-
ĐỂ
CHO TƯƠNG LAI CÒN CÓ MẶT
-
CHÚ GIẢI VỀ NĂM GIỚI
-
---o0o---
-
-
Hạnh
phúc đến
từ
tâm
- Jack
Kornfield
- Hành
xử có ý thức hay Đức Hạnh có nghĩa là cư xử một cách hài hòa và ân
cần lân mẫn đến sự sống quanh ta. Để có sự phát triển trong đời sống
tâm linh, thiết lập một nền tảng đạo đức trong đời mình là thiết yếu.
Nếu chúng ta làm những việc gây tổn hại và mâu thuẫn cho mình và cho
người, ý ta sẽ không thể nào yên lắng, tập trung và chuyên chú được
trong thiền tập; tâm ta sẽ không thể nào khai mở. Trong một tâm hồn
an trú vững chãi trên nền tảng của sự chân thật và không vị kỷ, định
và tuệ sẽ phát triển dễ dàng.
- Bụt đã
đề thảo ra năm phạm trù đạo đức căn bản đưa đến một đời sống tỉnh
giác. Các Giới này được trao cho những người học trò muốn đi trên
con đường tỉnh thức. Chúng không được đưa ra như những cấm đoán cực
đoan, kỳ thực, chúng là những hướng dẫn thực tiễn giúp ta sống một
cách hòa điệu hơn, có thêm bình an và sức mạnh nội tâm. Hành trì Năm
Giới, ta nhận ra rằng những Giới này có tính cách phổ thông và có
thể áp dụng vào bất cứ văn hóa nào, ở bất cứ thời điểm nào. Năm Giới
là một phần của sự thực tập chánh niệm căn bản và có thể được vun
trồng trong đời sống tâm linh chúng ta.
- Giới
thứ nhất là tránh việc giết hại. Nghĩa là tôn trọng mọi sự sống,
không hành động phát xuất từ sự hiềm hận hay ghét bỏ để gây tổn hại
cho bất cứ một sinh vật nào. Chúng ta tập làm nảy nở lòng kính trọng
và lân mẫn đối với sự sống dưới mọi hình thức. Đây chính là một khía
cạnh của Chánh Nghiệp trong Bát Chánh Đạo. Và dù Giới này nghe có vẻ
hiển nhiên, chúng ta vẫn quên như thường. Cách đây vài năm, trong
mùa đi săn, báo New Yorker có một bức biếm hoạ. Một chú nai quay
sang hỏi bạn: ‘Sao họ không tỉa bớt đám thú nuôi của họ đi?’ Chúng
ta sa vào những bào chữa ngụy biện: ‘Ừm, nai quá nhiều!’ Càng có ý
thức và càng tiếp cận với sự sống bao nhiêu, ta càng thấy rõ là
không nên gây tổn hại cho kẻ khác, vì giết hại cũng là gây thương
tổn cho chính mình. Đâu ai muốn bị giết; những loài sinh vật bé nhỏ
nhất cũng còn muốn sống thay. Vậy thì thực tập Giới thứ nhất, chúng
ta học dừng lại việc gây đau khổ cho kẻ khác và cho chính mình.
- Giới
thứ hai là không trộm cắp, tức là không lấy những gì không phải là
của mình. Không trộm cắp chính là điều bất hại căn bản. Chúng ta cần
buông bỏ tính tham lam và không gom chứa quá nhiều. Nói một cách
tích cực hơn, là học trân trọng với những gì mình sử dụng và biết
sống nhường nhịn, chan hoà với muôn loài đang cùng ta chung sống
trên trái đất này. Để sống, chúng ta phải cần đến cỏ cây, cầm thú,
và các giống côn trùng. Trên Đất Mẹ vạn vật phải cùng nhau chia xẻ.
Quả đất cũng giống như một chiếc thuyền lớn đến một kích cỡ nào đó
với biết bao sinh vật đang sống ở trên. Chúng ta có liên hệ với
những con ong, những con giun, con dế. Nếu không có những chị giun
làm thoáng đất, nếu không có chàng ong rắc phấn cho hoa màu, chúng
ta sẽ đói. Chúng ta cần những loài ong, chúng ta cần những loài sâu
bọ. Tất cả đều cùng nhau đan quyện. Nếu biết thương yêu Đất Mẹ thì
làm gì chúng ta cũng có hạnh phúc, thứ hạnh phúc đến từ sự vẹn toàn.
Đây là cỗi nguồn của sinh thái học đích thực. Hòa bình thế giới cũng
phát sinh từ chỗ chúng ta biết mình chưa bao giờ tách rời Đất Mẹ,
rằng thật ra tất cả chúng ta đều từ Đất sinh ra và có liên quan ràng
rịt với nhau. Từ ý thức liên đới này, chúng ta có thể tự nguyện sớt
chia, sống một đời sống rộng rãi, và lợi tha. Chủ động trau dồi tâm
rộng rãi (Thí) là một phần cơ bản khác trong nếp sống tâm linh.
Giống như Giới và các phép nội quán, tâm rộng rãi (Thí) thật sự có
thể được tu tập. Với sự tập luyện, tinh thần Thí sẽ định hình hành
động chúng ta, và tâm ta sẽ trở nên vững chãi hơn, nhẹ nhàng hơn.
Thực tập này có thể đưa ta đến những trình độ buông bỏ và an lạc lớn
hơn. Bụt đã nhấn mạnh tầm quan trọng của Thí khi Ngài nói: ‘Nếu quí
vị có được cái thấy như tôi về sức mạnh của Thí, thì quí vị sẽ không
để một bữa ăn nào đi qua mà không tìm cách sớt chia.’
- Theo
truyền thống thì có ba hạng Thí, và chúng ta được khuyến khích từ
ngay nơi chỗ phát tâm của mình lúc ấy mà phát huy. Trước hết là cho
với tâm do dự. Đây là trường hợp ta cầm một món đồ lên và cân nhắc:
‘Chà, chắc mình cũng chẳng dùng đến nó đâu. Hay là cho nó đi. Không,
mình phải để dành nó cho năm tới. Thôi, đem cho đi.’ Cho ở mức độ
này đã là tích cực. Nó cho ta niềm vui và giúp được kẻ khác. Đó là
chia xẻ và tương giao.
- Trình
độ kế đến của Thí mà ta cần khám phá là cho với tâm thân thiện.
Giống như ta đối đãi với anh hay chị em mình. ‘Tôi có gì đây xin anh/chị
hãy cứ dùng; hãy tự nhiên như là của anh/chị vậy.’ Rộng rãi cho đi
thời giờ, năng lượng và tài vật mình có, vậy mà ta lại thấy vui hơn.
Sự thật là ta không cần phải có thật nhiều của cải mới hạnh phúc.
Hạnh phúc hay đau khổ của chúng ta tùy thuộc vào mối tương quan của
chúng ta với cuộc sống biến thiên này. Hạnh phúc đến từ tâm.
- Trình
độ thứ ba của Thí là cho như bậc Đế Vương. Đây là trường hợp ta chọn
cái tốt nhất mà ta có - thời giờ, năng lượng, hay đồ vật - để hiến
tặng một cách hoan hỷ cho người khác và nói: ‘Mong bạn cũng được vui
với nó.’ Ta mang tặng đi cho kẻ khác và có niềm vui trong sự san sẻ
ấy. Thí ở bậc này là điều rất hay cần phải học.
- Trong
khi ta bắt đầu tập mở rộng lòng ra, tập cho thêm thời giờ, năng
lượng, và tài vật, ta có thể học cho như thế nào - không phải để làm
thoả mãn cái hình bóng mình tự tạo cho mình hay để làm vừa lòng một
quyền lực bên ngoài, mà vì cho là một nguồn hạnh phúc đích thực
trong đời ta. Dĩ nhiên, đây không có nghĩa là chúng ta phải cho hết
mọi thứ. Làm như vậy dường như thái quá vì chúng ta cũng cần phải
thương và lo cho mình nữa. Dầu thế nào đi nữa, hiểu được sức mạnh
của việc tu tập tâm mở rộng này là rất quý. Mang được tính chất
khoáng đạt ấy vào trong cuộc đời mình là một đại phước.
- Giới
thứ ba, không tà dâm, nhắc chúng ta không hành động theo tham dục
gây phương hại cho kẻ khác. Điều này đòi hỏi ta phải có trách nhiệm
và chân thật trong các quan hệ giới tính. Năng lượng tình dục có sức
mạnh rất lớn. Trong thời buổi mà các mối liên hệ nhân tình và các
quan niệm về tình dục thay đổi như chong chóng, chúng ta cần phải
tỉnh thức trong việc sử dụng năng lượng này. Nếu liên kết năng lượng
sinh lý này với tham lam và chiếm hữu, lợi dụng và cưỡng ép, chúng
ta sẽ có những hành động gây tàn hại cho chính chúng ta và cho kẻ
khác, chẳng hạn như ngoại tình. Khổ hoạn lớn sẽ theo cùng những hành
động ấy, và diễm phước của sự giản đơn không rắc rối sẽ đi kèm với
sự vắng bóng những tà nghiệp kia.
- Tinh
thần của giới này đòi hỏi ta phải xem xét những động lực nằm đằng
sau các hành động của mình. Để tâm như vậy cho phép chúng ta, những
người tại gia, nhận ra bản năng sinh dục có thể được gắn liền với
trái tim như thế nào, và có thể trở thành một biểu hiện của thương
yêu, chăm sóc và chí thân chí thiết ra sao. Chúng ta hầu hết đều
từng là những kẻ dại khờ trong đời sống tình dục, và chúng ta cũng
đã dùng dục tính để tiếp cận với cái đẹp, để tiếp xúc một cách sâu
sắc với người kia. Vấn đề tình dục có ý thức là một yếu tố thiết yếu
trong nếp sống chánh niệm.
- Giới
thứ tư của nếp hành xử có ý thức là tránh những lời sai với sự thật.
Bát Chánh Đạo gọi Giới này là Chánh Ngữ. Không dối trá - Giới này
răn. Chỉ nói những lời chân thật và có giá trị; nói cho khôn ngoan,
có trách nhiệm và phù hợp. Chánh ngữ thật sự đặt vấn đề. Nó đòi hỏi
chúng ta phải ý thức xem mình đã sử dụng năng lực lời nói như thế
nào. Chúng ta dành phần lớn đời mình cho nào đàm thuyết, nào luận
bàn, nào huyên thuyên thiên hạ sự, nào dự phóng. Hầu hết những cuộc
chuyện trò này đều thiếu sự phản tỉnh hay tỉnh giác. Thực tập chánh
ngữ để trở nên tỉnh thức là điều có thể thực hiện được. Ta có thể có
chánh niệm về những gì mình đang làm trong khi nói, về động cơ thúc
đẩy và về những cảm thọ của mình khi ấy. Ta cũng có thể có chánh
niệm trong khi nghe. Chúng ta làm sao cho lời nói của mình phù hợp
với những nguyên tắc chân thật, tử tế hay lợi lạc. Qua việc thực tập
chánh niệm, chúng ta có thể bắt đầu hiểu và nhận ra sức mạnh của lời
nói.
- Một
lần nọ, một vị thầy được mời đến giúp một em bé bị bệnh với vài lời
chú nguyện. Một kẻ hoài nghi trong bọn quán sát từ đầu đến cuối và
bày tỏ sự nghi ngờ với cái cách chữa bệnh nông nổi như vậy. Vị thầy
quay lại nói với người này: ‘Anh chẳng biết gì hết về những việc này;
anh là một kẻ ngu dại!’. Kẻ hoài nghi trở nên rất bứt rứt khó chịu.
Anh ta đỏ mặt tía tai và run lên vì giận. Thế nhưng, trước khi anh
ta kịp lấy lại bình tĩnh để đáp lời, vị thầy đã hỏi tiếp, ‘Khi một
lời có đủ sức làm cho ông nóng giận, thì tại sao một lời khác lại
không có đủ sức để chữa lành?’
- Lời
nói của chúng ta rất mạnh. Lời nói có thể có tính cách phá hoại hoặc
khai mở, ngồi lê đôi mách hay thể hiện từ bi. Chúng ta được yêu cầu
phải có chánh niệm và cho phép tiếng nói của mình được phát xuất từ
tâm. Khi chúng ta nói lên những điều chân thật và lợi lạc thì tự
thân ta sẽ có sức thu hút. Sống chánh niệm và thành thật sẽ khiến
cho tâm ý ta lắng yên và cởi mở hơn, tâm ta sẽ an ổn và hạnh phúc
hơn.
- Tránh
việc sử dụng một cách vô ý thức các độc tố là Giới thứ năm. Giới này
có nghĩa là tránh dùng các độc tố cho đến mức làm cho tâm trí ám độn,
đồng thời dâng hiến cuộc đời mình vào việc phát triển sự trong sáng
và bén nhạy. Ta chỉ có một tâm hồn, vì vậy phải gìn giữ nó. Trong
đất nước Mỹ này, có hàng triệu người nghiện rượu và biết bao nhiêu
người lạm dụng chất ma túy. Sự vô ý thức và việc sử dụng độc tố một
cách đáng sợ này của họ đã gây ra không biết bao nhiêu là đau khổ
cho chính bản thân họ, cho gia đình họ và cho tất cả những ai họ
dính dấp đến. Sống tỉnh thức không phải dễ - có nghĩa là ta thường
phải đương đầu với những sợ hãi và đau nhức dễ chùn lòng. Lạm dụng
các độc tố hiển nhiên không phải là lối thoát.
- Tôi
xin đề nghị vài bài tập có thể giúp chúng ta sử dụng Năm Giới để
trau dồi và củng cố chánh niệm. Cách hay nhất là chọn một trong số
các bài tập này và thực tập thật kỹ lưỡng trong vòng một tuần. Kế
đến ta kiểm điểm lại kết quả và chọn một bài khác cho tuần sau.
Những thực tập này giúp chúng ta hiểu và tìm ra cách hành trì từng
Giới một.
- 1-
Tránh việc giết hại: tôn trọng sự sống. Cam kết trong suốt một tuần,
nhất quyết không gây tổn hại cho bất cứ sinh vật nào dù là trong ý
tưởng, lời nói, hay hành động của mình. Đặc biệt, hãy lưu tâm đến
những chúng sinh sống quanh mình (con người, cầm thú, và cả cỏ cây)
mà mình thường bỏ qua không lý tới, và trau dồi ý thức tôn trọng và
quan tâm đối với các loài này.
- 2-
Tránh việc trộm cắp: biểu lộ sự chăm sóc bằng của cải vật chất. Cam
kết trong suốt một tuần, thể hiện ngay tức thời mỗi một ý tưởng rộng
rãi hào phóng nào khởi lên trong tâm lúc đó.
- 3-
Tránh việc tà dâm: vấn đề tình dục có ý thức. Cam kết trong một tuần
lễ, quán sát kỹ lưỡng xem các cảm giác tính dục thường khởi lên
trong tâm thức mình ra sao. Mỗi lần như thế, lưu ý xem những tâm
trạng nào đang đi kèm với chúng, chẳng hạn như luyến ái, căng thẳng,
ép buộc, chăm sóc, cô đơn, mong muốn truyền thông, tham lam, khoái
lạc, gây hấn v.v.
- 4-
Tránh lời nói sai với sự thật: Ngôn ngữ tự trái tim. Cam kết trong
suốt một tuần, không nói thiên hạ sự (tích cực hay tiêu cực) hay nói
về bất cứ một người quen biết nào trong khi họ không có mặt đó (bất
cứ một người thứ ba nào.)
- 5-
Tránh việc sử dùng độc tố cho đến độ hôn trì ám độn. Cam kết trong
một tuần hay một tháng, tránh tất cả mọi độc tố và các chất gây
nghiện (như rượu, cần sa, kể cả thuốc lá và/hoặc cà phê nếu muốn.)
Quán chiếu những sự thôi thúc phải dùng các chất này, và ý thức
những gì đang diễn ra trong tâm ý khi có những sự thúc đẩy này.
- Để
được sinh vào cõi người, để thiết lập nền tảng cho đời sống tâm linh,
đòi hỏi chúng ta phải mang sự tỉnh giác đến mọi sinh hoạt trong đời
sống mình, trong cách ta dùng các độc tố và ngôn ngữ, trong mọi hành
động của chúng ta. Thiết lập một liên hệ có đạo đức và hài hòa với
cuộc đời mang lại cho tâm sự nhẹ nhàng thanh thản và mang lại cho ý
sự sáng suốt thường trực. Một nền tảng đức hạnh tự thân nó đã mang
lại giải thoát và an lạc lớn, và cũng chính là điều kiện tiên quyết
cho sự tập thiền đúng hướng. Với nền tảng ấy, chúng ta có thể tỉnh
táo và không lãng phí cái cơ hội hy hữu được sinh ra làm người, cái
cơ hội được cắm rễ vào trong mảnh đất của từ bi và hiểu biết chân
chính trong đời ta.