào thì y như vậy mà xử.
-
VII- Ưng dữ như thảo
phú đia đương dữ như thảo phú đia:
- Hoặc
gọi như khí phấn tảo chỉ tránh luật. Luật chấm dứt sự tranh cãi y
như vứt miếng vải rách. Câu này có hai cách cắt nghĩa:
- a) Khi
hai bên đều tỉnh lại cả, hai bên đều nhận lỗi cả, thì lỗi đó đều bị
vứt đi như miếng vải rách vứt xuống đất.
- b) Hai
bên đều có lỗi (lỗi nhẹ), lỗi tùm lum, nếu khươi ra thì nó lắm
chuyện, không làm sao xử được. Thôi thì như lấy cỏ lấp đất trên mặt
cho yên, hoặc như thảo phú địa.
- Đó là
thất diệt tránh.
-
Còn trong đời sống
chúng ta hịện giờ, có một số việc nó đi ra ngoài, tuy không phạm
Kinh phạm Luật gì lắm. Ví dụ: Tổ chức Giáo hội, tổ chức đoàn thể mà
cãi thì đem Luật nào để xử! Khó lắm. Cho nên ta phải biết, khi nói
về Giới luật, ta đem giới luật để nói, còn khi nói về Giáo hội, tổ
chức hành chánh thì ta đem Giáo hội, tổ chức hành chánh để nói,
không hẳn đem Giới luật ra mà nói đưọc. Tỉ dụ như chuyện thọ giới.
Chúng Tăng truyền thọ Cụ túc khi kiêt-ma thì không cho Ni, cư sĩ dự
vào. Nhưng mở một Đại hội Phật giáo gồm cả Tăng, Ni, cư sĩ, bầu Ban
trị sụ, giải quyết một việc gì trong Ban trị sự không có Ni, không
có cư sĩ không được. Cho nên nói Giới luật là chỉ để giải quyêt về
vấn đề giới luật, còn tổ chức thì là nguyên tắc của hành chánh. Vì
trong Luật có chỗ nào nói bầu Ban trị sự đâu. Cho nên Luật nói Luật,
nguyên tắc hành chánh nói nguyên tắc hành chánh thì mới không phức
tạp.
- 05-
Kiết-Ma
- Kiết-ma,
tiếng Phạn là Kamla, nghĩa là nghiệp. Nghiệp trong kinh Đức Phật dạy
là, việc gì mình làm có dụng ý, cố ý làm thì thành nghiệp; nếu làm
vô tâm thì không thành nghiệp.
Do vậy, bất cứ cá nhân, đoàn thể hễ có động tác hành, có
động tác làm đều gọi là nghiệp. Nếu trong đoàn thể tập họp, biểu
quyết một việc gì đó cũng là một hành động, cũng gọi là nghiệp. Vì
vậy trong Luật, Phật dùng chữ kiết-ma. Kiết-ma coi như là một phương
thức biểu quyết để xử lý mọi công việc Nếu mọi công việc của chúng
Tăng mà không đi qua sự biểu quyết này thì công việc không thành,
hay có ép thành cũng không hợp pháp. Cho nên Luật định nghĩa chữ
Kiết-ma là tác pháp biện sự. Vì vậy, cá nhân tụng kinh cũng là
nghiệp, thuyết giới cũng là nghiệp, dự việc chung của chúng Tăng
cũng là nghiệp; cho đến thủ tục giải quyết công việc chung của chúng
Tăng gọi là kiết-ma, cũng là nghiệp.
- 06-
Điều kiện của Kiết-ma
- Muốn
kiết-ma một việc gì thì phải có một thủ tục biểu quyết. Do đó, kiết-ma
còn được hiểu là một phương thức, một phương pháp hay là một thủ tục
biểu quyết. Muốn biểu quyết thì cần phải có bốn điều kiện: pháp,
nhân, sự và xứ.
-
A- Pháp
- Vậy
Pháp là gì?
- Là
nguyên tắc, thủ tục, phương thức kiết-ma. Luật Tứ phần nói có 3 cách
thức biểư quyết: đơn bạch, bạch nhị và bạch tứ. Trong luật Tăng kỳ
thêm mộl điều nữa là cầu thính. Tức trước khi đem một chuyện gì đó
ra đơn bạch, bạch nhị, bạch tứ phải cầu thính, tức phải thưa trước
vị chủ trì trong chúng kiết-ma đó biết. Hoặc muốn nêu tội của ai thì
cũng nói trước người đó biết, chứ không nêu sự việc lên một cách đột
ngột; nếu báo cho vị chủ trì biết (chủ pháp sự) hay bỉnh pháp biết,
là để tránh câu chuyện thưa ra sẽ bị động, tác hại tâm lý không ổn
trong chúng, cần phải tránh.
- - Đơn
bạch: Là vấn đề gì muốn làm, chỉ cần trình ra cho đại chúng biết,
chứ không cần lấy ý kiến biểu quyết. Ví dụ: Trong giới đàn mà thỉnh
giáo thọ, thì chỉ cần nói: Đại đức Tăng thính, kim thời đáo Tăng sai
vị Tỳ-kheo tên A, tên B làm giáo thọ. Bạch như thị, chứ không có
kiết-ma thành phủ. Nghĩa là không cần lấy ý kiến biểu quyết. Thí dụ
khác là Tự tứ, thì bạch: Hôm nay chúng Tăng Tự tứ, xin trình cho
chúng Tăng biết gọi là đơn bạch. Đơn bạch cũng là một hình thức biểu
quyết dành cho những việc thông thường.
- - Bạch
nhị: Bạch nhị là một vấn đề đưa ra cần lấy ý kiến. Việc đưa ra này
có hơi quan trọng nhưng không quan trọng lắm. Tức một vài vấn đề đưa
ra giữa chúng Tăng và xin kiết-ma thành phủ, tức là ai đồng ý việc
đó thì im lặng, ai không đồng ý xin nói lên. Công thức là: một lần
bạch, một lần kiết-ma, gọi là bạch nhị.
- - Bạch
tứ: Có những vấn đề quan trọng hơn, lấy ý kiến một lần chưa đủ, phải
lấy ý kiến ba lần, gọi là bạch tứ (một lần bạch, ba lần kiết-ma).
Thí dụ, một vấn đề đưa ra như: thọ đại giới chẳng hạn (một lần bạch),
xong rồi kiết-ma: Tôi xin hỏi sự việc như vậy, ai đồng ý thì im lặng,
ai không đồng ý thì nói lên (l lần), rồi kiết-ma lần hai, lần ba
cũng như vậy. Công thức: một bạch, ba lần kiết-ma, nên gọi là bạch
tứ.
- Trong
Bạch nhất kiết-ma có nêu: Đơn bạch có 24 sự việc, Tứ phần luật nên
có 40, Kiết-ma chỉ nam nêu có 44. Bạch nhị có nêu ra 47 sự việc.
Bạch tứ có nêu 30 sự việc, Tứ phần luật nêu 38, Kiết-ma chỉ nam nêu
39. Ngoài đơn bạch, bạch nhị, bạch tứ như vậy gọi là Tăng bỉnh kiết-ma
(bỉnh là cầm), là thứ kiết-ma giữa chúng Tăng. Đơn bạch cũng là loại
bạch giữa chúng Tăng đông người, bốn người trở lên). Bạch nhị, bạch
tứ cũng vậy. Nhưng trường hợp chỉ có 3 người, hai người, một người
thì sao?
- Có hai
cách: một là đối thú và hai là tâm niệm:
- 1- Tâm
niệm là trường hợp một người, một cá nhân. Ví dụ: Phạm tội
Đột-kiết-la chỉ tâm niệm sám hối là hết tội. Tâm niệm pháp có 3 cách:
- - Đản
tâm niệm: Là chỉ có mình tâm niệm với mình mà thôi, vì vấn đề nhỏ.
- - Đối
thú tâm niệm: Vấn đề cần đối thú (hai đến ba người). Ví dụ: Kiết
giới Tự tứ cần đối thú trước người khác mà nói lên, nhưng ở trong
nội giới không có ai để cho mình đối thú hết, buộc lòng phải tâm
niệm, gọi là đối thú tâm niệm.
- -
Chúng pháp tâm niệm: Việc này đáng phải đối giữa chúng mà làm, nhưng
bây giờ ở trong nội giới đơn độc một mình, không có chúng để làm nên
phải tâm niệm. Như tâm niệm kiết giới, tâm niệm Tự tứ. Tâm niệm Tự
tứ là không có ai, còn nếu có thì bỏ tâm niệm để làm đúng theo đối
thú hay chúng pháp.
- 2- Đối
thú kiết-ma có 2 trường hợp:
- - Đản
đối thú: Thí dụ, một người phạm hối quá pháp, phạm Ba-dật-đề thì chỉ
cần đối với một người có thể sám hối là hết tội.
- -
Chúng pháp đối thú: Vấn đề cần đối thú giữa chúng mà sám hối, nhưng
nội giới không có chúng để đối thú, vì vậy phải chúng pháp đối thú (đối
giữa hai người mà làm, vì không đủ bốn người). Dầu có đối thú tâm
niệm, là đối thú khi mình đối trước người khác, cũng phải nói: Trước
Tam Bảo, con hôm nay có phạm lỗi Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề, hối quá pháp,
con xin sám hối. Trong khi An cư, thọ thuyết tịnh, thọ dược, thọ
thất nhật... là việc phải đối thú. Ví dụ: Khi thọ An cư, mặc dầu
chúng rất đông nhưng chỉ đối thú một người (vị chủ pháp sự) chứ
không phải giữa chúng. Tuy đông, nhưng chỉ đối ngay một người mà thọ
An cư, chứ không phải đối cả chúng. Khi đối thú phải nói lên, nếu
không nói thì bất thành.
- Chúng
pháp tâm niệm: điều này có nghĩa nguyên phải đối giữa chúng Tăng mà
nói ra, nhưng trong nội giới không có chúng, đơn độc một mình, cho
nên tâm niệm mà miệng phải nói lên (như thuyết giới, Tự tứ).
- Gọi là
đối thú thì phải từ một đến 3 người. Nếu một người thì gọi là tâm
niệm, còn bốn người trở lên gọi là chúng pháp.
-
B- Nhân
- Tức
nói về Tăng số. Sự việc đem ra kiết-ma cần bao nhiêu người. Nếu đẳng
tâm niệm thì một người, việc đối thú thì 2 hoặc 3 người; việc thuyết
giới thì 4 người; việc biên địa thọ giới, tức nơi ít Tăng thì 5
người; việc nơi nhiều Tăng, Tăng đông, khi thọ Cụ túc giới thì phải
mười người, tức trung quốc thọ giới, nếu không đủ thì bất thành.
Việc kết tội thì chỉ cần 4 người và xuất tội Tăng tàn phải giữa 20
người. Về phía Ni thì xuất tội Tăng tàn đều phải đủ 20 Tăng và 20
Ni, thành 40 người.
- Nhưng
người nào được kể đủ trong số đó? Một nguời là tâm niệm. Tăng 2, 3
người là đối thú; Tăng 4 người thì chỉ trừ việc thọ đại giới, tự tứ,
còn tất cả việc khác đều có thể kiết-ma làm được hết. Tăng 5 người,
thì trừ xuất tội Tăng tàn và trung quốc thọ giới ra, tất cả việc
khác đều có thể làm được hết. Tăng 10 người thì trừ việc xuất tội
Tăng tàn, còn tất cả việc khác đều làm được hết. Tăng 20 người thì
tất cả mọi kiết-ma đều làm được hết.
- Tăng
như thế nào mới tham dự đơn bạch, bạch nhị, bạch tứ đó? Có 4
trường hợp:
- 1-
Tăng mãn số bất khả ha:
- Trường
hợp Tăng mãn số bất khả ha. Ví dụ: Trường hợp kiết-ma Ha-trách một
vị Tỳ-kheo nào phạm tội hay để tẩn xuất một vị Tỳ-kheo phạm tội, thì
tuy vị Tỳ-kheo đó phạm tội nhưng khi Tăng chưa kiết-ma xử trị thì
ông đó vẫn là Tăng và vẫn được kể vào mãn số Tăng. Đến khi kết tội
Ba-la-di là bất cộng trú thì ông đó không còn là Tăng, mới không kể
ông vô mãn số. Ví dụ ông phạm tội Tăng tàn thì ông vẫn là Tăng. Tăng
đương tàn nhưng vẫn là Tăng. Trong khi chúng Tăng kết tội ông thì
ông không có tư cách và thẩm quyền chặn kiết-ma không cho Tăng làm.
Đó là Tăng mãn số bất khả ha (ha: có nghĩa là ngăn, và cũng có nghĩa
là ngăn không cho kiết-ma, phủ nhận kiết-ma). Hoặc ông Tăng ra chọc
tức, quấy rầy nhà cư sĩ, bấy giờ chúng Tăng kết tội ông, ngăn không
cho tới nhà cư sĩ đó nữa, ông không có tư cách chặn lại không cho
kết tội.
- 2-
Tăng mãn số khả ha:
- Thí dụ
trong lần kiết-ma đó, ai cũng thanh tịnh hết, như pháp hết, nhưng có
một vị Tăng không đồng ý, vị Tăng đó có quyền ngăn kiết-ma (khả ha:
ngăn) không cho kiết-ma đó thành, mà vị đó là một vị Tăng như pháp,
thanh tịnh thì mới ngăn được.
- 3- Bát
mãn số khả ha:
- Ví dụ:
có một vị xin vô thọ giới giữa Thập sư. Thập sư là Tăng số Tỳ-kheo,
còn giới tử đó không thể kể vô số Thập sư được, nên gọi là bất mãn
số, nhưng khả ha. Thí dụ, Thập sư mới kiết-ma lần thứ hai, hỏi thành
không, thì ông nói: Thôi thôi, tôi không thọ nữa, rút lui thì Thập
sư cũng chịu thua (khả ha). Gọi là bất mãn số mà khả ha, tức không
được kể vào số trong Tăng chúng những người đó có quyền ngăn chặn
kiết-ma đó cho không thành tựu. Thập sư cũng chịu, kiết-ma sao được,
kiết-ma làm gì!
- 4- Bất
mãn số bất khả ha:
- Ví dụ
như Tăng kiết-ma, bên Ni có ngồi đó cũng ngồi cho vui vậy thôi, làm
sao kể vào mãn số với Tăng, như vậy ha sao được. Nhưng trừ ba trường
hợp (Ghi chú: cho nên Đức Phật ngày xưa, nói bên Ni đừng buồn. Nhiều
khi các vị học chưa chu đáo, trách Đức Phật sao Ngài bất công quá,
bắt Ni thọ bát kỉnh pháp, gặp mấy ông thầy chi chi cũng phải Bát
kỉnh pháp, buồn quá! Té ra, ngày xưa Đức
Phật khi đưa
Bát kỉnh pháp đó ra, bất đồ bị mấy ông Lục quần Tỳ-kheo bắt bẻ Ni đủ
điều đủ cách. Đụng đâu đưa ra bát kỉnh pháp nấy, làm cho Ni đau dầu
chịu không nổi, sau Đức
Phật biết việc
đó nên khai ra ba trường hợp):
- - Bên
Tăng kiết-ma về việc của Ni phải có mặt của Ni đó. Ví dụ, thọ đại
giới cho Ni, Tăng kiết-ma thọ đại giới cho Ni, bên Thập sư Ni cũng
có mặt.
- - Kết
tội Tăng tàn của Ni, Ni cũng có mặt.
- - Xuất
tội Tăng tàn của Ni, Ni cũng có mặt.
- Đó là
ba việc của Tỳ-kheo kiết-ma cho Ni, Ni phải có mặt. Ngược lại, Ni
cũng có 3 trường hợp kiết-ma về Tăng là, nếu ông Tăng có điều vô lý
xúc phạm đến Ni, thì Ni kiết-ma không lễ bái, không cọng ngữ, không
cúng dường cho vị Tăng ấy.
- Hoặc
giả ông Tỳ-kheo đã bị diệt tẩn, Ni cũng kiết-ma đối với ông Tăng đó;
không lễ bái, không cọng ngữ, không cúng dường. Nếu Ni ủng hộ thì Ni
phạm tội.
- Trường
hợp có một ông Sa-di đến chùa Ni phá phách, vị Ni lớn có thể kêu ông
Sa-di tới khuyên răn; khuyên không được, Ni cũng có quyền kiết-ma
không lễ bái, không cọng ngữ, không cúng dường đối với 2 vị Hòa
thượng và giáo thọ của ông Sa-di đó, vì Sa-di chưa đủ 18 tuổi nên
hai vị Hòa thượng thọ giới cho vị Sa-di đó phải chịu trách nhiệm.
-
C- Sự
- Là sự
việc. Tức nói rõ sự việc đem ra kiết-ma. Đem kiết-ma về việc gì? Sự
việc đem ra biểu quyết cần bao nhiêu người để sắp đặt kiết-ma. Sự
việc ấy cần bạch nhị hay bạch tứ? Sự vụ thì có 101 kiết-ma. Đó là
nêu đại khái, thật ra còn có nhiều hơn nữa, nhưng tóm lại không
ngoài hai loại: một là thành thiện kiết-ma; hai là trừ ác kiết-ma.
-
I-
Thành thiện kiết-ma:
- Loại
kiết-ma để hoàn thành công việc tốt đẹp, như công việc tiến tu đạo
hạnh là công việc thiện. Ví dụ, như kiết-ma thọ giới, thuyết giới,
an cư, tự tứ... là thành thiện. Những kiết-ma như vậy là thành thiện
kiết-ma.
-
II-
Trừ ác kiết-ma:
- Ngược
lại kiết-ma trừ ác là loại kiết-ma trị tội. Ví dụ, kiết-ma trị tội
Đột-kiết-la, Ba-dật-đề, Đề-xá-ni, Thâu-lan-giá, Tăng tàn, Ba-la-di,
gọi là trừ ác. Kiết-ma trừ ác trong Luật nêu ra có 7 cách trị tội:
- 1- Ha-trách
kiết-ma;
- 2- Tẩn
xuất kiết-ma;
- 3- Y
chỉ kiết-ma;
- 4- Giá
bất chí bạch y gia kiết-ma;
- 5- Bất
kiến cử kiết-ma;
- 6. Bất
sám cử kiết-ma;
- 7. Ác
kiến bất xả cử kiết-ma.
-
1- Ha-trách kiết-ma
- Nguyên
do, trong Luật có kể như sau: Có hai vị Tỳ-kheo, một tên Trí tuệ,
một tên Lôi-ê-na, chuyên tìm tòi chuyện hay dở của nhau để cãi cọ
đấu đá nhau. Việc cãi vã bằng binh khí miệng lưỡi này không còn là
chuyện cãi vã giữa hai người mà nó lây lan ra những người khác,
khiến cho việc trong chúng chưa có, bây giờ nó xảy ra, trước có ít
bây giờ nó tiếp tục lớn ra. Theo trong văn ta thấy có nói: Hãy tác
ha kiết-ma Ha-trách bạch tứ đối với hai ông Tỳ-kheo đó. Nhưng muốn
cử tội thì phải tuần tự: kiết-ma cử tội (nêu tội ra). Sau khi nêu
tội ra, hỏi thầy có nhớ tội khẩu như đao kiếm không? (tác ức niệm).
Khi tác ức niệm, hỏi thầy có nhận tội đó không? (tự ngôn). Nếu thầy
không nhận thì chúng Tăng sẽ cử tội thầy (thầy có tội ấy). Khi cử
tội thì phải tập Tăng, bạch tứ kiết-ma. Thí đụ: Đại đức Tăng lắng
nghe: nay có 2 thầy Tỳ-kheo này đã cùng nhau tìm tòi lỗi hay dở của
nhau, dẫn đến cãi cọ nhau, miệng tuôn ra lời như đao kiếm chém nhau,
nên hôm nay Tăng vì hai thầy Tỳ-kheo này tác Ha trách kiết-ma. Nếu
về sau vẫn chứng nào tật nấy thì sẽ gia Tăng thêm tội nữa. Bạch như
thị (kính trình như vậy) xong rồi mới ba lần kiết ma Ha-trách. Người
bị tội Ha-trách trong thời gian chưa giải tội chưa sám hối thì không
được làm thầy y chỉ cho người, không được thuyết giới, không được
thọ đại giới cho người. Tăng có sai đi giáo thọ cho Ni cũng không
được nhận. Ở giữa chúng Tăng có hỏi giáo lý cũng không được phép đáp,
Tăng sai làm cũng không được làm. Tăng có thảo luận, bình nghị về
giáo điển cũng không được dự vào. Nếu sau đó biết ăn năn sám hối:
Nay tôi xin từ bỏ, không dám miệng xuất ra lời như dao kiếm nữa, xin
Tăng giải tội cho. Muốn giải tội cũng phải tập Tăng kiết-ma bạch tứ
giải tội cho thầy. Trường hợp thầy cứ phạm mãi thì cử tội tẩn xuất,
không cho ở trú xứ cũ .
-
2- Tẩn xuất kiết-ma
- Đây là
phạm Tăng tàn ô-tha-gia hành ác hạnh (trong Tăng tàn có tội ô tha
gia hành ác hạnh, Tăng tàn thứ 12). Đó là trường hợp của 2 thầy
Tỳ-kheo A-tháp-bà và Phú-na-bà ở tại Kỳ-liên. Họ ăn rồi chuyên trồng
cây hoa lá đem tặng cho cư sĩ, cùng người nữ ngồi chung thân mật nói
chuyện, đờn ca xướng hát, múa may quay cuồng, đi đứng thiếu oai nghi,
nhìn qua liếc lại, chân trước chân sau xoay qua đá lại. Việc làm như
vậy ai thấy cũng chê bai (ô tha gia hành ác hạnh cu hữu kiến văn là
câu chuyện trong Luật có nói, là chuyện sờ sờ trước mắt, ai cũng
thấy, ai cũng nghe hết), nhưng cũng có một số người hoan nghênh hùa
theo.
- Thời
gian đó cũng có một số Tỳ-kheo ở nơi xứ Gia-thi-di-đế du hành nhân
gian khất thực, ai nấy nghiêm trang, mắt cứ nhìn thẳng mà bước,
không nhìn qua ngó lại, không cười giỡn. Các cư sĩ trong vùng đó bàn
tán: Mấy vị này ở đâu tới mà nghiêm trang, coi bộ khó thân cận quá,
không như hai thầy Tỳ-kheo A-thấp-bà và Phú-na-bà vui vẻ, nói cười
tươi tắn. Họ bèn bảo nhau: Thôi, chúng ta không cúng cho mấy ông mới
này nữa, mà chỉ riêng cúng cho A-Thấp-Bà và Phú-Na-Bà mà thôi. Đức
Phật nghe chuyện lạ quá, sai đi hỏi, mới biết cơ sự như vậy, bèn bảo
Tôn giả Xá-Lợi-Phất và Mục-Kiền-Liên đem Tăng chúng qua Kỳ-liên bạch
tứ kiết-ma để tẩn xuất hai thầy Tỳ-kheo A-Thấp-Bà và Phú-Na-Bà ra
khỏi trú xứ đó. Khi bị tẩn xuất, hai thầy còn nói lại với dân chúng
đó rằng: “Tôi nói cho các vị biết, ông Xá-Lợi-Phất cùng ông
Mục-Kiền-Liên, ông thì thuyết pháp hay, ông thì thần thông giỏi, các
vị nên coi chừng kẻo bị mấy ông dụ dỗ mê hoặc đó. Các ông đó dễ sợ
lắm. Tụi tui đi thì đi, ở nhà các vị phải canh chừng, đừng theo mấy
ổng”.
3- Y chỉ kiết-ma
- Trường
hợp Thầy Tỳ-kheo tên Sô-Vô-Trí mà phạm tội. Thầy xen lộn với bạch y,
ở chung ở chạ với họ, gần gũi với họ, không thuận theo Phật pháp.
Phật nghe vậy khiến các Tỳ-kheo khác kêu thầy về, sai bạch tứ kiết-ma
bắt phải y chỉ. Từ nay thầy phải y chỉ trú, tức là phải tìm một vị
Tỳ-kheo đa văn, giới đức để dựa vào mà học Luật, học pháp, để mà tu
hành.
-
4- Giá bất chí bạch
y gia kiết-ma
- (Nhà
của người bạch y tức là cư sĩ). Tức kiết-ma ngăn không cho họ đến
nhà của người bạch y. Nguyên do là vì ở trong Mật lâm có thầy
Tỳ-kheo tên Thiện Pháp, thầy ở trong đó tu và được ông cư sĩ Chất Đa
hay đến cúng dường. Thời gian sau có Tôn giả Mục-Kiền-Liên và Xá Lợi
Phất đến Mật lâm thuyết pháp, ông cư sĩ nghe pháp thích thú, hoan hỉ
quá và mời hai vị về thọ trai cúng dường. Thế là thầy Thiện Pháp đi
qua nhà dòm ngó, thấy thức ăn cúng cho mình khác với cúng 2 Tôn giả,
liền sinh lòng ganh tức nói: Té ra ông cúng mình như vậy mà lại cúng
dường cho 2 vị hơn mình như thế, bèn châm chọc nhà cư sĩ rằng: Thức
ăn gì cũng ngon hết, cũng tốt hết, nhưng thiếu dầu ép gia vị (hồ ma-tể)
nên cũng hóa ra cúng đồ ăn tồi”. Thầy vừa nói vừa chắp tay sau lưng
đi qua đi lại. Ông cư sĩ nghe vậy cũng nói lại: Thầy này lạ chưa,
nghe thầy tu hành giữ giới hạnh, tu thiền định, theo chánh pháp sao
thầy nói gì mà hà tiện vậy, chẳng khác gì một nước không có gà, rồi
một người đem một con gà mái tới cho rập với con quạ đen sinh ra gà
nhưng mà nửa gà nửa quạ kêu Ô kê (gà quạ). Phật nghe chuyện đó, sai
người gọi về, họp chúng lại, kiết-ma cử tội Giá bất chí bạch y gia.
Thường thường đi khất thực thì thứ đệ khất thực, không phân biệt,
bình đẳng khất thực, ai cho gì lấy nấy, trừ các đồ sống và đồ hạt
sống, từ nhà này đến nhà khác, không cho thì đi, chứ không phải
người ta mới bước ra cửa đem đồ cho lại xông vào nhà liền. Trong
Luật nói: Đó là tác bất ưng tác, nghĩa là làm việc không nên làm.
Phép khất thực thì đến trước nhà người im lặng, có cho thì lấy,
không cho thì đi qua nhà khác, không phân biệt gì cả. Nhưng đối với
trường hợp thầy Thiện Pháp và cư sĩ Chất-
Đa thì sao? Phải làm
phép kiết-ma, không cho thầy tới nhà cư sĩ này nữa, và cũng phải
kiết-ma cử người đến nhà cư sĩ Chất-
Đa xin lỗi.
- Người
cử đi phải đủ 8 pháp:
- 1- Đa
văn, có trí,
- 2-
Khéo nói (thiện thuyết),
- 3- Tự
mình biết mình, tức tự thân đã giải được tội rồi,
- 4-
Biết ý người khác,
- 5-
Biết nghe lời người khác nói,
- 6-
Người đó có thể nhớ sự việc,
- 7-
Không có tì vết, khuyết điểm gì,
- 8-
Hiểu rõ được trong câu nói lành hay dữ.
- Xét
trong chúng, chỉ có Tôn giả A-Nan là đủ 8 điều đó nên cử đi. Tôn giả
A-Nan dắt thầy Thiện Pháp đi theo, nhưng bắt đứng ngoài chỗ xa xa,
Tôn giả A-Nan vào nhà cư sĩ Chất-
Đa nói rằng: “Thưa ông
cư sĩ, ông là người trọng Phật, trọng Pháp, kính Tăng, mà có lời lẽ
thô lỗ như vậy, thiết tưởng cũng nên sám hối, vì đã xúc phạm đến Tam
Bảo. Nếu ông cư sĩ nhận lỗi và xin sám hối thì thôi, nhược bằng
không chịu sám hối, thì phải ra dắt thầy Tỳ-kheo phạm tội tới”. Ông
cư sĩ đứng ở chỗ mắt thấy nhưng tai không nghe, bảo vị ấy sám hối,
nhưng phải cốt để ông cư sĩ Chất-
Đa thấy bóng dáng,
xong rồi trở về nhà cư sĩ nói: “Này ông cư sĩ, thầy Tỳ-kheo ấy đã
xin sám hối rồi. Ông cư sĩ chấp nhận thì tốt, còn không thì bắt thầy
đến ngay ông cư sĩ Chất-
Đa mà sám hối (rất
công phu)”.
- Có 10
sự việc bị Tăng kiết-ma cấm Tăng đến nhà cư sĩ. Mười
sự ấy là gì?
- 1-
Dùng lời nói thô tục mắng chửi cư sĩ.
- 2-
Dùng các phương tiẹn làm cho kẻ bạch y tổn giảm.
- 3- Làm
việc khóng có lợi ích (bất nhiêu ích sự)
- 4- Làm
cho cư sĩ mất nơi cư trú .
- 5- Làm
náo loạn nơi sinh hoạt của cư sĩ.
- 6- Đối
trước nhà bạch y mà hủy báng Phật.
- 7- Đối
trước nhà bạch y mà hủy báng Pháp.
- 8- Đối
trước nhà bạch y mà hủy báng Tăng.
- 9- Đối
trước bạch y nói những lời hạ tiện, mất tư cách.
- 10-
Thất hứa, thất tín với cư sĩ, làm họ mất tin tưởng.
-
5- Bất kiến cử kiết-ma
- Thầy
Tỳ-kheo Xiển-đà phạm tội, chúng Tăng hỏi thầy có thấy tội không?
Thầy cứ một bề nói không thấy. Tăng bạch tứ kiết-ma cử tội “không
thấy” của thầy. Người đã bị Tăng kiết-ma. Loại này thì không được
thọ đại giới cho người, không được độ người, không làm y chỉ cho
người, không được thuyết giới.
-
6- Bất sám cử kiết-ma
- Thầy
Tỳ-kheo Xiển-đà phạm tội, chúng Tăng nói thầy phạm tội thì nên sám
hối. Thầy nói không sám. Chúng Tăng cử tội “bất sám” (bất sám tội cử).
-
7- Ác kiến bất xả cử
kiết-ma
- (Có ác
kiến mà khuyên không chịu bỏ). Có thầy Tỳ-kheo Lôi-trà nói: Theo chỗ
tôi hiểu, dâm dục không phải là pháp chướng đạo. Các Tỳ-kheo khác
khuyên thầy không nên nói như vậy. Như Lai không dạy như
vậy, nhưng thầy khư khư không bỏ. Phật nghe và gọi thầy tới quở
trách, tập chúng kiết-ma cử tội “có ác kiến mà không chịu bỏ” (ác
kiến bất tội cử).
Tóm lại, mục đích của kiết-ma là thành thiện và ngăn
ngừa điều ác (trừ ác). Kiết-ma để làm gì?
- Có 3
loại:
- a) Vị
nhân tác kiết-ma: Đó là pháp kiết-ma nhân nơi người. Vì người mà
thiết lập nên gọi là vị nhân tác. Ví dụ, kiết-ma thọ giới, kiết ma
sám hối, kiết-ma trị tẩn. Loại này có thể phân làm hai loại:
- - Vị
nhân tác tư sự: Chỉ có lợi cho cá nhân chứ không phục vụ việc công.
Ví dụ, kiết ma thọ giới. Ai thọ giới thì người đó có lợi, ai sám hối
thì người đó được nhờ.
- - Vị
nhân tác công sự: Lợi ích được phổ cập cho nhiều người. Ví dụ, kiết-ma
thuyết giới, Tự tứ. Trong đó ai cũng được lợi ích, chứ không riêng
gì cho ai.
- b) Vị
pháp tác kiết-ma: Vì một pháp sự mà tác pháp kiết-ma. Ví như thuyết
giới, Tự tứ, kiết tập King tạng... nhờ việc này mà có lợi ích đến
mọi người.
- c) Vị
sự tác kiết ma: Vì một sự việc nào đó mà tác pháp kiết-ma. Ví như,
kiết tịnh địa, tịnh khố (để chứa đồ dùng), tịnh trù (để đồ ăn thức
uống)...
- Ngoài
ra còn có loại kiết-ma vị nhân, vị pháp và vị sự, như thọ công đức,
thuộc vị pháp và vị sự kiết-ma. Kiết giới đồng thuyết giới đồng lợi
dưỡng là pháp kiết-ma vị pháp, vị sự và vị nhân. Vì cả hai bên cùng
hòa hợp với nhau.
-
D- Xứ
- Xứ
kiết-ma là nói về xứ kiết giới. Việc kiết giới phải có phép tắc. Ví
dụ kiết-ma ở đâu, phải có chỗ đàng hoàng chứ không phải bạ đâu làm
đó. Chỗ đàng hoàng là chỗ kiết giới. Giới có hai loại: tự nhiên giới
và tác pháp giới.
- Tự
nhiên giới là chỗ tự nhiên mà thành nơi cư trú của Tăng, chứ không
phải do kiết ma qui định, như chùa, viện, a-lan-nhã, thôn xóm. Thủy
giới cũng là tự nhiên giới, nhưng không phải chỗ trú xứ của Tăng.
- Tác
pháp giới cũng gọi là nhiếp Tăng giới. Tức là giới hạn cho Tăng sinh
hoạt mọi việc pháp sự trong đó. Lớn thì có đại giới, giới trường;
nhỏ thì có tịnh trù, tịnh khố và tiểu giới để dùng trong khi đi
đường không thể đến trong giới trường để thuyết giới, Tự tứ. Giới
này do tập Tăng kiết-ma mà thành, cho nên gọi là tác pháp giới.