-
CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT
-
Thích Thiện Siêu
-
---o0o---
Bồ Tát
Giới
- Bồ-tát
giới là thông giới, khác với Tỳ-kheo giới là biệt giới. Bồ-tát giới
thì chỉ cần
nghe hiểu là thọ được, còn Tỳ-kheo giới thì phải lục căn hoàn bị mới
thọ được.
- Bồ-tát
dịch từ chữ Buddhisattva (Buddhi: giác ngộ; sattva: hữu tình, chúng
sinh, tức một chúng sinh có thể giác ngộ thành Phật). Trong kinh
Phạm Võng nói: “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính. Nhữ thị
đương thành Phật, ngã thị dĩ thành Phật, thường tác như thị tín,
giới phẩm dĩ cụ túc”. Hết thảy chúng sinh đều có thể thành Phật. Ta
là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành. Ai mà tin ở điều đó
thì giới phẩm đã thành tựu rồi, còn về giới tướng là để thực thi tâm
Bồ-đề này mà thôi. Giới Bồ-tát được nói trong Phạm Võng.
-
I- Phạm Võng
- Vì sao
gọi là Phạm Võng? Vì Phật nhìn lên trên lưới của trời Đế-thích như
cái võng có nhiều mắc. Chính lưới có mắc ấy nó đang chiếu phản ánh
lẫn nhau thành vô tận. Kinh Hoa Nghiêm ví cho lý trùng trùng duyên
khởi cũng như lưới Đế-thích.
- Một
mặt gương phản chiếu ánh sáng qua trăm ngàn cái gương khác. Trăm
ngàn cái gương khác chiếu lại trong một cái gương này, như vậy là
trùng trùng vô tận, không biết bao nhiêu cái gương, bao nhiêu ánh
sáng chiếu qua chiếu lại; nhân đó Phật nói kinh Phạm Võng. Kinh này
ý nghĩa đồng như kinh Hoa Nghiêm, gồm 61 phẩm. Phẩm Bồ-tát tâm địa
giới là do Ngài La-thập dịch.
-
II- Tâm địa giới
- Thế
nào là tâm địa giới?
- 1-
Pháp môn thì nhiều nhưng không ra ngoài tâm. Cho nên nêu tâm là nêu
đủ các pháp. Tâm là bổn nguyên của thánh và phàm. Ngộ được bổn
nguyên đó là thành Phật, thành Bồ-tát; không ngộ thì thành chúng
sinh lưu chuyển. Bồ-tát vốn ngộ tâm đó cho nên mới thọ Bồ-tát giới
này và y theo giới tâm địa mà làm. Nhân thì giống như đại địa. Đại
địa có hai tính cách:
a- Muôn vật muôn thú từ nơi đó mà phát sinh; muôn giới
muôn đức cũng từ đó mà phát sinh.
b- Tâm Bồ-tát như đất, không phân biệt tịnh uế; đổ nước
hoa cũng được, nước thối cũng xong, với một tâm bình đẳng với tất cả
chúng sinh; ai khen cũng được, ai chê cũng không sao, cốt làm thế
nào tự lợi lợi tha, không vì tiếng tốt xấu khen chê mà bỏ mất tự lợi
lợi tha. Tâm Bồ-tát cũng như đất, không có hiềm chuyện tốt xấu, khen
chê, sạch nhớp nên gọi là tâm địa.
- Phẩm
này có hai phần thượng và hạ. Phần thượng là hóa thân đức Thích-ca
hỏi đức Lô-xá na, do nhân duyên gì mà Bồ-tát thành tựu được Thập địa,
Đẳng giác, Diệu giác Phật? Ngài Lô-xá-na vì đại chúng mà nói: Thập
phát thú tâm, Thập trưởng dưỡng tâm, Thập hồi hướng tâm. Thanh văn
có 4 quả: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán. Còn Bồ-tát
biệt giáo thì có 52 vị: Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi
hướng, Thập địa, Đẳng giác và Diệu giác.
- 1-
Thập tín:
- Phật
dạy: Thập tín chỉ mới là bước đầu, tâm cùng lý hợp, lòng tin đối với
lý không có ngại. Ví dụ, đối với lý Tứ đế hay lý “hết thảy chúng
sinh là Phật sẽ thành”, có những người họ không tin, nhưng đối với
chúng ta nghe lý Tứ đế, Phật tính là tin. Trong Bồ-tát, cái lòng tin
đó tương đương với Thập tín. Nghĩa là “tâm dữ lý hợp” (tâm của mình
đối với lý Tứ đế, Phật tính nó hợp chứ không chống trái). Nói Khổ đế
là mình tin, cho đến Tập, Diệt, Đạo cũng đều tin như vậy. Nói cách
khác, tâm với lý khế hợp chứ không chống trái nhau. “Tâm dữ lý hợp”
chứ không có nghi ngờ gì hết. Đó là bước đầu để “tùng phàm nhập
thánh”. Trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Phật pháp như biển cả, do lòng
tin mà được vào” (Phật pháp như đại hải, do tín năng nhập). Lòng tin
đó là bước đầu tiên để đi lên bậc thánh. Đối với lý Tứ đế thì có tin
mới học, mới tu. Có tin rồi mới giải, mới hành, mới chứng; nếu không
tin thì tìm hiểu lý Tứ đế làm gì; nếu không hiểu thì làm sao mà tu,.
không tu thì làm sao mà chứng? Cho nên phải tin. Tin là bước đầu
tiên để vào đạo.
- 2-
Thập trú:
- Khi đã
tin thì khởi tâm quyết liệt, dứt khoát để đi vào diệu đạo. Do tâm
dứt khoát nên lòng tin đứng yên, bất động không xao lãng nên gọi là
trú. Thập trú trong Phạm Võng có một từ khác là Thập phát thú, Thập
giải; tức là mười lòng tin hướng tới đạo.
- 3-
Thập hạnh:
- Từ
Thập trú bước lên Thập hạnh, mà Thập trụ đã là Phật tử rồi, bởi lòng
tin đã đứng yên lrên lý của Phật rồi. Như vậy là đã đầy đủ phần tự
lợi, nhưng còn phải hướng tới phần lợi tha nữa, nên phải từ Thập lrụ
hướng đến Thập hạnh. Hạnh là hành mọi điều thiện để lợi tha. Thập
hạnh cũng có một từ khác là Thập trưởng dưỡng. Trưởng dưỡng là gì?
Vì lên địa vị này là cứ Tăng tấn tu các điều thiện, làm cho điều
thiện Tăng mãi lên, gọi là trưởng dưỡng. Tức mười bậc trưởng dưỡng
các hạnh lợi tha, để từ đây bước lên Thập hồi hướng.
- 4-
Thập hồi hướng:
- Trong
Phạm Võng cũng có một từ khác là Thập Kim cang, kiên cố bất động;
cũng gọi là Thập nguyện. Ở Thập tín, Thập hạnh, tâm muốn thoát tục
thì nhiều, nhưng tâm đại bi, lợi tha thì ít. Đến Thập hồi hướng là
hướng tâm thoát tục trở về với tâm đại bi lợi tha để hòa quang đồng
trần, cứu độ chúng sinh, lợi lạc hữu tình. Chữ “hồi hướng” là hồi
chơn hướng tục–Khi kia tâm xuất tục là hồi tục hướng chơn, bây giờ
hồi chơn hướng tục, tức là từ nơi tâm xuất tục nhiều, hướng nó về
cái tâm đại bi, lợi tha nhiều hơn nữa. Hồi trí hướng bi– khi kia là
nặng về trí, bây giờ hướng về bi. Trí là tự lợi, bi là lợi tha. Trí
là chứng Bồ-đề, bi là lợi tha. Bây giờ hồi trí hướng bi, chơn tục
viên dung, bi trí bất nhị, đầy đủ thần thông; đến địa vị này gọi là
hồi hướng, tức là hồi chuyển mười thiện hạnh hướng tới ba chỗ:
- a-
Hướng tới chơn như thật tế (lý), tức hồi sự hướng tới diệu lý.
- b-
Hướng tới Vô thượng Bồ-đề (hướng tới trí giác), (bên kia là lý, bên
này là trí, nhưng trí Vô thượng), tức hồi nhân hướng quả.
- c-
Hướng tới tất cả chúng sinh, tức hồi tự hướng tha.
- Đó là
bốn gia hạnh. Qua khỏi Thập hồi hướng là tu bốn gia hạnh: Noãn, Đảnh,
Nhẫn, Thế đệ nhất. Thập địa–cuối Thế đệ nhất, đoạn trừ kiến hoặc,
chứng lý Nhị không, bước lên Kiến đạo sở hoan hỉ địa, tu tập thành
tựu Giới Ba-la-mật. Tiếp theo là Ly cấu địa, từ kiến đạo vị tiến lên
địa này, y theo chơn lý nhị không đã chứng được mà tu tập đoạn trừ
tu hoặc, cho đến địa thứ mười là Pháp vân địa, tất cả vô minh lậu
hoặc hai chướng hiện hành và chủng tử đều dứt sạch, thành tựu trọn
vẹn mười Ba-la-mật, đủ vô biên công đức, như đám mây lđn, mưa pháp
cam lồ tưới mát chúng sinh. (Xem rõ Mười địa trong luận Thành duy
thức). Bồ-tát tâm địa giới phẩm thượng–nói cách khác, ở Bồ-tát tâm
địa giới phẩm thượng thuyết minh về hàng Bồ-tát do sức định tuệ tu
chứng tam hiền, thập thánh. Còn ở Bồ-tát tâm địa giới phẩm hạ là
thuyết minh thập trọng tứ thập bát khinh giới, để cho hàng Bồ-tát y
theo tâm địa giới đó mà tu tập Giới, Định, Tuệ. Thành ra. thượng
phẩm chỉ cho quả vị Bồ-tát tu chứng tam hiền thập thánh–còn phẩm hạ
chỉ về thánh nhân, tức chỉ về giới; tức phẩm hạ nói về nhân, phẩm
thượng nói về quả.
- Kết
luận:
- Học
giới là để cho chúng ta thấy có những lời dạy của Phật rất hay để mà
tu thân, khẩu, ý. Ví dụ, Phật dạy những lời “ác sự hướng tự kỉ, hảo
sự dữ tha nhân”; hoặc “Không được khen mình chê người” thật đơn sơ
nhưng rất cao thượng và khó thực hành. Chúng sinh thì luôn luôn vị
ngã, có khi không tán thán mình một cách trực tiếp, nhưng tự tán
thán mình bằng cách hủy tha, khẩu xuất đao kiếm, chê tất cả, trừ
mình. Học như vậy để biết ai giữ giới ai không, ai tu ai không tu.
Nếu không nhờ những lời dạy ấy, ta dễ trở nên người nhỏ mọn, hẹp hòi.
Khen mình, chê người là chuyện rất dễ làm, nhưng so với đạo lý là
thật còn rất xa, đó là làm theo hạnh chúng sinh chứ không phải theo
Phật, Bồ-tát.
-
III- Tam tịnh giới
- Giới
Bồ-tát gồm trong ba tụ tịnh giới là: Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp
thiện pháp giới và Nhiêu ích hữu tình giới.
- Một là,
gom tất cả gọi là “nhiếp”. Nếu có luật nghi gì thì luật này đều gom
hết, gọi là Nhiếp luật nghi giới.
- Hai là,
nhiếp thiện pháp giới, là có bao nhiêu điều thiện thì giới này gom
hết; lục độ vạn hạnh đều nằm trong đó.
- Ba là,
Nhiêu ích hữu tình giới. Nhiếp luật nghi là “chư ác mạc tác”, đoạn
tất cả ác. Nhiếp thiện pháp là “chúng thiện phụng hành”. Nhiêu ích
hữu tình là lợi lạc chúng sinh. Hai việc nhiếp luật nghi và nhiếp
thiện pháp cũng lợi lạc chúng sinh nhưng gián tiếp, tiêu cực, còn
lợi lạc hữu tình là trực tiếp, tích cực. Ví dụ, không sát sinh thì
cũng lợi lạc chúng sinh, nhưng phóng sinh còn hơn thế, hợp với câu
kệ “tự tịnh kỳ ý”. Không làm ác cũng là tự tịnh kỳ ý nhưng còn thấy
có người có ta nên chưa rốt ráo, phải đến chỗ “tam luân không tịch”,
theo tinh thần kinh Kim-cang mới là tự tịnh kỳ ý. Nếu không có tinh
thần đó thì rất dễ chán. Khi phát tâm độ chúng sinh mà chúng sinh
bạt tai mình, làm sao chịu nỗi sự ngang ngược ấy! Cũng là bố thí
nhưng với tinh thần khác nhau nên kết quả cũng khác nhau. Một câu kệ
cũng đủ tam tụ tịnh giới, đủ theo đó để tu hạnh Bồ-tát. Hoặc như bốn
hoằng thệ nguyện, thì “Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ” là Nhiêu
ích hữu tình giới. “Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn” là đoạn nhất
thiết ác, là Nhiếp luật nghi giới. “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học”
là tu nhất thiết thiện, là Nhiếp thiện pháp giới. Như vậy, bốn hoằng
thệ nguyện cũng là ba tụ tịnh giới; đó là giới thể. Còn gọi là giới
tướng thì phải là 10 giới trọng, 48 giới khinh như trong kinh Phạm
Võng.
-
IV- Thọ giới Bồ-tát
- Có hai
cách thọ: Một là tự thệ thọ, là đối trước Tam Bảo phát bốn tâm tịnh
tín, đối với Phật, Pháp, Tăng và giới thanh tịnh bất hoại. Lòng tin
thành tựu viên mãn (tứ bất hoại tín) và cầu Phật gia hộ, khi thấy
tướng hảo thì đắc giới. Hai là tùng sư thọ, là do thầy truyền thọ
giới Bồ-tát truyền lại.
-
V- Mất giới Bồ-tát
- Sau
khi thọ giới, trường hợp mất giới Tỳ-kheo là do năm nhân duyên:
- 1-
Chết,
- 2- Đổi
hình (nam thành nữ hay ngược lại),
- 3-
Không tin nhân quả (đoạn thiện căn),
- 4- Tác
pháp (nói ra lời “Tôi không tu, không làm Tỳ-kheo nữa” với bất cứ
người nào nghe, hiểu được và phạm trọng).
- 5-
Bồ-tát giới thì chỉ có hai trường hợp mất giới là phạm trọng do
thượng phẩm phiền não trói buộc (ví dụ, cố ý sát nhân mà tâm niệm
hành động sát nhân hiện hành liên tục không biết tàm quý, đó là
thượng phẩm phiền não). Còn có trường hợp gọi là “Ô trọng giới”, như
ngộ sát, thì không đến nỗi mất giới. Trường hợp hai là xả Bồ-đề tâm
(ví dụ nói: “Tôi không tin việc làm Phật, không phát tâm Bồ-đề nữa”).
- Bồ-tát
mệnh chung không mất giới, vì phát nguyện thọ từ Kim thân cho đến
Phật thân, trừ có hai duyên cớ mất giới như đã nói trên. (Chú thích:
Khai đạo giới tử thọ Cụ túc giới năm 1970)
-
VI-
Bồ-Tát
Danh và Thiệt
- Thiện
Sanh thưa:
- -
“Bạch Đức Thế Tôn, Phật dạy có hai hạng Bồ-tát: một là giả danh
Bồ-tát, hai là thiệt nghĩa Bồ-tát”.
- 1- Thế
nào là giả danh Bồ tát?
- Thiện
nam tử, nếu chúng sinh đã phát Bồ-đề tâm rồi, lại còn ưa lãnh thọ,
đọc tụng, ngợi khen, nhớ nghĩ các kinh điển, pháp thuật của ngoại
đạo, và lấy pháp ấy mà giáo hóa chúng sinh; hoặc chỉ vì thân mạng
mình, vui trong đường sinh tử mà không sát hại sinh mạng kẻ khác,
tạo các ác nghiệp thì không tránh khỏi quả khổ tương lai; không ưa
tu từ bi, đối với Tam Bảo lòng sinh nghi ngờ, không chánh tín, quý
mến tự thân, không biết nhẫn nhục, ăn nói sổ sàng, hối hận, buông
lung không thể chứng đặng Bồ-đề, e sợ phiền não mà không cố gắng
siêng năng tu tập các phiền não phá hoại kiết sử; tâm hay tham lam,
ganh tị, giận hờn, gần gũi bạn ác, đắm chìm trong vô minh, không tin
lục độ, không ưa tu phước, không quán rõ lỗi lầm của sinh tử và ưa
thọ trì những lời hung dữ của Bồ-tát. Như thế gọi là giả danh Bồ-tát.
- Và
những chúng sinh đã phát tâm Bồ-đề, mong đặng Vô thượng Chánh đẳng
chánh giác, nhưng khi phải khổ hạnh tu hành trải qua vô lượng kiếp
rồi mới đắc đạo, thì sinh lòng thối chí, tuy có hành đạo mà tâm
không chơn thật, không tàm quý, không thương xót, hay theo ngoại đạo
hại sinh mạng để tế trời, dẫu có chút lòng tin nhưng không vững chắc,
đắm say ngũ dục, gây nhiều điều ác, ỷ sắc lực, tài của, lòng kiêu
mạn làm việc điên đảo, không biết lợi ích cho người; vì cái vui
trong sinh tử mà bố thí; vì cái vui trong cõi trời mà thọ trì cấm
giới; và vì thọ mạng lâu dài mà tu thiền định. Như thế gọi là giả
danh Bồ-tát.
- 2- Thế
nào là thật nghĩa Bồ-tát?
- Trái
lại, thật nghĩa Bồ-tát là biết gần gũi cúng dường sư trưởng, cha mẹ,
thiện hữu, thọ trì đọc tụng mười bộ kinh của Như lai; vì Phật pháp
mà không tiếc thân mạng, tài sản; không tự khinh rẻ mình, dang tay
làm việc bố thí không tiếc thân mạng; thường dồi mài trí tuệ; tuy
học ngoại điển nhưng cốt để phá các tà kiến và thắng các tà kiến;
khéo biết phương tiện để điều phục chúng sinh; siêng tu tinh tấn,
khi rẻ phiền não, làm cho chúng không được tự do, về cõi Niết-bàn;
giữ gìn tinh tấn, cứu hết thảy khổ não; quán rõ hết thảy tội lỗi
sinh tử, tín tâm bền chắc, tu lập từ bi mà không trông cầu quả báo;
từ bi đối với kẻ oán người thân, tâm vẫn không hai; khi bố thí vẫn
bình đẳng, khi xả thân cũng bình đẳng; biết tướng vô thường không
tiếc thân mạng, biết rõ thế để
nên tùy thuận chúng sinh; khi ít của cải thì cấp cho người nghèo
cùng trước, rồi sau mới cho người phước điền; trước vì người nghèo
khổ, sau mới vì người giàu có; thường khen việc lành của người và
khai thị cho họ vào Niết-bàn; có kỹ nghệ gì đều muốn cho họ học, và
thấy học hơn mình thì sinh lòng vui mừng, chẳng hề vì mình; thường
vì người khác. Như thế là thiệt nghĩa Bồ-tát.
- (Lược
dịch trong Kinh Bồ-Tát U-Bà-Tắc-Giới 1950)