-
ĐỂ
CHO TƯƠNG LAI CÒN CÓ MẶT
-
CHÚ GIẢI VỀ NĂM GIỚI
-
---o0o---
-
-
Giới
và sự
tu tập
nghiêm túc
-
Robert Aitken
- Là
những người theo Đạo Bụt ở Tây Phương, chúng ta thừa nhận di sản
tinh thần của truyền thống xuất gia, nhưng lại có khuynh hướng tự
coi mình vượt thoát ra ngoài lề lối tu tập xưa cổ, giới hạn và loại
trừ này. Hầu hết chúng ta đều không phải là tu sĩ. Những trung tâm
Phật giáo của chúng ta không thể gọi là tu viện theo bất cứ một định
nghĩa truyền thống nào. Dầu vậy chúng ta đã theo đuổi cùng một mục
đích là đưa sự nghiệp của Bụt Thích Ca Mâu Ni và các hậu duệ Á Đông
của Ngài đi tới trong thời đại, địa phương và văn hoá chúng ta.
Chúng ta có đang làm điều ấy hay không? Lối tu tại gia của chúng ta
có phải là một sản phẩm tự nhiên của truyền thống cũ trong hoàn cảnh
mới hay không? Hay không khéo chúng ta lại đang tạo ra một cái gì đó
từ những vật liệu đương thời và vỏn vẹn tô lên bên ngoài một lớp sơn
Phật giáo?
- Chúng
ta không phải là những người đầu tiên phải đối diện với những câu
hỏi như vậy. Đạo Bụt, sau bước du nhập vào Trung Quốc, chuyển sang
bước kế tiếp là kiến lập các tự viện và đoàn thể phước điền cho giới
cư sĩ sùng đạo - với sắc thái Trung Quốc. Nếp sống không lao tác
thời nguyên thỉ đã được gác sang một bên. ‘Một ngày không làm, một
ngày không ăn’, đó là tuyên bố của Thiền sư Bách Trượng, người sáng
lập ra Thiền Môn Thanh Quy. Tuy nhiên, phần lớn công việc đều là bảo
trì. Bố thí cúng dường (Dana) xưa nay vẫn là nền tảng của những đoàn
thể Phật Giáo Đông Á. Người tại gia đóng góp lớn vào việc cấp dưỡng
cho người xuất gia và chùa chiền. Ở Nhật, khuôn hội được nhóm hợp
bởi các gia đình Đàn Việt (Danka.)
- Sự thế
tục hoá đạo Bụt đã lên đường. Hãy lại lấy Nhật Bản làm ví dụ, sự cải
tổ thời đại Kamakura vào thế kỷ 13 đã chuyển phần nào trách nhiệm
thực hành giáo pháp sang giới cư sĩ. Phật Giáo nhìn chung đã có một
sự suy hoại trong tiến trình này, dầu vậy ta lại có thể thấy những
người bình dân niệm danh hiệu Bụt hay ngồi chỉ toạ, tham vấn với tu
sĩ về sự tu tập hay cùng tham dự khoa tu với người xuất gia. Trong
các phái Tân Phật Giáo, như Rissho Koseikai, ngay đến những người
chủ trì cũng chẳng phải là người xuất gia, vai trò của họ cũng giống
như các mục sư Tin Lành.
- Trong
các Đạo Tràng Phật giáo Đại Thừa của người Tây Phương chúng ta, các
tu sĩ nam hay nữ đều có lễ công nhận, thế nhưng đối các giới cũ về
Phạm hạnh, đã bị xoi mòn qua các cuộc cải cách, thì bây giờ gần như
không mấy ai hành trì. Các điều lệ về lao tác của dòng Biển Đích
(Benedictine)(1) đã được áp dụng và một số Đạo tràng tìm cách tự
túc bằng con đường kinh doanh. Người tại gia chiếm số đông, và cùng
tu chung với các tu sĩ. Cũng có các Đạo Tràng Phật giáo Nam Tông va
Mật Tông xuất hiện ở Tây Phương - Nam Tông thì chẳng mấy đặt nặng
truyền thống xuất gia, còn Mật Tông thì lại ít có người đi tu.
- Thời
điểm đã đến lúc chín muồi để những người Phật tử Tây Phương chúng ta
kiểm điểm lại vốn liếng. Hãy bắt đầu bằng chủ ý của Bụt: Chắc chắn
Ngài muốn Tăng Đoàn là một cái gì nhiều hơn là một hội ái hữu những
người chia sẻ cùng những ước vọng tôn giáo chung. Là một viên ngọc
quý trong Đạo, Tăng Già, theo Bụt, là tập thể nhóm hợp một cách tự
nhiên, cống hiến những phương tiện tốt nhất cho con người có thể đạt
tới sự giải thoát khổ đau. Thêm nữa, Giới Luật, bắt nguồn từ những
ước lệ tự thuở xa xưa nào trên xứ Ấn Độ và Ba Tư, theo Bụt, chính là
cách ứng xử của mỗi người tu Đạo.
- Qua
bao nhiêu đổi thay trong Đạo Bụt, những người theo Đạo Phật vẫn
trung thành với quan điểm Tăng Đoàn là giáo đoàn tu theo Phật Pháp,
và Giới Luật là nếp sống của Tăng Đoàn. Tuy nhiên, như một thực thể
sinh động, Tăng Đoàn cũng đang tiến hoá. Bà Joanna Macy đã cho ta
thấy các thầy Nam Tông ở Tích Lan đã thay phiên nhau cầm xẻng như
thế nào trong phong trào Sarvodaya Shramadaya, một phong trào tự túc
tự lực trên nhiều bình diện trong mỗi làng ấp tại Tích Lan. Các Phật
tử tại gia ở Tây Phương nghĩ, như một lẽ đương nhiên, rằng họ chịu
trách nhiệm cho sự tu tập của chính mình.
- Thiền
sư Thích Nhất Hạnh, người ‘Thầy’ hay ‘Sư’ đại diện cho truyền thống
Phật giáo Việt Nam ở phương Tây, đã ưu tư nhiều về Tăng Bảo. Dòng tu
Tiếp Hiện của Thầy gồm có những Tiếp Hiện nam và nữ ở châu Âu và
khắp nơi trên thế giới. Những khoá tu di động của Thầy cung ứng cho
những người Tiếp Hiện này và các thiền sinh một dạng phục hồi của
Tăng Đoàn mà các bậc Hiền Thánh ngày xưa đã có được trong những kỳ
An Cư mùa Mưa(2) . Cũng như với Tăng Đoàn nguyên thỉ của Bụt, giáo
pháp cơ bản hàng đầu là Giới Luật, con đường của đức hạnh. Học trò
của Thầy học sống đàng hoàng tử tế với nhau, và như những người đàng
hoàng tử tế, họ bắt tay vào việc cứu độ cho nhiều người.
-
Pancasila, Năm Giới căn bản của giáo lý nguyên thỉ, đã được Thấy
Nhất Hạnh lấy làm nền tảng cho sự tu tập này. Thầy trình bày mỗi
Giới theo chiều hướng tích cực trong khi vẫn duy trì sức mạnh phủ
định, dứt khoát của chúng. Cách trình bày của Thầy trung thành với
dụng ý sâu xa của Bụt, và đồng thời lại phù hợp với những môn đồ
thời đại, sẵn sàng nhận lãnh hoàn toàn trách nhiệm cho sự tu tập của
mình. Vì vậy, ‘Tôi nguyện không giết hại’ trở thành: ‘Ý thức được
những khổ đau do sự sát hại gây ra, con xin học theo hạnh Đại Bi để
bảo vệ sự sống của mọi người và mọi loài. Con nguyện không giết hại
sinh mạng, không tán thành sự giết chóc và không để kẻ khác giết hại,
dù là trong tâm tưởng hay trong cách sống hằng ngày của con.’
- Biến
lời nguyện này thành lời nguyện của riêng ta, ta cũng biến lối sống
này thành lối sống của riêng mình, chấp nhận một cách khiêm nhượng
rằng: ‘Với tất cả những yếu kém và sai sót của mình, con xin gánh
nhận vai trò Bồ Tát.’ Con đường của một vị Bồ Tát là sự thực tập
‘không giết hại’, nhưng ‘không giết hại’ nghĩa là gì, nếu không phải
là nuôi dưỡng cuộc đời, cụ thể bằng mỗi nụ cười và lời nói khích lệ?
Và những điều ‘không’ trong các giới - ‘không trộm cắp’, ‘không nói
dối’, v…v… kia là gì nếu không phải là sự tu tập, từ mỗi cá nhân,
hạnh đại bi và bảo vệ mọi người, mọi loài, cỏ cây, cần thú và đất đá!
Ngôn ngữ hay đẹp của Thầy Nhất Hạnh đã nới rộng tầm cỡ của Giới - và
tôi nghĩ rằng đây là điều mà hầu hết các vị thầy Tây phương đều nhắm
tới. Nếu trong những thế kỷ vừa qua, Giới là những cam kết hình thức
hay những thể thức trừu tượng, thì thời ấy đã không còn nữa. Trong
hầu hết các trung tâm của chúng tôi, Giới được tham cứu trong các
lớp học và các hướng dẫn cần thiết cho lễ Quy Y. Sự tìm hiểu Giới và
các buỗi lễ Quy Y như vậy, đưa ta đến chỗ hiểu biết rõ rệt rằng mình
là con người, dù trình độ chứng đắc của mình đến đâu. Không có cái
tuyệt hảo, ngoại trừ cái tuyệt hảo trong tâm mà chúng ta cố gắng
vươn tới với hết khả năng mình khi sống giữa gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp, và cuộc đời. Là thầy cũng như trò, chúng ta cần luôn hết
lòng nhớ nghĩ và hành trì Giới trong đời sống hằng ngày, bằng không
thì phải chăng chúng ta chỉ là những người Phật tử bề ngoài, có thể
làm lây lan ra nhiều điều tai hại như chúng ta đã đau lòng trông
thấy.
- Trong
Kinh Hoa Nghiêm, cuối chuyến du hành dài, khi chàng thanh niên Thiện
Tài Đồng Tử bước vào bảo điện của Bồ Tát Di Lặc, chàng nhận ra có vô
số cung điện bên trong, ngôi nào cũng đẹp đẽ trang nghiêm. Bước vào
một trong những cung điện bên trong ấy, chàng lại thấy có vô số cung
điện chứa đựng bên trong nữa. Đến đây Thiện Tài Đồng Tử nhận ra -
thể nghiệm - tấm Lưới Châu Báu của Vua Trời Đế Thích, mỗi điểm trên
đó là một viên lưu ly phản chiếu trọn vẹn tất cả những viên lưu ly
khác. Mỗi chúng sanh, mỗi yếu tố của một chúng sanh, đều chứa đựng
trọn vẹn tất cả những thành phần khác. Cuối cùng, Thiện Tài Đồng Tử,
với tất cả sự tỉnh giác, đã thể nhập vào tự tánh, với tư cách một
viên ngọc không thể tách lìa của mạng lưới tương tức.
- Cũng
như mọi câu chuyện dân gian, cuộc hành trình của Thiện Tài Đồng Tử
tự thân nó là môt ngôi đền để mỗi chúng ta tự dấn thân và thể nghiệm,
như một đấng anh thư hay một trang hào kiệt, với tư cách của người
trưởng thành, bô lão hay thiếu niên. Cuộc hành trình của Thiện Tài
Đồng Tử là một sự nhân cách hoá, không phải chỉ để nói lên mục tiêu
tối hậu của cuộc hành trình tâm linh, mà còn vẽ lên kích cỡ của mỗi
bước trên đường hành Đạo.
- ‘Kích
cỡ của mỗi bước’ này được chiếu soi bởi giới luật của Bụt. ‘Không
giết hại’ là gì nếu không phải là thể hiện sự thân thiết cùng cực mà
ta tán thán nơi Thiện Tài Đồng Tử, làm cho sự thân thiết ấy càng
ngày càng trở nên hiện thực hơn, cụ thể bằng mỗi nụ cười nuôi dưỡng
và mỗi lời nói khích lệ. Còn những điều ‘không’ trong các giới -
‘không trộm cắp’, ‘không tà dâm’, v...v... – kia là gì nếu không
phải là việc các anh, chị Thiện Tài Đồng Tử ở đây và bây giờ phô bày
những châu ngọc ngàn năm của họ!
- Còn
với sự thông đồng phá hoại nhạo báng các ẩn dụ, có thể đưa các nền
văn minh của Bồ Tát Quan Âm , Đức Mẹ Maria, nữ văn hào Murasaki(3)
và nhạc sĩ Bach lên dàn hoả thiêu thì sao? Bằng cách này hay cách
khác, chúng ta phải tìm những phương tiện thích hợp để biến mạng
lưới châu báu trở thành hiện thực ở ngay bên trong và ngay bên cạnh
các vấn đề khai thác khách tiêu thụ và quyền lợi quốc gia. Đây là
một bước nằm bên kia cổng chùa, chư tổ chưa từng lưu gót đến. Nhưng
nó là một bước đi, một con đường nhất thiết phải có do sự có mặt của
khối liên minh tà ngụy của tham lam, tự ái quốc gia, kỳ thị chủng
tộc, trọng nam khinh nữ, và kỹ thuật. Tất nhiên, đây không phải là
một con đường dễ dàng. Tôi xin tri ân Thầy Nhất Hạnh, bởi ngọn đèn
và đồ chúng của Thầy đang đưa đường chỉ lối cho chúng ta.
-
(1) Theo điều lệ của dòng
Benedictine của Ki Tô giáo, các tu sĩ dòng nay phải kiếm sống bang
việc làm của mình. Vi dụ các tu sĩ trong tu viện Portsmouth, Rhode
Island, Hoa Kỳ điều hành một trường học. Nhiều tu viện khác chế tạo
rượu Benedictine. (chú thích của người dịch)
(2) Có những ngộ nhận cho rằng dòng tu Tiếp Hiện là một
phái ‘Tân Tăng.’ Kỳ thực, dòng tu Tiếp Hiện hành trì theo 14 Giới
Tiếp Hiện với ý hướng Đạo Bụt nhập thế (tiếp nối tinh thần Bồ Tát
Đạo), dòng Tiếp Hiện bao gồm hai giới xuất gia và tại gia. Người
Tiếp Hiện xuất gia, đương nhiên, thọ trì Giới Ba La Đề Mộc Xoa cùng
với Giới Tiếp Hiện. [chú thích của người nhuận.]
(3) Nữ văn sĩ Nhật (973-1025), viết văn có tiếng và từng
làm quan. Lúc cuối đời bà từ quan đi tu. (chú thích của người dịch)